Kinh tế phát triển khi số đầu tư và lực lượng lao động gia tăng, dẫn đến các sáng kiến và tiến bộ kỹ thuật nâng cao năng xuất của người làm việc. Nhưng tại sao nhiều nơi tập hợp được các "yếu tố sản xuất" trên mạnh hơn những nơi khác ? Một thí dụ dễ đem so sánh nhất là kinh tế các nước Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Cái gì giúp Canada và Mỹ tiến nhanh hơn Brazil và Argentina sau khi di dân Châu Âu sang khai thác Tân Thế Giới ?
Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã trao giải Nobel Kinh tế 2024 cho 3 nhà khoa học Mỹ Daron Acemoglu, Simon Johnson và James A. Robinson vì nghiên cứu về ảnh hưởng của thể chế đối với sự thịnh vượng.
Ba người đã tìm cách trả lời câu hỏi trên là James Robinson, Daron Acemoglu (MIT), và Simon Johnson (Đại học Chicago), năm nay mới được trao Giải Nobel về Kinh tế học. Họ thấy yếu tố quan trọng nhất là những định chế nằm trong các xã hội trên. Đó là những quy tắc hành sử theo tập tục hay luật lệ trong xã hội mà mọi cá nhân phải theo ; trong đó có những quy tắc phân chia quyền hành chính trị hoặc quyền lợi kinh tế.
James Robinson mới kể chuyện, khi trả lời Luis Alberto Peralta, báo EL PAÍS ở Madrid, ông và Daron Acemoglu, cùng đọc cuốn "Sự Vươn lên của Thế giới Tây phương" (The Rise of the Western World) của Douglas North. North, chiếm Giải Nobel Kinh tế học năm 1993, đã trình bày các thay đổi về định chế giúp Châu Âu phát triển. Karl Marx từng nhấn mạnh rằng các chế độ chính trị là do kinh tế quyết định ; Douglas North nêu lên mối tương quan ngược chiều : Những thay đổi trong các định chế xã hội đã thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp giúp kinh tế Châu Âu phát triển vào thế kỷ 19.
Trong cuốn "Tại sao các quốc gia thất bại" (Why Nations Fail : The Origins of Power, Prosperity, and Poverty) xuất bản năm 2012, Robinson và Acemoglu đã giải thích tình trạng chậm tiến tại các nước Châu Mỹ La tinh và Châu Phi là do các định chế từ thời chế độ thuộc địa để lại. Họ phân biệt hai loại định chế, một loại tạo cơ hội chia sẻ các thành quả kinh tế cho mọi người cùng hưởng và một loại chỉ nhắm giúp một thiểu số khai thác những người khác.
Các định chế nhằm chia sẻ (inclusive institutions) tạo cho mọi người có cơ hội như nhau ; còn các định chế nhằm khai thác (extractive institutions) chỉ nhắm giúp cho một thiểu số hưởng thụ. Phần lớn các kinh tế gia đồng ý rằng muốn phát triển cần phải có các doanh nhân và các sáng kiến. Nhưng hai tác giả thấy rằng yếu tố chính là những động cơ, mơ ước và óc sáng tạo của con người. Một xã hội có những định chế chính trị và kinh tế nuôi dưỡng các khả năng đó thì kinh tế sẽ tiến lên. Ở những nước như Colombia hoặc Nigeria, tài năng bị phí phạm vì người ta không có những cơ hội như thế, James Robinson nói.
Một thí dụ đáng chú ý là quá trình phát triển ở Châu Mỹ sau khi người Châu Âu đến lập nghiệp. Những tay "thực dân" đến vùng đất phía Nam bán cầu đã khai thác các thổ dân để thủ lợi ; trong khi dân di cư tới vùng phía Bắc không thấy số người bản xứ đông đảo như vậy, chính họ phải làm việc, khai khẩn đất đai rồi chia sẻ thành quả với nhau. Sau mấy thế kỷ, kinh tế Bắc Mỹ đã tiến vượt xa vùng Nam Mỹ.
