Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Nhân Lễ Tưởng niệm nhị vị giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung tâm Sinh hoạt cộng đồng tiểu bang Victoria Úc, Ban tổ chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài "Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính", dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.

huy1

Nhị vị giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông

Từ một đảng cách mạng sang một đảng chống cộng...

Ông Huy gia nhập Đảng Đại Việt vào đầu năm 1945 ở tuổi 21, khi ấy Việt Nam đang chịu 2 gọng kềm là thực dân Pháp và quân phiệt Nhật nên đảng Đại Việt là một đảng cách mạng với mục tiêu giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

Theo ông Huy ưu điểm của Đảng Đại Việt là có Chủ nghĩa Dân tộc Sinh tồn làm căn bản triết lý. Chủ nghĩa này đặt quyền lợi dân tộc lên trên, nên Đảng Đại Việt rất quan tâm đến các vấn đề chính trị và xã hội. Nhưng nó cũng chính là nhược điểm vì quá đề cao dân tộc mà hướng đến một chế độ "độc tài sáng suốt", một "chế độ quyền uy", xây dựng một quốc gia, một dân tộc hùng cường, nên không thể phát huy tự do và dân chủ.

Cụ thể là trong đảng Đại Việt theo lãnh tụ chế nghĩa là người lãnh đạo nắm hết mọi quyền hành trong tổ chức, như ở miền Nam, xứ ủy là người quyết định mọi việc. Nhưng người miền Nam vốn tính tình cởi mở và với ảnh hưởng của tự do, dân chủ từ thể chế thuộc địa Pháp, nên ngay từ năm 1947 đã có một cuộc "cách mạng nội bộ" về tư tưởng và phương cách sinh hoạt. Xứ bộ miền Nam từ đó hoạt động theo nguyên tắc đặt quyền lợi dân tộc lên trên, nhưng các đảng viên được sinh hoạt trong vòng tự do, dân chủ và có trật tự.

Theo ông Huy, sau khi đảng Cộng Sản cướp chính quyền, đảng Đại Việt chuyển từ một đảng cách mạng sang một đảng chống cộng vì 2 lý do chính là (1) đảng cộng sản đặt quyền lợi dân tộc đằng sau quyền lợi quốc tế cộng sản và (2) đảng cộng sản là một đảng độc tài mục tiêu là tiêu diệt tất cả những đảng phái khác do đó để "sinh tồn", hay tồn tại đảng Đại Việt cũng như hầu hết các đảng phái không cộng sản khác không có con đường khác hơn là chống lại cộng sản. Từ đó đảng Đại Việt chọn con đường cộng tác với Quốc trưởng Bảo Đại để từng bước giành lại độc lập cho Việt Nam.

Trong thời gian từ 1946 đến 1955 ông Huy được đảng giao trách nhiệm nghiên cứu chính trị, viết tài liệu chính trị và viết các bài báo có liên quan đến chính trị. Ông được xem là một lý thuyết gia và người truyền bá tư tưởng chính trị cho đảng Đại Việt.

Học và dạy về chính trị

Năm 1955, ông Huy được đảng chỉ định đi Pháp vừa để phụ giúp cho ông Nguyễn Tôn Hoàn lãnh đạo Đại Việt, vừa để lánh nạn chính trị, vừa để đi học. Ông học trường Khoa học chính trị (SciencePo) Paris và trường Đại học Luật khoa và khoa học kinh tế Paris. Ông lấy Tiến sĩ chính trị học vào tháng 3 năm 1963.

Ngay sau cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông trở về Sài Gòn vào tháng 11/1963. Ông làm Đổng lý Văn phòng cho Phó thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn cho đến khi ông Hoàn từ chức vào tháng 9/1964.

Từ năm 1965, ông vào làm giáo sư Học viện Quốc gia hành chánh dạy về chính trị và luật hiến pháp, đồng thời làm giảng viên ở nhiều trường đại học và các trường quân sự như trường Cao đẳng quốc phòng, trường Chỉ huy tham mưu cao cấp, trường Đại học Chiến tranh chính trị.

Nói chung, ông là một người có ảnh hưởng rất lớn với cả trí thức dân sự cũng như sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Lập đảng Tân Đại Việt…

Trong năm 1964, đảng Đại Việt lâm vào tình trạng phân hóa nặng nề, ông Hoàn và ông Huy bị khép tội "phản đảng" bị khai trừ khỏi đảng. Ông Huy cho rằng lãnh đạo đảng Đại Việt khi ấy rất độc tài, họ chống lại bất cứ ai không theo họ.

Nhưng không phải vì thế mà ông Huy bỏ cuộc, ông thuyết phục Xứ bộ Nam Việt tách ra và thành lập đảng Tân Đại Việt theo đường lối dân chủ, thành thật hợp tác và đoàn kết với các đoàn thể quốc gia. Theo ông như thế thì mới giữ được miền Nam Việt Nam khỏi mất vào tay cộng sản.

Ông làm Tổng bí thư cho đảng Tân Đại Việt và sau đó ông thành lập Phong trào Quốc gia cấp tiến do ông làm Tổng thư ký.

Lập trường của Phong trào Quốc gia cấp tiến là ủng hộ chính phủ đối phó với cộng sản, nhưng không tham dự chính quyền và đòi hỏi chính quyền phải áp dụng đúng quy tắc dân chủ, chấm dứt nạn tham nhũng, cũng như nạn bè phái đưa những người thiếu tài đức nắm giữ các chức vụ quan trọng trong chính quyền.

Cộng tác với chính quyền

Từ năm 1968, ông tham dự Hòa đàm Paris giúp phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa xây dựng một hệ thống lý luận để có thể tranh cãi với cộng sản và ông đi các nước Châu Âu để trình bày cho đồng hương tình hình chung và lập trường của Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1973, ông cùng phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tham dự hội nghị La Celle Saint Cloud.

Ông cũng là thành viên sáng lập và là đồng Chủ tịch của Liên minh Dân chủ Xã hội, một tổ chức gồm 6 chính đảng đối lập theo xu hướng dân chủ trên chính trường Việt Nam Cộng hòa.

Tị nạn cộng sản…

Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, ra hải ngoại ông vẫn không ngừng hoạt động chính trị như gầy dựng đảng Tân Đại Việt, vào năm 1981 ông thành lập Liên minh Dân chủ Việt Nam do ông làm Chủ tịch Ủy ban chấp hành trung ương, đến năm 1986 ông sáng lập và làm Ủy viên danh dự Ủy ban Quốc tế Yểm trợ Việt Nam Tự do. Ông hoạt động chính trị cho đến ngày ông qua đời ngày 28/7/1990. Như vậy là cả cuộc đời ông đã dành cho những hoạt động chính trị Việt Nam.

Lý do thúc đẩy

Về lý do thúc đẩy Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy suốt đời hoạt động chính trị đã được ông trả lời trong cuộc phỏng vấn do Hoàng Khởi Phong và Lê Đình Điểu thực hiện như sau :

"Nếu sanh ra trong một nước Việt Nam độc lập, tự do và thái bình, thì tôi đã theo hoài bảo lúc nhỏ của tôi là làm thi sĩ Đằng Phương chuyên viết thơ hùng tráng ; có cần phải thêm một việc làm để mưu sinh thì tôi lấy bằng của Đại học Văn Khoa và làm giáo sư văn khoa. Vì sanh trong một nước Việt Nam không độc lập, thiếu tự do và chìm đắm trong sự loạn lạc, nên tôi phải dấn thân vào cuộc tranh đấu chính trị và do đó mà phải học về chính trị, dạy về chính trị, và đứng ra lãnh đạo một đoàn thể chính trị. Dầu cho có được làm lại cuộc đời từ đầu mà hoàn cảnh Việt Nam không khác hoàn cảnh tôi đã trải qua, thì tôi cũng sẽ làm như tôi đã làm".

Chính trị chân chính

Khó có thể kiếm được một nhà hoạt động chính trị có tài có đức, luôn đặt quyền lợi dân tộc Việt lên trên và suốt cuộc đời đã cống hiến cho các hoạt động chính trị Việt Nam như giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.

Nhưng điều đáng nói là ông Huy không vì thế mà tự cho là một nhà hoạt động chính trị chân chính, mà ngược lại ông luôn nhìn vào tình hình Việt Nam và luôn thông cảm cho những nhà hoạt động chính trị khác.

Ông trả lời cuộc phỏng vấn của Giáo sư chính trị học Nguyễn Mạnh Hùng vào ngày 03/02/1987, nghĩa là trước khi ông Huy mất vài năm. Cuộc phỏng vấn được đăng trên "Tạp chí Nghiên cứu Việt-Mỹ" thuộc Trung tâm Nghiên cứu Việt Mỹ, viện Đại học Oregon, vào 24/6/2022.

"…Người Quốc gia Việt Nam mà trong sạch đàng hoàng thì lại không được người ngoại quốc tin cậy. Bởi vì họ cho là cái thứ người trong sạch, đàng hoàng thì cứng đầu, cứng cổ và khi quyền lợi Việt Nam xung đột quyền lợi nước họ thì sẽ không nhân nhượng cho họ. Cho nên họ phải tìm những người dễ sai bảo…".

Sự chân chính của người làm chính trị là luôn thông cảm và đồng cảm với những người đang đồng hành trên con đường chính trị có chung một mục đích và một mục tiêu. Đó chính là bài học mà tôi đã học được từ giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.

Melbourne, Úc Đại Lợi, 13/08/2023

Nguyễn Quang Duy

Xin mời quý vị xem bài phỏng vấn giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đăng trên "Tạp chí nghiên cứu Việt-Mỹ", ngày 24/06/2022

Published in Diễn đàn
mercredi, 14 juillet 2021 23:26

"Thác là thể phách, còn là tinh anh"

Cuối cùng ai cũng phải chết. Đối với đại đa số người ta, ngoài phạm vi gia đình riêng, chết là hết. Nhân vật lịch sử thì khác. Chết mà vẫn còn. Ảnh hưởng của họ sau khi chết có thể quan trọng hơn cả ngay khi còn sống. Ông Nguyễn Ngọc Huy là một người như vậy hay là một trường hợp như vậy.

Nói như thế có quá đáng không ?

nguyenngochuy1

Tưởng niệm nhân vật lịch sử Nguyễn Ngọc Huy 31 năm sau ngày mất (28/07/1990)

Câu trả lời phải tìm trong cuộc đời tranh đấu phi thường của ông Nguyễn Ngọc Huy trong một giai đoạn lịch sử rất phức tạp, khó khăn. Và phải nghĩ cả đến tương lai của nước Việt Nam - sẽ Độc Lập, Dân Chủ, Tự Do, Hòa Bình, Hạnh Phúc hay vẫn tiếp tục chìm đắm, suy đồi trong độc tài, đảng trị để rồi tan biến không dấu vết vào nước Tầu Cộng Sản ?

Làm chính trị đúng đắn cũng là làm cách mạng

Trong bài thơ "Anh Hùng Đất Việt" ông Nguyễn Ngọc Huy sáng tác ngày 27/07/1948 - vào khoảng 3 năm sau khi gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng ở tuổi 21 - được in trong tập thơ Hồn Việt, dưới bút hiệu Đằng Phương có đoạn như sau :

Đây những người sinh nhằm thời quốc biến

Trong gian truân, cố chuyển lại cơ trời

Giữa đêm sâu, mưa máu rộn tơi bời

Vẫn thẳng tiến, không rời đường cách mạng

Ông Nguyễn Ngọc Huy lúc còn trẻ phải rất cảm hứng với "đường cách mạng" mới có thể viết được lời thơ rất truyền cảm vừa bầy tỏ sự khâm phục vừa bao hàm cả quyết tâm của chính mình muốn noi theo những tấm gương của những người hy sinh cho nước. 

