Phải chăng cuộc xâm lược của Nga vào lãnh thổ Ukraine khiến thế giới không còn quan tâm tới Afghanistan ?
Đó là câu hỏi của rất nhiều người Việt Nam, nhất là những người còn phiền muộn về quá khứ, còn ưu tư với thực tại và còn khắc khoải với tương lai đất nước.
Không hẳn vậy, Afghanistan không bị thế giới bỏ rơi dù Mỹ đã rũ áo ra đi, mà ngược lại thế giới đang thực hiện một cuộc tấn công tổng lực vào những chế độ độc tài, trong đó có Afghanistan. Việc Putin phát động chiến tranh xâm lược Ukraine nghiêm trọng hơn nhiều vụ Mỹ tháo chạy bỏ rơi nền dân chủ non trẻ ở Afghanistan. Nhưng vùng Trung Á nói chung, và đặc biệt là Afghanistan nói riêng, là nơi mà hạt giống dân chủ rất khó nảy mầm vì những lý do lịch sử, tôn giáo và chủng tộc, do đó cần một cố gắng lâu dài và bền bỉ hơn. Nếu tìm sự liên quan giữa hai sự kiện này với nhau thì chính Mỹ mới là tác nhân bỏ lỡ cơ hội. Vào lúc thắng lợi đang gần kề, mục tiêu xây dựng sinh hoạt dân chủ trên lãnh thổ Afghanistan sắp thành công thì Mỹ lại bỏ chạy. 20 năm gầy dựng dân chủ trên vùng đất cằn cỗi này mất trắng, giống như lúa đang chín nhà nông bỏ lại đi không gặt.
Một lần cho tất cả, đây cũng là dịp chúng ta cùng nhìn lại sự kiện này khi tháng tư về.
Sài Gòn 30/04/1975 – Kabul 30/08/2021
Cùng chung số phận
Có nhiều người cho rằng sự kiện Afghanistan khác sự kiện Việt Nam Cộng Hòa. Thực ra không phải là vậy, nhận định như vậy là đã để chi tiết che khuất tổng thể. Nét đậm trong hai sự kiện này là Mỹ : yếu tố lịch sử và chính trị trong những diễn biến thời sự cực kỳ giống nhau.
Cả hai nước đều đã hợp tác với Mỹ trong một thời gian là 20 năm, Việt Nam Cộng Hòa từ 1955 đến 1975, Afghanistan từ 2001 đến 2021. Và tiến trình bỏ rơi đều diễn ra như nhau.
Khi Obama ra tranh cử tổng thống, ông đã tuyên bố là sẽ rút quân ở cả Iraq lẫn Afghanistan nếu đắc cử. Tại Iraq, lịch trình rút quân đội Mỹ về nước bắt đầu từ năm 2011, nhưng cũng từ đó lực lượng kháng chiến quân Hồi giáo cực đoan nổi lên chống lại cả Damascus lẫn Baghdad, dưới tên gọi Nhà nước Hồi giáo (Islamic State of Iraq and Syria – ISIS). Quyết định rút quân vội vã của Mỹ đã tạo ra một cuộc nội chiến giữa những người theo đạo Hồi giáo với nhau (Shia vs Sunni). Khi Obama nhận thấy sự sai lầm của mình, ông liền vội vã đem quân vào trở lại nhưng đã muộn, cuộc chiến nồi da xáo thịt đã kéo dài trong hơn 15 năm, giết hơn 500.000 người và hơn 4 triệu người khác phải di tản ngay trên đất nước của mình hay sang các quốc gia khác. Giải Nobel của Obama không đủ để giúp ông ta khỏa lấp hậu quả của quyết định rút quân của mình. Obama có thể là một người được "đánh giá là hiền lành và tử tế" nhưng không có tầm nhìn chiến lược cao và rộng, quyết định sai lầm của ông đã khiến nửa triệu người chết nhưng Obama chưa bao giờ tỏ ra hối tiếc.
Có lẽ bị ám ảnh bởi quyết định sai lầm tại Iraq, Obama không còn nhắc tới quyết định rút quân khỏi Afghanistan và dành việc này cho người kế nhiệm. Dưới thời Donald Trump, vị tổng thống dân túy này đã thôi thúc tìm một giải pháp rút lui nhanh và an toàn nhất cho quân đội Mỹ còn trú đóng tại Afghanistan. Một cách ước lệ, Trump đã dàn xếp những cuộc gặp gỡ giữa Mỹ và Taliban về một thỏa ước đình chiến và rút quân trong trật tự, mà không qua Kabul, một chính quyền hợp pháp do dân bầu và đang cai quản Afghanistan. Hành động này không khác gì bản án tử hình đối với chế độ Kabul và nhìn nhận lực lượng kháng chiến Hồi giáo cực đoan Taliban là đối tác hợp pháp. Tất cả chỉ vì một lời hứa : Taliban đồng ý lịch trình rút quân của Mỹ từ tháng 29/02/2020 đến 30/08/2021, và hứa không đụng tới quân Mỹ trong quá trình rút quân và sẽ không dung túng cho các tổ chức khủng bố trên đất Afghanistan. Trong vụ này, Donald Trump là người kí bản án tử hình và Joe Biden là người hủy bỏ đơn xin ân xá của Kabul.
Những diễn biến của vụ việc này không khác một chút nào với chế độ Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Dưới thời Tổng thống Richard Nixon, Mỹ đã đơn phương thương thuyết với chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa miền Bắc về một cuộc ngừng bắn và rút quân của Hoa Kỳ. Lúc đó Kissinger và Lê Đức Thọ thảo luận riêng với nhau về lịch trình và phương thức thi hành ngừng bắn và rút quân. Hai phe trực chiến thời đó là Việt Nam Cộng Hòa, một chính quyền hợp pháp do dân bầu, và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một tổ chức vệ tinh do chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa miền Bắc dựng lên năm 1960.
Chỉ sau khi hoàn tất những điều kiện và thủ tục đình chiến, hai phe Việt Nam Cộng Hòa và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mới được mời tham gia để ký tên đồng ý. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa lúc đó là Nguyễn Văn Thiệu tỏ ra chần chừ không chịu ký liền bị phía Mỹ làm áp lực : nếu ông không ký thì chúng tôi ký một mình. Và vụ việc đã xảy ra như thế nào có lẽ mọi người trong chúng ta đều biết. Người Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam ngày 30/4/1975 và toàn bộ lãnh thổ miền Nam lọt vào tay phe cộng sản miền Bắc, với những hậu quả như thế nào có lẽ mọi người trong chúng ta cũng đều biết.
