Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Lãnh đạo toàn diện hay bước lùi của dân chủ ? (RFA, 16/12/2017)

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng dự và chỉ đạo họp Chính phủ : Lãnh đạo toàn diện hay bước lùi của dân chủ ?

dang1

Từ trái sang : Chủ tịch nước Trần Đại Quang ; Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ; Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc  AFP

Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sẽ tham dự, phát biểu chỉ đạo cuộc họp trực tuyến của tập thể Chính phủ Việt Nam vào ngày 28 tháng 12 tới đây.

Hoạt động được cho là chưa có tiền lệ từ trước đến nay cho thấy gì về quyền lực của Đảng Cộng sản, là đảng cầm quyền duy nhất hiện nay ở Việt Nam ?

Công khai hóa quyền lực

Bộ trưởng Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng nói với báo giới đây là một sự kiện rất quan trọng và chính phủ mong muốn nhận được chỉ đạo của Tổng bí thư để tạo ra sự chuyển biến, thay đổi trong các cơ quan nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương.

Ngay sau khi sự kiện này được truyền thông trong nước loan đi, những người quan tâm tình hình chính trị Việt Nam đều đặt câu hỏi rằng có phải rằng sự tham dự ngày càng sâu rộng của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam đang thể hiện ở mức rõ nhất ? Một cụm từ xuất hiện nhiều nhất ở phần bình luận trên mạng xã hội về sự việc này là "thâu tóm quyền lực".

Cụ thể, một người có tên Hoà Nguyễn đã viết trên trang mạng của Vnexpress : "Đây là lúc để ông thâu tóm bốn đai vô địch hạng nặng gồm "Tổng bí thư ; Chủ tịch nước ; Thủ tướng ; Chủ tịch quốc hội" Đây mới là tiền lệ chưa từng có ở Việt Nam và trên thế giới. Một kỷ lục".

Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, từ Hà Nội nhận định với chúng tôi về việc tham dự chỉ đạo của Tổng bí thư trong cuộc họp Chính phủ tháng 12 là một hình thức "công khai quyền lực độc tôn" của Đảng Cộng sản từ trước đến nay.

"Lâu nay về nguyên tắc, Đảng vẫn chỉ đạo Chính phủ làm việc này việc kia. Không có bất cứ việc gì lớn nhỏ không có ý kiến của Đảng mà có thể làm được. Hiện nay, ông ta tiến một bước là công khai hóa việc này".

Mặt khác, cũng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, thực chất đó cũng là sự bất chấp luật pháp. Lý giải ý kiến này, ông nói rằng quan hệ của Đảng và Nhà nước cũng chỉ mới được xác định trong Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam.

"Không có bất cứ luật nào qui định cho rõ quan hệ ấy nội dung thế nào, phương thức thế nào, nội dung thế nào và đặc biệt là chịu trách nhiệm thế nào về mặt pháp lý".

"Thực chất đây là việc trắng trợn công khai hóa sự toàn trị trực tiếp lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền".

Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ : "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc theo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".

Một bước tiến hay thụt lùi ?

Khi trả lời báo giới trong nước chiều ngày 14 tháng 12, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Mai Tiến Dũng xác nhận trong một năm qua, Chính phủ đã triển khai thực hiện, cụ thể hóa nghị quyết của Trung ương và Quốc hội, đạt được nhiều thành tựu đạt đáng kể.

Ông Mai Tiến Dũng còn nhấn mạnh sự có mặt của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong kỳ họp Chính phủ cuối năm sẽ "khắc phục các tồn tại, chẳng hạn như tình trạng trên nóng dưới lạnh, trên chuyển dưới không chuyển".

Theo quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, ông nhìn nhận rằng nếu đánh giá theo đường lối của Đảng thì đó là một bước tiến trong phương thức chỉ đạo. Tuy nhiên, tiếp lời ông cho biết :

"Nhưng chúng tôi cho đấy là một bước thụt lùi của nền dân chủ".

"Sau khi thông qua Điều 4 của Hiến Pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam nên xây dựng một đạo luật để chỉ đạo Điều 4 ấy được thực thi như thế nào. Và ai là lãnh đạo trực tiếp toàn diện nhà nước với xã hội ? Điều 4 qui định Đảng lãnh đạo. Nói như thế thì tôi có thể nhảy vào chỉ đạo nhóm Nguyễn Xuân Phúc được không ? Không có một luật nào qui định cả".

Chính là sự tham dự của Đảng

Liên quan đến đường lối lãnh đạo và cơ cấu bộ máy nhà nước, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Thường trực Văn phòng Quốc hội Việt Nam cũng khẳng định cơ cấu ở Việt Nam là Đảng lãnh đạo toàn diện, trực tiếp, từ quân đội, công an đến tư tưởng.

Có ý kiến khá tích cực về vấn đề này, từ Sài Gòn, ông chia sẻ với chúng tôi việc "Tổng bí thư đến dự họp là không có vấn đề gì" :

"Vì trong Hiến pháp qui định ông Chủ tịch nước được dự tất cả phiên họp của Chính phủ cũng như Thường vụ Quốc hội. Tổng bí thư ở Việt Nam chưa là Chủ tịch nước nhưng Đảng lãnh đạo toàn diện và trực tiếp thì việc tham dự là không có vấn đề gì".

Luật sư Trần Quốc Thuận cho rằng mọi người bình luận khá nhiều về điều này chỉ vì "đây là điều chưa từng có tiền lệ trước nay".

Phân tích rõ hơn, ông nói tiếp :

"Tất cả những người trong Chính phủ từ Thủ tướng, các Phó Thủ tướng thì hầu hết là Bộ Chính trị. Còn các Bộ trưởng đều là Uỷ viên Trung ương. Đảng chủ trì bên Bộ Chính trị thì qua bên Chính phủ chủ trì tôi cho là bình thường".

Khác với ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, Luật sư Trần Quốc Thuận cho rằng việc tham dự và chỉ đạo của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là một bước tiến nhằm tránh bệnh quan liêu.

"Cái đó cũng tốt thôi. Đảng mà không nghe trực tiếp tin tức, thảo luận thì đôi khi lại đâm ra bệnh quan liêu. Đảng sợ nhất là quan liêu và sai lầm đường lối. Tôi nghĩ cái đó không vấn đề gì. Suy cho cùng thì kỳ họp Chính phủ cũng là triển khai những nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương hoặc nghị quyết của Bộ Chính trị, rồi triển khai dưới dạng nhà nước".

Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Việt Nam từ trước đến nay, Tổng bí thư chỉ từng xuất hiện tại các kỳ họp của Quốc hội với tư cách chủ yếu là Đại biểu Quốc hội. Như thế, nếu ông Nguyễn Phú Trọng có mặt và chỉ đạo hội nghị của Chính phủ vào ngày 28 tháng 12, thì đây là điều chưa từng có tiền lệ.

Với những diễn tiến hiện nay ở Việt Nam, thì đây là dấu hiệu của một bước tiến nhằm tránh bệnh quan liêu như nhận xét của của Luật sư Trần Quốc Thuận hay bước thụt lùi của dân chủ theo ghi nhận của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai ? Chính trường Việt Nam vẫn đang chờ câu trả lời. Và người hiện đang nắm giữ câu trả lời không ai khác hơn là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

*******************

'Hồ sơ Trịnh Xuân Thanh ở Đức không đổi' (BBC, 15/12/2017)

Ông Trịnh Xuân Thanh chính thức có luật sư bào chữa trước khi phiên tòa xét xử ông được mở trong thời gian tới, tin cho hay.

dang2

Bộ ngoại giao Đức khẳng định ông Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc tại Berlin

Luật sư của ông Trịnh Xuân Thanh tại Đức, bà Petra Isabel Schlagenhauf nói với BBC rằng theo thông tin bà có được, cho đến ngày 8/12 mới chỉ có một luật sư tại Việt Nam được tiếp xúc với ông Thanh.

Hôm 15/12, bà nói với BBC người đó không phải là ông Lê Văn Thiệp, người mới nhất vừa được cấp giấy chứng nhận bào chữa hôm 8/12.

Bà cho biết hiện bà đang chờ được cập nhật về tình hình thân chủ mình cũng như về các luật sư sẽ bảo vệ ông Thanh trong phiên tòa sắp tới.

Sau khi làm các thủ tục bào chữa, ông Thiệp nói ông đã tiếp xúc với thân chủ, và rằng ông Trịnh Xuân Thanh trong trạng thái 'tinh thần tốt', sức khỏe 'bình thường', VietnamNet đưa tin.

Trước đó, Luật sư Trần Hồng Phúc và hai người từ Văn phòng Luật sư Nguyễn Văn Chiến cũng đã được cấp giấy tương tự, báo Dân trí nói.

Như vậy, cho đến nay, các luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông Thanh đều thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội.

dang3

Luật sư của ông Trịnh Xuân Thanh tại Đức, bà Petra Isabel Schlagenhauf

'Phiên tòa của Việt Nam không làm thay đổi tình hình ở Đức'

Bà Schlagenhauf nói rằng bất kể việc ông Trịnh Xuân Thanh có bị đưa ra xét xử tại Việt Nam trong thời gian tới hay không, thì điều đó cũng không làm thay đổi địa vị pháp lý của ông tại Đức, cũng như quan hệ luật sư-thân chủ giữa bà và ông Thanh.

Tin tức từ Việt Nam hôm 4/12 cho hay vụ án "Trịnh Xuân Thanh và các đồng phạm tham ô tài sản" sẽ được đưa ra xét xử vào quý đầu năm 2018.

Ông Trịnh Xuân Thanh từng là Tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) vào tháng 12/2007, rồi Chủ tịch PVC từ tháng 2/2009.

Trong "vụ án Trịnh Xuân Thanh", hàng loạt các quan chức và cựu quan chức của PVC hoặc có liên quan tới PVC đã bị bắt và bị khởi tố bị can.

Mới đây nhất, hôm 8/12, ông Đinh La Thăng, cựu Ủy viên Bộ Chính trị, bị khởi tố và tạm giam do 'liên quan tới hai vụ án nghiêm trọng', trang Thông tin Chính phủ nói, trong đó có vụ tham ô tài sản tại PVC.

Tin tức nói ông Đinh La Thăng đã mời Luật sư Phan Trung Hoài, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, cùng một luật sư khác chưa được nêu tên, bảo vệ quyền lợi cho mình.

**************

Việt Nam : Diễn biến nhân sự cấp cao cuối năm (BBC, 15/12/2017)

Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam xác nhận ông Đinh Thế Huynh tiếp tục chữa bệnh, với việc không phụ trách Hội đồng Lý luận trung ương.

dang4

Ông Đinh Thế Huynh vẫn đang 'điều trị bệnh'

Ông Nguyễn Xuân Thắng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, sẽ phụ trách cơ quan này trong thời gian ông Huynh "nghỉ công tác để chữa bệnh".

Nhân vật số 5 tạm vắng

Lễ công bố quyết định của Bộ Chính trị diễn ra hôm 14/12.

Ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, vẫn giữ chức Chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương.

Xét về thứ bậc của Đảng, chức Thường trực Ban Bí thư đứng số 5 trong hàng ngũ Đảng.

Trước đó, ông Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư trung ương Đảng, là Phó Chủ tịch cơ quan này.

Ông Nguyễn Xuân Thắng, sinh năm 1957, thuộc số các chính khách được Đảng tín nhiệm, khi ông được vào Ban Bí thư trung ương Đảng ở Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa XII vừa qua.

Hồi tháng Tám, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Trần Quốc Vượng đã tham gia Thường trực Ban Bí thư, tạm thay ông Huynh.

Đà Nẵng 'lấn cấn' chức chủ tịch ?

Thành phố miền Trung Đà Nẵng trở thành "điểm nóng chính trị" tại Việt Nam năm 2017.

Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 đã cách chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh, đưa ông này ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

dang5

Ông Nguyễn Xuân Anh bị Đảng đưa ra khỏi Ban Chấp hành trung ương Đảng

Bộ trưởng Giao thông - Vận tải Trương Quang Nghĩa được Đảng Cộng sản phân công về lãnh đạo đảng bộ Đà Nẵng.

Trong khi đó, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Huỳnh Đức Thơ bị Đảng cảnh cáo nhưng giữ nguyên chức vụ.

Tuy nhiên, dường như uy tín của ông Thơ tại Đà Nẵng đang lung lay.

Hôm 13/12, tại buổi tiếp xúc cử tri, một số người dân kiến nghị Bí thư Trương Quang Nghĩa giải thích về quy trình xử lý kỷ luật đối với ông Huỳnh Đức Thơ, theo báo chí Việt Nam.

Cử tri Nguyễn Kim Tuấn được dẫn lời nói "nhiều cán bộ hưu trí không bằng lòng" khi ông Huỳnh Đức Thơ chỉ bị cảnh cáo.

Ông Trương Quang Nghĩa trả lời cử tri : "Chính phủ đã đưa ra hình thức kỷ luật cảnh cáo với ông Thơ. Bước tiếp theo như thế nào tùy theo uy tín và những sai phạm của ông Thơ có phải cách chức hay không, có đủ uy tín để làm nữa hay không".

Vị tân Bí thư Thành ủy Đà Nẵng cũng cho biết Hội đồng nhân dân thành phố này đã bãi nhiệm ông Nguyễn Xuân Anh nhưng vẫn chưa có ai thay.

"Các đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố nhất trí 100% đề nghị bầu ông Nguyễn Nho Trung làm Chủ tịch nhưng anh Trung chưa đủ điều kiện", ông Nghĩa nói.

Ông Nho Trung thuộc Ban thường vụ Thành ủy Đà Nẵng nhiệm kỳ 2015 - 2020, nhưng tổ chức này lại đang nằm trong thời gian bị kỷ luật cảnh cáo sau kết luận của Ủy ban Kiểm tra trung ương.

Bí thư Thành ủy Đà Nẵng nhắc lại Bộ Công an đang điều tra, làm rõ 9 dự án và 31 nhà công sản mà chính quyền đã bán cho các tập thể, cá nhân.

Những vấn đề liên quan đến bán đảo Sơn Trà và dự án Đa Phước vừa bắt đầu được thanh tra toàn diện và dự kiến sẽ kết luận tháng Ba 2018, theo ông Nghĩa.

Vị tân Bí thư Đà Nẵng nhấn mạnh nhu cầu ổn định.

"Trước hết là phải ổn định tình hình kinh tế, xã hội và Đà Nẵng không được phép đứng lại, phải tiếp tục ổn định để phát triển", ông Nghĩa nói.

Cũng liên quan đến nhân sự cao cấp trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Phạm Gia Túc, Phó bí thư thành ủy Cần Thơ vừa được điều động, phân công giữ chức Phó trưởng Ban Nội chính trung ương Đảng.

Published in Việt Nam

1. Giới thiệu Quy định 102

Ngày 15/11/2017 Đảng cộng sản Việt Nam ban hành Quy định số 102-QĐ/TW về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Quy định này thay cho Quy định số 181-QĐ/TW ngày 30/3/2013. Về hình thức : Quy định 102 gồm 31 trang A4, tổng trên 2 vạn chữ, quá dài. Về nội dung, có 5 chương với 37 điều. 

quydinh1

Ngày 15/11/2017 Đảng cộng sản Việt Nam ban hành Quy định số 102-QĐ/TW về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.

Chương IQuy định chung (6 điều). 

Chương II. Các vi phạm về chính trị, tổ chức. Điều 7. Quan điểm chính trị. 8. Tập trung dân chủ. 9. Bầu cử. 10.Tuyên truyền, phát ngôn. 11. Tổ chức, cán bộ. 12. Bí mật. 