Điều khá lạ lùng là về sau này, ít nhất từ khi ông từ Pháp trở về nước năm 1964, lúc 40 tuổi, để tích cực hoạt động chính trị công khai như lập đảng Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến (hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam ở hải ngoại sau biến cố 1975), ông không còn hay nhắc tới "đường cách mạng". 

Từ đó, ông thường nói "làm chính trị" mà không nói "làm cách mạng". Lý tưởng và quyết tâm rõ ràng không suy suyển nhưng ngôn ngữ có sự thay đổi. Vậy, giải thích làm sao ?

nguyenngochuy2

 Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy (giữa), Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ (phải) - Ảnh minh họa 

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam ông Nguyễn Ngọc Huy là một trong 4 vị giáo sư nổi tiếng uyên bác nhất của trường Quốc Gia Hành Chánh, trường Luật, các trường đại học và cao đẳng khác trên toàn quốc về bộ môn chính trị học. (Ba vị kia là các ông Nguyễn Văn Bông, Vương Văn Bắc, Nguyễn Mạnh Hùng). Mà đối với chính trị học hay khoa học chính trị thì cách mạng (revolution) là một chủ trương chính trị hướng đến sự thay đổi xã hội một cách toàn diện thành ra làm cách mạng cũng là làm chính trị rồi. Cố ý tách rời cách mạng khỏi chính trị, mang tính cách chủ quan, thiên về mục đích tuyên truyền, đặc biệt khi có người nhấn mạnh mình làm cách mạng, không làm chính trị.

Thời Pháp thuộc, vì điều kiện hoàn cảnh, các đảng phái cộng sản hay không công sản thường là các đảng kín, kỷ luật sắt, hoạt động bí mật, chủ trương tranh đấu lật đổ chế độ đương hữu, lập chế độ mới nên thường tự xem là làm cách mạng. Riêng người cộng sản lúc nào cũng tự nhận họ làm Cách Mạng (viết hoa), mà cuộc cách mạng cộng sản đồng nghĩa với cực đoan, bạo động trong khi từ ngữ cách mạng chỉ hàm ý một sự thay đổi sâu rộng không nhất thiết phải có bạo động, chém giết tàn bạo.

Một lý do khác : ông Nguyễn Ngọc Huy nhìn thấy những sai lầm căn bản của các cuộc cách mạng cộng sản và người cộng sản đã lạm dụng danh từ quá đáng nên để tránh những nhập nhằng hay ngộ nhận ông đã cố ý không nói nhiều đến việc "làm cách mạng". Nhất là sau khi đã đóng góp ý kiến thiết thực tạo lập bản Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam năm 1967 - đặt khá nhiều hy vọng nó sẽ là nền tảng cho chế độ Dân Chủ Pháp Trị. Ông chủ trương làm chính trị công khai, đúng đắn trong khuôn khổ luật pháp như là một giải pháp cứu đất nước khỏi hiểm hoạ cộng sản và xây dựng một quốc gia dân chủ tự do, trường tồn, hạnh phúc. 

Trước hết, theo ông, người hoạt động chính trị phải hiểu thế nào là chính trị và ảnh hưởng của chính trị đối với con người rồi mới thấy rõ công việc của mình làm.

Dậy về khoa học chính trị (political science), ông Nguyễn Ngọc Huy biết từ ngữ chính trị đã được hiểu theo nhiều ý nghĩa khác nhau nhưng qua những phát biểu và cung cách hành xử trong cả cuộc đời tranh đấu thì có thể thấy ông đã chọn và đã sống một quan điểm về chính trị và về "làm chính trị" ngay từ đầu một cách rất tự nhiên và thành thật với chính mình, không phải đóng tuồng, đóng kịch chi cả. Sự chọn lựa này hoàn toàn phù hợp với cá tính và hoài bảo của chính ông.

Chính trị là làm cho xã hội ngay thẳng, lành mạnh. Chính trị là khoa học hay nghệ thuật về việc điều khiển quốc gia. Người làm chính trị có thể phải khôn ngoan, uyển chuyển nhưng không được lừa lọc, dối trá. Người làm chính trị tất nhiên phải nghĩ tới việc nắm quyền lực nhưng quyền lực là phương tiện không phải là mục đích. Chính trị bao trùm mọi khía cạnh của đời sống con người. Nó tốt thì người được sung sướng, nó xấu thì người phải chịu đau khổ. Các chế độ độc tài, dành độc quyền làm chính trị, đều khuyến khích, cổ võ chủ trương phi chính trị trong giới người không thuộc phe cánh, ngoài tầm kiểm soát của họ. Phi chính trị, thực tế, là một thái độ chính trị. Là chấp nhận cái chính trị của nhà cầm quyền đương hữu, làm theo ý muốn của họ hay ít nhất không chống lại họ…

Tư tưởng của ông Nguyễn Ngọc Huy là một hệ thống hoàn chỉnh. Do sở học và do tự suy nghĩ. Là nhà khoa học chính trị đồng thời là một chính trị gia/chính khách/nhà cách mạng, hầu như ông luôn luôn có câu trả lời đầy đủ cho bất cứ một câu hỏi quan trọng nào liên quan đến các vấn đề cứu quốc và kiến quốc. Hoạt động của ông phản ảnh trung thực tư tưởng của ông. Nói và làm hoàn toàn tương hợp. Không bao giờ nói một đằng, làm một nẻo.

Chẳng hạn là người theo đạo Phật, thấm nhuần Phật pháp nhưng khi làm chính trị - sáng lập và điều khiển đảng Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam - ông luôn giữ một khoảng cách hợp lý, vừa phải với Giáo hội Phật giáo nói riêng và các tổ chức tôn giáo nói chung cho dù ông biết rất rõ đảng chính trị dựa vào tôn giáo dễ thu hút, dễ tuyển mộ, dễ huy động quần chúng, đặc biệt trong trường hợp xã hội Việt Nam. 

Không giống với một số chính trị gia khác, ông phân biệt rõ ràng đạo và đời, thần quyền và thế quyền. Trong cả lý thuyết và thực tế. Tôn giáo và chính trị là hai lãnh vực khác nhau. Lịch sử cho thấy hai thứ trộn lẫn vào nhau có những hậu quả tai hại, hoặc rắc rối không hay. Như trường hợp ông Ngô Đình Diệm và cuộc khủng hoảng với Phật giáo năm 1963. Như suýt có chiến tranh tôn giáo năm 1965, 1966 ở Sài Gòn, ở Huế. Như xẩy ra trên khắp thế giới qua các thời đại cổ, kim.

Ông Nguyễn Ngọc Huy luôn luôn từ chối đi đường tắt nếu nó trái với nguyên tắc, trái với điều ông tin tưởng. 

Có khá nhiều minh chứng khác nữa.

nguyenngochuy05

Ông Nguyễn Ngọc Huy luôn luôn từ chối đi đường tắt nếu nó trái với nguyên tắc, trái với điều ông tin tưởng.

Người cộng sản như các ông Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Tố Hữu, Nguyễn Văn Linh… yêu Đảng (viết hoa) của họ hơn hết. Lịch sử cho thấy họ chấp nhận "thà mất nước còn hơn mất Đảng". 

Ông Nguyễn Ngọc Huy hoàn toàn khác.

Ông cũng thấy trong cuộc tranh đấu vì đất nước cần thiết phải xây dựng được ít nhất một đoàn thể, một đảng chính trị thích ứng - tập hợp được một số đông người, tổ chức chặt chẽ để duy trì được lâu dài, huy động được dễ dàng, hoạt động một cách thống nhất, làm việc một cách hữu hiệu. Muốn thế cần huấn luyện đoàn viên hay đảng viên tin tưởng nơi sự đứng đắn của lập trường mình, có tinh thần xung phong tranh đấu cho lý tưởng, có khả năng thực hiện các công tác được giao phó… Nhưng đảng hay đoàn thể đối với ông chỉ là phương tiện để phục vụ quốc gia, không phải là cứu cánh. Đảng quan trọng, cần thiết nhưng đảng không có đời sống riêng. Không có nước thì không có đảng. Đối với ông, "thà mất nước còn hơn mất đảng" chắc chắn là chuyện phi lý. 

nguyenngochuy4

Đây nén hương lòng kẻ hậu sinh

Từ lúc ông viết bài thơ "Nén Hương Lòng" khi mới chân vào đời hoạt động :

Hỡi những ai kia đã lụy mình

Đã vì non nước chịu hy sinh

Đã vì chủng tộc khai đường sống

Đây nén hương lòng kẻ hậu sinh

cho đến bài viết cuối cùng, hơn 40 năm sau, vài ngày trước mất, với nét chữ yếu ớt, nguệch ngoạc vì hơi đã tàn, lực đã kiệt : 

huy0

huy1

huy2

huy3

không một lúc nào, trong 40 năm ấy, ông không bận rộn, không làm hay không nghĩ đến việc phải làm, cần làm để cứu dân tộc, cứu đất nước. Ông muốn sống thêm vài năm mặc dù cơ thể đau đớn vì bệnh ung thư ngày đêm hành hạ chẳng phải vì còn tha thiết với cuộc đời riêng mà chỉ muốn hoàn tất cái trách nhiệm mà ông đã tự trói buộc mình, đã tự nguyện đảm đương. 

Một người yêu dân tộc, thương giống nòi đến nỗi sao nhãng cả đời sống gia đình, quên cả bản thân, không vụ lợi, không màng danh - "thân còn chẳng kể, kể chi danh !" - không thể là người có tinh thần tư đảng, không thể là người làm chính trị đảng phái chỉ để làm chính trị đảng phái, tranh đoạt quyền lực chỉ để tranh đoạt quyền lực.

Là đảng viên đảng Đại Việt, trong tập thơ Hồn Việt in năm 1950, ông từng làm thơ khóc các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng tuẫn tiết trên đoạn đầu đài trong "Ngày Tang Yên Bái" hay tưởng tượng lời khẳng khái của Nguyễn Thái Học nói với Đoàn Kiểm Điểm trong bài "Lòng Người Đảng Trưởng".

Ông tách khỏi Đại Việt Quốc Dân Đảng để sáng lập Tân Đại Việt vì nhìn thấy nhu cầu phải tranh đấu theo phương cách mới. Ông sáng lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến vì muốn tiến tới một tập hợp chính trị đoàn kết rộng rãi để có sức mạnh trên toàn quốc. Ông sáng lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam để tiếp tục cuộc tranh đấu trong môi trường và điều kiện khác hẳn từ hải ngoại…

Ông vẫn duy trì Tân Đại Việt làm căn bản hay nòng cốt nhưng không bao giờ có dấu hiệu ông xem Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam chỉ là các tổ chức "ngoại vi" như có người nghĩ như vậy. Nhất là từ ngữ hay khái niệm "ngoại vi" làm người ta liên tưởng đến các tổ chức bung xung của đảng cộng sản chỉ lập ra để tuyên truyền hay che mắt thế gian. Như Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Việt Nam (Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết), Mặt Trận Tổ Quốc (Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Thế Duyệt), đảng Dân Chủ Việt Nam (Dương Đức Hiền, Nghiêm Xuân Yêm), đảng Xã Hội Việt Nam (Nguyễn Xiển, Hoàng Minh Giám), v.v… đều là các tổ chức "ngoại vi" hữu danh, vô thực của Đảng Cộng Sản, được hay bị Đảng Cộng Sản giật dây từ đầu chí cuối. 