Các định chế nhằm chia sẻ (inclusive) đều bảo vệ quyền tư hữu của tất cả mọi người, không riêng cho giới "lãnh đạo". Ai cũng có cơ hội làm giàu như nhau, luật pháp công bằng, không cho ai cướp đoạt của người khác. Một thí dụ rất sớm trong lịch sử là các luật lệ về thương hội (commenda) và bản quyền trên các sáng kiến, được thiết lập ở thành phố Venizia từ thế kỷ 13. Nhờ được những tập tục bảo vệ tài sản đó, mọi người làm việc hăng hái hơn ; các doanh nhân dám đầu tư, mạo hiểm để kiếm lời. Các định chế này chỉ thành hình và được sử dụng lâu đời khi mọi người đều có quyền tham dự và quyết định như nhau. Đó cũng là nền tảng của các chế độ tự do dân chủ sau này.
Các định chế nhằm khai thác (extractive) dành quyền hoạt động và thụ hưởng cho một thiểu số ; lập các hàng rào ngăn không cho các thành phần "ngoài đảng" được dự vào một số sinh hoạt kinh tế, và tài sản và lợi lộc họ tạo ra còn có thể bị tước đoạt. Trong khung cảnh đó, người lao động không thiết tha lo cải thiện khả năng sản xuất của mình, chỉ "làm việc theo tiếng kẻng", kinh tế không thể tiến lên được. Các định chế nhằm khai thác đó thường được bảo vệ bằng cách dành độc quyền cai trị cho một thiểu số "cốt cán", như các nhà quý tộc thời phong kiến hay các đảng viên một đảng "tiên phong" đóng vai trò lịch sử.
Trong thực tế, các chế độ với những "định chế khai thác" thường tìm cách che giấu tình trạng lạm dụng quyền lực của họ, qua các hình thức bên ngoài chứng tỏ mọi người đều được tham dự bình đẳng như nhau. Họ cũng tổ chức các cuộc bỏ phiếu, bầu cử các chức vụ trong chính quyền, dựng lên các tổ chức độc lập giả hiệu. Nhưng nếu người dân không có các quyền tự do ngôn luận và báo chí, không được lập hội, lập đảng tự do, thì bản chất độc tài nhằm khai thác kiếm lợi riêng không thay đổi.
Những thành phần đóng vai "lãnh đạo" có thể đứng ngoài mà điều khiển, sử dụng chính quyền để thủ lợi qua những "định chế khai thác". Trong cuốn Why Nations Fail đã nêu ra một thí dụ. Hai tác giả so sánh hai người, Bill Gates ở Mỹ và Carlos Slim tại nước Mexico – thay nhau đóng vai trò người giàu nhất thế giới lúc đó. Gates làm giàu nhờ những quyền sáng chế trong ngành tin học ; Slim tích lũy được một tài sản khổng lồ trong ngành viễn thông nhờ các quan hệ với chính quyền cho ông ta chiếm độc quyền khai thác hệ thống điện thoại viễn liên. Các chế độ độc tài đều dùng chính sách tương tự để giúp một số người làm giàu mà không bị cạnh tranh. Các nước tự do dân chủ đều soạn luật lệ ngăn chặn độc quyền kinh tế.
Kinh tế không thể phát triển hết tiềm năng nếu không có tự do cạnh tranh. Những xã hội với các "định chế khai thác" thường thiếu cạnh tranh vì nếu ai cũng được ganh đua như nhau thì không ai "khai thác" được những người yếu đuối, thua thiệt nữa. Các nước tự do dân chủ thường phát triển kinh tế mạnh hơn vì quyền tự do cạnh tranh được luật pháp bảo đảm. Đó là môi trường cho những "định chế nhằm chia sẻ" (inclusive) có cơ hội thành hình và tồn tại lâu bền. Một chế độ độc tài không thể bảo vệ các định chế chia sẻ vì chính những người nắm quyền khai thác lo không được hưởng lợi nữa.
Nhiều quốc gia đã thành lập thể chế tự do dân chủ trên hình thức mà không tạo được các "định chế nhằm chia sẻ" đích thực, cũng sẽ thất bại về kinh tế. Các xã hội đó vẫn ưu đãi, giữ đặc quyền cho một thiểu số, không tôn trọng luật pháp bình đẳng. Hugo Chávez đã đánh lừa dân chúng như vậy, và đến nay kinh tế Venezuela vẫn không phát triển được.