Chương III. Các vi phạm về chính sách, pháp luật. Điều 13. Phòng chống tội phạm. 14. Thanh tra, kiểm tra. 15. Khiếu nại tố cáo. 16. Tham nhũng lãng phí. 17. Đầu tư xây dựng. 18. Tài chính ngân hàng. 19. Nhân đạo từ thiện. 20. An sinh xã hội. 21. Đất đai, nhà ở. 22. Văn bằng chứng chỉ. 23. Lập hội, biểu tình. 24. Hôn nhân gia đình. 25 và 26. Kết hôn, quan hệ với người nước ngoài. 27. Kế hoạch hóa gia đình. 28. Đạo đức y tế. 

Chương IV. Các vi phạm vềđạo đức lối sống, tín ngưỡng tôn giáo. 29. Lãnh đạo điều hành. 30. Chức trách công vụ. 31. Tệ nạn xã hội. 32. Bạo lực gia đình. 33. Đạo đức, nếp sống. 34. Tín ngưỡng tôn giáo. 

Chương V. Điều khoản thi hành (3 điều).

Quy định 102 có hình thức và nội dung tương tự so với Quy định 181. Có thêm 1 điều về thời hiệu xử lý kỷ luật (điều 3). Mỗi điều của các chương II ; III ; IV có 3 mục 1 ; 2 ; 3 ứng với 3 mức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, (hoặc cách chức), khai trừ. Mỗi mục (1 ; 2 ; 3) lại có các tiểu mục a ; b ; …i, k, kể ra chi tiết các hành động, lời nói, ý nghĩ vi phạm kỷ luật.

Tôi chưa so sánh toàn bộ từng chi tiết của Quy định 102 và 181, chỉ xin lấy vài so sánh làm thí dụ : mấy chữ cuối tiểu mục a, mục 3, điều 8 Quy định 102 viết là "Đảng và dân tộc" thì ở Quy định 181 viết là "Đảng và nhân dân" (thay Nhân dân bằng Dân tộc), ở cuối mục 3 điều 8 của Quy định 102 là : "đơn vị nơi mình sinh hoạt", còn tương đương ở Quy định 181 là : "đơn vị nơi mình sinh hoạt, công tác" (bớt chữ công tác), ở cuối mục 3 điều 10 là "đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta", còn ở Quy định 181 là "đối với Đảng" (thêm Nhà nước và chế độ ta), hoặc như tiểu mục e và g. mục 3 điều 13 là chia đôi nội dung tiểu mục e của Quy định 181. V.v….

Tôi chỉ mới tập trung xem các vi phạm bị khai trừ (mục 3 trong các điều), vấn đề được nhiều người quan tâm. Thấy rằng Ở Quy định 102 thêm vào khá nhiều việc mà ở Quy định 181 chưa nói tới. Lấy dẫn chứng điều 7 Quy định 102, có 10 tiểu mục (a đến k) với khoảng 350 từ, tương đương của Quy định 181 có 6 tiểu mục (a đến e) với 174 từ.

Quy định 102 thêm vào các việc như là : "Phản bác nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ; đòi thực hiện thể chế ‘tam quyền phân lập’, ‘xã hội dân sự’, ‘đa nguyên, đa đảng’. Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng. Tác động, lôi kéo, định hướng dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng. Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang ; đòi ‘phi chính trị hóa’ quân đội và công an ; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học – nghệ thuật. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước".

Điều 8, có thêm : "Trả thù người góp ý, đấu tranh, phê bình, tố cáo hoặc người cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến vi phạm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân mình". 

Điều 16 thêm 7 tiểu mục (từ e đến m) về các vi phạm liên quan đến lợi dụng chức vụ để tham nhũng, trục lơi, Điều 18 thêm tiểu mục e về thông đồng với cấp dưới để tham nhũng. Điều 31 vẫn giữ nguyên 5 tiểu mục, nhưng nội dungg vê đánh bạc được chuyển từ tiểu mục a (QĐ181) xuống tiểu mục đ (QĐ102).

II. Vài lời bình luận

Đọc xong Quy định 102 tôi có một số nhận xét sau :

1. Sự quá suy yếu của Đảng cộng sản

Một tổ chức (hoặc xã hội) là vững chắc, mạnh mẽ khi các thành viên tự giác hiểu rõ và thực thi đúng đắn, đầy đủ nghĩa vụ của mình mà ít cần đến khen thưởng hoặc kỷ luật.

Đảng cộng sản Việt Nam đang mắc vào lỗi nặng. Một mặt khi đảng viên vi phạm luật pháp thì được tổ chức đảng bao che bằng Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 7/7/2007, mặt khác, trong nội bộ lại ban hành nhiều quy định quá rườm rà về kỷ luật. Năm 1988 có chỉ thị số 27-CTCT/TW ngày 4 tháng 2. Tiếp đến Quy định số 94/QĐ-TW ngày 25/10/2007, tiếp theo là 181-QĐ/TW ngày 30/3/2013, rồi đến Quy định 102. Trong Quy định 94 năm 2007 mới chỉ có 12 điều. Càng ngày quy định càng dài thêm.

Người ta nhầm tưởng ban hành Quy định kỷ luật đảng viên càng dài, càng chi tiết chứng tỏ sự nghiêm minh và sáng suốt của cấp trên. Không phải. Nghĩ như thế, làm như thế là vấp phải nhầm lẫn lớn. Đảng đã có điều lệ, trong đó viết khá rõ về kỷ luật đảng viên. Đối với một tổ chức có trí tuệ, vững mạnh, như thế là đủ. Tại sao Đảng cộng sản Việt Nam lại thấy chưa đủ. Phải ban hành thêm hết quy định này đến quy định khác chỉ với 1 nội dung xử lý kỷ luật đảng viên, rồi cảm thấy còn thiếu nên ban hành thêm 19 điều cấm.

Để thắt chặt một tổ chức, có 2 loại liên kết : bên trong và bên ngoài. Liên kết bên trong là chất keo, đó là lý tưởng, là đoàn kết. Liên kết bên ngoài là các dây buộc, đó là các điều cấm, các loại kỷ luật. Liên kết trong làm cho người ta yêu thương, tin cậy nhau. Liên kết ngoài làm người ta nghi kỵ nhau, đề phòng nhau. Đã không thể tạo lập liên kết trong mà phải nhờ cậy liên kết ngoài thì còn đâu là tổ chức vững mạnh, chỉ cần đứt một vài dây buộc là tất cả sẽ tung ra. Hiện trạng của đảng cộng sản bây giờ là không có cách gì tạo được liên kết trong rộng rãi. Đúng ra khi đã rơi vào trạng thái như vậy thì phải tìm cách thay đổi từ gốc, tìm một loại liên kết trong khác, phù hợp, nhưng lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam. Vì thiếu trí tuệ nên chỉ thấy liên kết ngoài, chỉ có thể dùng dây buộc mà không thể dùng keo.

2. Ẩn giấu sự thiếu lòng tin vào cấp dưới và đảng viên

Điều lệ đảng đã ghi rõ 3 hình thức kỷ luật, cách tự kiểm điểm và kiểm điểm tại chi bộ, thẩm quyền thi hành kỷ luật, báo cáo, quyết định, khiếu nại. Mặc dầu trong điều lệ không ghi rõ các lĩnh vực và mức độ vi phạm ứng với từng mức kỷ luật, nhưng mỗi đảng viên có trình độ bình thường đều hiểu được rằng mắc lỗi nhẹ thì chỉ phê bình, góp ý, mắc lỗi vừa thì khiển trách, nặng hơn thì cảnh cáo, quá nặng thì khai trừ. Như thế nào là nhẹ hoặc nặng thì tập thể chi bộ thảo luận trên từng sự việc cụ thể, nếu không thống nhất thì còn báo cáo cấp trên, nếu không thỏa đáng thì còn khiếu nại. Tôi nghĩ, chỉ trừ vài trường hợp quá đặc biệt, tuyệt đại đa số các chi bộ đủ trí tuệ để biết mức độ kỷ luật cần thiết cho từng trường hợp.

quydinh1

Tài liệu hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng và Quy định mới nhất những điều đảng viên không được làm - Ảnh minh họa

Nếu đã tin vào khả năng các cơ sở đảng có thể vận dụng điều lệ thì cần gì phải ban bố hết quy định này đến quy định khác với những hướng dẫn rất chi tiết. Chỉ vì cấp trên không tin. Họ nghĩ rằng nếu không được hướng dẫn thật chi tiết thì cấp dưới có thể không biết, làm sai, không bảo đảm tính nghiêm minh. Việc này còn che giấu thói kiêu ngạo, coi thường người khác.

Người ta cho rằng phải vạch ra cho đầy đủ mọi trường hợp, mọi tình huống. Nhưng trí tuệ một vài người làm sao bao quát được mọi chuyện có thế xẩy ra, chưa xẩy ra trong cuộc đời. Mà thực ra không nên làm như vậy, không thể làm như vậy. Để đề phòng chuyện này trong Quy định cũng có nêu : "Trường hợp đảng viên vi phạm những nội dung chưa có trong Quy định này thì căn cứ vào quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước và vận dụng Quy định này để xử lý kỷ luật cho phù hợp" (điều 1).

Đã có Điều lệ Đảng và Pháp luật Nhà nước thì cần gì phải thêm Quy định 102. Còn nữa : "Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc cần bổ sung, sửa đổi thì báo cáo để Bộ Chính trị xem xét, quyết định" (điều 37).

3. Thể hiện sự kém trí tuệ, làm một việc quá lãng phí

Đảng cộng sản Việt Nam từ một đảng làm cách mạng chuyển thành đảng cầm quyền. Điều này đòi hỏi phải thay đổi nhiều thứ để phù hợp với vai trò và nhiệm vụ mới. Nhưng lãnh đạo của đảng vẫn cố duy trì cung cách cũ nên gặp phải nhiều mâu thuẩn, phát sinh nhiều khó khăn. Để giải quyết các khó khăn và mâu thuần này lãnh đạo không nghĩ ra được điều gì hay mà lại không chịu nghe những góp ý chân thành. Đó chỉ là do họ muốn bảo vệ lợi ích cá nhân và nhóm

Nếu không vì lợi ích cá nhân và nhóm mà thật sự vì lợi ích của Đảng và của Dân tộc thì những người lãnh đạo nên và phải làm theo cách khác. Cách nào ? Cách mà phần lớn các nước đang thực hành có hiệu quả là dựa vào 3 nguồn : Kinh tế thị trường tự do, Chế độ dân chủ đa nguyên với tam quyền phân lập, Xã hội dân sự.

Lãnh đạo cứ tưởng ban hành Quy định 102 sẽ củng cố được kỷ luật, tăng cường đoàn kết. Không đâu, ngược lại thì có. Có thể các đảng viên sẽ dè dặt hơn trong phát ngôn và hành động, nhưng sẽ sôi sục hơn trong ý nghĩ. Các đảng viên sẽ đề phòng nhau, tỏ ra sợ sệt hơn. Sự kém trí tuệ còn thể hiện trong một số chỗ nhầm lẫn và trinh bày ngô nghê, mà phải phân tích kỹ mới thấy được.

Về trình bày : Tuy nêu ra nhiều chi tiết vi phạm thuộc nhiều lĩnh vực, nhưng nhiều việc vẫn ở dạng tù mù vì chỉ là định tính trong một khoảng rất rộng. Nhiều câu văn, nhiều nội dung trùng lặp hàng vài chục lần, quá nhàm chán.

Cứ cho rằng khi mà kỷ luật trong đảng đã quá rệu rã, nguy cơ tự diễn biến quá cấp bách, rất cần xiết chặt tổ chức thì phải ban hành Quy định về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm như là một giải pháp tình thế. Nếu thế thì việc gì phải ra Quy định 102 dài dòng, chỉ cần bổ sung và sửa chữa một chút Quy định 181 là được. Việc soạn thảo, ban hành Quy định 102 gây ra tốn kém không cần thiết. Hay Quy định 181 do một người khác ký, bây giờ người mới phải ký để tạo uy danh. Không phải thế đâu. Với những người hiểu biết thì họ xem việc đó như là một kiểu đạo văn.

4. Ẩn giấu sự run sợ

Ban hành Quy định 102, bên ngoài tỏ ra kiên quyết, nhưng bên trong ẩn giấu sự run sợ, thể hiện bởi tăng cường kỷ luật khai trừ đối với nhiều vi phạm vừa được thêm vào. Đó là những lời dọa dẫm những kẻ yếu bóng vía, là nắm giẻ bịt miệng những kẻ cầu an, nhưng là trò cười đối với người có bản lĩnh.

Các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam quá tôn thờ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên đảng viên nào có ý phản bác là khai trừ ngay. Họ cũng quá thù hận thể chế ‘tam quyền phân lập’, ‘xã hội dân sự’, ‘đa nguyên, đa đảng’nên đảng viên nào dám đòi thực hiện thì phải khai trừ ngay. Họ cũng phải giữ cho được sự toàn trị, phải nắm thật chắc lực lượng vũ trang và báo chí, văn học, nghệ thuật, đảng viên nào nghi ngờ đến sự lãnh đạo trong 2 lĩnh vực đó phải khai trừ ngay.

Thử hỏi tôn thờ những thứ độc hại và mơ hồ, thù hận những xu hướng tiến bộ mà đại đa số các nước văn minh theo đuổi thì liệu có tồn tại được lâu dài. Chắc họ biết dư luận cho rằng khó có thế lực bên ngoài đánh đổ được cộng sản, mà cộng sản chỉ bị sụp đổ từ bên trong. Họ quá lo sợ cái thế lực bên trong ầy nên tìm cách tận diệt. Nhưng diệt thế nào được lực lượng phát sinh và phát triển theo đúng quy luật.

5. Ra oai và lên gân

Những vi phạm về tham nhũng, lảng phí viết ở điều 16. Điều này được bổ sung nhiều tiểu mục, kể ra rất nhiều hành vi, nhưng xem ra chỉ là đánh trống và hô khẩu hiệu. Việc chống tham nhũng và lãng phí ở dạng "đả hổ" tuy có làm dăm ba vụ nhưng hiệu quả chưa rõ ràng, còn loại ruồi nhặng tràn lan khắp nơi thì vài chục cái Quy định 102 chẳng làm gì được.

III. Nhận xét chung

Toàn bộ tinh thần, nội dung và văn bản của Quy định 102 thể hiện một trình độ trí tuệ quá thấp, có cái nhìn thiển cận, sự bảo thủ nặng nề, sự độc đoán lên tột đỉnh, sự quẩy đạp trong hấp hối. Rồi cũng sẽ giống như số phận của nhiều quyết định hoặc nghị quyết khác, tốn nhiều công sức và giấy mực để làm ra, tốn nhiều thời gian và công sức để phổ biến và quán triệt, nhưng rồi chẳng mang lại được nhiều kết quả tích cực, sẽ là lợi ít hại nhiều.

Để cứu vớt phần nào uy tín và danh dự của Đảng thì phải có những cải cách triệt để chứ không phải bằng cách tạo ra nhiều nghị quyết hoặc quyết định có giá trị quá thấp, mà lại cứ nhầm tưởng là kết quả của đỉnh cao trí tuệ.

Nguyễn Đình Cống

Nguồn : Tiếng Dân, 09/12/2017

Published in Diễn đàn

Vài tiếng sau khi Đinh La Thăng bị bắt, dân mạng truyền nhau một bức ảnh xuất phát từ trang Nhà Văn của blogger Người Buôn Gió, chú thích là do Trịnh Xuân Thanh chụp tại Đại hội Đảng mùa xuân năm ngoái. Trong hình, Tổng bí thư đảng cộng sản Nguyễn Phú Trọng và tân Bí thư Hồ thành Đinh La Thăng ôm nhau sánh bước, như hai cha con.

bacbeo1

Hai người ở giữa bức ảnh được cho là ông Nguyễn Phú Trọng (phải) và ông Đinh La Thăng (trái). Nguồn : Trịnh Xuân Thanh/NBG

Cũng chỉ 5-6 năm về trước, báo chí quốc doanh ca ngợi "anh Thăng" như gương mặt sáng nhất, trẻ trung, năng động, gần dân nhất trong đám lãnh đạo xôi thịt. (Tất nhiên chẳng báo nào dùng từ "xôi thịt", nhưng độc giả có thể hiểu là như thế).