Ông Nguyễn Ngọc Huy không làm chính trị thủ đoạn "lá mặt, lá trái" như vậy. Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam từng là  các đoàn thể chính trị có thực chất và phẩm chất do ông gây dựng. Bằng sự tận tụy, tận tâm, tận lực. Đó là những tác phẩm tim óc của ông chẳng khác tác phẩm Tân Đại Việt. Đó là những nỗ lực chiến lược đặt căn bản trên sự thành tín giữa những người chung lý tưởng vào các khúc quanh lịch sử của dân tộc.

Như giữa ông và người bạn tâm giao là ông Nguyễn Văn Bông. Ông Bông, kém ông Huy 5 tuổi, không phải đảng viên Tân Đại Việt, cũng không thuộc đảng phái nào nhưng là người trí thức dấn thân, tài đức xuất sắc. Ông cùng ông Huy lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến năm 1969. Dậy về chính trị học với bằng cấp cao nhất nước là tiến sĩ rồi thạc sĩ công pháp (Paris), lần đầu tiên trong cuộc đời, ông Nguyễn Văn Bông bước chân vào chính trường "gió tanh mưa máu" theo đúng nghĩa. Ông Bông làm chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, ông Huy làm Tổng Thư Ký. Phong Trào phát triển nhanh chóng và được sự gia nhập của nhiều cá nhân và tổ chức để sớm trở thành một đoàn thể chính trị có thực lực và quy củ nhất trong Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam. Phong Trào giữ thế đối lập với chính quyền nhưng đối lập xây dựng và ôn hoà. Chuyện đáng chống thì chống. Chuyện đáng ủng hộ thì ủng hộ. Cặp đôi giáo sư Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Ngọc Huy ngày ấy danh tiếng như cồn. Ông Bông bị đặc công cộng sản ám sát bằng mìn, thân thể tan nát và cháy đen, khi chuẩn bị ra làm Thủ tướng cuối năm 1971 theo lời mời bất đắc dĩ của ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu…

nguyenngochuy6

Ông bà Giáo sư Nguyễn Văn Bông và các con – Sài Gòn 1964. Ảnh : VOA/Chưa rõ nguồn.

Không thể nói Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến là ngoại vi của Tân Đại Việt và ông Huy đã "giật dây" ông Bông dù có thể chính ông Huy đã "tuyển mộ" ông Bông bằng tình bằng hữu chân thành ngay từ ngày cùng đèn sách đại học và cùng làm bồi bàn ở Paris. Cũng không thể nói Tân Đại Việt "điều khiển" luôn Việt Nam Quốc Dân Đảng (hệ phái Nguyễn Tường Tam) chỉ vì đoàn thể này cũng là một thành viên của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến… Đoàn kết, liên minh, tập hợp chặt chẽ, rộng rãi để cùng tranh đấu hữu hiệu cho đất nước - một bắt buộc cần thiết, hợp lý và chính đáng - không thể là một chiến thuật giai đoạn nhất thời hay một nước sơn bề ngoài.

Ông Nguyễn Ngọc Huy sống ở nước Mỹ 15 năm (1975-1990) nhưng ông không vào quốc tịch Mỹ. Ông giải thích rất nhẹ nhàng "người khác làm thế thì được nhưng tôi thì không". Tưởng như là lời lẽ của người kiêu ngạo mà không phải. Chính là lời lẽ của người âm thầm tự nhận lấy cái gánh nặng lãnh đạo cuộc tranh đấu cứu vớt đất nước. Ông đã nguyện hy sinh hết cuộc đời, ông có kinh nghiệm, ông có kiến thức, ông đã suy nghĩ về con đường phải đi, ông có viễn kiến… Nếu ông không làm thì ai làm ?! Nếu ông vào quốc tịch Mỹ, thề trung thành với nước Mỹ, trở thành công dân nước Mỹ thì còn nhân danh cái gì để lãnh đạo cuộc tranh đấu cho nước Việt Nam ?! Chắc ông phải nghĩ đến ông tướng De Gaulle lúc lưu vong ở nước Anh trong thế chiến thứ hai…

Có thực học, thực tài, thực tâm nên ở ông không bao giờ có sự phù phiếm hay cầu kỳ. Mọi sự đều như ăn khớp với nhau một cách giản dị, hợp lý và mang thực chất. Người ta có thể gọi giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Huy nhưng ông không tự xưng giáo sư hay tiến sĩ bao giờ. Ông không cường điệu, không tự quan trọng hóa mà cũng không cố ra vẻ khiêm tốn. Nguyễn Ngọc Huy là Nguyễn Ngọc Huy. Lúc nào cũng vậy. Có lần ông cười vui : "con gái tôi biểu : Ba nói tiếng Pháp như người Anh và Ba nói tiếng Anh như người Pháp" (Con gái của ông, tiến sĩ luật khoa Nguyễn Ngọc Thúy Tần, trưởng thành trong cả hai nền giáo dục Pháp và Mỹ). Ông còn cho biết làm phụ khảo ở đại học Havard cho ông cơ hội nghiên cứu Luật Nhà Lê, vừa có lương để sống, vừa có bảo hiểm sức khỏe, vừa tương đối tự do nên có thể đi đây đi đó để phát triển đoàn thể, tiếp xúc với chính giới các nước vận động thành lập Ủy ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do. Công việc nghiên cứu trong môi trường đại học thích hợp và thuận tiện với hoàn cảnh của ông. Ông nói tự nhiên và thành thật.

Với ông "văn là người", "người là văn". Cùng lúc vừa bác học, vừa bình dân. Vấn đề phức tạp, cao xa, khó khăn đến mấy, qua ông, cũng trở nên đơn giản, gần gũi, dễ hiểu. Khả năng hiếm có ấy tất nhiên là do thông minh bẩm sinh, quá trình tôi luyện nhưng cũng do tấm lòng đôn hậu, thành thực lúc nào cũng nghĩ đến quốc gia dân tộc. Ông Lý Đông A chẳng nói "nuôi tâm thì làm thiên tài, nuôi trí thì làm nhân tài, nuôi thân thì làm nô tài" đấy sao ? Nếu không phải là thiên tài thì ông đã không phải là người duy nhất tìm ra tất cả "các ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung" một cách có hệ thống, đâu ra đấy, hợp tình, hợp lý không bác bỏ được. Xin nhắc lại : người duy nhất trong mấy trăm triệu người Trung Hoa và người Việt Nam đã đọc và nghiền ngẫm các tác phẩm của nhà đại văn hào này ! Một khả năng phân tích và tổng hợp đã phát huy đến một độ cao hiếm có !

Thành công hay thất bại ?

Như đã nói đối tượng của chính trị là quyền lực, ông Nguyễn Ngọc Huy cả đời làm chính trị, làm từ A tới Z - học hỏi, suy nghĩ, viết lý thuyết, viết chính sách, viết tài liệu huấn luyện, viết sách, viết báo, tìm người cộng tác, tổ chức và phát triển đoàn thể, đối nội, đối ngoại… chưa kể phải soạn bài, chấm bài, đến lớp dậy học làm công việc chuyên môn của một giáo sư đại học để sống như mọi người. Một đời bận rộn, gian nan không kể xiết vậy mà chức vị to nhất, cao nhất chỉ là một lần làm Đổng Lý Văn Phòng của Phó Thủ tướng đặc trách Bình Định & Phát Triển trong vài tháng của năm 1964. Ông Nguyễn Tôn Hoàn làm phó thủ tướng lúc bấy giờ.

Rồi để giúp xây dựng một hệ thống lý luận đối phó với phe cộng sản trong cuộc hòa đàm Paris nổi tiếng thế giới - vừa đánh vừa đàm - ông đã chấp nhận làm nhân viên trong phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa cùng vài người khác như ông Trần Thanh Hiệp, ông Vương Văn Bắc, bà Nguyễn Thị Vui… trong những năm 1968-1970. Lãnh đạo phái đoàn lúc đầu là Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, nổi tiếng về khá nhiều mặt, kể cả mặt hay nói "bốc đồng" và "ruột để ngoài da". Riêng ông Huy, từ Đổng Lý Văn Phòng đến làm Nhân Viên phái đoàn thương thuyết, về chức tước, thì đúng là "phú quý giật lùi". Đã thế còn bị nói xấu là "đối lập lom khom" của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu !

Hiển nhiên, về phương diện chức vụ và quyền hành ông Nguyễn Ngọc Huy không thể so sánh được với các nhân vật lịch sử của đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa Việt Nam - cho dù sự nghiệp hay thành tích của họ luôn là đối tượng tranh cãi - như các ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Bá Cẩn… Ông Nguyễn Ngọc Huy cũng không so sánh được với các ông Quốc trưởng, Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Chủ tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia, Tổng Trưởng, Bộ trưởng, các Thượng nghị sĩ : Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Xuân Chữ, Phan Quang Đán, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Nguyễn Lưu Viên, Dương Kích Nhưỡng, Nguyễn Bích Huệ, Nguyễn Tiến Hưng, Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Quốc Thúc, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức, Thái Lăng Nghiêm… là những chính trị gia, chính khách đứng đắn, có tiếng tăm tốt… cùng với ít nhiều huyền thoại. 

Một số nhân vật, đúng ra, chỉ là những nhân sĩ độc lập, chuyên gia không hoạt động chính trị hay cách mạng bao giờ vậy mà đầu hôm sớm mai trở thành bộ trưởng, tổng trưởng một cách dễ dàng chẳng hạn như các vị giáo sư Vương Văn Bắc, Trần Văn Kiện, Nguyễn Duy Xuân, Nguyễn Văn Tương… của trường Quốc Gia Hành Chánh. Tuy nhiên một sự thực không ai phủ nhận là các vị này đã dành cho người bạn đồng nghiệp đi dậy học bằng xe đạp hay xe Honda "ôm" một sự quý mến và kính trọng đặc biệt. Không phải vì người bạn là bạn đồng chí hướng của ông viện trưởng trường Quốc Gia Hành Chánh Nguyễn Văn Bông mà vì họ đã nhìn thấy hình ảnh của một nhà lãnh đạo quốc gia rất xứng đáng trong tương lai, dù có danh hiệu, chức tước hay không. Cũng vì thế mà không ai cảm thấy cần thiết phải ái ngại cho tình cảnh "phú quý giật lùi" hay "đường công danh" quá chậm chạp, vất vả của ông Nguyễn Ngọc Huy. 

Cũng không phải chỉ các giáo sư và sinh viên trường Quốc Gia Hành Chánh mới thấy ông thầy giáo Huy "không giống ai". Nhiều người đã nhìn thấy điều này. Những người để ý tới thời cuộc. Chính giới. Báo chí. Trí thức. Sinh viên các trường đại học. Người dân thường…

Và dĩ nhiên luôn cả tình báo cộng sản, tình báo Mỹ và cả ông tổng thống đương quyền Nguyễn Văn Thiệu. Mỗi nơi này đều có những tính toán riêng với trường hợp ông Nguyễn Ngọc Huy. 

Dù là tính đến hại hay tính đến lợi cho chính họ, mỗi bên đều biết rằng ông Huy là một người làm chính trị vì lý tưởng, có tư tưởng phong phú, chặt chẽ, kiên định, làm việc có nguyên tắc, có sách lược, có chiến lược, có tổ chức. Họ đã nhìn thấy một nhân vật chính trị với bề ngoài giản dị bình thường nhưng bề trong là một bản lĩnh xuất sắc nhất hay xuất sắc vào bậc nhất của thời đại. Họ đã nhìn thấy một con người rất thận trọng nhưng một khi quyền lực vào tay, sẽ có đủ khả năng xoay chuyển bàn cờ chính trị Việt Nam theo một hướng khác hẳn.