Bình tâm nhìn lại
Mặc dù hai nước Việt Nam và Afghanistan rất khác nhau về vị trị địa lý, lịch sử, văn hóa, và bối cảnh quốc tế cũng khác nhau, nhưng lại có những điểm giống nhau mang tính định luật. Cả hai chính quyền Afghanistan và Việt Nam Cộng Hòa đều có phương tiện dồi dào hơn, có quân đội đông đảo hơn, có số người có học thức có kiến thức đông đảo hơn... nhưng đều thua một cách nhanh chóng.
Chỉ có một lý do để giải thích. Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 và Afghanistan trước 2021 đều có một đặc tính nổi bật là không có một truyện thuyết lập quốc, không có một lý tưởng kiến tạo quốc gia, không có cả một truyền thống dựng quốc để tồn tại. Không có một ý niệm rõ ràng về quốc gia nên cả quân đội và guồng máy chính quyền chỉ tồn tại nhờ được bơm hơi tiếp sức. Nó giống như là một chiếc xe không có động cơ và chỉ di chuyển được nếu có một sức mạnh bên ngoài kéo đi. Trong khi đó, trước mặt chính quyền Kabul là lực lượng Taliban với truyện thuyết Hồi giáo, lý tưởng xây dựng chế độ thần quyền dựa trên luật Sharia và truyền thống gắn bó trọn đời trong ước mơ được sống vĩnh hằng bên kia thế giới với gái đồng trinh và rượu thịt ê hề... Và cũng như vậy, trước mặt chính quyền Sài Gòn là một đội quân thiếu thốn đủ mọi thứ nhưng có truyện thuyết cộng sản, giấc mơ xây dựng một thế giới đại đồng, lý tưởng xây dựng một xã hội bình đẳng, dựa trên sự gắn bó và tình đồng chí để chiến đấu.
Nhà sử học Do Thái Harari cho rằng chỉ có những gì trừu tượng mới có thể đoàn kết được một chủng tộc, để chủng tộc đó có lý do tồn tại. Bởi mỗi vấn đề cụ thể có rất nhiều giải đáp khác nhau và nó chia rẽ chứ không đoàn kết. Ngày hôm nay người ta có thể đồng ý với nhau trên một số vấn đề cụ thể và làm việc nhưng mà ngày mai người ta có thể sẽ không đồng ý với nhau trên một vấn đề cụ thể khác, để rồi chia tay trong vui vẻ hay trong thù hận. Chỉ có những tư tưởng bao dung, những giấc mơ đẹp (truyện thuyết) mới giúp con người gắn kết với nhau lâu dài trong hòa bình.
Nhắc lại Afghanistan là nhắc tới một sự đau nhức khôn nguôi trong lòng một số người Việt Nam, nhất là trong tháng 4 này, một tháng vui và cũng là một tháng buồn cho rất nhiều người. Nhưng không thể vì muốn vui hay buồn mà buộc lịch sử phải thay đổi, lịch sử là lịch sử, lịch sử rất khách quan. Chỉ những người mê muội mới tìm cách viết lại lịch sử để ca tụng mình.
Ngay trong lúc này, tại Ukraine, cuộc chiến bảo vệ tự do dân chủ và lẽ phải đang tới hồi quyết liệt. Đây cũng là lúc để chúng ta khép lại một trang sử đau buồn của tự do dân chủ bị dập tắt trên đất nước để cùng nhau xây dựng một truyện thuyết mới cho Việt Nam, một chế độ dân chủ đa nguyên, trong đó mọi người và mỗi người đều có tiếng nói và chỗ đứng ngang nhau trong một xã hội của tình anh em nhìn lại.
Trần Khánh Ân
(06/04/2022)
Ngày 15/8/2021, quân Taliban đã tiến vào thủ đô Kabul của Afghanistan như chỗ không người, không tốn môt viên đạn, và đã chễm chệ ngồi chụp hình ngay giữa dinh tổng thống. Tổng thống Afghanistan Ashraf Ghani đã rời khỏi đất nước, không nói với dân và quân một lời, chạy đi lánh nạn tại Tadjikistan, một nước nhỏ sát biên giới, trước đây thuộc Liên Bang Xô Viết.
Quân Taliban chụp hình trong phòng làm việc của tổng thống Afghanistan
Mỹ đã dính vào mớ bòng bong Afghanistan qua việc trả thù quân khủng bố Taliban và Al-Qaeda đâm phi cơ vào tòa nhà Tháp Đôi ở New York ngày 11/09/2001, khiến 3.000 người thiệt mạng. Tổng thống George W. Bush (con) ra lệnh đưa quân vào Afghanistan để tiêu diệt các lực lương khủng bố, thành lập một chính quyền và quân đội Afghanistan mới. Việc bình định tiến chậm. Quân khủng bố Taliban, có lực lượng Al-Qaeda hiệp lực, tổ chức lại hàng ngũ rất nhanh, từ những căn cứ đặt tại Pakistan. Vì vậy Mỹ bị sa lầy ở Afghanistan 20 năm, suốt 4 thời tổng thống Mỹ. Ý định thoát khỏi vũng lầy, rút quân Mỹ về nước, xuất phát từ Tổng thống Obama. Tổng thống Trump cũng đồng tình, còn gửi phái đoàn đi điều đình với Taliban tại thành phố Doha về việc Mỹ rút quân và đã ký thỏa hiệp với Taliban vào tháng 2/2020. Đến Tổng thống Biden thì ông dứt khoát rút quân vào tháng 5/2021. Afghanistan bị bỏ rơi cho Taliban tiếp thu nhẹ nhàng. Nhiều người kết án Mỹ "đem con bỏ chợ", giống như đã đối xử với đồng minh Việt Nam Cộng Hòa trước đây. Thật ra có điều giống, điều không giống. Điều giống nhất là đưa chiêu bài dụ dỗ đồng minh với mục tiêu cao cả chống độc tài, thiết lập tự do, dân chủ, hứa sẽ tận tình giúp họ chiến đấu đến chiến thắng. Khi không thắng nổi, hoặc khi thấy tình hình quốc tế đã thay đổi, dư luận dân Mỹ không còn ủng hộ việc tham gia cuộc chiến ấy nữa, một chính sách khác cần được áp dụng, thì lãnh đạo Mỹ lập tức rút quân ra, chấm dứt mọi yểm trợ, không kể đến sự hy sinh của 2.448 chiến binh Mỹ, 1.144 binh sĩ đồng minh NATO đã nằm xuống trên chiến trường Afghanistan, tiêu tốn hàng ngàn tỷ đô la, quan trọng nhất là không đếm xỉa gì tới những tai họa mà đồng minh bị bỏ rơi phải hứng chịu vì đã tin cậy vào Mỹ.