Khi các đảng cộng sản giành được chính quyền ở Nga hoặc Trung Quốc, kinh tế đã phát triển rất nhanh vì giới lãnh đạo thu thập được tư bản và huy động các công nhân dễ dàng ; nhưng sẽ đến lúc bộ máy ngưng không chạy được bình thường nữa. Chế độ cộng sản cố giữ vững được 50 năm thì bắt đầu lung lay từ bên trong, cuối cùng sụp đổ. Hiện nay, nền kinh tế những nước độc tài như Iran, Nga cũng không đuổi kịp các nước dân chủ về tiến bộ kinh tế cũng như kỹ thuật, dù họ nắm nhiều tài nguyên và nhân lực trong tay. Robinson và Acemoglu đã so sánh hai nền kinh tế Nam Hàn với Bắc Hàn để chứng tỏ các định chế chính trị ảnh hưởng rất nặng trên thành quả kinh tế.
Trung Quốc có thể tự hào là đã phát triển mạnh từ khi từ bỏ các lý thuyết Marx và Lenin, mở cửa cho một số các "định chế chia sẻ" xuất hiện, khi Đặng Tiểu Bình cho phép dân "được làm giàu". Nhưng nếu ông Tập Cận Bình không mở rộng thêm các quyền chính trị như tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, hội họp, thì những cánh cửa phát triển kinh tế cũng tự khép lại. Kinh tế Trung Quốc hiện đang trì trệ vì chính sách ưu đãi các doanh nghiệp nhà nước (một biểu hiện các định chế khai thác) ; nếu tiếp tục, trong tương lai chế độ có thể sẽ tan rã không khác gì chính quyền Xô Viết thời 1989.
Ngô Nhân Dụng
Nguồn : VOA, 28/10/2024
Các định chế giúp phát triển kinh tế
Ngô Nhân Dụng, VOA, 28/10/2024
Kinh tế phát triển khi số đầu tư và lực lượng lao động gia tăng, dẫn đến các sáng kiến và tiến bộ kỹ thuật nâng cao năng xuất của người làm việc. Nhưng tại sao nhiều nơi tập hợp được các "yếu tố sản xuất" trên mạnh hơn những nơi khác ? Một thí dụ dễ đem so sánh nhất là kinh tế các nước Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Cái gì giúp Canada và Mỹ tiến nhanh hơn Brazil và Argentina sau khi di dân Châu Âu sang khai thác Tân Thế Giới ?
111111111111111111111
Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã trao giải Nobel Kinh tế 2024 cho 3 nhà khoa học Mỹ Daron Acemoglu, Simon Johnson và James A. Robinson vì nghiên cứu về ảnh hưởng của thể chế đối với sự thịnh vượng.
Ba người đã tìm cách trả lời câu hỏi trên là James Robinson, Daron Acemoglu (MIT), và Simon Johnson (Đại học Chicago), năm nay mới được trao Giải Nobel về Kinh tế học. Họ thấy yếu tố quan trọng nhất là những định chế nằm trong các xã hội trên. Đó là những quy tắc hành sử theo tập tục hay luật lệ trong xã hội mà mọi cá nhân phải theo ; trong đó có những quy tắc phân chia quyền hành chính trị hoặc quyền lợi kinh tế.
James Robinson mới kể chuyện, khi trả lời Luis Alberto Peralta, báo EL PAÍS ở Madrid, ông và Daron Acemoglu, cùng đọc cuốn "Sự Vươn lên của Thế giới Tây phương" (The Rise of the Western World) của Douglas North. North, chiếm Giải Nobel Kinh tế học năm 1993, đã trình bày các thay đổi về định chế giúp Châu Âu phát triển. Karl Marx từng nhấn mạnh rằng các chế độ chính trị là do kinh tế quyết định ; Douglas North nêu lên mối tương quan ngược chiều : Những thay đổi trong các định chế xã hội đã thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp giúp kinh tế Châu Âu phát triển vào thế kỷ 19.
Trong cuốn "Tại sao các quốc gia thất bại" (Why Nations Fail : The Origins of Power, Prosperity, and Poverty) xuất bản năm 2012, Robinson và Acemoglu đã giải thích tình trạng chậm tiến tại các nước Châu Mỹ La tinh và Châu Phi là do các định chế từ thời chế độ thuộc địa để lại. Họ phân biệt hai loại định chế, một loại tạo cơ hội chia sẻ các thành quả kinh tế cho mọi người cùng hưởng và một loại chỉ nhắm giúp một thiểu số khai thác những người khác.