Bây giờ thì cũng chính các tờ báo ấy đồng loạt trích dẫn thông cáo của công an để dập Đinh La Thăng xuống bùn. Tài liệu tố tụng, kết luận thanh tra các kiểu đương nhiên khẳng định rằng Đinh La Thăng có nhiều sai phạm nghiêm trọng. Nhưng dân chúng, trừ những dư luận viên vì nhiệm vụ mà giả vờ ngây thơ, ai mà chẳng hiểu tất cả chỉ là kết quả của cuộc đấu đá phe phái trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam. Và cũng chỉ hiểu đại khái như vậy.

Có thể nói, bao lâu nay, Đảng đã thể hiện hệt như một xới vật trùm bạt kín mít. Dân chúng ở ngoài hóng, chỉ nghe tiếng đấm đá bình bịch bên trong, tiếng ối á, và sau đó thấy "các đồng chí bị lộ" bị đánh bay huỳnh huỵch ra ngoài võ đài. Rồi lại thấy các đồng chí khác xông lên, mặt đỏ gay, ồ ạt lao vào bên trong. Thấy tấm bạt rung bần bật, rồi lại thấy bình bịch, ối á…

* * *

Mùa xuân năm 2016, trước và trong Đại hội Đảng – xới vật lớn nhất, tổ chức 5 năm một lần – cuộc chiến đấu diễn ra tàn khốc cả ngoài đời lẫn trên mạng. Ngay tại hội trường đại hội những ngày ấy, khi còn chưa ngã ngũ, Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng vẫn bước đi xênh xang, các đại biểu nhìn thấy ông vẫn dạt ra kính nể, miệng vẫn cười tươi thắm : "Anh ạ ạ ạ ạ"…

Vài ngày sau, khi Tổng bí thư đã toàn thắng, không khí khác hẳn. Người ta vẫn dạt ra tránh Ba Dũng, nhưng… gần như "tránh một vật gì rất tởm". Không chào hỏi nồng nhiệt nữa. Như không nhìn thấy ông ta nữa. Chừng như ai cũng muốn tỏ ra là chưa từng thân thiết, quen biết gì cái tay tham nhũng thất thế đó. Có lúc chụp hình lưu niệm, các đại biểu chen nhau, tranh nhau vị trí đẹp nhất (một bồn hoa trên bục) để pose hình bấm máy, mặc kệ cha con Thủ tướng đứng đợi mãi không tới lượt. Tình hình tệ đến mức chính mấy cảnh vệ phải ra nhắc nhở : "Các đồng chí từ từ, nhường Thủ tướng một tí, Thủ tướng chờ lâu rồi".

(Chuyện có thật).

* * *

Tuyên giáo cộng sản đã thành công trong việc nhồi sọ để dân đen bao năm nay vẫn nhai nhải "chính trị là xấu xa, thủ đoạn, người thanh cao, lương thiện phải tránh xa".

Kể ra cũng đúng, cái thứ chính trị mà đảng Cộng sản làm bấy lâu nay chẳng xấu xa, thủ đoạn, bẩn thỉu thì còn đẹp đẽ với ai.

Nó bưng bít, tù mù, đầy mưu mô, bí hiểm trước dân, mà tàn bạo và bạc bẽo với nhau.

Những đặc điểm ấy là tất yếu, và là đặc thù của một nền chính trị độc tài độc đảng, trong đó quan chức ngồi vào ghế lãnh đạo không phải nhờ lá phiếu của dân chúng mà nhờ khả năng tham nhũng, luồn lọt, thượng đội hạ đạp, khả năng đón đúng hướng gió, chọn đúng phe, đúng "chủ" mà "thờ". Quan chức mất ghế cũng không phải nhờ lá phiếu của dân chúng mà do đấu đá thua trận, do chọn nhầm phe, nhầm chủ…

Phạm Đoan Trang

Nguồn : Tiếng Dân, 09/12/2017

(FB Phạm Đoan Trang)

Published in Diễn đàn

Việt Nam : Mới mẻ trong xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm ? (BBC, 08/12/2017)

Dư luận Việt Nam đang chú ý việc Đảng cộng sản Việt Nam ban hành Quy định 102-QĐ/TW về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.

xuly1

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng giới thiệu ông Trần Quốc Vượng với Tổng bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình hôm 12/11 tại Hà Nội

Đây là Quy định được ông Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, thành viên Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương đã thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành hôm 15/11.

Thực ra, đây không hẳn là chuyện mới, vì nó chỉ thay thế Quy định 181-QĐ/TW đã ban hành ngày 30/3/2013.

Vậy có gì mới, khác trong việc xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm ?

So với quy định 181-QĐ/TW năm 2013, Quy định 102-QĐ/TW năm 2017 tăng hơn một điều, từ 36 lên 37.

Điều mới bổ sung

Một điều mới hoàn toàn, ghi trong Điều 3, nói về Thời hiệu xử lý kỷ luật :

- 5 năm đối với những hành vi vi phạm đến mức phải kỷ luật bằng hình thức khiển trách.

- 10 năm đối với những hành vi vi phạm đến mức phải kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức.

Không áp dụng thời hiệu xử lý kỷ luật đảng đối với những hành vi vi phạm đến mức phải kỷ luật bằng hình thức khai trừ ; vi phạm về chính trị nội bộ ; về an ninh, quốc phòng, đối ngoại có xâm hại đến lợi ích quốc gia và việc sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận không hợp pháp.

Xử lý 'kịp thời' và không luân chuyển

Về Nguyên tắc xử lý kỷ luật, lần này Đảng thêm một chữ "kịp thời" khi nói : "Tất cả các đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Đảng viên ở bất kỳ cương vị, lĩnh vực công tác nào, nếu vi phạm kỷ luật của Đảng đều phải được xem xét, xử l kỷ luật nghiêm minh, kịp thời".

xuly2

Bốn lãnh đạo cao nhất trong Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay

Cũng trong Điều 2 này, Quy định mới bổ sung chi tiết : "Không được luân chuyển, bổ nhiệm, phong, thăng quân hàm ; phong, tặng, công nhận các danh hiệu của Đảng và Nhà nước đối với đảng viên đang được tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, thi hành kỷ luật".

Khuyến khích 'báo cáo'

Điều 4 đề cập tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng mức kỷ luật đảng.

Nếu trước đây Đảng sẽ xem xét giảm nhẹ nếu "bị ép buộc mà vi phạm", thì bây giờ, câu này được sửa thành chỉ được xem xét nếu "bị ép buộc nhưng đã chủ động báo cáo với tổ chức".

'Trung thực trong lý lịch'

Định nghĩa Vi phạm về quan điểm chính trị và chính trị nội bộ, giờ đây Đảng thêm nội dung hoàn toàn mới : "Không trung thực trong khai lý lịch, lịch sử bản thân và bổ sung lý lịch đảng viên".

Một "vi phạm" mới nữa được ghi vào là "đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự", "đa nguyên, đa đảng".

Quấy rối tình dục

Cả hai quy định 2013 và 2017 đều ghi sẽ khiển trách nếu Có hành vi quấy rối tình dục dưới mọi hình thức mà "gây hậu quả ít nghiêm trọng".

Tuy vậy, nếu đọc tiếp, sẽ thấy cả quy định cũ và mới đều ghi thêm rằng "nếu tái phạm hoặc vi phạm lần đầu gây hậu quả nghiêm trọng" thì sẽ bị cảnh cáo hoặc cách chức.

Nếu hành vi quấy rối tình dục gây "hậu quả rất nghiêm trọng" thì sẽ bị khai trừ.

*******************

Thêm các cán bộ cao cấp bị bắt vì tham nhũng và lạm dụng chức quyền (RFA, 08/12/2017)

Một cán bộ cấp tỉnh là ông Võ Thanh Tùng ở thành phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai vừa bị bắt vì cáo buộc tội tham nhũng.

xuly3

Hình minh họa. Phiên tòa xử nguyên Giám Đốc ngân hàng Ocean Bank và nguyên Chủ tịch PetroVietnam Nguyễn Xuân Sơn (giữa) ở Hà Nội hôm 29/9/2017 - AFP

Ông Tùng từng đảm nhiệm chức vụ Trưởng Ban tổ chức thành ủy của đảng cộng sản tại thành phố Biên Hòa vào năm 2015, và cũng từng là Trưởng phòng Nội vụ thành phố Biên Hòa. Đây là hai cơ quan có nhiều quyền lực trong việc bổ nhiệm và tuyển dụng nhân sự trong thể chế của Việt Nam hiện nay.

Theo thông tin của cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Đồng Nai thì ông Tùng mắc hai sai phạm. Thứ nhất là ông đã cắt ngân sách dùng để khen thưởng các danh hiệu thi đua trong địa phương để bỏ túi riêng một số tiền là năm trăm triệu đồng. Thứ hai là ông đã nhận hối lộ 70 triệu để đưa một người vào làm công chức cấp phường.

Tin cũng cho biết là trước đó ông Tùng đã bị khai trừ ra khỏi Đảng cộng sản Việt Nam.

Hiện ông bị bắt tạm giam với tội danh lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

Cũng tại Đồng Nai, nguyên Tổng Giám đốc Công ty sổ xố kiến thiết và dịch vụ tổng hợp tỉnh Đồng Nai là ông Nguyễn Văn Minh, bị bắt với tội danh lạm dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ.

Tin cho biết là trong thời gian làm Bí thư đảng ủy của tổng công ty vừa nêu từ năm 2010 đến 2015, ông Minh đã có nhiều sai phạm trong công tác cán bộ, tức là việc điều động và tuyển chọn người dưới quyền ông.

Ông Minh đã tuyển người thân của mình vào làm việc, cũng như không khai đúng thu nhập, không quyết định mức thế chấp cho các đại lý vé số theo đúng qui định.

Tin báo chí Việt Nam loan tải nói rằng ông Minh đã không chấp hành nghiêm kết luận của Ủy ban kiểm tra tỉnh Đồng Nai, nhưng không nói rõ về quyết định này, cũng như không nói rõ là ông có bị khai trừi đảng hay chưa.

Liên quan đến việc kỷ luật đảng viên của Đảng cộng sản, cách đây hai hôm, ngày 6 tháng 12 năm 2017, báo chí nhà nước loan tin về một chỉ thị mới của Đảng cộng sản Việt Nam là chỉ thị 102, qui định sẽ khai trừ những đảng viên nào lên tiếng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi thực hiện tam quyền phân lập, hay xã hội dân sự.

Hôm 8 tháng 12, một viên chức cao cấp của đảng là ông Trần Đình Đồng, Vụ phó Vụ nghiên cứu, Ủy ban kiểm tra trung ương nói với báo chí rằng theo qui định 102, sẽ có những trường hợp phạm kỷ luật nhưng có thời hiệu thực hiện, tức là khi phát hiện việc phạm tội mà đã quá lâu thì không bị kỷ luật nữa.

Ông Đồng đưa ra hai thời hạn là 5 năm đối với hình thức kỷ luật khiển trách, và 10 năm đối với hình thức cảnh cáo và cách chức.

Tuy nhiên hình thức kỷ luật khai trừ đảng thì không có thời hiệu, liên quan đến những sai phạm thuộc về chính trị, an ninh, quốc phòng, xâm hại lợi ích quốc gia, sử dụng văn bằng giả.

Published in Việt Nam

Khai trừ khỏi Đảng nếu đòi "xã hội dân sự" hay "tam quyền phân lập" (RFA, 07/12/2017)

Chính phủ Hà Nội mới ra quyết định về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, trong đó có phần nêu rõ rằng nếu Đảng viên nào đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập" và "xã hội dân sự" sẽ bị kỷ luật bằng hình thức khai trừ.

khaitru1

Hình minh họa Tam quyền phân lập. Courtesy of blog Dandensg

Sự bế tắc ?

Quyết định kỷ luật Đảng viên do ông Trần Quốc Vượng Ủy viên Bộ Chính trị, thành viên Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương ký ban hành.

Theo văn bản này thì 3 khung kỷ luật chính được đưa ra. Đó là kỷ luật khiển trách, cảnh cáo hoặc cách chức và khai trừ khỏi Đảng.

Hình thức khiển trách là kỷ luật nhẹ nhàng nhất, dành cho những người bị xúi giục phát tán tài liệu trái với quan điểm của Đảng, hay có biểu hiện giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng,…

Hình thức cảnh cáo hoặc cách chức áp dụng cho những Đảng viên nói hoặc làm trái với quy định của Đảng và pháp luật, hoặc bị lôi kéo tham gia vào các tổ chức chính trị hoạt động trái phép,…

Hình thức khai trừ khỏi Đảng là nghiêm trọng nhất, trong đó ngoài việc lên tiếng đòi xã hội dân sự hay tam quyền phân lập, những Đảng viên phát ngôn xuyên tạc lịch sử hay phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, hoặc đòi đa nguyên đa đảng, bôi nhọ lãnh tụ, móc nối với các thế lực phản động… đều bị khai trừ.

Giáo sư Nguyễn Đình Cống, từng là giảng viên trường Đại học Xây dựng và đã tuyên bố ra khỏi Đảng cộng sản Việt Nam, cho rằng quyết định này thể hiện sự bế tắc của Đảng :

Tôi cho rằng quyết định này cho thấy sự quá lúng túng của Đảng cộng sản. Người ta muốn siết lại để Đảng viên không được cù quậy gì cả. Cách làm như vậy chứng tỏ họ sắp sụp đổ đến nơi rồi.

Người ta đưa ra những biện pháp kỷ luật sắt đá quá., siết ghê quá và quá hạn chế quyền tự do của các thành viên, chứng tỏ tổ chức đó đang nguy hiểm.

Sẽ có một số người ta sẽ dè dặt, sợ sệt hơn nhưng tư tưởng của người ta khó thay đổi. Một số sẽ mạnh mẽ hơn và tuyên bố tôi sẽ ra khỏi Đảng.

Đảng nói phải nghe !

Trước khi quyết định này được ban hành, đã có một số trường hợp bị khai trừ vì làm trái đường lối của Đảng. Điển hình là luật sư Nguyễn Đăng Trừng, nguyên Chủ nhiệm đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh. Ông đã lên tiếng yêu cầu sự độc lập khỏi Đảng cho đoàn luật sư ở Sài Gòn. Sau đó ông bị khai trừ với lý do xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng đoàn đối với hoạt động của Đoàn luật sư.

Luật sư Lê Công Định nói với RFA rằng trường hợp của luật sư Trừng trước kia và luật sư Võ An Đôn mới đây cho thấy sự "trả đũa" đối với những người không phục tùng sự chỉ đạo của Đảng.

Luật sư Võ An Đôn, tỉnh Phú Yên tuy không bị khai trừ khỏi Đảng nhưng bị xóa tên ra khỏi danh sách đoàn luật sư của tỉnh này vì những phát ngôn của ông trên mạng xã hội và những cuộc phỏng vấn với báo chí nước ngoài. Ông là người chuyên bào chữa cho những nhà hoạt động vì dân chủ nhân quyền bị bỏ tù. Luật sư Lê Công Định nói :

Chúng ta thấy rằng những trường hợp như luật sư Trừng, luật sư Đôn, tuy khác nhau về sự việc nhưng đều giống nhau ở chổ là cả hai người đều bày tỏ sự không phục tùng sự chỉ đạo của đảng cầm quyền. Ông Trừng thì không muốn có sự sắp đặt của đảng bộ ở Sài Gòn, muốn ông phải thôi chức vụ, bởi vì theo ông luật sư phải độc lập, và cái tổ chức luật sư ở Sài Gòn phải độc lập để bầu ra người lãnh đạo cho nó. Ông đã phản ứng lại việc ép ông không ra ứng cử nữa.