Ngoài việc rút ra cho thoát "của nợ" để lo việc khác, các chính phủ Mỹ còn thêm "thói quen" lật đổ hay dồn vào chân tường những lãnh tụ đồng minh đã từng đươc Mỹ ủng hộ và hứa hẹn đủ điều. Ta có thể kể Tổng thống Ngô Đình Diệm, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của Việt Nam Cộng Hòa, Tổng thống Lý Thừa Vãn của Nam Hàn bị quân đội đảo chánh với sự đồng tình của Mỹ, Tổng thống Magsaysay của Phi Luật Tân chết một cách mờ ám, Tổng thống Tưởng Giới Thạch của Đài Loan bị cắt bang giao với Mỹ và mất luôn ghế thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, bây giờ là Tổng thống Ashraf Ghani của Afghanistan…
Một lãnh tụ Châu Á đã nói một câu nổi tiếng : "Làm kẻ thù của Mỹ có lợi hơn làm đồng minh của Mỹ". Nixon và Ford thuộc đảng Cộng hòa hay Biden của đảng Dân chủ cũng hành động giống nhau thôi. Ông nào cũng "America first", dù không nói huỵch toẹt như ông Trump.
Bảo vệ quyền lơi Mỹ là điều chính đáng, không ai có thể trách cứ. Bảo vệ không phải chỉ bằng súng đạn, mà còn bằng thương mại, kinh tế, ngoại giao, chính trị, vừa nhằm bảo vệ an ninh cho Mỹ từ vòng đai xa, vừa nhắm phát triển kinh tế Mỹ, vừa lo củng cố vai trò cường quốc số một của Mỹ trên toàn thế giới. Vì vậy Mỹ cần có mặt ở khắp nơi, tạo ảnh hưởng ở mọi chốn, can thiệp vào mọi biến cố, từ hai cuộc thế chiến đến các cuộc chiến tranh Cao Ly, Việt Nam, Trung Đông và nhiều nơi khác. Mỹ không xâm lăng chiếm đất nhưng chiếm ảnh hưởng, đóng vai cứu khốn phò nguy. Hầu hết các quốc gia khi bị nguy kịch đều trông vào Mỹ, kêu cầu Mỹ đến giúp. Ngay cả Việt Nam cộng sản, cựu thù không đội trời chung với Mỹ, cũng phải ve vãn Mỹ khi bị Trung Quốc ăn hiếp.
Giúp đỡ những nước yếu đang bị hoạn nạn hay bị ăn hiếp là hành động hào hiệp. Nhưng khi muốn vào thì nhẩy vào cho bằng được, khi muốn ra thì rút ra một cái rẹt, để mặc đồng minh tự đối phó với những hậu quả thì đúng là đem con bỏ chợ, "quất ngựa truy phong".
Nhiều người nói Mỹ rút vì chính quyền của nước liên hệ bất lực, quân đội không chịu chiến đấu, dân chúng chỉ trông vào viện trợ Mỹ. Điều đó đúng một phần, nhưng tình trạng này phần lớn do Mỹ tạo ra. Thứ nhất, Mỹ muốn tạo một quốc gia mới theo kiểu Mỹ, không quan tâm tới sự khác biệt văn hóa, truyền thống và ý muốn của người dân. Thứ hai, vì chi tiền và phát võ khí, Mỹ tự coi mình như ông chủ có quyền nhúng tay kiểm soát mọi chuyện từ nhỏ tới lớn. Điều này thấy rõ trong cả hai trường hợp Afghanistan và Việt Nam.
Trường hợp Afghanistan, rất nhiều dân nước này, đặc biệt phụ nữ, âm thầm chống đối Taliban vì tổ chức này trong thời gian cai trị đất nước (1996-2001) sau khi quân đội Nga rút đi, đã hiện nguyên hình là đám khủng bố, độc tài khát máu, dựa vào Hồi giáo với luật Sharia để giết người vô tội, hành hạ phụ nữ, không cho đi học, không cho ra ngoài làm việc, bắt phải mặc burka, một thứ áo trùm từ đầu tới chân, chỉ hở hai con mắt. Nhưng sự bất bình thụ động của giới phụ nữ không thể tạo nên một phong trào chống đối, vì những bó buộc độc ác này có căn nguyên tôn giáo và truyền thống Hồi giáo mà đa số nam giới, kể cả một số nữ giới cao tuổi, vẫn kín đáo có cảm tình. Vì vậy quân đội Afghanistan có trên 300.000 ngàn người không hăng say chiến đấu với quân Taliban vì không có lý do thôi thúc. Nếu không có quân đội và viện trợ của Mỹ và các đồng minh NATO thì chính quyền Afghanistan đã sụp đổ từ lâu.
Thêm vào đó, Mỹ tiếp tục nuôi dưỡng các lãnh chúa (warlords) chia nhau chiếm cứ lãnh thổ Afghanistan. Mỗi lãnh chúa có quân đội riêng. Nhờ đó quân Taliban khó gây rối. Các lãnh chúa này là những sứ quân. Họ chẳng coi quân đội và chính quyền trung ương ra gì. Chính quyền với vỏ ngoài dân chủ bị họ thao túng. Họ là lính đánh thuê, có tiền thì đánh, không có tiền thì thôi. Nhà báo Thomas Ruttig cho nữ ký giả Frauke Niemeyer biết các toán CIA dùng máy bay chở từng thùng đô la cho các lãnh chúa (ntv.de, 11/8/2021). Khi Mỹ không đóng hụi tiếp thì các lãnh chúa nghỉ chơi, quân Taliban cứ tự do tung hoành khắp Afghanistan. Khi thấy Mỹ rút đi và các lãnh chúa bất động, chính quyền và quân đội Afghanistan biết đã bị bỏ rơi, tự mình không thể cứu mình, nên lặng lẽ đầu hàng. Mỹ quyết định hết, không coi chính phủ Afghanistan ra gì.
Chen chúc nhau lên máy bay Mỹ để chạy khỏi Afghanistan
Trường hợp Việt Nam có nhiều điểm khác. Trước hết, cuộc xung đột không phải là cuộc trả thù của Mỹ, cũng không phải là tranh chấp quyền hành với niềm tin tôn giáo như ở Afghanistan. Tranh chấp ở Việt Nam là đấu tranh ý thức hệ : cộng sản và chống cộng sản. Chiêu bài của một phe là chống xâm lăng, trước là Pháp, sau là Mỹ, che đậy tham vọng chiếm cả nước rồi đặt dưới chế độ cộng sản độc tài chuyên chính. Phe kia cũng tranh đấu cho độc lập nhưng cương quyết chống cộng sản, đấu tranh tự vệ, xây dựng tự do dân chủ. Phe cộng sản dựa vào Liên Xô, Trung Quốc và khối cộng sản quốc tế. Phe chống cộng dựa vào Pháp, sau là Mỹ và các đồng minh của thế giới tự do. Quân Mỹ chỉ chính thức có mặt ở miền Nam Việt Nam 8 năm, từ 1965 đến 1973 sau khi Hiệp định Paris được ký kết, nhưng Mỹ đã nhúng tay vào chuyện Việt Nam từ 1946 đến 1975, tức 29 năm. Khởi đầu là giúp Pháp đánh Việt Minh công sản, sau là giúp người Việt Quốc Gia chống cộng. Cuộc chiến tại Việt Nam đã trở thành cuộc chiến tranh ý thức hệ, tuy cục bộ nhưng có tầm vóc toàn cầu.