Các định chế nhằm chia sẻ (inclusive institutions) tạo cho mọi người có cơ hội như nhau ; còn các định chế nhằm khai thác (extractive institutions) chỉ nhắm giúp cho một thiểu số hưởng thụ. Phần lớn các kinh tế gia đồng ý rằng muốn phát triển cần phải có các doanh nhân và các sáng kiến. Nhưng hai tác giả thấy rằng yếu tố chính là những động cơ, mơ ước và óc sáng tạo của con người. Một xã hội có những định chế chính trị và kinh tế nuôi dưỡng các khả năng đó thì kinh tế sẽ tiến lên. Ở những nước như Colombia hoặc Nigeria, tài năng bị phí phạm vì người ta không có những cơ hội như thế, James Robinson nói.
Một thí dụ đáng chú ý là quá trình phát triển ở Châu Mỹ sau khi người Châu Âu đến lập nghiệp. Những tay "thực dân" đến vùng đất phía Nam bán cầu đã khai thác các thổ dân để thủ lợi ; trong khi dân di cư tới vùng phía Bắc không thấy số người bản xứ đông đảo như vậy, chính họ phải làm việc, khai khẩn đất đai rồi chia sẻ thành quả với nhau. Sau mấy thế kỷ, kinh tế Bắc Mỹ đã tiến vượt xa vùng Nam Mỹ.
Các định chế nhằm chia sẻ (inclusive) đều bảo vệ quyền tư hữu của tất cả mọi người, không riêng cho giới "lãnh đạo". Ai cũng có cơ hội làm giàu như nhau, luật pháp công bằng, không cho ai cướp đoạt của người khác. Một thí dụ rất sớm trong lịch sử là các luật lệ về thương hội (commenda) và bản quyền trên các sáng kiến, được thiết lập ở thành phố Venizia từ thế kỷ 13. Nhờ được những tập tục bảo vệ tài sản đó, mọi người làm việc hăng hái hơn ; các doanh nhân dám đầu tư, mạo hiểm để kiếm lời. Các định chế này chỉ thành hình và được sử dụng lâu đời khi mọi người đều có quyền tham dự và quyết định như nhau. Đó cũng là nền tảng của các chế độ tự do dân chủ sau này.
Các định chế nhằm khai thác (extractive) dành quyền hoạt động và thụ hưởng cho một thiểu số ; lập các hàng rào ngăn không cho các thành phần "ngoài đảng" được dự vào một số sinh hoạt kinh tế, và tài sản và lợi lộc họ tạo ra còn có thể bị tước đoạt. Trong khung cảnh đó, người lao động không thiết tha lo cải thiện khả năng sản xuất của mình, chỉ "làm việc theo tiếng kẻng", kinh tế không thể tiến lên được. Các định chế nhằm khai thác đó thường được bảo vệ bằng cách dành độc quyền cai trị cho một thiểu số "cốt cán", như các nhà quý tộc thời phong kiến hay các đảng viên một đảng "tiên phong" đóng vai trò lịch sử.
Trong thực tế, các chế độ với những "định chế khai thác" thường tìm cách che giấu tình trạng lạm dụng quyền lực của họ, qua các hình thức bên ngoài chứng tỏ mọi người đều được tham dự bình đẳng như nhau. Họ cũng tổ chức các cuộc bỏ phiếu, bầu cử các chức vụ trong chính quyền, dựng lên các tổ chức độc lập giả hiệu. Nhưng nếu người dân không có các quyền tự do ngôn luận và báo chí, không được lập hội, lập đảng tự do, thì bản chất độc tài nhằm khai thác kiếm lợi riêng không thay đổi.
Những thành phần đóng vai "lãnh đạo" có thể đứng ngoài mà điều khiển, sử dụng chính quyền để thủ lợi qua những "định chế khai thác". Trong cuốn Why Nations Fail đã nêu ra một thí dụ. Hai tác giả so sánh hai người, Bill Gates ở Mỹ và Carlos Slim tại nước Mexico – thay nhau đóng vai trò người giàu nhất thế giới lúc đó. Gates làm giàu nhờ những quyền sáng chế trong ngành tin học ; Slim tích lũy được một tài sản khổng lồ trong ngành viễn thông nhờ các quan hệ với chính quyền cho ông ta chiếm độc quyền khai thác hệ thống điện thoại viễn liên. Các chế độ độc tài đều dùng chính sách tương tự để giúp một số người làm giàu mà không bị cạnh tranh. Các nước tự do dân chủ đều soạn luật lệ ngăn chặn độc quyền kinh tế.