Những bí mật lịch sử được bạch hóa gần đây cho thấy từ năm 1968, người Mỹ đã ý thức rằng sách lược chiến tranh "tốc chiến, tốc thắng" của họ không có kết quả nếu không nói họ đã bị sa lầy không rút chân ra được. Sách lược của Mỹ đã bị vô hiệu hóa bởi sách lược "chiến tranh nhân dân" đánh tiêu hao, đánh lâu dài của Mao Trạch Đông. Hỏa lực và kỹ thuật Mỹ không cản được quân cộng sản xâm nhập qua đường biên giới Việt-Miên-Lào quá dài, quanh co cả ngàn cây số, không cản được Đảng cộng Tầu tích cực yểm trợ và thúc đẩy đảng cộng sản Việt "đánh đến người Việt Nam cuối cùng" và sẵn sàng đánh thêm 20 năm hay 50 năm, không cản được lãnh đạo chóp bu ở Hà Nội tiến hành cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam bằng tuyên truyền, khủng bố, vừa đánh vừa đàm nhằm gây rối loạn ngay trong nước Mỹ…

Giết ông Diệm, ông Nhu là một sai lầm. Đổ bộ hơn nửa triệu quân mà không dám Bắc Tiến vì sợ tái diễn một cuộc chiến Triều Tiên thứ hai với một biển quân Tầu trên đất Việt là một sai lầm khác. Người Mỹ không còn kiêu ngạo nữa : vấn đề Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết. Chỉ có một chính quyền miền Nam Việt Nam thật hữu hiệu, thật lương hảo, đích thực của dân, do dân, vì dân và được dân ủng hộ tích cực mới có thể đánh bại mưu đồ và nỗ lực nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam của phe cộng sản. Và giúp cho người Mỹ rút quân trong danh dự.

Người Mỹ đi tìm kiếm một liên hệ tốt với nhóm của ông Bông-ông Huy vì lý do này. Nhân chứng và tác nhân khả tín là ông Stephen B. Young của tòa đại sứ Mỹ lúc bấy giờ và ông đại sứ đương nhiệm Ellsworth Bunker. Người Mỹ vận động hay làm áp lực với ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mời ông Bông làm thủ tướng thay ông Trần Thiện Khiêm để bắt đầu tiến hành cải cách theo chương trình và kế sách của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến mà kiến trúc sư chính là ông Nguyễn Ngọc Huy : lập nội các đoàn kết quốc gia, làm dân chủ pháp trị đúng nghĩa, dân sự hóa và trong sạch hóa chính quyền ở mọi cấp, thực hiện công bằng xã hội, phát triển kinh tế, cải tiến đời sống nông dân bằng các chính sách ruộng đất thích hợp, đoàn ngũ hóa nhân dân để cô lập cộng sản…

Ông Thiệu chống cộng, điều này ai cũng biết. Có lẽ ông cũng yêu nước - một cách có mức độ như đa số mọi người - nhưng ông không yêu nước bằng yêu quyền lợi của ông, bằng yêu cái chức Tổng thống và quyền lực đi kèm với nó. Ông Bông làm Thủ tướng có thể có hại mà có thể cũng có lợi cho ông trong đoản kỳ và trong trường kỳ. Ông chấp nhận ông Bông vì có thể ông tự tin rằng, ảo tưởng hay không, ông có thể "đối phó" được với "ông Bông thủ tướng" một khi ông vẫn là tổng thống và có quân đội trong tay. Và "đối phó" với ông Bông thì dễ hơn "đối phó" với ông Huy. Có thể ông tính toán : ông Bông ít tuổi hơn ông Huy ; ông Bông, một nhà khoa bảng lỗi lạc mới bước vào chính trường không lâu - tương đối ít kinh nghiệm hoạt động chính trị so với ông Huy là người đã xông pha mấy chục năm, từ một đảng viên thường trở thành lãnh tụ, lý thuyết gia, chiến lược gia, nhà tổ chức. Có thể ông Thiệu lo ngại sẽ bị "ông Huy thủ tướng" làm cho lu mờ, mất dần quyền lực đồng thời ông cũng không an tâm lắm với những người thân tín chung quanh ông Huy nhất là nhóm sĩ quan trong quân đội thuộc thành phần trung cấp và cao cấp khá đông đảo có "gốc" Đại Việt hay Tân Đại Việt mà có người đã từng tham gia các cuộc binh biến trong những năm trước. Chẳng hạn như các ông đại tá "không bao giờ được cho lên tướng" Huỳnh Văn Tồn, Nhan Minh Trang, Dương Hiếu Nghĩa… từng chỉ huy sư đoàn hay các đơn vị lớn… Có thể ông lo ngại ảnh hưởng của ông Huy, đã đáng kể với lớp người xuất thân từ trường Quốc Gia Hành Chánh đang điều khiển nền hành chánh ở khắp các tỉnh quận trên toàn quốc, sẽ còn lan tỏa nhanh chóng sang cả tập thể quân đội vốn là căn bản phát xuất sự nghiệp chính trị của ông.

Diễn biến lịch sử cho thấy : ông Thiệu đã mời ông Bông làm thủ tướng. Tin bị tiết lộ. Câu hỏi "ai tiết lộ ?" chưa được trả lời. Phía cộng sản quyết định ám sát ông Bông ngay tức khắc trước khi sự bảo vệ được chặt chẽ nâng cao dành cho người giữ chức thủ tướng chính thức. Về phía cộng sản, vụ mưu sát có tầm quan trọng chiến lược được chuẩn bị từ cấp cao nhất, cẩn thận, tỉ mỉ và đã thành công. Đối với họ, Nguyễn Văn Bông phải chết trước khi quá trễ cũng như các lãnh tụ xuất sắc nhất, tài đức nhất của phe quốc gia phải chết trước khi quá trễ : Lý Đông A, Trương Tử Anh, Huỳnh Phú Sổ…

Giết các đại kình địch như thế - thể hiện một thứ chính trị bá đạo, độc hiểm và đê hèn nên đảng cộng sản đã giữ im lặng rất lâu chung quanh những vụ mưu sát này. Họ không thể rêu rao : "phản động đã đền tội" như thường lệ vì sẽ ngắc ngứ trước công luận : "phản động" chỗ nào ? "Tội" gì mà phải "đền" ?

Họ giết vì họ sợ. Họ giết ông Bông để chặn đường ông Huy. Chặn một thế lực chính trị đầy triển vọng của người quốc gia Việt Nam. Để phá tan một đường lối mới, dập tắt một hy vọng của chính quyền Mỹ. Quả thật, chính quyền Mỹ, người Mỹ lại tính sai và thất bại nữa vì đã không bảo vệ được người mà họ đặt cái hy vọng ấy.

Mặt khác, không ai biết rõ cảm giác thực của ông Thiệu khi nghe tin ông Bông bị ám sát. Ông có hối tiếc đã không ra lệnh bảo vệ an ninh đầy đủ cho vị thủ tướng tương lai của ông không hay ông chỉ cảm thấy nhẹ người ? 

Và những câu hỏi khác nữa, chẳng hạn :

Ông Bông không còn, tại sao ông Thiệu không mời ông Huy thành lập chính phủ thay thế mà chỉ nghĩ đến việc duy trì ông Trần Thiện Khiêm đến giờ chót hoặc thay ông Khiêm bằng ông Nguyễn Bá Cẩn khi tình thế đã suy đồi đến mức không thể cứu vãn ? Tình thế biến chuyển quá nhanh, "đồng minh tháo chạy quá sớm" hay ông cố tình trì hoãn việc hợp tác thành thực với ông Nguyễn Ngọc Huy để cứu Miền Nam Việt Nam chỉ vì tính toán quyền lợi riêng quá kỹ ? Ông cũng "ngán" ông Nguyễn Ngọc Huy như người cộng sản "ngán" ông Nguyễn Ngọc Huy chăng ? Ông có muốn bào chữa rằng ông không mời ông Huy làm thủ tướng chỉ vì ông lo lắng ông Huy sẽ bị cộng sản giết như họ đã giết ông Nguyễn Văn Bông ? Ông có muốn kể công đã mời ông Huy tham gia phái đoàn hòa đàm Paris nổi tiếng thế giới năm 1968-1970 đối diện với truyền thông quốc tế, đối diện cả với Henry Kissinger, Lê Đức Thọ đã khiến Cộng Sản không dám giết "sứ giả" Nguyễn Ngọc Huy khi 4 bên đang thương thuyết để… vãn hồi hòa bình ?

Các nghi vấn đều có thể nêu ra, mọi sự giải thích chỉ là suy đoán. Những câu trả lời chính xác nhất vẫn thuộc về ông Nguyễn Văn Thiệu nếu ông Thiệu thành thật với chính mình. Đáng tiếc, ông Thiệu đã trở thành người thiên cổ !

Ông Nguyễn Ngọc Huy không cứu được Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Ngày ông qua đời 28/07/1990 cả nước Việt Nam vẫn dưới ách độc tài đảng trị cộng sản. 31 năm sau, 2021, chưa thay đổi, vẫn còn độc tài đảng trị cộng sản trên toàn cõi. Tương lai đất nước bấp bênh, đen tối trước một nước Tầu cộng sản hùng mạnh và hung hãn. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã không cứu được, chưa cứu được nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam như lòng ông mong muốn.

Người ta thường nói thành công cần 3 yếu tố, thiếu một cũng không xong : tài năng, cố gắng và may mắn. Ông Huy thực là người có tài. Ông đã cố gắng, chính xác nghĩa đen không phải nói văn chương, cho đến hơi thở cuối cùng. Ông cầu nguyện xin được sống thêm vài năm có lẽ cùng tấm lòng với Gia Cát Lượng khi làm lễ dâng sao trên Ngũ Trượng Nguyên hơn ngàn năm trước :

Lúc hết hơi mới biết đến mạng Trời

Và nhắm mắt mới đành thôi hoạt động

(Đằng Phương)

Ông Nguyễn Ngọc Huy quả thực đã không may mắn. 

Đành phải nói là vận nước.

NẾU tháng 11/1971 đặc công cộng sản không giết được ông Nguyễn Văn Bông… NẾU ông Nguyễn Văn Thiệu không quá tham quyền cố vị... NẾU ông Nguyễn Ngọc Huy không bị ung thư kéo dài và chết ở tuổi 66, sớm ít nhất là 10 năm so với tuổi thọ của người trung bình... NẾU "quần chúng đối với thiên tài KHÔNG PHẢI là cái đồng hồ đi trễ"… NẾU có nhiều người yêu nước tuyệt đối như ông Nguyễn Ngọc Huy v.v… THÌ mọi sự có thể khác, rất khác. Chẳng hạn như Việt Nam có thể đã là một con rồng Châu Á thay vì là con rắn, con trăn như trong chế độ chính trị tệ hại hiện hành.

So sánh người làm chính trị - cá nhân với cá nhân - Nguyễn Ngọc Huy của Việt Nam có kém gì Tưởng Kinh Quốc của Đài Loan, Phác Chính Hi của Đại Hàn hay Lý Quang Diệu của Singapore - về cả ý chí, lý tưởng, kiến thức, tài năng, đức độ, lòng yêu nước ? Vậy có nên đem thành bại mà luận anh hùng ?