Mỹ đã lãnh trách nhiệm giúp Việt Nam nhiều nhất, nhưng lối viện trợ của Mỹ rất phức tạp. Khi nói Mỹ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa ở cao điểm mỗi năm 1 tỷ đô la quân sự và 1 tỷ đô la kinh tế thì đừng nghĩ Mỹ sẽ ký ngân phiếu hay trao tiền mặt cho của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa muốn xài thế nào tùy ý. Mỗi một viên đạn bắn đi, mỗi một lít xăng đổ vào quân xa, từ bộ quân phục đến chiến xa, tầu thủy, máy bay đều tính thành đô la và trừ vào ngân khoản viện trợ. Về hàng hóa dân sự như thực phẩm, thuốc men, xe cộ, máy móc… khi Việt Nam có nhu cầu, phải đưa danh sách cho Mỹ. Khi được Mỹ đồng ý, Mỹ sẽ đặt hàng và Mỹ sẽ thanh toán bằng tiền viện trợ. Phần lớn hàng hóa được đặt mua từ Nhật Bản (xe Honda, dụng cụ và máy móc gia dụng), Nam Hàn (quân dụng), Phi Luật Tân (điện thoại). Vừa giúp Việt Nam vừa làm ơn cho các đàn em khác. Hàng hóa nhập cảng được bán tại Việt Nam được trả bằng tiền Việt Nam và chính phủ Việt Nam dùng tiền này cùng với khả năng tài chánh riêng của mình để trả lương cho quân lính, công chức, điều hành các cơ cấu quốc gia.
Trong một cuộc điều trần về ngân sách tại Hạ Nghị Viện năm 1970, chúng tôi hỏi ông Tổng trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc là Việt Nam hiện có bao nhiêu ngoại tệ sở hữu (foreign currency) để trong Ngân Hàng Quốc Gia. Ông trả lời có 220 triệu đô la. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên về con số ngoại tệ dự trữ khiêm tốn này của một nước 20 triệu dân và có 500.000 quân Mỹ tiêu xài mỗi ngày trên lãnh thổ. Ông Tổng trưởng Tài chánh giải thích là nếu mình sở hữu số ngoại tệ lớn hơn, Mỹ sẽ ngưng viện trợ, chờ mình xài bớt đi họ mới viện trợ thêm. Còn tiền binh lính và nhân viên Mỹ tiêu xài ở Việt Nam là đồng "đô la đỏ", không có giá trị tiền tệ, chỉ là một chứng chỉ tài chánh có thể đổi thành tiền Việt Nam. Nghe vậy là biết Mỹ không cho chúng ta độc lập kinh tế và tài chánh. Mỹ kiểm soát chặt chẽ, không muốn cho chúng ta có phương tiện riêng để thực hiện những điều Mỹ không muốn. Cơ quan viện trợ kinh tế USAID của Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn lớn ngang với các bộ Kinh tế và Tài chánh của Việt Nam Cộng Hòa.
Về quân sự, Mỹ không cho Việt Nam tự sản xuất võ khí đạn dược và không được tích trữ đạn dược, chất nổ quá nhu cầu. Tổng thống Ngô Đình Diệm rồi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã yêu cầu Mỹ giúp xây dựng một nhà máy sản xuất phân bón hóa học đều bị Mỹ từ chối. Ngoài việc không muốn Việt Nam tự lực tự cường, Mỹ còn sợ một phó sản của nhà máy phân bón có thể được dùng để chế biến thành thuốc nổ. Tổng thống Thiệu đã yêu cầu Mỹ cho thiết lập một cơ xưởng sản xuất súng M-16 và đạn tai Việt Nam cũng bị từ chối. Kho đạn Cát Lái nằm ở quận Nhơn Trạch, Biên Hòa, không xa Sài Gòn, thỉnh thoảng lại bị nổ. Đó không phải là Việt Cộng phá hoại mà là Mỹ cho nổ vì đạn thặng dư. Kho đạn chỉ được dự trù cung cấp cho quân đội Việt Nam xử dụng trong 6 ngày. Nếu dư là phá hủy. Người ta thấy rõ đó là chính sách buộc Việt Nam phải tùy thuộc Mỹ, không có tiền và võ khí dư để có thể làm theo ý mình, không nghe lời Mỹ.
Về nhân sự lãnh đạo cũng thế, khi Tổng thống Ngô Đình Diệm tỏ ra tôn trọng chủ quyền quốc gia, không chấp thuận cho Mỹ đưa quân vào Việt Nam thì bị làm khó dễ, xuyên tạc, bôi bẩn, cắt viện trợ, cuối cùng bị làm đảo chánh và bị thảm sát do những tướng tá tay sai của Mỹ thực hiện. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý với bản dự thảo Hiệp định Paris do Kissinger và Lê Đức Thọ thỏa hiệp bị Tổng thống Nixon viết thư dọa nạt cắt viện trợ và nói xa gần không muốn bi kịch Ngô Đình Diệm tái diễn. Trong các cơ quan chính phủ từ cao đến thấp đầy dẫy những nhân viên đi đêm với Mỹ. Có cả những bộ trưởng, nghị sĩ, dân biểu bí mật làm công tác ngầm cho Mỹ. Trong quân đội, Mỹ công khai đặt cố vấn cạnh các tướng, tá, xuống tới cấp tiểu đoàn. Mỹ muốn có tai mắt ở mọi nơi để kiểm soát mọi sự. Vì vậy khi Mỹ ngưng viện trợ tài chánh và quân sự, rút quân về sau khi đã lấy lại tù binh thì Việt Nam Cộng Hòa lấy gì mà chống với quân cộng sản Bắc Việt được Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu tiếp tế đến tận rang ?