Kinh tế không thể phát triển hết tiềm năng nếu không có tự do cạnh tranh. Những xã hội với các "định chế khai thác" thường thiếu cạnh tranh vì nếu ai cũng được ganh đua như nhau thì không ai "khai thác" được những người yếu đuối, thua thiệt nữa. Các nước tự do dân chủ thường phát triển kinh tế mạnh hơn vì quyền tự do cạnh tranh được luật pháp bảo đảm. Đó là môi trường cho những "định chế nhằm chia sẻ" (inclusive) có cơ hội thành hình và tồn tại lâu bền. Một chế độ độc tài không thể bảo vệ các định chế chia sẻ vì chính những người nắm quyền khai thác lo không được hưởng lợi nữa.
Nhiều quốc gia đã thành lập thể chế tự do dân chủ trên hình thức mà không tạo được các "định chế nhằm chia sẻ" đích thực, cũng sẽ thất bại về kinh tế. Các xã hội đó vẫn ưu đãi, giữ đặc quyền cho một thiểu số, không tôn trọng luật pháp bình đẳng. Hugo Chávez đã đánh lừa dân chúng như vậy, và đến nay kinh tế Venezuela vẫn không phát triển được.
Khi các đảng cộng sản giành được chính quyền ở Nga hoặc Trung Quốc, kinh tế đã phát triển rất nhanh vì giới lãnh đạo thu thập được tư bản và huy động các công nhân dễ dàng ; nhưng sẽ đến lúc bộ máy ngưng không chạy được bình thường nữa. Chế độ cộng sản cố giữ vững được 50 năm thì bắt đầu lung lay từ bên trong, cuối cùng sụp đổ. Hiện nay, nền kinh tế những nước độc tài như Iran, Nga cũng không đuổi kịp các nước dân chủ về tiến bộ kinh tế cũng như kỹ thuật, dù họ nắm nhiều tài nguyên và nhân lực trong tay. Robinson và Acemoglu đã so sánh hai nền kinh tế Nam Hàn với Bắc Hàn để chứng tỏ các định chế chính trị ảnh hưởng rất nặng trên thành quả kinh tế.
Trung Quốc có thể tự hào là đã phát triển mạnh từ khi từ bỏ các lý thuyết Marx và Lenin, mở cửa cho một số các "định chế chia sẻ" xuất hiện, khi Đặng Tiểu Bình cho phép dân "được làm giàu". Nhưng nếu ông Tập Cận Bình không mở rộng thêm các quyền chính trị như tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, hội họp, thì những cánh cửa phát triển kinh tế cũng tự khép lại. Kinh tế Trung Quốc hiện đang trì trệ vì chính sách ưu đãi các doanh nghiệp nhà nước (một biểu hiện các định chế khai thác) ; nếu tiếp tục, trong tương lai chế độ có thể sẽ tan rã không khác gì chính quyền Xô Viết thời 1989.
Ngô Nhân Dụng
Nguồn : VOA, 28/10/2024
Vài tuần trước, Tổng thống Hoa Kỳ Donald J. Trump tuyên bố : "Các cuộc chiến thương mại là tốt và dễ thắng". Tuy nhiên, một đồng thuận cơ bản giữa các chuyên gia kinh tế là chiến tranh thương mại hiếm khi nào tốt và không có người chiến thắng. Sau khi phát động cuộc chiến thương mại, chính quyền Trump đã đối mặt với làn sóng chỉ trích gay gắt của các chuyên gia kinh tế hàng đầu thế giới.
Donald Trump : "Các cuộc chiến thương mại là tốt và dễ thắng". Courtesy of Star Tribune Sack
Nobel kinh tế Robert J. Shiller
Vào ngày thứ Bảy 23/3/2018 tại Bắc Kinh, Robert J. Shiller, Giáo sư Đại học Yale (New Haven, Connecticut, Hoa Kỳ) và là người đoạt giải Nobel Kinh tế năm 2013, đã mạnh mẽ chỉ trích Trump trong một cuộc phỏng vấn về quyết định tăng thuế nhập khẩu đối với thép, nhôm cũng như cuộc chiến thương mại đối với Trung Quốc. Shiller gọi Trump là "một showman" - thích trình diễn và đam mê danh tiếng, và có những hành động "hoàn toàn không phù hợp với một vị tổng thống".