Trường hợp luật sư Đôn cũng vậy, ông không thể hiện sự phục tùng đảng cầm quyền. Họ luôn muốn ông là phải có những phát ngôn không phương hại đến địa vị cầm quyền của họ. Ông làm mất đi điều mà họ muốn bảo vệ trước mặt công chúng. Luật sư Đôn là người bộc trực, nói thẳng ra những vấn đề mà đảng cầm quyền không vừa ý.

Một nhân vật khác cũng bị khai trừ khỏi Đảng là nhà báo tự do Tiến sĩ Phạm Chí Dũng. Ông là người có nhiều bài viết về tình trạng tham nhũng ở Việt Nam. Lý do ông bị khai trừ được nêu rõ là ông truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Đảng. Tuy nhiên quyết định này được công bố sau khi ông nộp đơn xin ra khỏi Đảng. Ông Dũng đã không chấp nhận quyết định này và phủ nhận các cáo buộc cơ quan chức năng đưa ra đối với ông.

Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội lại cho rằng quyết định khai trừ Đảng viên đòi xã hội dân sự và tam quyền phân lập là điều hết sức bình thường bởi vì bất cứ tổ chức nào cũng có điều lệ riêng mà người tham gia phải tuân theo :

Công dân có quyền khác và người Đảng viên có quyền khác. Họ bị ràng buộc bởi vì khi đã vào Đảng thì phải chấp nhận những quy định, nghị quyết trong điều lệ Đảng.

Nếu ai không tuân theo những quy định đó thì họ kỷ luật, thậm chí là người đó không còn trong Đảng vì họ tự nguyện xin ra. Đó cũng là chuyện bình thường.

Trong tổ chức nào cũng thể, Đảng hay hội, đoàn thể đều có nội quy. Ai vi phạm nội quy đều có hình thức xử lý. Họ có tôn chỉ, mục đích. Cho nên tôi cho rằng quyết định đó mang tính chất rất nội bộ trong Đảng.

Luật sư Thuận khuyên những ai có ý tưởng xã hội dân sự hoặc tam quyền phân lập có thể xin ra khỏi Đảng để thực hiện ý định của mình, hoặc vẫn ở lại trong Đảng để đấu tranh.

Ở Việt Nam hiện nay có một số tổ chức xã hội dân sự mà có thành viên là Đảng viên Đảng cộng sản, chẳng hạn như Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng. Nhiều ý kiến cho rằng quyết định này có thể khiến thành viên của các tổ chức này bị khai trừ khỏi Đảng. Từ năm 2013 đến 2014, khoảng hơn hai chục tổ chức xã hội dân sự được hình thành ở Việt Nam.

Cựu Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển trong buổi làm việc về cải cách thể chế tại Hạ Long đã từng nói đã đến lúc thừa nhận xã hội dân sự. Bản chất của nhà nước mang tính quan liêu, và để khắc phục quan liêu thì cần phát huy vai trò của xã hội dân sự.

Nhà hoạt động xã hội dân sự Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng gọi đây là một quyết định cực đoan, kìm hãm sự phát triển của đất nước :

Giống như khi chiếc xe chuyển động, luôn có lực ma sát kìm hãm sự phát triển đó. Xã hội cũng luôn luôn như thế. Nếu Đảng nào không rộng mở, bao giờ cũng có những phần tử cực đoan như vậy. Giữa những người tiến bộ và những phần tử cực đoan, cái nào thắng thì sẽ đi theo cái đó.

Đảng quyết định như vậy, những người không thích thì họ xin ra thôi. Nếu cảm thấy quy định của Đảng là hợp lý thì ở lại.

Nhưng tôi nghĩ những người đã nói như vậy thì họ sẽ tiếp tục nói chứ không bao giờ khác.

Theo quan điểm của Giáo sư Nguyễn Thế Hùng, qua quyết định này, Đảng cộng sản Việt Nam đã gián tiếp tuyên bố rằng chừng nào còn Đảng thì đừng có mơ tưởng đến xã hội dân sự hay tam quyền phân lập.

Tam quyền phân lập có thể hiểu đơn giản là 3 quyền của Nhà nước là hành pháp, lập pháp và tư pháp được chia cho 3 cơ quan độc lập nắm giữ. Ở Việt Nam hiện nay ba quyền này đều do Nhà nước quản lý.

Khái niệm xã hội dân sự thì phức tạp hơn, nhưng có thể tóm tắt rằng nó được cấu thành từ các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện tạo nên một xã hội tự vận hành, khác với cấu trúc quyền lực của một Nhà nước. Đôi khi khái niệm này được sử dụng theo nghĩa tổng quát hơn, tức là các yếu tố như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tôn giáo, biểu tình, tư pháp độc lập,…để tạo nên một xã hội dân chủ.

RFA tiếng Việt

*********************

Khai trừ đảng viên đòi thể chế xã hội dân sự (RFA, 06/12/2017)

Đảng viên Cộng sản Việt Nam nào đòi thực hiện thể chế ‘tam quyền phân lập’, ‘xã hội dân sự’, ‘đa nguyên- đa đảng’ sẽ chịu hình thức kỷ luật khai trừ.

dcs1

Hình chụp các ủy viên Trung ương Đảng tại lễ bế mạc đại hội đảng thứ 12 ngày 28/1/2016 ở Hà Nội -  AFP

Đây là một nội dung trong Quy định được người đại diện Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trần Quốc Vượng, thành viên thường trực Ban Bí Thư/ Chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm Tra Trung ương đảng, ký ban hành và truyền thông trong nước loan đi vào ngày 6 tháng 12.

Theo Quy định số 102 ngày 15 tháng 11 năm 2017 thì ngoài những vi phạm vừa nêu, những đảng viên cộng sản Việt Nam sẽ bị khai trừ nếu cố ý nói, viết có nội dung bị đảng cho là ‘xuyên tạc lịch sử, sự thật, phủ nhận vai trò lãnh đạo và thành quả của Đảng và dân tộc ; phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.’

Quy định số 102 cũng nêu rõ sẽ khai trừ những đảng viên cộng sản Việt Nam nào ‘phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng đối với lực lượng vũ trang, đòi phi chính trị hóa quân đội và công an ; phủ nhận vai trò của đảng đối với báo chí, văn học- nghệ thuật ; sáng tác, quảng bá những tác phẩm căn hóa, nghệ thuật mà bị đảng cho là lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của đảng và các lãnh đạo đảng, nhà nước’.

Quy định số 102 của đảng còn nêu rõ biện pháp kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đối với một số hoạt động bị cho là vi phạm như ‘bị người khác xúi giục, lôi kéo, mua chuộc mà có hành vi nói, viết, lưu trữ, phát tán, xuất bản, cung cấp thông tin, tài liệu, hiện vật với nội dung mà đảng cho là trái với đường lối, quan điểm của đảng….’

****************

Động cơ chống tham nhũng của ông Nguyễn Phú Trọng (VOA, 06/12/2017)

Xoa dịu s phn n ca người dân, tăng cường s kim soát trong Đng, đu tranh phe phái, ci thin hình nh ca khu vc Nhà nước và cng c nim tin ca các nhà đu tư nước ngoài có th là một s nguyên nhân khiến cho Tng bí thư Nguyn Phú Trng tiến hành chiến dch chng tham nhũng quyết lit, theo nhn đnh ca nhà báo David Hutt trên t AsiaTimes.

dcs2

Ông Đinh La Thăng đã bị khai tr khi B Chính tr

Trong bài báo có nhan đề "S h bi Vit Nam t đến mc nào", nhà báo David Hutt đã điểm lại nhng v án tham nhũng ni cm Vit Nam trong thi gian qua như v Trnh Xuân Thanh PetroVietnam, v Hà Văn Thm và Nguyn Xuân Sơn OceanBank và PetroVietnam.

Bài báo dẫn li vic ông Trng yêu cu sm đưa Trnh Xuân Thanh ra xét x và cho rng việc x ti ông Thanh có ý nghĩa quan trng vi ông Trng cho nên Vit Nam mi bt chp vic rn nt quan h ngoi giao vi Đc đ đưa ông Thanh – vn ln trn Đc – v Vit Nam quy án.

"Một s người cho rng chiến dch bài tr tham nhũng ca ông Trng là một n lc đ xoa du qun chúng trong nước vn đang phn n vi tình trng tham nhũng rõ ràng ngày càng lan rng trong Đng", bài báo viết và dn li Giáo sư Carl Thayer thuc Đi hc New South Wales Úc cho rng các phiên tòa và các hình pht nng n được báo chí đưa tin rng rãi là nhm mc đích này

Trong vụ án PetroVietnam-OceanBank, có tng cng 51 b cáo b cáo buc các ti danh t bin th công qu cho đến la đo. Hà Văn Thm b kêu án chung thân còn Nguyn Xuân Sơn b tuyên án t hình.

Tuy nhiên các nhà phân tích cũng nghi ngờ có âm mưu chính tr đng sau chiến dch này. Mt phn là do hi tháng Năm, ông Đinh La Thăng đã b đưa ra khi B Chính tr và sau đó b cách chc Bí thư Thành y Thành ph H Chí Minh. Đây là ln đu tiên trong vòng hơn 20 năm qua ở Vit Nam mi có mt y viên B Chính tr b khai tr như vy. Ông Thăng là đng minh thân cn ca cu Th tướng Nguyn Tn Dũng.

Ông Trọng được cho rng đang tìm cách thanh trng phe cánh ông Dũng và nh tn gc mng lưới li ích mà ông Dũng đã xây dựng khi ti nhim vn bao gm b máy lãnh đo ti PetroVietnam và OceanBank.

Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rng vic bè phái trong Đng vi vic chng tham nhũng là hai chuyn khác nhau và không có liên quan gì vi nhau.
M
t lý do na là ông Trng mun tăng cường s kim soát ca ông đi vi Đng khi mà ti kỳ Đi hi Đng ln ti vào năm 2021, ông bt buc phi v hưu sau hai nhim kỳ trên cương v Tng bí thư. Do đó, nhiu kh năng ông Trng mun đm bo rng dàn lãnh đo mi phi tuân th đường li ca Đng.

Chỉnh đn li khu vc kinh tế quc doanh vn làm tht thoát ln tài khon quc gia cũng là mt lý do. Đc bit điu này li càng quan trng trong bi cnh chính quyn Vit Nam đang kêu gi c phn hóa các doanh nghip Nhà nước t các nhà đu tư nước ngoài.

"Mặc dù các nhà đu tư nước ngoài đã th hin s quan tâm ln đi vi Sabeco và Habeco (hai tp đoàn đang kêu gi nhà đu tư nước ngoài mua c phn), các doanh nghip nhà nước khác không có được s quan tâm như vy do tiếng tăm đã b hy hoi sau nhiu năm xy ra tình trng tham ô và qun lý yếu kém", bài báo viết.

Bất chp nhng n lc này, Giáo sư Carl Thayer được dn li cho rng nó "không có tác dng răn đe cho lm trước tình trng tham nhũng thâm căn c đế Vit Nam". Theo li ông gii thích, đó là vì "nguyên nhân gốc r là qun tr đt nước yếu kém khi không có mt h thng kim toán, điu tra và công t đc lp không b chi phi bi nh hưởng chính tr".

Published in Việt Nam

1

Đi cho biết đó biết đây

Ở nhà với mẹ, biết ngày nào khôn

Lời ru ấy đã thấm sâu vào tiềm thức của bao người và nó thôi thúc họ lên đường, khi đã đủ lông – đủ cánh. Trước, khám phá thiên hạ – sau, mở mang đầu óc. Khoác tay nải lên vai và bước chân ra khỏi cửa, họ giống nhau ở chỗ, đều mang thân phận lữ khách.

di1

Đi cho biết đó biết đây - Ảnh minh họa

Tuy vậy, trình độ và mục đích, thiên hình – vạn trạng. Nào phải, ai cũng giống ai :

Người khôn, như con ong mật : Mắt, họ chỉ nhìn điều hay – tai, họ chỉ nghe lẽ phải. Tinh hoa của thiên hạ, được họ tiếp thu và vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh cụ thể của mình. Thế và lực của họ, nhờ đó, hưng khởi.

Thiên hoàng Minh Trị – một minh Quân của đất nước Mặt trời mọc, là 1 ví dụ. Không thỏa mãn với những thành tựu mà Nhật bản đã có được, Ngài chủ trương cách tân và phóng tầm mắt, nhìn ra năm Châu – bốn bể. Sau đó, du nhập có chọn lọc, những tinh hoa kĩ thuật của phương Tây. Cộng thêm, những ưu việt của nền Văn hóa khai phóng và nền Dân chủ tiến bộ của nó. "Lượng đổi – chất đổi". Những tiền đề đó, cộng với "nền Văn hóa đậm đà bản sắc Dân tộc", là điểm tựa vững chắc, đảm bảo cho Nhật bản không gục ngã, ngay cả trong những lúc : Đất nước, tưởng chừng đã kiệt quệ sau hoang tàn của chiến tranh hoặc sau những thảm họa kinh hoàng của Tự nhiên. Không những thế, còn ngạo nghễ vươn lên và phát triển hùng cường – thịnh vượng, như ngày hôm nay.

Loại thứ 2, khôn ngang bò. Loại này, dẫu có được dẫn sang tận La Mã để gặm cỏ, khi trở về, chúng vẫn chỉ là những con bò. Vô thưởng – vô phạt như thế, nhưng suy cho cùng, nó cũng chẳng làm hại ai. Trái lại, ăn cỏ của thiên hạ, còn chuyển hóa được nó thành thịt và sữa. Sau đó, hiến dâng những sản phẩm hữu ích đó, cho đời.

Viết đến đây, tự dưng chạnh lòng. Chợt nhớ tới thân phận của những lao nô và đĩ điếm của thời hiện tại. Vì họ, mà Cả Lú đã phải lao tâm – khổ tứ, suy nghĩ đến bạc cả lông đầu. Tam khoanh – tứ đốm, vẫn không ngoài cái chuyện : xuất khẩu họ (một cách nói khoa trương – mĩ miều của cái chuyện buôn người, ở thời @), đi đâu và cho thật nhiều. Để cuối cùng, y và đám đồng đảng, ngồi dạng tè he ra, hả hê mà đếm những đồng Obama đẫm mồ hôi – máu và nước mắt của họ.

– Những người cộng sản, ngay từ "thế hệ vàng F1", đã không được như hai loại kể trên. Cuộc sống đói cơm – rách áo, khiến họ phải tha phương cầu thực. Thân phận thấp hèn, để xuất dương, họ phải mang tính mạng của mình ra, đặt cược. Người thì đi rửa bát trên tàu thủy – kẻ lại đến quét tuyết ở Paris. Đêm đông giá lạnh, không có tiền, họ phải ngủ cùng "gạch nướng", ở những quán trọ tồi tàn (Lạy Thánh mớ bái, chỉ mong, đấy là những viên gạch thật, làm bằng đất sét. Chứ không phải loại gạch, làm bằng xác thịt của những loài đĩ bợm, nơi đầu đường – xó chợ). Đầu chày – đít thớt ; vặt mũi – đút miệng. Chạy ăn từng bữa, còn chẳng đủ. Tưởng, hơi đâu mà : "mơ thấy cưỡi rồng, lên thượng đế". Sự thực, không phải như thế. Chí của những vĩ nhân cộng sản đời F1 vĩ đại hơn nhiều và vượt quá sức tưởng tượng của đám đông dân chúng. Đũa mốc, nhưng họ vẫn cố chòi mâm son. Bởi vậy, lạy lục – cạy cục, xin vào học ở những trường danh tiếng của Mẫu quốc – nơi, chỉ "đào tạo tay sai cho chế độ Thực dân". Trình độ và cả văn hóa nữa, đều lùn. Hệ quả tất yếu, đơn từ của họ, sớm bị xếp vào cái tủ "Hồ sơ lưu" và chờ được bạch hóa, vào thời điểm thích hợp.