Không thể chê trách quân đội Việt Nam Cộng Hòa không muốn và không biết cách chiến đấu. Trước khi quân Mỹ đến và sau khi quân Mỹ về, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn chiến đấu can cường, bảo vệ được bờ cõi. Trận Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, một mình quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã đánh bật cộng quân khỏi Bình Long và cổ thành Quảng Trị. Chính Tổng thống Nixon cũng phải khen ngợi, dù cũng tự kể công, khi ông viết : "Chương trình Việt Nam hóa của chúng ta đã làm cho quân đội Nam Việt Nam trở thành một lực lượng chiến đấu hiệu quả. Họ đã tự chứng tỏ vào năm 1972 khi bộ binh của họ đã chặn đứng cuộc xâm lăng rầm rộ của Bắc Việt. Lực lượng của chúng ta chỉ giúp bắn đại pháo từ chiến hạm và yểm trợ không quân" (1). Quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu anh dũng và chiến đấu tới cùng. Trận Xuân Lộc, Long Khánh, Sư đoàn 18 do Thiếu tướng Lê Minh Đảo chỉ huy đã đánh tan cả sư đoàn quân chính quy miền Bắc trước khi "tổng thống" Dương Văn Minh ở Sài Gòn tuyên bố đầu hàng và ra lệnh cho quân đội buông khí giới. Dĩ nhiên nếu chiến đấu tiếp khi không còn được viện trợ thì cũng sẽ thua, nhưng không thua một cách nhục nhã kiểu này, và biết đâu còn có thể cứu vãn phần nào khi có thời gian tập trung lực lượng và xin viện trợ từ các nước khác (kế hoạch vay tiền của Saudi Arabia còn dang dở).
Một điều khác cần phải nói một lần cho rõ là các chế độ thua cuộc thường bị kết án là tham nhũng, chia rẽ và không được nhân dân ủng hộ. Nói riêng về Việt Nam Cộng Hòa, những tệ nạn này quả là có. Chúng ta không bênh vực nạn tham nhũng và tệ nạn chia rẽ, nhưng phải thành thực cứu xét mức độ và nguyên nhân. Mua quan bán chức, lính ma lính kiểng, đầu cơ tích trữ, buôn lậu… đều có. Tệ nạn này ở nước nào cũng có, tuy mức độ và cách thức khác nhau. Mỹ, Pháp, Đức, Nam Hàn… luôn luôn có những vụ phát giác và ra tòa vì tham nhũng. Có điều ở những nước này, có tội là phải xử phạt một cách công bằng, và tham nhũng kiểu này không ảnh hưởng nhiều tới đời sống dân chúng, không giống như dưới chế độ cộng sản. Miền Nam Việt Nam trước đây cũng thế, và ở mức độ nhỏ hơn. Tài sản của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Việt Nam chỉ có căn nhà khiêm tốn ở Phan Rang, khi rời Việt Nam ra ngoại quốc, có lẽ ông chỉ có từ 2 tới 3 triệu Mỹ kim, theo tính toán của một số chuyên gia ngoại quốc, kém xa tài sản của một trưởng ban cấp tỉnh của chế độ cộng sản hiện hành. Nếu ông "ăn lấn" vào tiền viện trợ Mỹ, Mỹ đã không cho ông đến định cư tại Mỹ và cử Ban Nghi lễ Bộ Ngoại Giao đến lo cho tang lễ của ông theo cung cách của một nhân vật VIP. Chúng ta không tôn vinh Tổng thống Thiêu. Nhưng thử hỏi Tổng thống Ferdinand Marcos của Phi Luật Tân và Tổng thống Manuel Noriega của Panama có được đối xử như thế không, hay môt ông bị truy tố, một ông vào tù ? Mỹ biết hết ! Chúng ta không biện minh cho tham nhũng, chúng ta chống tham nhũng, nhưng tham nhũng cò con kiểu Việt Nam Cộng Hòa không phải là nguyên nhân đủ để mất nước.
Về nạn chia rẽ, chúng ta phải công nhận ý dân không bao giờ thuần nhất 100%. Khi thắng 51% là có 49% chống lại. Chỉ dưới chế độ cộng sản và độc tài mới có nhất trí 100%. Trước 1975, miền Nam có nhiều người bất mãn hay chống chính quyền, nhưng sự chống đối của họ chỉ có tính cách tiêu cực. Ngược lại, họ chống cộng sản tích cực bằng đôi chân. Cộng sản đến đâu là họ chạy về phía Quốc gia kiểm soát đến đó. Phải nhận rằng đa số dân miền Nam không ưa cộng sản nhưng bất động, khoán trắng việc chống cộng cho quân đội và chính quyền, khi mất hết mới tiếc, nhưng đã muộn. Sự chia rẽ công khai thường phát xuất từ các đảng phái, tôn giáo, báo chí và Quốc hội. Đó là việc tranh quyền cướp nước mà bất cứ chế độ tương đối tự do nào đều phải chấp nhận.
Trường hợp Việt Nam trầm trọng hơn vì có cộng sản xâm nhập và nằm vùng phá hoại từ dinh Tổng thống đến Quốc hội. Điều đáng nói là chính Mỹ cũng xúi bẩy một số đảng phái và cá nhân đóng vai trò đối lập với chính quyền để Mỹ xử dụng như một thứ ngáo ộp nhằm đe dọa và gây áp lực với những lãnh đạo đương quyền. Các đảng phái (đa số rất nhỏ và không nhiều ảnh hưởng) có truyền thống ganh ghét và ham được chia quyền. Khi không được thỏa mãn là trở thành đối lập, dù không theo cộng sản. Một số nghị sĩ, dân biểu có lập trường chống cộng, không có hậu thuẫn chính trị sau lưng, vẫn suốt ngày đả phá chính quyền và bác bỏ những dự luật do Hành pháp chuyển qua. Người ta không thể hiểu lý do vì sao. Chỉ biết tự an ủi là chúng ta đang tập sự làm dân chủ. Nhưng với thời gian tìm hiểu, người ta đã biết những chính đảng hay chính khách này hành động vì lời thổi bong bóng của tình báo và chính khách Mỹ : Các anh thấy gì đáng chống thì cứ chống đi. Nếu kéo được những người ngồi ở Dinh Độc Lập xuống thì những người thay thế sẽ là các anh chứ còn ai nữa. Thế là họ ăn bánh vẽ của Mỹ, tưởng Mỹ sắp hành động và sẽ chiếu cố tới họ. Ngoài ra, việc "ma ăn cỗ" thì khó có ai biết.
Nạn chia rẽ không đâu không có. Nạn này sẽ trầm trọng hơn khi có ngoại bang chen vào với một tay cầm đô la và một tay cầm súng đạn. Tình cảnh mỗi nước mỗi khác, nhưng chiến thuật "chia để trị" thì ở Afghanistan hay Việt Nam Cộng Hòa đều giống nhau.