Khi được hỏi về cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, chuyên gia kinh tế Shiller nhấn mạnh :
"Vấn đề ngay lập tức sẽ xảy ra là một cuộc khủng hoảng kinh tế bởi vì các doanh nghiệp được xây dựng dựa trên kế hoạch dài hạn và họ đã phát triển một lực lượng lao động có tay nghề và đủ khả năng. Ở bất cứ quốc gia nào sau khi nhập khẩu bị chấm dứt, chúng ta bắt buộc phải tìm tòi lại những yếu tố này. Đây chỉ là sự hỗn loạn : Nó sẽ làm chậm sự phát triển nền kinh tế tương lai...".
Không dừng lại ở đó, Giáo sư Shiller còn cảnh báo rằng những căng thẳng của cuộc chiến thương mại có thể đẩy nền kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy thoái. Giáo sư Shiller diễn giải :
"Khi hỏi về mức độ tác động của chiến tranh thương mại lên nền kinh tế, tôi nghĩ rằng nó có tác động tâm lý hơn là trực tiếp".
Shiller còn đề cập tới cuộc chiến tranh thương mại nổi tiếng nhất từ trước đến nay xảy ra trong cuộc Đại Suy Thoái (Great Depression) trong thập niên 1930, và cho rằng nó không gây ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, nhưng có thể "phá hủy niềm tin" và các kế hoạch cho tương lai.
Vị chuyên gia kinh tế còn nhấn mạnh rằng nền kinh tế toàn cầu đang tăng trưởng trong những tháng gần đây, nhưng một cuộc chiến thương mại có thể làm chấm dứt đà tăng trưởng đó.
Nobel Kinh tế Paul Krugman
Paul Krugman, Giáo sư Đại học Princeton (New Jersey, Hoa Kỳ) và cũng là người đoạt giải Nobel Kinh tế 2008, đã thẳng thừng lên án chính sách tăng thuế cũng như cuộc chiến thương mại của Trump với Trung Quốc.
Giáo sư Paul Krugman nói mặc dù Trump tỏ vẻ say mê thương mại nhưng lại chẳng có kiến thức về nó :
"Hãy chú ý điều này : bằng cách vụng về lao vào một cuộc chiến thương mại, Trump phá hoại khả năng giải quyết các vấn đề của Hoa Kỳ. Nếu muốn tạo ra áp lực ép Trung Quốc phải tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ, thì cần phải xây dựng một liên minh các quốc gia bị tổn hại bởi các vi phạm của Trung Quốc - nghĩa là liên minh giữa các nước tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Châu Âu. Tuy nhiên, Trump đang làm cho những quốc gia này xa lánh bởi lúc thì Trump dọa đánh thuế, lúc thì nói miễn trừ thuế nhôm/thép cũng như việc Trump đe dọa áp đặt thuế lên tất cả những mặt hàng lắp ráp ở Trung Quốc, nhưng lại được sản xuất chủ yếu ở nơi khác".
Giáo sư Paul Krugman phân tích cuộc chiến thương mại của Trump như sau :
"Phần lớn của sự thâm hụt thương mại chỉ là một ảo giác thống kê. Như một số người nêu ra, Trung Quốc là một Công xưởng Khổng lồ của thế giới : Rất nhiều mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc là những sản phẩm được lắp ráp từ các bộ phận, được sản xuất ở những nơi khác, đặc biệt là ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Ví dụ điển hình là iPhone, vốn "được sản xuất tại Trung Quốc - Made in China" nhưng trong đó, lao động và vốn của Trung Quốc chỉ chiếm một vài phần trăm so với tổng giá thành của iPhone.
Đó là một ví dụ cực đoan, nhưng là một phần của mô hình rộng hơn : Phần lớn thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc - có lẽ gần một nửa - thực sự là sự thâm hụt với các nước bán các linh kiện, thiết bị hoặc bộ phận cho Trung Quốc.