Bị thế giới văn minh ruồng rẫy, quẫn chí, họ đành chu du sang Nga la tư. Đập ngay vào mắt họ, là cái cảnh, bọn cầm quyền ở đó, rặt một lũ vô lại. Phẩm chất nổi trội nhất của chúng : tham lam – dốt nát – độc ác và cuồng tín. Thế mà, chỉ với cây súng và nhà tù trong tay, thoắt cái, chúng đã trở thành ông chủ nô với quyền hành tuyệt đối. Chúng được độc quyền Chân lý. Chúng được độc quyền cưỡng bức và mặc sức bóc lột dân chúng – đám lao nô thời hiện đại. Không phải làm lụng vất vả, lũ dòi bọ ấy, vẫn được vinh thân – phì gia. Ngẫm thấy, nó vô cùng thích hợp với mình. Bởi vậy, gắng công nghiên cứu và học hỏi cái chủ thuyết cộng sản. Đặng đem về và gieo rắc nó trên mảnh đất quê hương.

Tầm nhìn hạn hẹp, đã thế, lại chỉ nghĩ đến mình. Bởi vậy, họ không thấy được mặt trái của Chủ nghĩa cộng sản. Cái thứ, "chỉ là giấc mơ của vài người, nhưng là cơn ác mộng của tất cả nhân loại" – Victor Hugo. Thậm chí, còn được diễn đạt một cách thậm tệ hơn, bởi một vị chân tu : "Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng đôc, sinh sôi nẩy nở, trên rác rưởi của cuộc đời" – Đức Dalai Lama lãnh tụ tinh thần của Phật giáo Tây Tạng.

Chủ thuyết cộng sản, được sinh ra, bởi băng đảng thảo khấu của bọn khủng bố – bởi lũ khát máu và bởi những kẻ độc tài. Tất cả, đều ở đẳng cấp bệnh hoạn. Bản thân cái Lý thuyết "đấu tranh giai cấp" hoang đường đó, đã đi ngược lại tất cả những quy luật của Tự nhiên và Xã hội. Lẽ ra, nó chẳng thể có chỗ đứng trong Xã hội của loài người. Tuy vậy, Lênin và sau này, cả Stalin nữa, đã lần lượt đem nước Nga và một phần của Đông Âu ra, để làm chuột bạch. Đi đến đâu, chúng gieo rắc kinh hoàng đến đó. Về mặt này, tuy có cùng gốc S, nhưng IS và ngay cả cái tổ chức SS khét tiếng của nước Đức Quốc xã, còn lâu mới bén được gót của cộng sản.

Sức chịu đựng của con người, là có giới hạn. Cuối cùng, chính những nạn nhân của chế độ cộng sản, đã phải vùng lên. Họ đã buộc phải ra tay và họ đã buộc phải lên tiếng. Bây giờ, chế độ cộng sản đã tuyệt chủng ở Châu Âu và đừng mơ, sẽ có ngày, nó được phục sinh tại đó.

Những thế hệ sau của những người cộng sản Việt Nam, chẳng phải, đều là lũ cặn bã bỏ đi. Do đó, không thể nói, họ không biết đến những điều đó. Chính vì biết rất rõ, nên chúng đã lặng lẽ quay đầu lại với cái chủ nghĩa cộng sản vô luân – vô thần. Xưa, họ kêu gào đánh đổ chế độ "người bóc lột người". Nay, chính chúng mở cửa, rước những ông chủ Tư bản vào. Để cùng họ, bóc lột công nhân Việt Nam. Sợ lợi nhuận khủng, còn chưa đủ đô, chúng nhẫn tâm, mang "con gái Việt Nam rất đẹp" ra, để mồi chài và khuyến mại.

Chúng đem cái chủ thuyết Mác – Lê khốn nạn về Việt Nam. Chúng bắt dân chúng phải thờ phụng và phải sống chung với nó. Trong khi, gia đình – của cải – con cái và ngay cả bản thân chúng nữa, hoặc cách li – hoặc tránh xa nó. Như, tránh hủi. Bằng chứng, những thứ quí giá nhất đó của chúng, đều đã lần lượt được gửi đi tị nạn ở những nước Tư bản giãy chết. Sự khốn khổ của Nhân dân Việt Nam – sự tan hoang của Đất nước Việt Nam, là vật thế chấp cho cuộc sống xa hoa – phè phỡn của bè lũ chóp bu cộng sản, ở nơi "Tây phương cực lạc". Ở đó, chúng hưởng thụ, ngay và luôn. Cần quái gì, phải đợi đến thì tương lai – Cần quái gì, phải đợi đến chết, mới đến được cái xứ "Tây phương cực lạc" (chắc gì đã có) của nhà Phật.

Thật là, tuyệt đỉnh của sự đểu cáng và ác độc.

Truyền thuyết Việt, kể rằng : Kết thúc quá trình lưu đày, Mai An Tiêm mang được giống Dưa hấu đỏ về cho quê hương. Xóm làng, nhờ đó, mà sung túc. Chuyện của chàng, nhờ đó, mà truyền tụng đến tận ngày nay. Ngược lại, những người cộng sản, sau khi xuất dương, đã du nhập cái chủ thuyết "đấu tranh giai cấp" đẫm máu về Việt Nam. Sự kiện này, quả thật, đã tạo ra một bước ngoặt vĩ đại – đã tạo ra một cơn địa chấn kinh hoàng trong Lịch sử của Dân tộc. Nó, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân – là căn nguyên của mọi loại tội lỗi, dẫn đến sự băng hoại toàn diện về mọi mặt của Đất nước Việt Nam hiện nay.

Ra ngoài đường, ăn đến mòn cả bát đĩa của thiên hạ, nhưng cái hay của họ, lại không học được. Cuối cùng, nhẹ thì nói là, chỉ tha được phân – xúc được cứt của họ về và đổ vào giữa nhà của mình. Nặng thì nói là, dắt được đám voi hoang về, để chúng "dày mả tổ".

Đó là cách thứ nhất, mà những người cộng sản đã làm, để tri ân đất Mẹ và cũng là cách, mà chúng đã dùng, để báo hiếu cho quê hương Việt Nam.

2

Bây giờ, trừ những loại không còn tim – óc, tuyệt đại đa số đảng viên và ngay cả ông Đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng, cũng đã nhìn ra chân tướng của Chủ nghĩa cộng sản. Họ không còn niềm tin vào sự thành công của nó nữa. Bằng chứng, chính là lời thú nhận một cách công khai của ông Đảng trưởng : "đến hết thế kỉ này, chắc gì đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam". Ông ta, nói đúng. Nhưng, chưa đủ sức thuyết phục. Triết gia Trần Đức Thảo, mới xứng đáng là bậc thầy của vấn đề này, khi chỉ ra gốc rễ của nó : "Không có thứ lí luận biện chứng nào, có thể chứng minh rằng : một xã hội đầy đen tối, đầy dối trá độc ác quỉ quyệt đầy hận thù tranh chấp đầy chia rẽ và tham nhũng của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân thật đoàn kết thương yêu tốt đẹp trong tương lai". Ngắn gọn và dễ hiểu, những lão nông quê tôi, dạy con cháu : "Gieo cỏ dại xuống ruộng, đừng có mơ, sẽ thu hoạch được ở đó, cả một cánh đồng lúa chín vàng".

Không tin vào chủ thuyết cộng sản, nhưng Cả Trọng và đám đồng đảng, đâu có thể dễ dàng từ bỏ nó. Trái lại, phải cố sống – cố chết, để duy trì và bám chặt lấy nó. Dễ hiểu, bởi rũ bỏ nó, lấy đâu ra đặc quyền – lấy đâu ra đặc lợi. Hơn ai hết, chúng biết rất rõ : "Bỏ điều 4, là tự sát".

Nước lã, chẳng dễ trộn với dầu hỏa. Đây, có thể nói, là một trong những nhiệm vụ bất khả thi của hệ thống Tuyên giáo cộng sản. Chúng chẳng có nhiều sự lựa chọn, ngoài chuyện nâng bi – thổi kèn và tô son – trát phấn cho cái thây ma cộng sản, đang trong quá trình phân hủy và thối rữa.

Đầu tiên, chúng ngụy biện một cách hết sức củ chuối rằng : Chủ nghĩa khủng bố cộng sản, kết hợp với lòng yêu nước, đã giúp Việt Nam đánh Pháp – đuổi Mỹ và cuối cùng, đã giành được Độc lập.

Quả là, có cái chuyện đánh được Pháp và đuổi được Mỹ. Nhưng, không có cái chuyện : "chúng ta làm chủ của mình, từ đây". Trước hết, hãy nghe lời thú nhận của Võ Văn Kiệt – một lãnh đạo chóp bu của cộng sản, qua xác nhận của tướng Trương Giang Long : "Khi nào mà đảng ta thực sự độc lập về đường lối, thì bấy giờ, Đất nước có những chuyển biến tích cực". Trên thực tế, Đất nước ta đã phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc. Phụ thuộc đến mức, không thể giãy ra được nữa. Từ Chính trị – Kinh tế – Ngoại giao – An ninh – Quốc phòng…, cho tới Văn hóa và lối sống. Chỉ xin, nêu một dẫn chứng : Khi Trung Quốc tỏ ý không thích lập trường chống họ một cách quá thái quá của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, ông này, ngay lập tức, đã bị Đảng cộng sản Việt Nam cách chức và cho về vườn.

Sinh ra ở trên đời, từ cá nhân cho tới quốc gia, ai cũng có khát vọng vươn lên – ai cũng có khát vọng làm chủ. Chuyện đó, thường tình. Ngặt nỗi, đâu có phải "muốn, là được". Ối kẻ, không tài giỏi – không có đầu óc tổ chức – không có vốn – không có mối quan hệ rộng… nhưng vẫn không lượng được sức mình. Chúng vẫn liều lĩnh, tranh bá với thiên hạ. Hậu quả, đau lòng. Bao nhiêu kẻ đâm đầu vào đá như thế – bấy nhiêu người, phải nhảy lầu tự tử. Khi không đủ trình độ, để làm "thày của thằng dại", người không quá ngu, ắt phải chọn "thằng khôn", để phò – để mà, được làm đầy tớ cho chúng.

di2

Ảnh minh họa. Nguồn : internet

Đảng ta, à quên, Đảng cộng sản, mặt ngay – tay đờ và khôn hơn lợn. Họ thừa biết, với năng lực của mình, vĩnh viễn, họ không thể tranh bá với thiên hạ. Muốn ngồi được lên đầu – lên cổ Dân tộc Việt, bắt buộc, họ phải dẫn ngoại bang vào và chấp nhận thân phận làm tay sai cho chúng. Có điều, họ không chịu làm đầy tớ cho thằng khôn. Họ đã bắt chúng ta, đổ ra bao nhiêu máu xương và vô số tiền của. Mục đích, đuổi đi cho bằng được, 2 nền Văn minh của nhân loại. Đó là, Pháp và Mỹ. Sau đó, chúng "sáng suốt", quàng cái xích chó vào cổ và tình nguyện, làm nô lệ. Trước, cho Quốc tế cộng sản. Thông qua việc, xin được làm tên lính xung kích – xin được làm, cái gọi là "tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa". Đồng nghĩa với việc : mang giang sơn gấm vóc Việt ra, làm bãi chiến trường. Bây giờ, không thể rõ ràng hơn, đang xin nhận thân phận làm chư hầu, cho cái bọn man di – mọi rợ Tàu cộng.

Một sự lựa chọn, không hề đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Dân tộc Việt Nam.

Mang chủ thuyết "đấu tranh giai cấp" ra làm phương tiện, để giành Độc lập. Cho dù, có thành công, thì đó cũng chỉ là cách "dùng thuốc độc, để giải khát".

Sinh thời, Hồ Chí Minh, đã từng nói một câu rất chí lý : "Nếu nước Độc lập mà dân không hưởng Hạnh phúc – Tự do, thì Độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Ngặt nỗi, ông và những truyền nhân của mình, đến vế đầu còn chẳng thực hiện được, mong chi đến cái chuyện Hạnh phúc, với lại Tự do. Tệ hơn nữa, thuốc độc Mác – Lê, đã ngấm sâu vào cơ thể và đã đến lúc, nó phát tác dữ dội. Hậu quả, Thiên nhiên và cả Xã hội của chúng ta nữa, đã bị băng hoại đến mức, khó mà có thể phục hồi.

Đó là cách thứ 2, mà những người cộng sản đã làm, để tri ân đất Mẹ và cũng là cách, mà chúng đã dùng, để báo hiếu cho quê hương Việt Nam.

3

Paul Doumer – Toàn quyền Đông Dương, thời kì 1897 – 1902, trong cuốn hồi kí "Xứ Đông dương" của mình, đã đánh giá rất cao về người Việt : "Người Annam, chắc chắn là tộc người ưu trội so với các tộc người xung quanh. Người Cao miên, Ai lao và Xiêm la đều không thể chống lại được họ. Không một quốc gia nào trong Đế quốc các xứ Ấn độ có những phẩm chất như họ. Phải tới tận Nhật bản, mới có tộc người có phẩm chất của người An nam và giống như người An nam. Người An nam và người Nhật bản, chắc chắn có mối quan hệ thân tộc từ xa xưa. Cả hai, đều thông minh, cần cù và dũng cảm… So với các dân tộc khác ở Châu Á, trên tư cách người thợ và người lính, người An nam, vẫn xếp cao hơn một bậc".

Cùng có phẩm chất ngang nhau vào đầu thế kỉ XX. Nhưng người Nhật, được những người thông minh – có tâm hồn cao thượng và giàu chất nhân văn lãnh đạo. Bởi thế, Dân tộc và Đất nước của họ, vươn lên không ngừng. Ngược lại, người An nam, bị Đảng cộng sản nô dịch. Cho nên, bị "lưu manh hóa" và đã trở thành một lũ mọi rợ. Luật pháp, không còn. Thế vào đó, là cái thứ Luật rừng của Đảng cộng sản. Hệ quả tất yếu : Luân thường – đạo lý, bị đảo lộn một cách hoàn toàn. Đồng tiền lên ngôi và thống trị Xã hội.

Dân tộc Việt, giờ đây, đã đánh mất đi truyền thống "thương người như thể thương thân". Họ chẳng còn thiết tha bao dung – yêu thương và đùm bọc lẫn nhau nữa. Thoắt cái, tất cả đã bị biến thành một lũ dối trá – đê tiện. Từ cái lời hiệu triệu : "Hãy tự cứu lấy mình, trước khi trời cứu" của cựu Tổng bí thư Nguyến Văn Linh, cả Xã hội, giật mình bừng tỉnh. Phát pháo lệnh đó, đã châm ngòi cho sự hỗn loạn và thói sống gấp. Ai cũng chỉ nghĩ đến mình và sống cho riêng mình. Trèo lên đầu – lên cổ đồng loại để sống, cũng không từ. Ai cũng vô cảm – độc ác – man rợ và rừng rú. Như cái thuở, còn mông muội và ăn lông – ở lỗ…

Tuy vậy, "trong họa – có phúc". Tiếng Việt của chúng ta, nhờ đó, mà trở thành ngôn ngữ Quốc tế. Đi đến đâu và ở khắp hang cùng – ngõ hẻm của Thế giới, cũng gặp những biển cảnh báo, ghi bằng tiếng Việt. Nội dung, "ăn cắp là phạm pháp và có thể bị phạt tù". Không phải ngẫu nhiên, mà Quốc tế ưu ái và chỉ cấp riêng cho chúng ta, những tấm "kim bài" đó. Từ cái cô mũi hếch – mắt trắng dã Kiều Trinh, chuyên liến thoắng dạy Đạo đức cho dân chúng trên đài Truyền hình Quốc gia, cho tới ông Đại sứ, thay mặt cho nước nhà tại Hoa kỳ, ai cũng thạo nghề… "sáu ngón".