Mỹ can thiệp vào đâu cũng nhân danh bảo vệ độc lập, tự do, dân chủ, nhân quyền. Đó là lý tưởng của một thế giới tự do, không độc tài, không cộng sản. Nhưng khi yểm trợ đồng minh, Mỹ đã phạm những sai lầm về chiến lược, chiến thuật, nhất là sai lầm về cách đối xử với đồng minh nhận viện trợ như một ông chủ đối với người làm công. Tệ hại nhất là thói quen dụ dỗ lúc đầu bằng chiêu bài đẹp đẽ, bằng thề non hẹn biển, rồi khi chán hay có mối khác thì rũ áo ra đi, mặc kệ "bạn tình" lãnh đủ mọi hậu quả oan trái. Bằng cớ là các ông Nixon và Kissinger đã bỏ Việt Nam cho cộng sản sau khi làm hòa với Trung Quốc năm 1972, dồn sức lực để chống Liên Xô.
Nếu không thể đi với nhau hết con đường, tại sao không chia tay sớm và giúp nhau cách khác ? Dứt tình giữa lúc gian nguy là giết nhau. Tham vọng biến nước mình đến giúp thành một "tiểu Hoa Kỳ" cũng cầm chân Mỹ lâu dài và dẫn đến thất bại. Cựu Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld khuyên Tổng thống Bush (con) nên giới hạn nhiệm vụ của Mỹ trong việc bắt giữ khủng bố, không nên tốn công vào việc biến đổi Afghanistan. Cựu Bộ trưởng quốc phòng Robert Gates colfn nói rõ hơn : "Lẽ ra tốt nhất là quân đội của chúng ta rút đi vào năm 2002 và sau đó dựa vào các công cụ quyền lực phi quân sự, và dựa vào kiên nhẫn" (Trả lời phỏng vấn 12/8/21). Nạn nhân cũng có lỗi, đó là ỷ lại và tin tưởng vào Hoa Kỳ quá nhiều, không lo tự lực cánh sinh. Cái khó là muốn lo cũng chẳng được vì Mỹ đã nắm hết từ đầu tới chân, tự quyết định mọi chuyện. Vận mệnh của nạn nhân nằm trong tay Mỹ. Đúng là "cái khó bó cái khôn".
Về việc nhân ra những lỗi lầm, chính cựu Tổng thống Richard Nixon đã viết trong cuốn In The Arena (Trong đấu trường) : "Chúng ta phải đủ trưởng thành như một cường quốc thế giới để chấp nhận sự thật là không ai có thể luôn luôn thắng. Việc rút lui của chúng ta ở Việt Nam đã làm tê liệt ý chí chính trị của chúng ta, và hậu quả là chúng ta phải chịu mất mát tại Angola, Mõm Sừng Châu Phi và Nicaragua. Với tư cách một quốc gia, chúng ta phải học để biết rằng trong địa lý chính trị, ván bài không bao giờ kết thúc" (2).
Ông Nixon tin rằng Mỹ đã biết rút kinh nghiệm, nên 10 năm sau khi mất Sài Gòn, ông đã cho xuất bản cuốn No More Vietnams (Không còn những vụ Việt Nam nữa). Ông đã tiên tri sai. Năm 2021 có vụ Afghanistan. Và sẽ còn nhiều vụ Việt Nam và Afghanistan khác trong tương lai nếu Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đường lối dùng chiêu bài và hứa hẹn để dụ dỗ, rồi bỏ rơi vì quyền lợi của Hoa Kỳ.
Mạc Giao
Nguồn : Vietbao, 07/09/2021
Chú thích :
(1) Richard Nixon, In The arena, Simon & Schuster, New York 1990, tr 403 :
"Our Vietnamization program had made the South Vietnamese armed forces an effective fighting force. They had proven themselves in 1972, when their ground forces stopped a massive North Vietnamese invasion. Our forces provided only naval artillery and air support".
(2) Richard Nixon, op cit., tr 380 :
"We must also be mature enough as a world power to accept the fact that no one wins all the time. Our setback in Vietnam paralyzed our political will, and we consequently suffered losses in Angola, the Horn of Africa, and Nicaragua. As a nation, we must learn that in geopolitics the game never ends".
Đoạn kết của chiến tranh A Phú Hãn (Afghanistan) 2021 giống như đoạn kết của chiến tranh Việt Nam 1975. Người Mỹ tháo chạy trong hỗn loạn, không xứng đáng là đệ nhất siêu cường. Cùng lúc, chính quyền Kabul giống như chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, được Mỹ ủng hộ trên dưới 20 năm, sụp đổ tan hoang.
Tuy nhiên nhìn kỹ hơn thì cuộc chiến tranh Việt Nam và chiến tranh A Phú Hãn khác nhau về nhiều mặt.
Vị trí A Phú Hãn (Afghanistan) trong vùng Nam Á và Châu Á
Một
Chiến tranh Việt Nam là sự đụng độ giữa Mỹ và cả khối Cộng sản, lúc đầu chính yếu là Cộng sản Tầu, Cộng sản Việt nhưng sau gồm cả Liên Xô, Bắc Hàn, Cu Ba, các nước cộng sản Đông Âu. Mỹ kéo được một số đồng minh Á Châu tham chiến như Úc, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, nhưng các đồng minh mạnh nhất của Mỹ ở trong khối Nato lại chọn đứng ngoài. Dù sao, chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc xung đột dữ dội nhất, nóng nhất, dai dẳng nhất của thời kỳ chiến tranh lạnh giữa 2 phe Cộng sản và Tư bản, một thứ thế chiến thu gọn trên chiến trường Đông Dương.
Mỹ ở thế "thắng rất khó" mà "thua thì hiểu được" vì khối Cộng sản lúc đó rất mạnh và dốc toàn lực dù bề ngoài là chỉ có Cộng sản Việt Nam đánh nhau với Mỹ và đồng minh của Mỹ. Nhờ sự "chống lưng" vô giới hạn của Trung Cộng, Bắc Việt không cần chia quân lo phòng thủ vì biết trước Mỹ, sau kinh nghiệm xương máu trong chiến tranh Triều Tiên, không muốn hoặc không dám đụng độ trực tiếp với một biển quân Tầu thêm lần nữa, nên chắc chắn sẽ không vượt sông Bến Hải tiến binh ra Bắc. Trong khi đó thì Bắc Việt cứ tự do hàng hàng lớp lớp theo hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh đổ quân vào Nam.
Bắc Việt cũng không cần làm kinh tế sản xuất vì lương thực, súng đạn đã được đàn anh cung cấp đủ. Không còn là một quốc gia bình thường, phe Cộng sản đã biến Bắc Việt thành một trại lính - chỉ ăn, ngủ, huấn luyện ngắn ngủi rồi lên đường "chống Mỹ, cứu nước", "sinh Bắc, tử Nam" nghĩa là đánh cho tới chết, đánh đến người Việt Nam cuối cùng. (Ngay cả người Việt chết hết, Mỹ vẫn còn đối phó với một tỉ người Tầu thù nghịch…).