Còn là tinh anh

Sự thất bại của ông Nguyễn Ngọc Huy là hoàn toàn và có tính cách chung cuộc nếu tất cả người Việt Nam đã cam tâm vĩnh viễn làm "cái đồng hồ đi trễ" - coi cái chế độ độc tài cộng sản tàn nhẫn, thối nát và cả triển vọng mất giống nòi là một thứ định mệnh vì "cái số của nước mình nó thế !" thì không còn gì để nói, để bàn. 

Trong trường hợp ngược lại, chết chưa phải hết, "thác là thể phách còn là tinh anh". Ông Nguyễn Ngọc Huy đã trở thành người của lịch sử, người của chung dân tộc Việt Nam, không còn giới hạn là người của gia đình hay của đảng - Đại Việt, Tân Đại Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến hay Liên Minh Dân Chủ Việt Nam ? Cuộc đời của ông là một đại tác phẩm. Các tác phẩm khác của ông, về văn hóa, luật pháp, chính trị cũng là những đại tác phẩm. Ông không giữ bản quyền. Không ai giữ bản quyền. Tất cả là một di sản hoàn toàn lành mạnh, vô cùng phong phú, hết sức hữu ích mà ông Nguyễn Ngọc Huy để lại cho lịch sử, cho dân tộc, cho thế hệ trẻ thanh niên trong và ngoài nước nhất là cho những ai còn trăn trở về tương lai của tổ quốc thân yêu.

Ông Nguyễn Ngọc Huy đã ra đi nhưng để lại một con đường sáng. Rất sáng. Ông Nguyễn Ngọc Huy đã chết nhưng sẽ sống mãi trong lòng người Việt Nam.

Cao Tuấn

(14/07/2021)

-----------------

Đọc thêm :

Cao Tuấn, "Về người đi tìm ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung", Thông Luận, 06/12/2018.

Published in Quan điểm

Về một người Việt Nam đi tìm ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

Người Việt Nam nói ở đây là ông Nguyễn Ngọc Huy, tác giả quyển sách "Các ẩn số chánh trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung" xuất hiện ở hải ngoại vào khoảng 1985-1986, nhưng tác phẩm này không được biết đến nhiều như các tác phẩm "chính thống" khác của ông. Tuy vậy, theo thiển ý, đó là một tác phẩm đứng đắn, độc đáo, đáng đọc và đáng suy nghĩ.

Nếu ông Huy chứng minh nhà văn Kim Dung, người Trung Hoa, có những hậu ý chính trị khi viết các bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng thì có thể chính ông Huy, một nhà chính trị Việt Nam cũng có những thông điệp chính trị riêng khi bỏ thì giờ viết sách về Kim Dung.

Nhưng trước hết ông Nguyễn Ngọc Huy là người thế nào ?

anso1

Luật sư Vương Văn Bắc (trái), Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy (giữa) và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ trong một buổi hội thảo tại Sài Gòn (1965-1969)

Văn là người

Ông Nguyễn Ngọc Huy (1924-1990) được biết đến đầu tiên là một người làm thơ. Ông làm thơ rất sớm, hầu hết các bài thơ đều được viết vào tuổi sấp sỉ 20.

Thơ của ông, với bút hiệu Đằng Phương, nhất quán có một nội dung đặc biệt :

Tôi chẳng phải là một nhà thi sĩ

Lấy văn thơ làm Lẽ Sống trên đời

Đem ngọc Châu trau chuốt mãi lên lời

Để trang điểm nàng Ly Tao diễm lệ

...

Tôi chỉ là một người dân đất Việt

Cảm nỗi buồn của kẻ mất quê hương

Nỗi nhục nhằn nỗi khổ cực đau thương

Của nòi giống kẹt trong cùm lệ thuộc

...

Tôi đánh bạo lấy vần thơ bỡ ngỡ

Để diễn trình quan niệm đấu tranh chung

Để phô bầy những nguyện ước chờ mong

Những triển vọng về tương lai giống Việt

...

Tôi mượn thơ để gây lòng phấn khởi

Cho chính mình trong những lúc gian lao

Trong những khi thất bại, những khi nào

Chân yếu đuối muốn rời đường chiến đấu

(Thay lời tựa, tập thơ Hồn Việt xuất bản lần đầu vào năm 1950)

Thơ Đằng Phương nên được xếp vào loại "Anh hùng ca" - nói về dân tộc, lịch sử, lòng yêu nước, yêu quê hương, ngợi ca những người tranh đấu vì nước quên thân :

...

Hỡi những ai kia đã lụy mình

Đã vì non nước chịu hy sinh

Đã vì chủng tộc khai đường sống :

Đây nén hương lòng kẻ hậu sinh !

(Nén hương lòng)

Diễn tả cảnh hy sinh bi tráng của họ như trường hợp Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng tuẫn tiết trên đoạn đầu đài :

...

Sau cái nhìn chào non nước bi ai

Họ thản nhiên, lần lượt bước lên đài

Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng :

Việt Nam Muôn Năm ! Một đầu rơi rụng

Việt Nam Muôn Năm ! Người kế tiến lên

Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên

Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc.

(Ngày tang Yên Báy)

Ý nghĩ của nhà thơ trong sáng, giản dị :

...

Trên đường lối đấu tranh cho lẽ sống, 

Bóng anh hùng nòi giống nếu không quên

Thì giang sơn vạn cổ vẫn lâu bền

Và Lịch Sử vẫn luôn bừng nhuệ khí

(Anh hùng Đất Việt)

Nếu bài hát "Tình Ca" của Phạm Duy :

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi !

Mẹ hiền ru những câu xa vời... Ạ ạ ơi...

Tiếng ru muôn đời... Tiếng nước tôi...

Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui...

Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi !...

đã khiến người Việt Nam suốt mấy thế hệ không nguôi thương nhớ quê hương thì bài thơ "Anh hùng vô danh" của Đằng Phương cũng có ảnh hưởng không kém kể từ thập niên 1950 cho đến ngày nay. Lời tâm can vang vọng rất tự nhiên :

...
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động

Dưới gót giầy của những kẻ xâm lăng

Đã xông vào khói lửa quyết liều thân

Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc

Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc

Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan, 

Người thất cơ đành thịt nát, xương tan

Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển.

Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm

Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa

Họ buông gươm trở lại chốn quê nhà

Để sống lại cuộc đời trong bóng tối

Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi

Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình

Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh

Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch

Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách

Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên

Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên

Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật

Nhưng máu họ đã len vào mạch đất

Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông

Và anh hồn chung với tấm tinh trung

Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.

Sau tuổi hoa niên, ông Nguyễn Ngọc Huy không còn làm thơ nữa hoặc làm rất ít, nhưng cuộc đời còn lại cho đến khi chết ông sống đúng như thơ, từ suy nghĩ đến hành động, luôn hướng về mục đích phụng sự Tổ Quốc. 

Có lẽ không cần nhắc quá nhiều đến sự kiện ông Huy là người trí thức đậu cử nhân luật khoa và tiến sĩ chính trị học ở Paris trong trong thời gian sống lưu vong ở Pháp và trở về miền Nam Việt Nam làm giáo sư dạy về Luật Hiến pháp, Học thuyết Chính trị, Bang giao Quốc tế tại các trường đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ trong khoảng thời gian 1964-1975. Trong những năm tháng chiến tranh nhiễu nhương ấy, ông Huy nổi tiếng là một nhà giáo dậy giỏi, một lý thuyết gia uyên bác và một lãnh tụ chính trị quốc gia tận tụy nhưng cẩn thận, ôn hòa. Trong suốt cuộc đời ông Huy cũng viết nhiều sách báo giá trị bằng cả 4 ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh, Hán.

Tuy được xem là một lãnh tụ chính trị quan trọng của người Việt quốc gia ở miền Nam Việt Nam nhưng ông Nguyễn Ngọc Huy chưa bao giờ ở vị trí quyền lực để thực thi lý tưởng xây dựng một quốc gia dân chủ pháp trị lương hảo, tạo nội lực đủ sức chống lại chủ nghĩa cộng sản độc tài toàn trị. 

Lần duy nhất ông đến gần guồng máy quyền lực là khi người đồng chí "như hình với bóng" của ông là ông Nguyễn Văn Bông, giáo sư đại học, thạc sĩ công pháp, chủ tịch Phong trào Quốc gia Cấp tiến mà ông làm Tổng thư ký, chuẩn bị ra làm Thủ tướng vào năm 1971 theo lời mời bất đắc dĩ của ông tổng thống "quân phiệt" Nguyễn Văn Thiệu. 

Tuy nhiên Đảng cộng sản Việt Nam, trông thấy trước được mối nguy hiểm, đã mau chóng ra lệnh cho đặc công ở Sài Gòn ám sát ông Nguyễn Văn Bông như họ đã từng ám sát những địch thủ tài năng, đức độ và quan trọng khác của người Việt quốc gia là các ông Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng, Huỳnh Phú Sổ... trong cuộc phân tranh Quốc-Cộng kéo dài 30 năm (1945-1975).

Người ta có thể không đồng ý về những quan điểm chính trị của ông Nguyễn Ngọc Huy nhưng không ai có thể phủ nhận được trường hợp của ông Huy : "văn tức là người". Bởi vì không ai có thể giải thích khác hơn được về một người "lúc hết hơi mới biết đến mạng trời và nhắm mắt mới đành thôi hoạt động" và khi chết chỉ sở hữu vài bộ quần áo cũ và một một ít sách. 

Và cũng không có ai có dịp tiếp xúc với ông Huy mà không thấy ông là người chừng mực, tự chủ, quyết tâm. Bình dị trong lời nói nhưng phong phú trong ý tưởng. Không bao giờ làm bộ tịch, không bao giờ "đao to, búa lớn". Một người "dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch". Một người "thong dong tựu nghĩa".

Có nhiều người viết về Kim Dung nhưng viết hẳn một quyển sách công phu về riêng một khía cạnh - "ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung" - thì ông Huy là người duy nhất.

Một câu hỏi đến tự nhiên : Tại sao một người lỗi lạc lại bận rộn như ông Huy lại "mất công" với với loại truyện giải trí bình dân như thế ?

Câu trả lời chỉ tìm thấy sau khi đã đọc xong quyển "Những ẩn số chánh trị..." dầy 290 trang. Và câu trả lời có thể sẽ là như sau :

Mặc dầu truyện võ hiệp nói chung bị xem là loại văn chương bình dân nhưng riêng với Kim Dung, ông Huy nhìn thấy hình ảnh của một đại văn hào có một sở học uyên bác và óc tưởng tượng dồi dào. Những bộ truyện trường thiên của Kim Dung đều có thể so sánh được với các bộ sách bất hủ của dân tộc Trung Hoa đã làm say mê cả người bình dân lẫn người trí thức, người Việt Nam lẫn người Trung Hoa, với những ý nghĩa triết lý hoặc các bài học chính trị, đạo đức tiềm ẩn như Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc, Tây Du Ký... Nếu suy nghĩ khi đọc truyện Kim Dung người ta có thể học được nhiều điều hữu ích.

Ông Huy nghiên cứu, quen thuộc với lịch sử, tư tưởng và văn hóa Trung Hoa. Luận án tiến sĩ của ông ở đại học Paris viết bằng tiếng Pháp đã được chính ông dịch sang tiếng Việt có đề tài "Người ưu tú trong tư tưởng chánh trị Trung Quốc cổ thời" (Le thème de l'élite dans la pensée politique de la Chine antique), 1963. Tác phẩm của Kim Dung, vì thế, đã hấp dẫn ông Huy một cách tự nhiên.