Điều này có hai ý nghĩa : (1) Hoa Kỳ có ít đòn bẩy thương mại đối với Trung Quốc hơn là Trump tưởng tượng. (2) Một cuộc chiến thương mại với "Trung Quốc" sẽ làm các nước khác giận dữ mà trong đó một số là đồng minh thân cận của Hoa Kỳ. Quan trọng hơn, hiện nay, thặng dư thương mại của Trung Quốc không phải là vấn đề đáng kể đối với cả Hoa Kỳ lẫn toàn thế giới.
Nhưng thặng dư thương mại là một vấn đề trước đây. Hiện nay, thặng dư thương mại của Trung Quốc đã giảm xuống ; trong khi đó, tỉ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ không còn cao nữa. Trump có thể nghĩ rằng thâm hụt thương mại Hoa Kỳ đối với Trung Quốc có nghĩa là Trung Quốc đang giành chiến thắng và Hoa Kỳ đang thua, nhưng thực tế không phải là như vậy. Thương mại Trung Quốc - trái ngược với các hình thức phi pháp của Trung Quốc - là một vấn đề sai lầm để Hoa Kỳ giận dữ với thế giới của năm 2018".
Kết luận bài viết, Paul Krugman nhấn mạnh :
"Nếu có một ai đó giành "chiến thắng", thì sẽ là những quốc gia đã tăng cường được ảnh hưởng địa chính trị bởi vì Hoa Kỳ đang miệt thị và hạ thấp danh tiếng của chính mình. Và điều đó có nghĩa là bất cứ ai nổi lên như một người chiến thắng từ cuộc chiến tranh thương mại mang tên Trump, thì đó sẽ là... Trung Quốc".
Nobel Kinh tế Joseph E. Stiglitz
Joseph E. Stiglitz, Giáo sư Đại học Columbia (New York, Hoa Kỳ) và là người đạt giải Nobel Kinh tế 2001, đã cảnh báo rằng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể chuẩn bị áp dụng thuế quan dựa trên một bản đồ kinh tế kĩ càng, trong đó họ sẽ nhắm tới những nơi nhất định tại Hoa Kỳ để gây thiệt hại tối đa.
Vị chuyên gia kinh tế lừng danh nhận định :
"Một cuộc chiến tranh thương mại leo thang có thể sẽ có những hậu quả chính trị đối với Donald Trump".
Cũng theo Stiglitz, nếu thuế nhập khẩu tăng sẽ làm gia tăng áp lực lạm phát, khiến Cục Dự Trữ Liên Bang (FED) sẽ tăng lãi suất lên mức cao hơn. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Hoa Kỳ, qua đó sẽ làm giảm số lượng người ủng hộ Trump.
Kinh tế sụp đổ không mang tới dân chủ đa nguyên
Một cuộc chiến thương mại với "Trung Quốc" sẽ làm các nước khác giận dữ mà trong đó một số là đồng minh thân cận của Hoa Kỳ Paul Krugman) - Courtesy of Cagle.com
Có những người Việt Nam hâm mộ cuồng điên Trump đã ngay lập tức quả quyết rằng cuộc chiến thương mại do Trump chủ xướng sẽ khiến Trung Quốc điêu đứng và chế độ cộng sản sẽ sụp đổ. Người viết không biết họ dựa vào bằng chứng nào để khẳng định mạnh mẽ và kết luận nhanh chóng đến thế.
Kinh tế là một lĩnh vực vô cùng phức tạp, đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay. Một số người Việt Nam vẫn có một thói quen rất lạ kỳ là rất thích phân tích những vấn đề mà bản thân họ không đủ thẩm quyền để lý giải. Thay vì vội vàng kết luận những vấn đề đòi hỏi chuyên môn cao, theo thiển ý của người viết bài này, chúng ta nên đọc và suy ngẫm các phân tích có giá trị của nhiều chuyên gia uy tín khác nhau, để có cái nhìn toàn diện và khách quan của vấn đề hơn. Rồi sau đó, đưa ra kết luận cũng không muộn.
Hầu hết các chuyên gia kinh tế đếu khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, chiến tranh thương mại không có người chiến thắng mà chỉ có người thua. Cuộc chiến thương mại của Trump với Trung Quốc sẽ gây ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của người dân hai nước, đặc biệt là những người nghèo. Như Giáo sư Paul Krugman nhấn mạnh :
"Chính sách thương mại của Trump nhanh chóng trở thành một bài học điển hình về cái giá của sự ngu dốt. Bằng cách từ chối tìm tòi nghiên cứu, đội ngũ của Trump đang đánh mất bạn bè, đồng minh trong khi sự thất bại sẽ gây ra ảnh hưởng tới mọi người".