Chiến tranh A Phú Hãn ngược lại. Tương quan lực lượng hoàn toàn chênh lệch. Lợi cho Mỹ và bất lợi cho Taliban. Trước sau chỉ đơn độc Taliban đối đầu với Mỹ và các lực lượng đồng minh của Mỹ gồm cả quân đội của chính quyền Kabul do Mỹ dựng lên cộng với quân đội trong khối NATO như của Anh, Pháp, Đức, Ý, Ba Lan, Spain, Portugal, Norway, Canada… Thế mà cuộc chiến 20 năm kết thúc với Taliban toàn thắng mặc dù sự giúp đỡ từ bên ngoài mà Taliban nhận được rất không đáng kể. Đó là một điều rất đáng ngạc nhiên: Tại sao người khổng lồ và "bè đảng" lại thua một chú bé con một cách thảm thương như vậy!? Không những Mỹ là cọp giấy- như Mao Trạch Đông từng nói - mà cả NATO cũng là cọp giấy luôn, ít nhất trong trường hợp này.
Hai
Mỹ tốn phí khoảng 1.000 đến 2.000 tỉ đô la cho chiến tranh A Phú Hãn, tùy theo cách tính. Có thể là ngang bằng hoặc thậm chí cao hơn chi phí của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tính theo thời giá hiện hành. Mặt khác, cường độ và qui mô của chiến tranh A Phú Hãn lại chỉ bằng 1/10 hay 1/20 chiến tranh Việt Nam.
Trong chiến tranh Việt Nam ước lượng Mỹ chết 58 ngàn, phe Quốc gia Việt Nam chết trận 250 ngàn ; phe Cộng sản Việt Nam chết 1 triệu. Số bị thương gấp mấy lần số chết. Thường dân chết vì bom đạn cũng thêm cả triệu. Trong chiến tranh A Phú Hãn, Mỹ chết tổng cộng khoảng 6 ngàn (cả quân sự, dân sự) ; quân đội và cảnh sát của chính quyền Kabul chết khoảng 70 ngàn ; Taliban chết 60 ngàn ; thường dân chết vì bom đạn cũng khoảng 70 ngàn. Tại cao điểm của chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ hiện diện là hơn nửa triệu so với 100 ngàn tại cao điểm chiến tranh A Phú Hãn. Toàn bộ chiến tranh Việt Nam lấy đi ít nhất 3 triệu sinh mạng so với hơn 200 ngàn chết trong toàn bộ chiến tranh A Phú Hãn.
Chiến tranh A Phú Hãn căn bản là đánh du kích và phản du kích, không có những trận đại chiến "long trời, lở đất" cấp sư đoàn như ở Việt Nam. Các trận đánh Tết Mậu Thân, Lam Sơn 719, Bình Long, Kontum, Quảng Trị, Ban Mê Thuật, Long Khánh…đều đáng ghi vào quân sử thế giới.
Có thắng, có bại nhưng thực tế đã chứng tỏ quân đội của phe quốc gia Việt Nam thiện chiến và rất anh dũng dù sự lãnh đạo chính trị ở tầm mức quốc gia thì kém cỏi. Con số tử sĩ 250 ngàn cũng chứng tỏ chính đạo quân 1 triệu người này - trải qua hàng ngàn trận chiến lớn, nhỏ - mới là chủ lực ngày đêm bảo vệ cái thực thể Việt Nam Cộng Hòa suốt 20 năm chứ không phải quân viễn chinh của nước Mỹ, trông cậy quá nhiều vào hỏa lực áp đảo và thường "vồ hụt" địch quân.
Đạo quân người Việt này đã bị "bức tử" một cách vội vã, hết sức thiếu công bằng trong năm cuối cùng của cuộc chiến. Giữa lúc đối phương mang toàn lực tấn công, viện trợ không được gia tăng mà còn bị cắt tàn nhẫn - đột ngột và toàn diện - cho nên không sụp đổ mới là chuyện lạ.
Nếu Liên Xô, Trung Cộng cũng cúp lương thực, cúp xăng dầu, cúp đạn, cúp pháo, cúp tăng… đối với Bắc Việt y chang như Mỹ đã làm đối với đồng minh Nam Việt thì chắc chắn không bao giờ có biến cố lịch sử tháng 4/1975 !
Chiến tranh Việt Nam cũng làm đảo điên nước Mỹ trong nhiều năm. Phong trào chống chiến tranh lan tràn khắp nước Mỹ và khắp thế giới. Hội thảo, biểu tình liên tục. Trốn lính, bắt lính. Vừa đánh, vừa đàm. Leo thang, xuống thang. Nước Mỹ mất ăn, mất ngủ vì số thương vong quá cao được công bố mỗi ngày. Ngược lại, chẳng mấy ai lưu tâm đến chiến tranh A Phú Hãn, ngoại trừ biến cố trùm khủng bố Bin Laden bị giết hoặc khi các chính trị gia Mỹ nêu vấn đề "rút hay không rút" vào lúc tranh cử.
Nói một cách, chiến tranh Việt Nam "sôi nổi, lôi cuốn" bao nhiêu thì chiến tranh A Phú Hãn lại "bình thường, tẻ nhạt" bấy nhiêu - tất nhiên là đối với công luận quốc tế, công luận Mỹ chứ không phải đối với hàng chục triệu dân A Phú Hãn phải hứng chịu tai họa chiến tranh mỗi ngày, không phải đối với mấy triệu người A Phú Hãn sống vất vưởng ở các trại tị nạn ở các vùng biên giới.
Ba
Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ 1954, nếu Mỹ phủi tay, quay lưng luôn thì Miền Nam Việt Nam chắc chắn sẽ mất vào tay Cộng sản rất sớm, cùng lúc với Lào và Cao Miên. Kế tiếp là các nước Đông Nam Á, nghèo nàn, bất ổn và đã nhen nhúm hoạt động cộng sản "Mao-ít" như Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Indonesia, Phi Luật Tân… cũng sẽ lần lượt rơi rụng đúng như các quân cờ Domino.