Ngoài sự kính nể của người trí thức đối với người trí thức, nhà tư tưởng đối với nhà tư tưởng, ông Huy viết về truyện Kim Dung vì ông cùng chia sẻ với nhà văn một số giá trị căn bản chung, vì thấy ở Kim Dung một tâm hồn đồng điệu bất kể khoảng cách về không gian, thời gian hay chủng tộc. (Lẽ dĩ nhiên nói như thế không có nghĩa ông Huy đồng ý hoàn toàn với những điều ông tìm thấy về tư tưởng của Kim Dung).

Tác phẩm của Kim Dung phong phú, đồ sộ và có thể nghiên cứu, nhận định dưới nhiều khía cạnh. Ông Huy chỉ giới hạn, như đã nói, vào một khía cạnh mà ông quan tâm hơn cả đó là "các ẩn số chính trị" trong tác phẩm. Ông đi tìm những ẩn số này bằng khả năng phân tích và tổng hợp của một nhà khoa học chính trị, một người quen viết nghị luận, cũng như bằng tâm tư của một chính trị gia Việt Nam đang "trong gian truân cố chuyển lại cơ trời", luôn luôn suy nghĩ về những vấn đề của đất nước mình.

Những "bí mật" của Kim Dung đã bị hay được "bật mí" thế nào ?

Để tránh những hệ lụy rắc rối không cần thiết, các tiểu thuyết gia gần như luôn luôn xác định "tác giả không có ý ám chỉ một nhân vật hay một sự việc có thật nào trong đời sống cho nên mọi trùng hợp nếu có chỉ là ngẫu nhiên". Kim Dung cũng không đi ra ngoài thông lệ ấy khi tuyên bố :

"Nội dung tiểu thuyết không tránh khỏi sự biểu lộ tư tưởng của tác giả nhưng không phải tác giả cố ý đem nhân vật, sự tích cùng bối cảnh đến một lãnh vực tư tưởng hay một chính sách (có thật) nào đó... Tiểu thuyết võ hiệp không liên quan gì đến tư tưởng chánh trị, ý thức tôn giáo, khoa học trúng hay trật, đạo đức phải hay trái...".

Lập trường "phi chính trị" nhưng "nói để mà nói" của Kim Dung đã không ngăn cản ông Huy đi tìm dụng ý chính trị của tác giả rải rác trong các tác phẩm và ông đã tìm ra, đã nhìn thấy một số dữ kiện có ý nghĩa chính trị. Các dữ kiện này vừa đủ số lượng, vừa ăn khớp vào nhau để có thể đưa ra nhũng thông điệp về lập trường của Kim Dung.

Trong phần "Lời mở đầu" của quyển "Các ẩn số chánh trị...", ông Huy nêu một vài chi tiết quan trọng :

Lúc Đảng cộng sản Trung Hoa tranh đoạt được quyền lãnh đạo Trung Quốc, Kim Dung vẫn còn ở lại lục địa, sau đó mới dời ra sống ở Hongkong và làm biên tập viên cho hai tờ báo thiên tả là Đại Công Báo và Trường Thành Họa Báo cho đến năm 1957. Sự kiện này cộng với các ẩn số chính trị tìm thấy trong một số các bộ truyện của Kim Dung khiến ông Huy suy đoán Kim Dung vốn là người trí thức khuynh tả, có thiện cảm với các đoàn thể theo chủ nghĩa xã hội và các quốc gia theo chế độ cộng sản và không có thiện cảm với các đoàn thể thuộc phái hữu và các quốc gia Tây Phương.

Qua thời gian, cái nhìn của Kim Dung dần dần thay đổi khi nhận chân người cộng sản áp dụng một chính sách chuyên chế toàn diện, tàn ác và phi nhân nên Kim Dung quay ra kết án họ. 

Kim Dung cũng điều chỉnh lại cái nhìn đối với các đoàn thể có lập trường chống chọi nhau, cả Tả lẫn Hữu. Theo Kim Dung, không bên nào hoàn toàn phải, toàn người tốt. Không bên nào hoàn toàn quấy, toàn người xấu. Bên nào cũng có người xấu, người tốt và thường vừa có phần phải vừa có phần quấy. Điểu đáng nói là chuyện mức độ - tốt nhiều hơn hay xấu nhiều hơn, phải nhiều hơn hay quấy nhiều hơn. Chính, Tà không đơn giản là chuyện Trắng, Đen.

Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, từ khi xuất hiện từ đầu thập niên 1960, trong khi làm mưa làm gió ở Hongkong, Singapore, Nam Việt Nam, các nước Đông Nam Á trong giới Hoa Kiều hải ngoại thì tuyệt đối bị cấm cửa ở Đài Loan và cả Hoa Lục ít nhất trong thời kỳ Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông còn sống.

Cũng nên lưu ý đối chiếu thời kỳ Kim Dung viết truyện võ hiệp ở Hong Kong bên cạnh lò lửa "Cách mạng Văn hóa" ở Hoa Lục... với bối cảnh chiến tranh lạnh giữa hai phe cộng sản và tư bản.

Trong phần kết luận của quyển "Các ẩn số chánh trị...", ông Huy cũng dè dặt nói thêm "không thể loại bỏ giả thuyết là sự trùng hợp giữa các nhân vật và sự kiện trong tác phẩm của Kim Dung với một số nhân vật và sự kiện có thật phát xuất từ nơi tiềm thức của tác giả chứ không phải là một sự cố ý. Nhưng ngay trong trường hợp này, Kim Dung cũng không phải hoàn toàn vô tâm, vì Kim Dung có nhiều ưu tư, nhiều chủ kiến ăn sâu trong tiềm thức thì các tác phẩm viết ra mới biểu lộ các ưu tư và chủ kiến đó cho chúng ta thấy".

Đi vào chi tiết liên hệ đến các ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung,ông Huy nhận thấy 2 loại dữ kiện :

- Một số nhân vật đã được dùng để tượng trưng cho một vài quốc gia đặc biệt trên thế giới hoặc để mô tả một vài chính khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại.

- Một số sự việc đã diễn tả quan điểm của Kim Dung về vấn đề tranh đấu chính trị và một phần trong quan điểm này dựa vào triết lý Đạo giáo và Phật giáo.

Ông Huy trình bầy những khám phá của ông một cách thứ tự, lớp lang, dựa trên lý luận với rất nhiều chi tiết khá tỉ mỉ. Sau đây chỉ là một số thí dụ rất sơ lược, tiêu biểu về các ẩn số chính trị - xin nhắc lại chỉ là một số thí dụ có giá trị thuyết phục cao trong rất nhiều ẩn số mà ông Huy đã tìm thấy - qua các truyện võ hiệp Kim Dung :

1. Các nhân vật tượng trưng cho một số quốc gia đặc biệt trên thế giới

Cuộc luận võ trên đỉnh Hoa Sơn được đề cập đến trong các bộ Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp có mục đích xác định vai tuồng bá chủ võ lâm. Cuộc luận võ đầu tiên và quan trọng nhất có 5 nhân vật tham dự. Họ có ngoại hiệu là Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế. Sau cuộc tỷ thí rất gay go, mọi người đều công nhận rằng Trung Thần Thông là người có võ công cao diệu hơn hết và được quyền giữ bộ Cửu Âm Chân Kinh. Những người còn lại thì tài nghệ suýt soát nhau. 

Ngoài ra, còn một nhân vật thứ sáu cũng được xem đồng tài nghệ nhưng không tham dự cuộc luận võ này. Đó là bang chủ của Thiết Chưởng Bang tên là Cừu Thiên Nhạn, ngoại hiệu là Thủy Thượng Phiêu. Cừu Thiên Nhạn có người anh song sinh tên là Cừu Thiên Lý, võ công tầm thường, chỉ hay dùng xảo thuật để loè bịp.

Trong một giai đoạn của cuộc luận võ hay luận kiếm Hoa Sơn, năm nhân vật đầu tiên đã tỉ thí với nhau theo lối "ngũ quốc giao binh", dịch sát nghĩa là "năm nước tranh chiến với nhau", Kim Dung muốn hàm ý dùng các nhân vật võ lâm để ám chỉ một số quốc gia. Vậy thì, nhân vật nào, quốc gia nào đây ?

- Nhân vật tượng trưng cho nước Tầu : Trung Thần Thông

Trung Thần Thông là ngoại hiệu của Vương Trùng Dương. Trung là ở ngay chính giữa. Tự ngàn xưa, người Tầu đã tự hào là họ sống ngay chính giữa địa cầu (!). Họ đã chính thức gọi dân tộc họ là dân tộc Trung Hoa và nước họ là Trung Quốc. 

Về mặt tinh thần, người Trung Hoa theo đạo Trung Dung, đạo của người quân tử lúc nào cũng đứng trong vị thế quân bình. Trong mọi việc làm đều có thái độ thích ứng, vừa phải. Không thái quá, không bất cập. Người cố gắng theo đạo Trung Dung thì sẽ trở thành sáng suốt, hiểu biết và có thể biến cải để ứng phó vượt qua mọi trở lực, nói một cách khác sẽ trở thành Thần Thông.

Phái Đạo giáo mà Trung Thần Thông đứng đầu là phái Toàn Chân, có nghĩa là sự thật đầy đủ, trọn vẹn. Toàn Chân là môn phái có thật trong lịch sử. Ngoài chủ trương riêng của Đạo giáo, nó lại còn bao gồm đạo Trung hiếu của Nho giáo và các giới luật của Phật giáo và điều này đã mô tả đúng tính cách tổng hợp của nền văn hóa Trung Hoa cổ truyền.

Tỷ thí tài nghệ để trở thành bá chủ võ lâm, tuy nhiên Trung Thần Thông lại có bản chất ngược lại với tư tưởng bá chủ - lấy được Cửu Âm Chân Kinh nhưng nhất quyết không dùng vì bí kíp võ học tuyệt tác này đòi hỏi phương pháp luyện công quá âm độc, dị thường. Tư cách của Trung Thần Thông, tức Vương Trùng Dương cho thấy cao hơn hẳn Đông Tà, Tây Độc và các nhân vật võ lâm khác, càng chứng tỏ xứng đáng vai trò lãnh đạo, phù hợp với họ Vương, có nghĩa là Vua, người đứng đầu thiên hạ. Đạo lý nhà vua phải theo để cai trị một cách chính đáng, nhân nghĩa gọi là Vương đạo. Chủ trương chính trị Vương đạo là chủ trương chính thức được đề cao trong sử sách Trung Hoa từ ngàn xưa.

Kim Dung là người Trung Hoa nên, qua nhân vật Trung Thần Thông Vương Trùng Dương, hàm ý nước Trung Hoa có đủ khả năng và tư cách làm số 1 trên thế giới cũng là điều không đáng ngạc nhiên.

- Nhân vật tượng trưng cho nước Nhật : Đông Tà

Đông Tà là ngoại hiệu của Hoàng Dược Sư. Hoàng là mầu vàng ám chỉ Nhật Bản cũng là dân da vàng. 

Nhật Bản nằm về phía đông của Trung Hoa phù hợp với ngoại hiệu Đông Tà của Hoàng Dược Sư. Đông Tà lại mặc áo mầu xanh, theo vũ trụ quan của người Trung Hoa thì mầu xanh thuộc về hành mộc và liên hệ với phương đông, nhấn mạnh thêm nước Nhật ở phía đông.