Esward Prasad, Giáo sư và chuyên gia thương mại của Đại học Cornell (New York, Hoa Kỳ) nhấn mạnh rằng :
"Trump là món quà từ Trời ban tặng cho Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc đã thao túng các qui tắc, nhưng cách đối phó của Trump là phản tác dụng… Cuộc chiến thương mại gây tổn hại cho tất cả các bên : làm rối loạn kinh doanh và niềm tin người tiêu dùng, cản trở xuất khẩu và gây thiệt hại cho sự tăng trưởng. Lần cuối cùng Hoa Kỳ áp đặt thuế quan rộng rãi là vào thập niên 1930 với hậu quả là làm cho cuộc Đại Suy Thoái kéo dài hơn và tồi tệ hơn. Chiến thắng cuộc chiến thương mại bằng cách phá hủy cả nhập khẩu và xuất khẩu sẽ là một chiến thắng cay đắng vì phải trá giá rất đắt".
Một logic sai lầm của một số người Việt Nam là nếu Trung Quốc sụp đổ, thì Đảng cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ và Việt Nam sẽ có dân chủ.
Đúng là nền kinh tế suy sụp có thể khiến chế độ độc tài rơi vào khủng hoảng. Nhưng, cần nhấn mạnh rằng dù cho kinh tế suy thoái và chế độ độc tài có lung lay, thì không có nghĩa là nền dân chủ sẽ đến ngay lập tức. Bắc Hàn và Venezuela là hai ví dụ điển hình. Mặc dù đối mặt với siêu lạm phát, kinh tế suy thoái trầm trọng, trong khi đời sống người dân rất cơ cực và lầm than, nhưng chế độ độc tài của Kim Jong-un (Bắc Hàn) và Nicolás Maduro (Venezuela) vẫn ngang nhiên tồn tại.
Thay vì "ở ẩn" mong chờ nền kinh tế của chế độ cộng sản sụp đổ thì hãy chủ động tìm đến nhau, kết hợp thành một lực lượng dân tộc có tầm vóc. Nếu không có một lực lượng chính trị đủ lớn mạnh và có khả năng, thì sẽ không có một tổ chức nào có thể hướng dẫn quần chúng đối đầu với chính quyền độc tài trong lúc nó suy yếu nhất ? Nên nhớ, nếu một quốc gia rơi vào tình trạng hỗn loạn vô chính phủ, thì còn tệ hại và bi đát hơn cả chế độ độc tài.
Dân chủ sẽ không lập tức có ngay sau khi chế độ độc tài sụp đổ. Dân chủ chỉ mới chớm nở khi có các cuộc bầu cử tự do và minh bạch với sự tham gia bắt buộc của các chính đảng lương thiện, có đường lối, có mục tiêu rõ ràng và có lực lượng nòng cốt đủ mạnh.
Các chính đảng này sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng và củng cố nền dân chủ non trẻ. Sự thành công của cuộc cách mạng dân chủ sẽ là chắc chắn khi có sự chuẩn bị kỹ lưỡng của các tổ chức chính trị về mặt tư tưởng và lực lượng. Yếu tố "cơ hội" và "chuẩn bị tốt" quyết định sự thành công. Ngược lại, dù cho cơ hội tốt (suy thoái kinh tế) có xuất hiện, nhưng không có ít nhất một chính đảng với sự chuẩn bị chu đáo (thể hiện qua dự án chính trị có tầm vóc và lực lượng vừa đủ mạnh), thì thắng lợi dân chủ sẽ rất khó thành hiện thực. Và nếu như có được dân chủ, thì nền dân chủ đó sẽ ngắn ngủi và đầy bất ổn.
"Thành công chỉ đến khi có chuẩn bị và gặp thời cơ thuận tiện" (Bobby Unser)
"Success is where preparation and opportunity meet" – Bobby Unser
Mai V. Phạm
(30/03/2018)
Tham khảo :
- https://mobile.nytimes.com/2018/03/22/opinion/trade-war-china-trump.html?
- https://www.cnbc.com/2018/03/25/donald-trump-and-wto-joseph-stiglitz-at-china-development-forum.html