Mỹ can thiệp vào chuyện Việt Nam và lập Liên Minh Phòng Thủ Đông Nam Á (SEATO) để ngăn chặn phong trào cộng sản quốc tế đang bành trướng mạnh, vì thế, là chuyện phải làm, là chuyện chẳng đặng đừng. Hành động ngăn chặn, "be bờ" của Mỹ tại Việt Nam (1954-1975) có tích cách phòng thủ chứ không phải có mục đích tấn công, không khác gì Mỹ đã hành động tại Tây Âu và thiết lập NATO sau khi các nước Đông Âu lần lượt bị cộng sản hóa trong tay của Stalin. Mỹ không xâm lăng Việt Nam như Cộng sản vu cáo. Nỗ lực của Mỹ là giữ cho miền Nam Việt Nam và Đông Nam Á không bị cộng sản tràn ngập.
Cuối cùng, khác với trường hợp Nam Hàn, Việt Nam Cộng Hòa đã bị hy sinh nhưng phần lớn các nước Đông Nam Á khác đã được cứu rỗi. "Chiến tranh Việt Nam của nước Mỹ" đã trực tiếp và gián tiếp giúp Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Indonesia, Phi Luật Tân có đủ thì giờ củng cố, phát triển tương đối vững mạnh để thóat khỏi mối nguy "bị cộng sản hóa cách này hay cách khác". Đông Nam Á có ngày nay là nhờ chiến tranh Việt Nam, nhờ sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam trong 20 năm ấy. Đó chính là nhận xét của thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu.
Chiến tranh Việt Nam cũng mang đến một kết quả khá lạ lùng : Mỹ "xuống nước" bắt tay với Trung Cộng để cùng chống Liên Xô và Liên Xô đã sụp đổ chỉ 15 năm sau khi được coi là thắng Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Sáng kiến của Kissinger/Nixon có thể là thảm họa cho nước Mỹ tính về lâu dài nhưng ít nhất, Mỹ cũng được coi là bá chủ thế giới hay "siêu cường duy nhất" trong 2 thập niên kế tiếp cho đến khi nước Tầu cộng sản của Tập Cận Bình ra mặt thách thức Mỹ.
Trong khi chiến tranh Việt Nam đối với nước Mỹ, như vậy, là sự cần thiết. Cuộc chiến 20 năm tại A Phú Hãn, đối với nước Mỹ, trái lại, là một sự phí phạm vô ích, một sự sai lầm gần như hoàn toàn.
Ngoài trừ việc săn đuổi và giết Bin Laden, hành động của Mỹ ở A Phú Hãn, về mọi phương diện, khó có thể biện minh.
Mỹ có quyền trừng phạt Taliban đã giúp đỡ và dung dưỡng Bin Laden và Al Qaeda tấn công nước Mỹ trong vụ 9/11 giết gần 3 ngàn người, nhưng chiếm đóng A Phú Hãn và ngang dọc tự tung, tự tác là một sự xâm lăng. Dù nhân danh sứ mệnh "giải phóng" hay "khai hóa" xã hội A Phú Hãn. Dù có giúp thiết lập một chính quyền thân Mỹ và "tự do, dân chủ" theo kiểu Tây Phương. Dù có giúp cải thiện đời sống vật chất và cả tinh thần của một thiểu số khá lớn người bản xứ sống trong các thành phố. Dù có cổ võ chuyện giải phóng phụ nữ và nam nữ bình quyền…
"Khai hóa" trong trường hợp này là một sự "áp đặt văn hóa" bằng võ lực vừa có tính cách tự tôn, ngạo mạn trên một nước Hồi giáo lâu đời vừa làm dấy lên sự ngờ vực "khai hóa" chỉ là chiêu bài không khác chiêu bài của nước Anh khi mang hạm đội đến "khai hóa" Ấn Độ, của Hòa Lan "khai hóa" Indonesia, của Pháp khai hóa "Việt Nam", của Tây Ban Nha "khai hóa" Phi Luật Tân trong các thế kỷ trước.
Chính Pakistan đã chứa chấp Bin Laden, tại sao Mỹ không đánh, chiếm Pakistan và lập chính quyền "tự do, dân chủ" thân Tây Phương ? Còn bao nhiêu nước Hồi giáo khắc nghiệt, vi phạm nhân quyền liên tục như Iran, Saudi Arabia… tại sao Mỹ và Nato làm ngơ ? Hàng chục nước Phi Châu độc tài, áp bức, lạc hậu, nghèo đói…vtại sao Mỹ và Nato không mang binh lực đến giải phóng, khai hóa ? Tại sao lại chọn A Phú Hãn ?
Người ta có quyền suy luận Mỹ dám mang lực lượng đến lật đổ chính quyền Taliban năm 2001 và dựng lên một nước A Phú Hãn mới vì lúc ấy chính quyền của tổng thống Bush (con) tự tin nước Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới, muốn làm gì thì làm, không ai có thể ngăn cản. Chẳng hạn, nước Nga vẫn chưa đứng vững trên đống tro tàn của đế quốc Liên Xô. Nước Tầu với qui mô kinh tế GDP nhỏ bằng 1/4 hay 1/5 của Mỹ còn đang rất nhũn nhặn với Mỹ theo lời căn dặn "dấu mình, chờ thời" của Đặng Tiểu Bình. Các nước Nato thì sẵn lòng sắp hàng theo gậy chỉ huy của Mỹ. Hơn thế nữa, chính quyền Taliban đơn độc không có đồng minh ; nước A Phú Hãn, nghèo nàn, lạc hậu "dường như" là một mục tiêu dễ dàng…
Người ta cũng có quyền suy luận Bin Laden, Al Qaeda, Taliban chỉ là cái cớ, tiềm năng quặng mỏ phong phú và nhất là vị trí chiến lược của A Phú Hãn ở Trung Á án ngữ con đường nối Âu, Á và Trung Đông, lại nằm sát Nga, Tầu, Ấn Độ, Iran, Pakistan mới là lý do thực sự Mỹ đến A Phú Hãn và muốn ở lại đây. "Lý tưởng" là một nước A Phú Hãn "tân tiến" khác hẳn các nước Hồi giáo khác - thân Mỹ, có hiệp ước an ninh với Mỹ, chấp nhận sự hiện diện quân sự thường trực của Mỹ, cho Mỹ bố trí hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân trên những vùng cao nguyên chót vót có khả năng khống chế toàn vùng... Mỹ sẽ giữ được ngôi vị bá chủ lâu dài trên toàn thế giới…
Tuy nhiên, tất cả đã chứng tỏ là lâu đài xây trên cát.
Nhân danh việc tìm công lý cho gần 3 ngàn người chết oan trong vụ khủng bố 9/11 nước Mỹ đã ném mình vào một cuộc chiến tranh sai lầm và không cần thiết khiến có thêm hơn 200 ngàn người nữa chết oan.
"America first" cũng được đi, nhưng đến bao giờ thì các chính trị gia và cả chiến lược gia của nước Mỹ mới hết chủ quan, mới hết "ngây thơ vô… số tội" ?!
Cao Tuấn
(25/08/2021)