Căn cứ của Đông Tà là đảo Đào Hoa mà Nhật Bản là đảo quốc và nổi tiếng thế giới là xứ hoa Anh Đào.

Đông Tà có tánh sợ lửa. Điều này ám chỉ các đảo Nhật có nhiều núi lửa và thường bị động đất.

Bà vợ của Đông Tà có tên là Mai Hương. Mà hoa Mai lại được người Trung Hoa xem là quốc hoa. Điều này có thể ám chỉ dân tộc Nhật có liên hệ và chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa.

Thân thế của Đông Tà còn tỏ rõ hơn nữa ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa rất sâu xa đối với nước Nhật - Đông Tà theo học võ với Châu Đồng. Ông này cũng là thầy của Nhạc Phi, một danh tướng anh hùng Trung Hoa. Trước đó Đông Tà là một thư sinh học theo Nho giáo nên là người văn võ kiêm toàn. Đông Tà thông thạo các thú tiêu khiển của người Trung Hoa là cầm, kỳ, thi, họa ; nắm vững mọi loại kỹ thuật Trung Hoa như y dược, bói toán, chiêm tinh, tướng số, nông điền thủy lợi, binh lược... ; biết thưởng thức các món ăn ngon, các thứ trà quý của Trung Hoa... Tuy nhiên, Đông Tà lại thâm hiểu Đạo giáo và hướng về sự thanh tĩnh vô vi. Đông Tà cũng có một số đức tính tốt là cương trực, nói lời giữ lời theo kiểu "quân tử nhất ngôn", kính trọng các bậc trung thần, nghĩa sĩ, nhiều khi ra tay giúp người yếu thế, trừng trị bọn tham quan ô lại, bọn trộm cướp hiếp đáp dân lành.

Các đệ tử của Đông Tà đều mang tên Phong, như Khúc Linh Phong, Phùng Mặc Phong, Lục Thừa Phong, Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong... Phong nghĩa là gió, giống như chữ Phong trong danh từ nổi tiếng của Nhật là Thần Phong (Kamikaze) nguyên là danh từ dùng để chỉ trận bão lớn năm 1281 đã đánh đắm các chiến thuyền của hạm đội Mông Cổ, cứu nước Nhật khỏi bị Mông Cổ thống trị. Trong thế chiến thứ hai, Thần Phong là tên của đội phi công cảm tử tình nguyện lao phi cơ chứa đầy chất nổ xuống các chiến hạm Mỹ và nổ tung với các chiến hạm này - một cố gắng hi sinh tuyệt vọng nhưng rẩt anh hùng mang đặc tính Nhật Bản.

Đông Tà tuy vậy không được Kim Dung coi là người theo chính đạo mà là một nhân vật nhuốm đầy tà quái, hàm ý người Nhật chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa nhưng chỉ theo một phần, rồi tìm cách biến chế và không cư xử đúng theo quan điểm đạo đức của người (quân tử mẫu mực) Trung Hoa.

Đông Tà, tức nước Nhật, trong mắt Kim Dung đã Tà như thế nào ?

Dựa vào Kỳ Môn Bát Trận của Khổng Minh để lập ra Phản Kỳ Môn Bát Trận để bảo vệ đảo Đào Hoa. Cũng dựa vào nguyên tắc sinh khắc, âm dương, ngũ hành, nhị thập bát tú và 64 quẻ kép của Bát Quái. Tuy nhiên trong trận đồ của Đông Tà, vị trí của các quẻ lại ngược lại vị trí các quẻ trong trận đồ Khổng Minh.

Thổi ngọc tiêu kích thích dục tình.

Thiếu tự chế - quá bi thương vì cái chết của vợ, gần như điên cuồng khi tưởng mất con. 

Ăn cướp, tống tiền nhà giầu để có phương tiện lập căn cứ địa kiên cố, sang trọng. Dùng thủ đoạn xảo trá để đoạt Cửu Âm Chân Kinh. 

Khi tức giận hai đệ tử phản bội đào thoát thì trừng phạt các đệ tử vô tội và hết sức trung thành khác bằng cách cắt đứt gân chân của họ rồi đuổi đi. Đâm mù mắt, chọc thủng tai các đầy tớ, gia nhân, vốn là các thành phần tội phạm, để kiềm chế họ và giữ bí mật về mình.

Sự tàn ác, ích kỷ của Đông Tà ám chỉ nước Nhật sau khi canh tân trở nên cường thịnh thì đi xâm lăng Trung Quốc và các nước khác cốt để làm lợi cho riêng mình, trắng trợn tự xưng là Đế quốc Nhật Bản, khác với lý tưởng Vương đạo của người Trung Hoa là - theo Kim Dung - "trị quốc" để dọn đường cho "bình thiên hạ" tức là tiến tới "thế giới đại đồng".

Biến cố "The rape of Nanking" năm 1937 gây kinh hoàng, chấn động thế giới khi quân Nhật chiếm thủ đô Nam Kinh của Trung Hoa Dân Quốc, đã hãm hiếp và giết hại 300.000 người dân Tầu, thây chất như núi, máu loang đỏ các sông ngòi, là một tội ác khó có thể nào quên.

- Nhân vật tượng trưng cho các nước Đế quốc Châu Âu : Tây Độc

Tây Độc là một nhân vật kinh khủng, có lẽ còn đáng ghét hơn cả Đông Tà, ám chỉ các nước đế quốc thực dân Châu Âu đã sâu xé, dày xéo, bóc lột Trung Hoa và các dân tộc ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ hàng trăm năm. 

Tây Độc là ngoại hiệu của Âu Dương Phong. Âu là Châu Âu. Châu Âu ở phía Tây của Trung Quốc. Người Châu Âu còn gọi là người Tây Dương, hay người Tây Phương. Tây Độc Âu Dương Phong cũng xưng là Bạch Đà Sơn Chủ, tức chúa núi Bạch Đà. Bạch là mầu trắng khiến liên tưởng đến người da trắng, giòng giống... Bạch Quỷ (!).

Trái với nếp sống thanh tĩnh theo Đạo giáo của Trung Thần Thông Vương Trùng Dương, nếp sống của Tây Độc Âu Dương Phong là sự hưởng thụ vật chất tầm thường, ô trọc. Căn cứ Bạch Đà Sơn chứa đầy gái đẹp, ngọc ngà, châu báu, của ngon vật lạ... vốn là chiến lợi phẩm có từ cướp của, giết người, bắt cóc... do hai chú cháu Âu Dương Phong và Âu Dương Công Tử thực hiện. Mô tả này nhắc đến thời kỳ các nước Châu Âu ùa nhau đi chiếm thuộc địa, bắt buộc các dân tộc khác làm nô lệ, thực thi chính sách đế quốc bóc lột tàn nhẫn, trở nên giầu có và trụy lạc

Sự mất trí, điên cuồng lúc về sau của Tây Độc biểu tượng cho sự vong thân của người Tây Phương dẫn đến khủng hoảng xã hội, cách mạng, nội chiến và đánh giết lẫn nhau gây ra đại chiến thế giới 1 và 2.

- Nhân vật tiêu biểu cho Liên Xô : Bắc Cái

Bắc Cái là ngoại hiệu của Hồng Thất Công. 

Bắc Cái là bang chủ Cái Bang, là chúa ăn mày, tức là trùm vô sản.

Liên Xô ở phía Bắc và Tây của Trung Quốc. Bắc nhiều hơn Tây, vả lại Tây đã dùng cho trường hợp Tây Độc để ám chỉ Châu Âu.

Chữ Hồng, họ của Bắc Cái (Hồng Thất Công) theo Hán văn là rộng lớn mênh mông nhưng lại đồng âm với chữ Hồng là đỏ, mầu tiêu biểu cho Đảng cộng sản, tức Cái Bang. Thêm nữa, chữ Hồng gồm 2 phần, bên tả là bộ thủy, bên hữu là chữ cộng, y như chữ Cộng trong từ ngữ cộng sản.

Kỹ thuật tranh đấu của Bắc Cái là Đả Cẩu Bổng Pháp - dùng gậy để đánh chó của nhà giầu, đánh cả cường hào, ác bá, tham quan ô lại - tiêu biểu cho chủ trương Giai cấp đấu tranh, Hàng Long Thập Bát Chưởng tiêu biểu Biện Chứng Pháp Duy Vật. Kiên Bích Trận của Cái Bang biểu tượng kỹ thuật tổ chức và tranh đấu tập thể của Đảng cộng sản quốc tế do Liên Xô lãnh đạo.

Cái Bang của Hồng Thất Công có 2 phe ăn mày hiềm khích và chống chọi nhau. Một phe áo lành và sạch nhưng ít người, ám chỉ cộng sản Đệ Tứ với thủ lãnh Trotsky. Một phe áo rách và dơ nhưng đông người hơn, ám chỉ cộng sản Đệ Tam do Stalin cầm đầu. Bắc Cái Hồng Thất Công có thể vừa tượng trưng cho Liên Xô như là một quốc gia, vừa tượng trưng cho Lenin như là một nhân vật. Chỉ khi Lenin lúc còn sống mới dung hợp được cả phe Stalin và phe Trotsky.

- Nhân vật tiêu biểu cho các nước thuộc thế giới đệ tam - tức là các nước đang mở mang như Thái Lan : Nam Đế

Nam Đế là ngoại hiệu của Đoàn Chính Minh, vua nước Đại Lý, thuộc sắc dân Thái, sau thoái vị đi tu với pháp danh là Nhất Đăng, Nhất Đăng Đại Sư. Người thế độ cho ông không phải là một cao tăng Trung Hoa mà là một nhà sư Thiên Trúc, tức là Ấn Độ, theo Phật giáo Tiểu thừa khác với Phật giáo Đại thừa thịnh hành ở Trung Hoa. 

Hiện nay có cuộc mâu thuẫn giữa các nước đã phát triển ở phương Bắc và các nước đang mở mang ở phương Nam, được gọi là tranh chấp Bắc Nam. Nam Đế là biểu tượng của thế lực phương Nam.

- Nhân vật biểu tượng cho Đức quốc xã và Phát xít Ý : anh em Cừu Thiên Nhạn và Cừu Thiên Lý

Được mời nhưng không tham dự cuộc Hoa Sơn Luận Võ, Bang chủ Thiết Chưởng Bang Cừu Thiên Nhạn được xem là có tài nghệ ngang với Võ Lâm Ngũ Bá. Cừu Thiên Lý là anh song sinh của Cừu Thiên Nhạn, trông rất giống, có tánh mưu mẹo, gạt gẫm nhưng tài nghệ kém người em rất xa, hàm ý Phát xít Ý của Mussolini ra đời trước, hay khoa trương, nhưng không có thực lực như Đức quốc xã của Hitler.

Theo sự mô tả của Kim Dung, Thiết Chưởng Bang (Bang hội Bàn Tay Sắt) lúc đầu là hội của những người yêu nước chống sự xâm lấn của nước ngoài, về sau lầm lạc đi vào con đường cướp bóc, hung bạo, xem mạng người như cỏ rác phù hợp với lịch sử chung của 2 chế độ độc tài hữu phái Quốc xã và Phát xít.

Ngoại hiệu Thủy Thượng Phiêu phản ảnh công phu độc đáo đi trên mặt nước của Cừu Thiên Nhạn ám chỉ chủ nghĩa siêu nhân và siêu tộc của Đức Quốc Xã.

Tín hiệu bàn tay sắt của bang chủ Cừu Thiên Nhạn là gợi ý đến từ bội tinh Thập Tự Sắt, huy chương quân công cao quý nhất của dân tộc Đức cũng như huy hiệu chữ Vạn thời Hitler.