Thực dân Pháp đến "khai hóa Văn minh" ở Việt Nam và họ đã đem đến cho xứ sở An Nam mít của chúng ta, một bộ mặt rất văn minh và hiện đại. Sự văn minh và hiện đại ấy, đã và đang theo đuổi chúng ta, cho đến tận bây giờ. Những thứ đó, không dễ gì, có thể thay thế được. Trước hết, đó là những tuyệt tác kiến trúc. Tỷ như, dinh Toàn quyền Đông dương – nhà hát lớn Hà nội – nhà thờ Đức bà Sài gòn – viện Viễn đông bác cổ – cầu Long biên… Nhưng, có lẽ, đóng góp lớn nhất vẫn là : sáng chế và truyền bá thành công chữ quốc ngữ, cho dân Việt. Ngoài ra, không thể không kể thêm tới một hệ thống hạ tầng giao thông hoàn chỉnh – hiện đại, so với khu vực Châu Á, thời bấy giờ. Hoàn chỉnh và hiện đại như thế, nhưng trên phạm vi cả nước, bói không ra một trạm thu phí giao thông.

Hà nội đẹp, do được những con người có tâm – có tầm, quy hoạch một cách khoa học và bài bản. Hà nội cũng rất hiện đại. Bằng chứng, nó là thành phố đầu tiên ở Châu Á, được chiếu sáng bằng điện. Còn Sài gòn, lung linh đến mức, được bạn bè Quốc tế, gọi nó là "Hòn Ngọc của Viễn đông".

Gần hơn nữa, vào những năm 60 của thế kỉ trước, người Mỹ kéo quân tới miền Nam Việt Nam. Sang thăm Sài gòn vào thời kì đó và chứng kiến sự phát triển kì diệu của nó, Thủ tướng Lý Quang Diệu, đã phải nuốt nước bọt, mà ao ước : "hy vọng, là một lúc nào đó, Singapore sẽ phát triển giống như Sài Gòn".

Bây giờ, sau khi đã dùng vũ lực để cưỡng chiếm toàn bộ Việt Nam : lũ qủy đỏ, căn bản, đã "băm nát Hà nội" (lời thú nhận của chính cái thằng lẻo mép Hứa Đức Chung). Hòn Ngọc của Viễn đông, thì bị đập đến biến dạng và bị quăng xuống bùn. Căn bệnh kinh niên của nó : nhầy nhụa – bẩn thỉu – lộn xộn – kẹt xe và tắc đường. Trên bình diện cả nước, sự vụ còn thê thảm hơn nhiều : ngài IL Houng Lee – Trưởng cơ quan Đại diện IMF tại Hà nội, đã từng rất "lạc quan", về cái "triển vọng tươi sáng" của Việt Nam. Ông ta, đã cặm cụi tính toán và trên cơ sở đó, đã đưa ra những cái mốc thời gian : Ngay cả khi, đã "chạy đến phọt cả cứt ra quần", phải có thêm 18 năm nữa, Việt Nam mới mong đuổi kịp được Indonesia – mất 34 năm nữa, để đuổi kịp Thái Lan và nhanh thôi, mất thêm197 năm nữa, sẽ sờ được vào cái "phao câu" của Singapore.

Thế giới, đã từng tổng kết : Người Hàn, nhập sách của Nhật về, để dạy cho trẻ con nước họ : 20 năm sau, hóa Rồng. Người Việt, nhập chủ nghĩa Mác – Lê về, để thờ : 87 năm sau, đội được đít của thiên hạ.

Thú hóa con dân Đất Việt và kéo lùi sự phát triển của Dân tộc. Đó là cách thứ 3, mà những người cộng sản đã làm, để tri ân đất Mẹ và cũng là cách, mà chúng đã dùng, để báo hiếu cho quê hương Việt Nam.

4

Mở đầu cho Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã long trọng tuyên hứa : "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Ngay sau đó, để chứng tỏ cho cái Chính nghĩa sáng ngời của mình, ông ta đã tuyên hứa tiếp : Sẽ đoạn tuyệt với bất cứ thể chế Chính trị man rợ nào, nếu chúng đi ngược với quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân :

"Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào… Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta… Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn".

Bây giờ, ngồi điểm lại, hết sức dễ dàng thấy : Tất cả những lời nói đó, đã được đồng đảng của ông ta thực hiện một cách đầy đủ – trọn vẹn và trên cả mức tuyệt vời. Những quyền tối thiểu của một con người, cũng bị Đảng cộng sản tước đoạt sạch. Dân chúng, có quyền ăn đồ ôi thiu và độc hại của Tàu. Nhưng không có quyền mở mồm, để nói ra sự thực.

Đảng cộng sản, đã thiết lập ở Việt Nam, một chế độ Độc tài. Ở đó, mọi quyền lợi và quyền lực của Đất nước, không còn thuộc về Nhân dân. Nó cũng không thuộc về Đảng cộng sản – một cái thứ, về thực chất, chỉ đóng vai trò bung xung. Sự thực, tất cả những thứ đó, bị thâu tóm bởi một nhóm nhỏ những ông trùm Mafia đỏ. Dĩ nhiên, vẫn theo nếp xưa, "cha truyền – con nối". Tất cả bọn chúng : được độc quyền Chân lý – được độc quyền lãnh đạo và được độc quyền ban phát. Mọi nghị quyết của Đảng, do những thằng đần đưa ra, dù đúng – dù sai, chẳng phải chỉ đảng viên, mà tất cả mọi người dân, đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm, nhắm mắt mà thi hành.

Thằng mắt sáng, phải đi theo sự chỉ dẫn của những thằng mù – những thằng, cả đời, chỉ biết có ăn và phá hoại. Ăn một, chúng phá mười. Hậu quả, Dân tộc này, đi lạc lối. Nguyễn Phú Trọng, thằng trốn nghĩa vụ Quân sự trong những năm gian khổ – ác liệt nhất của Chiến tranh, giờ đây, ngoi lên làm Chính ủy của toàn Quân. Dưới sự lãnh đạo "toàn diện và tuyệt đối" của cái thằng nhát chết đó, chúng ta bị Tàu cộng ép, như ép giò. Việt Nam, rơi vào thế, mà sự tồn vong của Dân tộc, đang ở trong trạng thái "ngàn cân, treo sợi tóc".

Phân hóa giàu nghèo, cũng sắp đạt đến mức cực đỉnh. Từ đó, kéo theo những hệ lụy không dễ giải quyết trong ngày một – ngày hai. Bất công khủng khiếp trong Xã hội, cũng theo đó, mà phát sinh.

Tất cả tài nguyên của đất nước, từ của nổi – cho đến của chìm, từ lâu, đã không còn thuộc về Nhân dân nữa. Tất cả, đều bị băng nhóm Mafia đỏ đào bới – khai thác theo lối tận diệt. Dễ thấy nhất : Rừng già, về cơ bản, đã bị chúng đốn sạch. Đất đai của Tổ quốc, chỗ thì chúng tùy tiện sang nhượng cho ngoại bang – chỗ nào chưa thể, chúng đều dẫn ngoại bang vào, tống cổ dân bản địa đi, để cho lũ kia thuê với cái giá rẻ mạt… Tất cả những nguồn lợi đó, Đảng cộng sản đã thâu tóm sạch, để chia chác cho nhau. Chúng không cần, phải "hỏi ý kiến của Nhân dân" trên mọi lĩnh vực và chúng cũng không hề cho người dân, được hưởng tí sái nào. Không những thế, chúng còn bày đặt ra sưu cao – thuế nặng, khiến dân nghèo lụn bại. Đó, vẫn chưa phải là tận cùng của sự tham lam và ác độc. Chúng còn đi vay vô tội vạ, với lãi suất cắt cổ của Quốc tế về, để tiếp tục chia nhau và bổ đầu người dân, bắt họ phải gánh chịu.

Cái Chế độ mà Hồ Chí Minh đã cực lực lên án và đả phá, buồn thay, lại chính là Chế độ cộng sản. Trong cái chuyện tiên tri, ai dám bảo : "Hồ Chí Minh, kém Trạng Trình ?".

Đánh đổ chế độ Thực dân – Phong kiến thối nát. Thay vào đó, là một thể chế Độc tài, so độ thối nát và man rợ, còn kinh khủng hơn nhiều.

Đó là cách thứ 4, mà những người cộng sản đã làm, để tri ân đất Mẹ và cũng là cách, mà chúng đã dùng, để báo hiếu cho quê hương Việt Nam.

5

Này, Phú Trọng !

Từ thời thượng cổ, người nước Nam ta, chuộng cả "" lẫn "". Cho đến tận bây giờ, vẫn vậy và không hề thay đổi. Chưa ở đâu và chẳng bao giờ, trong các đền thờ – chùa chiền – miếu mạo, lại dựng tượng và đi thờ một gã hoạn lợn thất đức hoặc cái thằng lâm tặc dâm dê. Lão biết, chú không thuộc hai cái dạng kể trên. Trên cả "", chú còn là "giáo sư" – trên cả "", chú còn là "tiến sĩ". Cả đời, cái tăm, chú cũng không biết vót. Nghề thạo nhất của chú, là cạo giấy. Lì đến mức, "mắt, thong manh – đít, thâm xì". Sở học, ắt thuộc hàng thượng thặng – Bản lĩnh, ắt thuộc dạng phi thường. Nghe cái danh "sĩ phu Bắc hà" của chú, khác nào, bị đấm vào tai. À quên, như "sấm động bên tai". Lão già đây, ngưỡng mộ vô cùng. Cùng với nó, là nỗi khát khao, được "mắt thấy – tay sờ" vào cái đại danh ấy. Để xem, hư – thực của nó, như thế nào.

Dịp may ấy, cuối cùng, rồi cũng tự trên trời rơi xuống. Khi chính chú, chẳng biết có bị chập mạch hay không, mà ngứa mồm và cho Võ Văn Thưởng – cái loại "vắt mũi còn chưa sạch", mang loa đi rao khắp làng trên – xóm dưới, đòi khiêu chiến với cả thiên hạ. Thấy lạ, lão cũng mon men ra xem và có kí tên vào chiến thư của chú. Lão hẹn : "Ngày mai, quyết chiến". Xong xuôi, lão quay về lấy gậy và ra chiến địa, ngồi chờ. Ngày này, trôi qua – tháng khác, lại gần. Chim trời, có nhìn – cá nước, có thấy – riêng chú, bặt tăm. Chắc chú quên, chứ tầm như chú, sao lại có thể sợ lão Dân già đến mức, "sun cả chim lại", như thế.

Nếu chú quên, qua sứ giả Internet, lão tái gửi thư tới chú. Nếu có giỏi, hãy phê vào đó và mang cái mớ lí sự cùn Mác – Lê ra, mà thi đấu cho nó đàng hoàng. Đừng chỉ lèm bèm, đối thoại mãi với mấy ông/bà già cổ hủ và sắp chui xuống lỗ trong các cuộc tiếp xúc với cử tri nữa. Đừng nấp mãi trong đũng quần của mấy thím Công an nữa. Như thế, nhục nhã thay, cho các đấng nam nhi và hổ danh thay, cho các "sĩ phu Bắc hà". Nếu thấy, vẫn chưa đủ tự tin, hãy xua thêm bọn đầu lâu – xương chéo của chú ra và dùng phép "tiền pháo – hậu binh". Trước, nhốt lão Dân già vào đồn và đánh cho lão ấy mềm xương. Sau, mở phiên Tòa và kéo cả lò – cả ổ ra, để xem cái cách, mà lão đây hạ nhục cả chú, lẫn cái thể chế Chính trị của chú. Thê thảm lắm, Trọng ạ :

Thứ nhất, cái thể chế Chính trị của chú, đã lừa đảo và ăn cướp của lão Dân già. Nhân chứng – vật chứng, nhiều đến mức, quá dư thừa. Từ cổ – chí kim, từ Đông – sang Tây, người ta đều phải gọi các chú, là lũ tội phạm.

Là tổ chức tội phạm, liệu các chú có dám bất chấp tất cả, để làm cái chuyện "chó leo bàn thờ". Nghĩa là, ngồi vào cái ghế Quan tòa, để xét xử nạn nhân ? Chuyện này mà lộ ra, nói thật, đến chó nó cũng không ngửi được. Nếu chú ngửi được, đừng ngần ngại, hãy làm đi. Đó, là điểm yếu thứ 2 của các chú.

Thứ 3, với 2 nhân tố kể trên, khi xử lão, các chú không thể đem cái thứ, mà nhân gian vẫn gọi là Luật pháp ra, để sử dụng được. Bắt buôc, các chú phải dùng đến cái thứ, mà xưa – nay, các chú vẫn giấu, "như mèo giấu cứt". Đó chính là, Luật rừng của băng đảng cộng sản. "Chính nghĩa" của các chú, sẽ bị lão đây, cho "lộn mề gà".

Cuối cùng, quan trọng nhất, người đối diện và đối thoại với chú, bằng cấp chẳng đầy mình như chú. Nhưng cả lí luận lẫn thực tiến, chắc dư sức, để nhấn chìm xuống bùn, cả chú lẫn cái đám đồng đảng đểu của chú.

Đừng manh động và đừng có điên đến mức, phải làm theo cái kịch bản đó, Trọng nhé. Hãy nâng lão Dân già, như nâng trứng mỏng và hãy treo cổ bất cứ đứa nào muốn hại chú, thông qua việc, định sờ "phao câu" của lão Dân già.

Lão đây hẹn và rất muốn : bình tĩnh, ngồi đối thoại sòng phẳng với chú, về rất nhiều vấn đề. Trong đó, có cả cái mớ tiền, mà các chú đã lừa đảo và ăn cướp của lão. Nuốt không trôi được đâu, Trọng ạ. Bởi, lão đây, là Dân già. Lão không phải là Trịnh Văn Bô và cũng không phải là Trịnh Vĩnh Bình. Bắt nạt và ăn cướp của lão, đâu có dễ. Nhớ cho kĩ, điều đó.

Chào chú và lão sẽ chờ, để được đọc bài phản biện của chú.

Nguyễn Tiến Dân

Tel : 0168–50–56–430

Địa chỉ : Vì tin vào cái lũ cộng sản đê hèn, nên bị chúng lừa đảo và cướp sạch của cải. Bởi thế, mất nhà và trở thành dân du mục. Nay đây – mai đó, chưa có nơi ở cố định.

Nguồn : Tiếng Dân, 04/12/2017

Published in Diễn đàn

Trần Quang Thành  thực hiện

Nguồn : Tiếng Dân Việt Media, 17/11/2017

Published in Video

Dịp kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng 10 Nga (7/11/1917-7/11/2017) đã lộ ra những cái đầu đất sét đang nắm quyền cai trị và mị dân ở Việt Nam.

nga0

Việt Nam là quốc gia duy nhất còn tưng bừng tổ chức kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng 10 Nga - Ảnh minh họa

Trước hết, trong dịp trọng đại này nước Nga không tổ chức diễn binh, không có hàng trăm nghìn người tụ họp ăn mừng và tung hô cuộc cách mạng như trước đây. Theo Thông tín viên Thụy My của RFI tiếng Việt (Radio France International, Đài Phát thanh quốc tế Pháp) thì Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin "vẫn thận trọng tránh né các sự kiện kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng Mười, kể cả cuộc trình diễn ánh sáng 3D vào cuối tuần rồi trên Cung điện Mùa Đông, tại thành phố nguyên quán Saint-Petersburg của ông".

Thụy My nói : "Tổng thống chỉ dự khai trương một giáo đường mới ở Moskva, mà theo ông "mang nặng ý nghĩa biểu tượng", vì phe cộng sản khi lên nắm quyền năm 1917 đã đàn áp Giáo hội. Cuối tháng 10, ông Putin cũng tham dự buổi lễ khánh thành một đài tưởng niệm các nạn nhân bị đàn áp chính trị. Vladimir Putin không muốn kết luận dứt khoát giữa một nước Nga Sa hoàng mà ông ca ngợi sự ổn định và các giá trị truyền thống, và một nước Nga xô-viết, mà ông là sản phẩm của chế độ".

Theo một bản tin của báo Đất Việt ở Việt Nam thì : "Ngày 3/11, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã gửi bức điện chào mừng tới tất cả những người tham dự loạt hoạt động kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng Mười (1917-2017), trong đó tôn vinh ảnh hưởng đến toàn thể thế giới của cuộc cách mạng vĩ đại này.

Tổng thống Nga Vladimir Putin bày tỏ ghi nhận sự kiện đầy kịch tính và sôi động năm 1917 là một phần không thể tách rời của lịch sử thế giới".

Thụy My của RFI cho thính giả nghe tiếp : "Những lễ kỷ niệm hiếm hoi với sự tham dự của công chúng phải nhấn mạnh đến đoàn kết quốc gia, tránh các chủ đề nhạy cảm. Phát ngôn viên điện Kremlin Dimitri Peskov hồi tháng 10 từng hỏi ngược lại báo chí "Vì sao lại phải kỷ niệm ?"

Vào ngày 7/11/2017, chỉ có ít ngàn người của đảng cộng sản đối lập trong Quốc hội Nga đã tổ chức biểu tình kỷ niệm, nhưng theo Thụy My thì : "Đại đa số người dân Nga hầu như không hề nhận ra các hoạt động kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng Mười. Theo một cuộc nghiên cứu do đảng cộng sản đặt hàng, 58% dân số Nga còn không biết đến dịp kỷ niệm này. Nhà sử học Ivan Kourilla trên tờ Vedomosti nhận định : "Đất nước mà ngày xưa nổi tiếng với Cách mạng tháng Mười, ngày nay kỷ niệm 100 năm trong lặng lẽ".

Vậy tại sao Việt Nam, chỉ một trong số 5 nước còn lại trên thế giới theo chủ nghĩa Mác-Lênin (các nước kia là Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba và Lào) đã tổ chức kỷ niệm linh đình Cách mạng Nga ?

Về mặt nổi, lãnh đạo Việt Nam đã lấy hết sức bình sinh để nói hay, nói đẹp cho Cách mạng tháng Mười vì ông Hồ Chí Minh, một thành viên của Quốc tế cộng sản do Liên Xô cầm đầu, cha đẻ Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930, đã được lệnh đem chủ nghĩa cộng sản và chủ trương cách mạng bạo động của Lenin vào Việt Nam.

Vì vậy nhiều biểu ngữ viết "100 năm tinh thần cách mạng tháng 10 Nga bất diệt !", hoặc "Nhiệt liệt chào mừng 100 năm cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại" đã treo đầy đường phố và công sở ở Hà Nội.

Đến sáng 5/11, theo báo chí Việt Nam, thì Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dẫn đầu Đoàn đại biểu Ban Chấp hành trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, bộ, ngành, đoàn thể trung ương và thành phố Hà Nội, đến dâng hương hoa Tượng đài V.I.Lênin, người lãnh đạo Cách mạng tháng Mười Nga.

nga2

Nhân kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917-7/11/2017), sáng 5/11, Đoàn đại biểu Ban Chấp hành trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các Ban, Bộ, ngành, đoàn thể trung ương và thành phố Hà Nội đã dâng hương hoa Tượng đài V.I.Lênin - Lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga - ảnh VOV (ghi chú : không có đại diện người Nga nào đến dự)

Bên cạnh những tốn phí tổ chức ngoài trời, nhà nước Việt Nam còn bày ra nhiều cuộc liên hoan trong hội trường và nhà hát có sự tham dự của ông Trọng và nhiều viên chức đảng, các viên chức Nga và ngoại giao đoàn ở Hà Nội để tiếp tục bợ đỡ, ca tụng Lenin và biết ơn Nga thời cộng sản đã cung cấp súng đạn, lương thực và tài chính cho ông Hồ theo đuổi chiến tranh 30 năm huynh đệ tương tàn.

Ngoài ra đảng cộng sản còn phổ biến một số bài viết, diễn văn và tổ chức tọa đàm nói về Cách mạng Nga. Nội dung các bài viết hay phát biểu của ông Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang cho đến giới khoa bảng đặc sệt lý thuyết cộng sản trong đầu của Hội đồng lý luận trung ương, Ban Tuyên giáo, Quân đội, Công an và các Trường đảng đều tập trung tung hô Cách mạng tháng Mười Nga "vẫn sáng ngời", dù cho có vật đổi sao dời.

Điển hình như trong diễn văn tại lễ kỷ niệm ngày 5/11 (2017) tại Hà Nội, ông Trọng đã cương lên rằng : "Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga thực sự đã sáng tạo ra một kỷ nguyên mới của nước Nga, đồng thời đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại. Nó đã vượt khỏi không gian và thời gian, trở thành biểu tượng vĩ đại của thời đại. Nhân dân Việt Nam cùng loài người tiến bộ mãi mãi ghi nhớ công ơn của lãnh tụ vĩ đại V.I.Lê-nin, của những người Bôn-sê-vích và nhân dân các dân tộc trong Liên bang Xô-viết đã phấn đấu, hy sinh làm nên sự kiện lịch sử có một không hai này !".

Nhưng vinh quang như thế mà tại sao 70 năm sau, nhà nước Nga, con đẻ của Lênin, đã tan rã và nhân dân Nga đã phỉ nhổ vào chủ nghĩa cộng sản rồi ném nó vào sọt rác từ năm 1991 ?

Trước đó, từ cuộc cách mạng của công nhân Ba Lan, Công đoàn Đoàn Kết do người thợ điện Lech Wałesa lãnh đạo, nhân dân Ba Lan đã vùng lên lật đổ chế độ cộng sản năm 1989. Sau đó đến lượt tan rã của các chính phủ cộng sản ở Cộng hòa dân chủ Đức với bức tường Bá Linh, chia đôi nước Đức bị dân phá sập, Hungary, Bulgary, Tiệp Khắc và Romania).

Sau khi nhân dân Nga thoát khỏi nhà nước cộng sản hà khắc thì thế giới cộng sản do Nga cầm đầu cũng biến mất trên quả địa cầu.

Thảm họa Lenin và cộng sản

Vậy vì sao mà nhóm lãnh đạo có đầu đất sét của đảng cộng sản Việt Nam vẫn luyến tiếc sự tan rã của Liên Xô và tiếp tục tôn sùng trong hoang tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin để nghĩ rằng : "Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội" ?

Bởi vì, trong dịp sửa đổi Hiến pháp năm 2013, ông Nguyễn Phú Trọng đã nói : "Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng chủ nghĩa Xã hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa".

Ngoài ra cũng cần nên biết những tội ác của chủ nghĩa cộng sản đã gây ra cho nhân loại từ sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917.

Theo Giáo sư Yuri Maltsev, trong bài viết "Cách mạng Nga đã gây ra những tổn thất kinh hoàng", thì ông nhận định rằng : "Marxism-Leninism là ý thức hệ tàn ác và làm chết nhiều người nhất trong lịch sử".

Giáo sư Malltsev viết : "Lenin đã tiến hành "quét sạch" bằng những chiến dịch khủng bố bừa bãi, như những người xã hội chủ nghĩa Nga trước ông ta đã làm và những người khác sẽ tiếp tục làm sau khi ông ta chết. 

Rudolph Rummel (đã quá cố), nhà nhân khẩu học nghiên cứu về những vụ giết người hàng loạt do chính phủ tiến hành, ước tính tổng thiệt hại về người mà chủ nghĩa xã hội đã gây ra trong thế kỷ XX : khoảng 61 triệu người ở Liên Xô, 78 triệu ở Trung Quốc, và khoảng 200 triệu người trên toàn thế giới. Những nạn nhân này bị chết trong những nạn đói do nhà nước tổ chức, trong quá trình tập thể hóa, trong các cuộc cách mạng văn hóa, trong những vụ thanh trừng, trong các chiến dịch chống thu nhập "bất hợp pháp" và những cuộc thí nghiệm tàn độc khác trong quá trình sắp xếp lại xã hội. 

Đây là vụ khủng bố vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại.

Cuộc đảo chính của Lenin, ngày 7 tháng 11 năm 1917, ngày chính phủ lâm thời của Kerensky rơi vào tay lực lượng Bolshevik, đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử nhân loại : Chế độ nô lệ dành cho tất cả mọi người. Kế hoạch hóa nền kinh tế tập thể đã dẫn tới tình trạng cưỡng bức, bạo lực và giết người hàng loạt".

Theo Phạm Nguyên Trường, người dịch bài viết của giáo sư Yuri Maltsev, thì ông đã bảo vệ bằng B.A và M.A. ở Đại học Quốc gia Moska và và bằng Tiến sĩ về Kinh tế học lao động tại Viện Nghiên cứu Lao động ở Moskva, Nga. Trước khi chạy sang Mỹ, năm 1989, ông là từng là thành viên của một nhóm các nhà kinh tế học Liên Xô tham gia soạn thảo gói chính sách Perestroika của Tổng thống Gorbachev.

Vậy mà trong diễn văn tưởng nhớ Lenin và Cách mạng tháng Mười Nga ngày 5/11 (2017) tại Hà Nội, ông Trọng vẫn như người thiếu sáng đi sờ voi khi nói rằng : "Suốt trong những năm tháng tồn tại của Nhà nước Xô-viết - con đẻ của Cách mạng tháng Mười, và nhất là từ sau ngày Liên bang Xô-viết bị giải thể, các thế lực thù địch và các thế lực cơ hội thuộc đủ màu sắc luôn dùng trăm phương ngàn kế để phủ định ý nghĩa của Cách mạng tháng Mười và những thành quả to lớn của chế độ Xô-viết. Nhưng, sự thật vẫn là sự thật. Dù cho vật đổi sao dời, tinh thần Cách mạng tháng Mười và những thành quả lịch sử cũng như những cống hiến to lớn của nhân dân các dân tộc trong Liên bang Xô-viết đối với loài người mãi mãi không bao giờ phai mờ, mãi mãi sẽ còn ghi đậm trong tâm trí của mọi người có lương tri trên toàn thế giới !".

"Riêng đối với Việt Nam", ông Trọng tiếp tục nói hoang, "chúng ta có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga cũng như sự ủng hộ và giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của nhân dân Liên Xô. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta chính là người Việt Nam đầu tiên đã tiếp cận, tiếp thu và vận dụng sáng tạo rất thành công những tư tưởng của Cách mạng tháng Mười vào sự nghiệp cách mạng nước ta".

Tất nhiên là ông Tổng bí thư của đảng cộng sản Việt Nam đã không dám nói đền con số trên 3 triệu người người Việt Nam đã chết vì chủ nghĩa cộng sản Mác-Lenin qua tay ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam trong 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn từ 1945 đến 1975.

Chỉ nói riêng trong 3 năm của chiến dịch Cải cách ruộng đất ở miền Bắc từ 1953 đến 1956, theo lời viết trong cuốn sách Le Livre noir du communisme của nhà sử học Martin Malia, thì "tại Việt Nam thời Dân chủ Cộng hòa có khoảng 50.000 người bị giết do bị xử oan trong cuộc Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam".

Nhưng hàng ngũ cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn cứ lẻo mép bịa ra rằng "đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta", như đã ghi trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).

Từ xưa đến nay, chưa có một mống dân Việt Nam nào mở miệng xin ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam du nhập chủ nghĩa sát nhân cộng sản vào Việt Nam. Chỉ có ông Hồ làm như thế rồi truyền lại cho nhúm người kế vị ông với mục đích duy nhất là dùng bạo lực hà khắc để độc tài và độc quyền đè đầu bóp cổ nhân dân.

Vì vậy mà từ thời Đổi mới thời Nguyễn Văn Linh, khóa VI năm 1986 đến thời Nguyễn Phú Trọng, khóa XII năm 2016, đảng cộng sản đã không ngừng kêu gọi đảng viên phải tiếp tục kiên định và tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ông Trọng không những đã lập lại lời kêu gọi ở Hà Nội sáng 5/11/2017 mà còn lên giọng : "Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị của Cách mạng tháng Mười, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta".

Sở dĩ ông phải nói đi nói lại nhiều lần từ khóa đảng XI năm 2011 vì chủ trương "đổi mới nhưng không đổi màu" và "hội nhập mà không hòa tan" của đảng nay đã bị thay bằng "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên. Lý do họ thay đổi vì ai cũng đã thấy hậu qủa của 87 năm ông Hồ du nhập chủ nghĩa sát nhân cộng sản vào Việt Nam từ năm 1930 đã để lại một đất nước tan hoang, dân tình điêu đứng, chậm tiến, lạc hậu và kinh tế hoàn toàn phải lệ thuộc vào làm công cho các công ty nước ngoài.

Bên cạnh là sự an nguy của Tố quốc lúc nào cũng đứng trước hàm răng nhọn hoắt của nước láng giềng âm mưu Trung Quốc, trong khi Việt Nam đã mất tự chủ ở Biển Đông.

Thế mà thảm hại thay, vẫn còn có người như ông Hà Đăng, nguyên Ủy viên trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng và văn hóa trung ương đã viết trên báo Quân đội Nhân dân ngày 07/11/2017 rằng "từ bỏ chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lớn".

Ông Đăng lý giải : "Cương lĩnh nêu lên 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, trong đó 3 đặc trưng đầu tiên là : dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ; do nhân dân làm chủ ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Thử hỏi, con đường độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội xán lạn như vậy tại sao chúng ta phải từ bỏ chỉ vì mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ ?".

Nhưng những gì người này cho là "xán lạn" thì chỉ mới thấy trên tấm giấy mà thôi. Nhân dân chưa hề thấy trong mỗi mâm cơm hay trong đời sống hàng ngày.

Càng bóp càng phình to

Vì vậy nhà báo Xuân Dương đã đặt câu hỏi trong báo điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 07/11/2017 rằng : "Có nên nêu khẩu hiệu "trong sạch hay là chết" ? Có câu hỏi này vì cơ chế nhà nước và đảng từ trung ương xuống cơ sở có quá nhiều tầng lớp tỉnh, thành, huyện, quận, xã, phường, khóm, cơ sở, văn phòng để hành dân và ăn hại ngân sách.

Từ năm 1986, nhiều lãnh đạo trong đảng đã đồng ý phải "đổi mới hay là chết" để cứu nguy kinh tế và an ninh của tổ quốc sau khi không còn viện trợ của Nga và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.

Bây giờ 31 năm sau, tại hội nghị tổng kết năm 2016 của Bộ Kế hoạch và đầu tư ngày 11/1/2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc còn than phiền : "Ông nào cũng muốn giữ quyền của ngành mình. Tư duy như vậy làm sao được… Đổi mới là khó nhưng không đổi mới cách làm, đổi mới tư duy, tiếp tục tinh thần bao cấp, quan liêu là chết" (theo ViệtnamNet).

Lý do cần đổi mới thì mới có thể giảm bớt số nhân viên công chức quá nhiều so với một nước nghèo như Việt Nam. Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan thì Việt Nam có khoảng 21 triệu người ăn lương, nhưng số người có làm việc thật sự lại không nhiều. Một số thống kê cho thấy khoảng 30 phần trăm công chức, nhân viên vô công rỗi nghề lại sinh ra nhũng nhiễu.

Do đó, bà Nguyễn Thị Hoài Thu, nguyên Ủy viên trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội mới nói : "Không "tinh", không "giản", còn… phình to".

Khi được hỏi ý kiến về quyết định thu gọn cơ chế và tinh giảm biến chế, bà Nguyễn Thị Hoài Thu nói với báo Tuần Việt Nam ngày 26/10/2017 rằng : "Chủ trương này thực ra không có gì mới, đã nói từ lâu nhưng gần như bất lực vì không hề "tinh" hay "giản" gì được mà ngày càng phình to ra, tỷ lệ nghịch với hiệu quả công tác. Tới nay, yêu cầu tinh giản bộ máy hành chính nhà nước đã thành vấn đề cấp bách, nóng hổi không thể không làm. Nếu tôi nhớ không lầm thì từ thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho tới nay, thủ tướng nhiệm kỳ nào cũng đưa ra nhiệm vụ tinh giản biên chế, sắp xếp lại bộ máy hành chính ?".