- Nhân Vật biểu hiệu cho nước Mỹ : Dương Qua

Dương Qua nhận Tây Độc làm nghĩa phụ và được truyền dậy những công phu siêu đẳng hàm ý nước Mỹ có gốc gác Châu Âu, văn hóa Mỹ cùng tính chất văn hóa Châu Âu, gọi chung là Tây Phương. Dương Qua còn được gọi là Tây Cuồng.

Dương Qua chính là Thần Điêu Đại Hiệp mà chim điêu (eagle) là biểu hiệu của nước Mỹ. Quốc huy của nước Mỹ có hình chim điêu.

Trong lần Hoa Sơn Luận Võ cuối cùng, trong số 5 cao thủ có mặt thì Dương Qua là người trẻ nhất được xem như kế vị Tây Độc nhưng không ác hại như nghĩa phụ, lại học thêm được tinh hoa võ thuật của các cao thủ khác, cũng như tự sáng chế nên có bản lãnh cao hơn mọi người. Điều này phù hợp với sự kiện nước Mỹ là quốc gia Tây Phương, trẻ trung, cường thịnh vượt hẳn các nước đế quốc Châu Âu già nua, tàn tạ như đế quốc Bồ Đào Nha, đế quốc Tây Ban Nha, đế quốc Anh, đế quốc Pháp, đế quốc Hòa Lan, đế quốc Bỉ... để trở nên đệ nhất siêu cường.

2. Các nhân vật được dùng để mô tả một vài chính khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa cận đại

Trước hết là trường hợp các lãnh tụ Trung Quốc.

Trong thời kỳ sáng tác ba bộ Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp, Kim Dung còn thiên tả nhưng đến khi viết hai bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ và Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung đã nhận chân được sự thật về Cộng sản Quốc tế nói chung và Cộng sản Trung Hoa nói riêng.

Trong bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ, đề tài chính là cuộc tranh chấp đẫm máu giữa Triêu Dương Thần giáo và các phe gọi chung là bạch đạo. Ông Huy đã tìm thấy nhiều dữ kiện chứng tỏ rằng Triêu Dương Thần giáo trong Tiếu Ngạo Giang Hồ được dùng để ám chỉ Đảng cộng sản Trung Hoa và hai vị giáo chủ Nhậm Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại biểu tượng hai nhà lãnh đạo quan trọng của Trung Quốc là Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ.

Ông Huy lý luận như sau :

Triêu Dương là buổi sớm mai lúc mặt trời ở phía Đông mà bản quốc thiều của Trung Quốc là bản Đông Phương Hồng. 

Khẩu hiệu chính của Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh lạnh là "gió đông thắng gió tây" cho nên giáo chủ Triêu Dương Thần giáo có tên là Đông Phương Bất Bại là hiện thân của Lưu Thiếu Kỳ, người làm chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) trong 9 năm và nắm thực quyền một thời gian dài trước khi bị lật đổ, bị tra tấn và bị giết. 

Giáo chủ Nhậm Ngã Hành biểu tượng cho Mao Trạch Đông, Chủ tịch Đảng cộng sản Trung Hoa. Việc Đông Phương Bất Bại bí mật giam Nhậm Ngã Hành trong lòng đất dưới đáy Tây Hồ ở Hàng Châu ám chỉ thời kỳ Lưu Thiếu Kỳ liên kết với Đặng Tiểu Bình tập trung quyền lực Đảng trong tay, dồn Mao Trạch Đông vào thế "ngồi chơi xơi nước", "hữu danh vô thực" sau thất bại "bước tiến nhẩy vọt" khiến Mao uất hận dùng "đại cách mạng văn hóa" long trời lở đất để quật ngược lại. Cuộc xung đột giữa Nhậm Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại cũng kỳ bí và ghê gớm như cuộc xung đột giữa Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ.

Thần Long giáo trong Lộc Đỉnh Ký cũng được dùng để ám chỉ Đảng cộng sản Tầu. Giáo chủ Hồng An Thông là hình ảnh xấu xí của Mao Trạch Đông, bà vợ ác nghiệt nhưng trẻ đẹp Tô Thuyên tức Hồng Phu Nhân biểu hiệu cho Giang Thanh, bọn Ngũ Long Thiếu Niên tượng trưng cho Vệ Binh Đỏ. Những cảnh tượng xấu xa, tàn bạo, tệ hại liên quan đến Thần Long giáo mà Kim Dung mô tả rất gần với thực trạng chính trị Hoa Lục thời Đại Cách Mạng Văn Hóa.

Kế tiếp là trường hợp của các chính khách quốc gia Trung Hoa trong mắt Kim Dung theo như sự suy đoán của ông Huy.

Cũng trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nếu Triêu Dương Thần giáo (bị gọi là Ma giáo) tượng trưng cho phe cộng sản thì phái Bạch Đạo tương trưng cho phe quốc gia. Phe Bạch Đạo chính thức theo lập trường bảo vệ đạo lý và tình trạng đương hữu nhưng trong thực tế phân hóa trầm trọng. Có những người rất đàng hoàng, tử tế nhưng không thiếu kẻ gian ác. Nhân vật tiêu biểu cho loại người sau là Nhạc Bất Quần, chưởng môn của phái Hoa Sơn, sau lên làm "minh chủ" của 5 phái "hợp nhất", gọi là Ngũ Nhạc kiếm phái gồm Hoa Sơn, Hành Sơn, Tung Sơn, Thái Sơn và Hằng Sơn.

Nhân vật Nhạc Bất Quần được Kim Dung dùng để ám chỉ Tưởng Giới Thạch, sau khi "quốc phụ" sáng lập là Tôn Dật Tiên chết, thì trở thành lãnh tụ số 1 của Trung Hoa Dân Quốc và Trung Hoa Quốc Dân Đảng.

Kim Dung dùng lối chơi chữ ở đây. Không để ý thì không thấy. Nhạc, theo chữ Hán, là hòn núi lớn gồm chữ "khâu" là gò và "sơn" là núi. Cả 3 chữ "nhạc", "khâu" và "sơn" đều chỉ những khối lớn do đá cấu tạo nên. Mà đá tức là "thạch" - Tưởng Giới Thạch !

Dưới ngòi bút có phần cố ý... "bôi bác" của Kim Dung, Nhạc Bất Quần có bề ngoài khả kính của một lãnh tụ võ lâm mang ngoại hiệu Quân Tử Kiếm nhưng thực chất là Ngụy Quân Tử hay Quân tử giả hiệu.

Tưởng Giới Thạch còn có tên là Tưởng Trung Chánh, hàm ý thành tín ngay thẳng, không những chính thức theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên - Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc - mà còn luôn luôn đề cao Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ nhưng, theo Kim Dung, thật sự là người theo chủ nghĩa quyền uy, một nhà độc tài hữu phái đứng đầu một chính quyền ung thối vì tham nhũng.

Giống như Nhạc Bất Quần lớn tiếng tố cáo, miệt thị Ma giáo, Tưởng Giới Thạch kết án cộng sản tà ngụy, bất nhân nhưng bên trong Tưởng hành động còn tà ngụy, bất nhân hơn hay cũng chẳng kém. (Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung còn nghiêng về Nhậm Ngã Hành, tức Mao Trạch Đông, hàm ý Mao vẫn đỡ tệ hại hơn Tưởng. Chỉ trong Lộc Đỉnh Ký, qua nhân vật giáo chủ Hồng An Thông, Kim Dung mới xem Mao, Tưởng đều đáng ghét như nhau).

Thông điệp chính trị của Kim Dung

Trở lại những ẩn số chính trị mà ông Huy tìm thấy, những ẩn số quan trọng nhất có lẽ là những thông điệp mà Kim Dung đã kín đáo gửi đến cho đồng bào Trung Hoa của ông. Những thông điệp này cũng có thể trở thành những điều đáng suy ngẫm cho những người hoạt động chính trị hay tranh đấu chính trị nói chung ở bất cứ nước nào - Trung Hoa, Việt Nam, Miến Điện, Mỹ, Nhật, Âu, Phi... Chẳng hạn như :

1. Chính nghĩa dựa trên đạo lý thường chỉ là nhận thức chủ quan, dễ dàng đưa đến sự thiên vị. Đoàn thể nào cũng xem đạo lý của mình là đúng, là chính còn đạo lý của đoàn thể khác là sai, là tà. Đấy là chưa kể "nói một đằng, làm một nẻo".

2. Trong mọi đoàn thể đều có người tốt, người xấu chứ không phải người của chính phái nhất định là tốt, người của tà phái nhất định là xấu. Ma giáo có thể có người tử tế như Hướng Vấn Thiên, Khúc Dương Trưởng Lão, danh môn chính phái như Thiếu Lâm, Võ Đang có thể có đệ tử đồi bại như Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư. Hệ quả này là người ta phải có tinh thần cởi mở và khoan dung đối với nhau. Nên cởi mở và khoan dung như Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ.

3. Mô tả quá trình các nhân vật đạt đến vị trí tối cao như lãnh tụ, như minh chủ nguyên tắc của Đạo Đức Kinh được thực thi là "tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi" (biết đủ thì không bị nhục, biết dừng lại đúng lúc thì không bị nguy) và nguyên tắc "bất tranh" (không tranh giành cho bằng được). Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần tàn phế, tử vong, thân bại danh liệt vì quá tham lam, ham hố. Mưu thâm thì họa cũng thâm !

4. Trong đoạn cuối của Tiếu Ngạo Giang Hồ, giáo chủ Triêu Dương Thần giáo ngỏ lời gả con gái là Nhậm Doanh Doanh cho Lệnh Hồ Xung và mời Lệnh Hồ Xung làm Phó giáo chủ. Mặc dù yêu Nhậm Doanh Doanh tha thiết, Lệnh Hồ Xung khước từ và bỏ đi. Điều này có nghĩa : Riêng tại các nước có sự phân tranh Quốc-Cộng như trường hợp Trung Hoa (cũng như Cao Ly, Cuba, Việt Nam) sẽ không có, không thể có, hòa giải, hòa hợp dân tộc thực sự nếu các đảng cộng sản đang nắm quyền lực tiếp tục chủ trương độc tài, độc đảng, độc tôn phi lý. Các đảng cộng sản này phải đi bước trước là thực hiện sự cải cách thực sự.

...

Trong hơn nửa thế kỷ vừa qua cho đến tận ngày nay có đến hằng trăm triệu độc giả ở Trung Hoa, Đài Loan, Đông Nam Á, Bắc Mỹ, Châu Âu... say mê nghiền ngẫm truyện Võ Hiệp Kim Dung, có hàng trăm tác giả viết sách, báo bình luận về tư tưởng, cuộc đời của Kim Dung, thậm chí xuất hiện cả trường phái "Kim Học". 

Tuy nhiên, không thấy ai nghiêm túc đặt vấn đề "đi tìm các ẩn số chánh trị" trong các tác phẩm của Kim Dung. Hoặc giả có đặt vấn đề thì chỉ "giải quyết" bằng cách đưa ra các khái niệm mơ hồ về chuyện Tả, Hữu, Quốc, Cộng... chứ không có ai tìm ra được các những "bí mật" ẩn tàng một cách rõ ràng, mạch lạc và có hệ thống như ông Nguyễn Ngọc Huy. 

Kim Dung đã "qua mặt" được tất cả mọi người nhưng không "qua mặt" được một người - một người Việt Nam !

Phải chăng "Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có" ?

Cao Tuấn

(06/12/2018)

Published in Diễn đàn