Hoài Thu đưa ra một tỷ dụ khác cho thấy nói thì dễ mà làm rất khó vì đã vào được thì rất khó ra. Bà kể : "Hồi tôi còn làm Phó chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang, có lần Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm và làm việc. Tôi nhớ mãi cuộc trao đổi chân tình giữa tôi và Thủ tướng.

Trong nhiều nội dung quan trọng lúc ấy, có phần về bộ máy nhà nước cồng kềnh kém hiệu quả. Theo Thủ tướng, "bộ máy nhà nước ta đang như một hội từ thiện khổng lồ, ai ai cũng muốn chen chúc chui vào biên chế nhà nước để chia chác phần ngân sách ít ỏi. Lương không đủ ăn nhưng không vì thế mà người ta "chê". Biên chế nhà nước ngày càng to ra. Đến giờ, tôi là thủ tướng có thâm niên cao nhất thế giới mà chưa kỷ luật hay tinh giản được ai".

Rồi bà Nguyễn Thị Hoài Thu kết luận : "Tôi chắc rằng, nếu còn sống, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng phải hoảng với bộ máy tiếp tục phình to không thể tưởng tượng nổi".

Không những thế, Việt Nam còn nợ nần ngập đầu từ nợ công cho đến nợ nước ngoài, trong đó có mấy chục ngàn tỷ bạc do nợ của các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục làm ăn thua lỗ mà vẫn chưa giải thể hay bán cổ phần được

Báo Người Lao Động đặt tựa ngày 01/11/2017 : "Chính phủ cho biết nợ công tính đến cuối năm 2017 là hơn 3,1 triệu tỉ đồng, tính trung bình mỗi người dân Việt Nam phải gánh khoảng 33 triệu đồng nợ công".

Tờ báo này viết tiếp: "Trong báo cáo gửi đến Quốc hội, Chính phủ cho biết nợ công tính đến cuối năm 2016 là hơn 2,8 triệu tỉ đồng, bằng 63,6% GDP.

Tính ra, trung bình mỗi người dân Việt Nam phải gánh khoảng 30 triệu đồng nợ công và sẽ còn tăng tiếp vào cuối năm nay.

Theo báo cáo của Chính phủ, năm 2017, dự kiến nợ công có thể lên mức 3,1 triệu tỉ đồng nhưng so với tỉ trọng GDP lại giảm xuống còn 62,6% GDP. Chính phủ dự báo hết năm 2018, dư nợ công ở mức khoảng 63,9% GDP, dư nợ chính phủ ở mức khoảng 52,5% GDP và dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 47,6% GDP, nằm trong giới hạn cho phép".

Nhưng đó là những con số chưa kết thúc hoặc chỉ là dự đoán nên số tiền mỗi người dân phải gánh nợ chưa biết chính xác là bao nhiêu trong 2 năm tới.

Loạn xã hội - tham nhũng ngập đầu

Guồng máy Nhà nước thì như thế còn xã hội có được an toàn và quốc nạn tham nhũng đã giảm chưa sau 12 năm phòng và chống ?

Trong cuộc thảo luận tại Quốc hội ngày 06/11/17, Đại biểu Phạm Thị Minh Hiền nói : "Những biệt thự, biệt phủ vẫn sừng sững và nhiều 'củi tươi', 'củi khô' vẫn an toàn sau những ồn ào, gây bức xúc xã hội" (theo báo Giáo dục Việt Nam-GDVN).

Theo GDVN thì bà đại biểu Hiền còn chỉ ra nhiều điểm hạn chế khác. Cụ thể, theo bà Hiền, các vụ khởi tố điều tra vẫn tăng mạnh so với cùng kỳ, tăng gần 21% về số vụ và trên 28% số bị can.

Bà Phạm Thị Minh Hiền than phiền : "Người dân vi phạm nhẹ hay nặng đều bị pháp luật xử lý, cán bộ gây sai phạm nghiêm trọng thì thuyên chuyển, vẫn an toàn sau lớp vỏ nghiêm túc kiểm điểm - rút kinh nghiệm, chịu trách nhiệm tập thể. Điều này dễ làm cho dân hiểu rằng áp dụng luật dành cho dân khác với cán bộ".

Vì vậy, theo một Báo cáo của Chính phủ sau 10 năm chống tham nhũng thì Thanh tra chính phủ cho biết : "Hơn 92% số tiền tham nhũng bị tẩu tán, không kiểm soát và thu hồi được. Việc thu hồi tài sản các vụ án kinh tế, tham nhũng gặp rất nhiều khó khăn. Số tiền thu được còn quá ít so với tổng số phải thi hành. Một số trường hợp xử lý tài sản để thi hành án còn chậm".

Đại biểu quốc hội Vũ Trọng Kim bình luận : "Tham nhũng tràn lan, dân có thể đếm cán bộ huyện, cán bộ xã, thậm chí công chức bình thường người ta cũng đếm được số người tham nhũng, nhưng xử lý thì ít quá".

Ông Kim dẫn mấy ví dụ mà báo cáo của Thanh tra chính phủ đề cập khiến không ít người ngỡ ngàng, không tin vào mắt mình nữa. Ông Kim nhận xét thẳng : Báo cáo về công tác Phòng chống tham nhũng năm 2017 chưa đạt yêu cầu. "Anh này chống tham nhũng, anh kia chống lưng, không biết anh nào chống thật, anh nào chống giả. Tôi đề nghị sớm tổ chức những đơn vị chuyên trách chống tham nhũng một cách hiệu quả. Hiện nay có quá nhiều sự níu kéo, trì trệ. Một vụ án mà giải quyết mấy năm trời không xong, tại sao vậy ?" (Dân Việt, ngày 11/09/2017).

Vẫn theo Dân Việt, "Đại biểu Nguyễn Thái Học - Trưởng ban Nội chính tỉnh Phú Yên, cũng nhận định về tình hình phòng chống tham nhũng "không sát, nguyên nhân chung chung, giải pháp không mang tính đột phá". Việc nhận định tình hình tham nhũng năm 2017 giảm, nhưng số liệu cho thấy các vụ khởi tố năm 2017 lại tăng so với năm trước". Báo cáo cũng nêu hiệu quả hoạt động của một số cơ quan có chức năng phòng chống tham nhũng chưa cao, vậy cụ thể là cơ quan nào, công an hay viện kiểm sát ?".

Ngoài ra báo chính Phủ cũng đưa tin :

Phát biểu trước Quốc hội về Báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng năm 2017, Phó Thủ tướng Thường trực chính phủ Trương Hòa Bình nhìn nhận : "Thực tiễn cho thấy đấu tranh phòng, chống tham nhũng là lĩnh vực rất khó khăn, phức tạp, tình hình tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng, phức tạp, công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế như sau :

Về thể chế : Một số văn bản, đề án quan trọng phục vụ cho công tác phòng, chống tham nhũng chậm được ban hành, việc rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những sơ hở, bất cập của chính sách pháp luật vẫn còn chậm.

Vụ việc tham nhũng phát hiện chưa phản ánh đúng thực tế, công tác giám định tư pháp còn nhiều khó khăn, bất cập, kể cả về cơ sở vật chất, về đội ngũ cán bộ, về kinh phí. Việc thu hồi tài sản do phạm tội tham nhũng còn ít, kể cả tiền, đất đai và các loại tài sản khác.

Ý thức đạo đức công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, dẫn đến nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm trong thực thi công vụ. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng hiệu quả chưa cao, còn hình thức, chưa đi vào thực chất. Những biểu hiện tiêu cực, suy thoái đạo đức, phẩm chất, thiếu gương mẫu của cán bộ, đảng viên đã tác động tiêu cực đến công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng tại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị còn hình thức, thiếu kiểm tra. Việc công khai, minh bạch chưa đáp ứng được yêu cầu, vẫn còn tình trạng lạm dụng các quy định về bí mật nhà nước để không thực hiện công khai, minh bạch. Việc xác minh để bảo đảm tính trung thực của việc kê khai tài sản còn hạn chế, việc phát hiện, xử lý tham nhũng ở cấp tỉnh, đặc biệt là những tỉnh có nhiều dự án đầu tư công lớn, khai thác tài nguyên, khoáng sản.. có nhiều chương trình mục tiêu quốc gia chưa có chuyển biến rõ rệt".

Bổn cũ sao lại

Cũng cần nhắc lại, ngày 12/7/2016, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng chống tham nhũng, ông Trương Hòa Bình cũng nhìn nhận công tác phòng chống tham nhũng chưa đạt được mục tiêu đã đề ra.  Ông nói : "Tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng từ nguồn vốn nhà nước, lĩnh vực tín dụng ngân hàng, công tác tổ chức cán bộ... Một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên trong đó có những người được giao những chức vụ lãnh đạo, quản lý ở các cấp có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, chạy theo tiền tài, địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…".

Như vậy thì nếu so với báo cáo năm 2017 của Chính phủ thì chống tham nhũng đã suy thoái so với năm 2016. Vậy mà ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn làm rùm beng công lao chống tham nhũng và kê khai tài sản của cán bộ đảng viên từ khi ông làm đảng trưởng từ khóa XI năm 2011.

Nếu đem những "thành tích" này gắn với những điều được gọi là "con đường đi lên xán lạn" của đất nước, phát ra từ cửa mồm ông Hà Đăng, nguyên Ủy viên trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng -và văn hóa trung ương, trong bài viết "Từ bỏ chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lớn" (1) thì e rằng nó có nhiều mùi phát ra từ con thuyền Nghệ An đấy.

Phạm Trần

(08/11/2017)

(1) Quân đội Nhân dân số ra ngày 07/11/2017

Published in Diễn đàn

Đại hội lần thứ 19 của Đảng cộng sản Trung Quốc đã kết thúc cùng với việc vị thế của Tâp Cận Bình được nâng lên ngang với Mao Trạch Đông và hơn cả Đặng Tiểu Bình, khi tư tưởng của Tập, "Tư tưởng xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc thời đại mới Tập Cận Bình" được đưa vào điều lệ đảng (trước đây, chỉ có Mao là lãnh đạo còn đương quyền khi tư tưởng của Mao được đưa vào văn bản. "Lý luận Đặng Tiểu Bình" chỉ được nêu trong điều lệ Đảng sau khi Đặng qua đời năm 1997). Đồng thời, Trung Quốc cũng rủ bỏ chính sách "náu mình chờ thời" của họ Đặng, công khai bộc lộ ý đồ muốn vươn lên thành một siêu cường, muốn tham gia nhiều hơn vào công việc của thế giới.

sosanh1

Chân dung Chủ tịch Tập Cận Bình (trái) và cố Chủ tịch Mao Trạch Đông tại một chợ ở Bắc Kinh. Hình chụp hôm 19/9/2017 - AFP

Cùng là hai đảng cộng sản, cùng đi theo mô hình độc đảng độc tài có pha chất phong kiến lạc hậu cộng chất tư bản thời kỳ man rợ, nhưng Đảng cộng sản Trung Quốc thông qua những nhân vật lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược hàng trăm năm và có tham vọng rất lớn cho đất nước, nên Trung Quốc phát triển trở thành một cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới, một quốc gia có sức mạnh quân sự đáng gờm, và đang có tham vọng sẽ lãnh đạo toàn thế giới kể từ năm 2050 (tất nhiên vì là một nước độc tài chuyên chế nên trong nội bộ Trung Quốc vẫn chứa đựng rất nhiểu khiếm khuyết, mâu thuẫn, bất ổn… có khả năng sẽ làm sụp đổ quốc gia khổng lồ này, như đã từng xảy ra với những quốc gia độc tài chuyên chế khác trong lịch sử, khi người dân không có tự do, dân chủ, nhân quyền bị chà đạp, khoảng cách giàu nghèo quá lớn và xã hội đầy rẫy những bất công).

Trong khi đó, đảng cộng sản Việt Nam, qua bao nhiêu đời lãnh đạo, không có ai thực sự có tầm nhìn xa, có tham vọng lớn, nên chỉ toàn đóng vai trò đàn em, phụ thuộc. Suốt hai cuộc chiến tranh chống Mỹ chống Pháp thì tồn tại và "chiến thắng" nhờ vào sự viện trợ mọi mặt của Liên Xô, Trung Quốc ; về kinh tế, mô hình thể chế chính trị, thì hết sao chép mô hình của Liên Xô thời bao cấp lại copy mô hình "kinh tế thị trường có sự kiểm soát chặt chẽ của đảng cộng sản" của Tàu… Nhưng là những phiên bản copy kém cỏi hơn hẳn !

Có thể hiểu được tại sao nhiều người Trung Quốc, nhất là thế hệ sinh ra khi quốc gia này đã phát triển về kinh tế, vẫn cảm thấy tin tưởng vào Đảng cộng sản Trung Quốc, và không quan tâm nhiều đến những khái niệm như quyền tự do, dân chủ, đa đảng, tam quyền pháp trị… Trong mắt họ, dù sao đảng cộng sản cũng đã làm cho Trung Quốc trở nên giàu mạnh, có vị thế trên thế giới, còn những khái niệm xa xỉ kia họ không cần, khi họ có thể thoải mái kiếm tiền, xài tiền, đi du lịch khắp thế giới còn con cái họ thì đang học tại những trường đại học tốt nhất trên thế giới.

Còn người Việt ? Chúng ta không có bất cứ lý do gì để còn tin tưởng, tự hào vào đảng cộng sản cả. Chiến thắng hai đế quốc, thực dân mạnh nhất thế giới kia để làm gì khi đất nước ngày nay tụt hậu quá xa, ngay cả so với các nước láng giềng trong khu vực, đại đa số người dân vẫn còn quá khốn khổ ? Chiến thắng với cái giá quá đắt, thắng trong cuộc chiến, nhưng đại bại trong hòa bình. Thống nhất để làm gì khi không thống nhất được lòng dân, dù đã hơn 4 thập niên sau khi chiến tranh kết thúc ? Có khi cứ để hai quốc gia như trước, rồi thống nhất bằng một con đường hòa bình và lại có sẵn một nửa nước phát triển, phồn thịnh để vực nửa kia lên, như nước Đức và tương lại của bán đảo Triều Tiên còn hay hơn.

Nguyên nhân là do đảng cộng sản Việt Nam không bao giờ biết đặt quyền lợi của đất nước, dân tộc lên trện quyền lợi của đảng, nên phải cưỡng chiếm miền Nam, giành quyền lãnh đạo trên toàn quốc bằng mọi giá, và giờ đây đang sống chết bảo vệ quyền độc tôn lãnh đạo ấy, bất chấp mọi thiệt thòi, tai hại cho đất nước, dân tộc. Trung Quốc, ngược lại, thâm độc khi xúi bẩy Bắc Việt tiếp tục tiến hành chiến tranh, để Trung Quốc thủ lợi, "đánh Mỹ bằng máu của người Việt Nam", còn đối với nước họ, họ không tìm cách giành lại Đài Loan bằng chiến tranh bởi vì "người Hoa không đánh người Hoa".

Hoặc khi thu nhận lại Hong Kong từ tay Anh Quốc, Trung Quốc chấp nhận chính sách "một quốc gia hai chế độ" vì họ biết rằng nếu cứ để cho Hong Kong phát triển theo mô hình cũ thêm một thời gian thì bản thân nước mẹ Trung Hoa sẽ học được rất nhiều cái hay, được nhiều cái lợi từ Hong Kong. Và họ cũng bắn tiếng như thế để "dụ dỗ" Đài Loan trở về với đại lục !

Giá mà những người cộng sản Việt Nam cũng nghĩ được như vậy, sau ngày 30/4/1975, thay vì đánh sập, tiêu diệt mọi mặt từ kinh tế cho đến văn hóa, xã hội… ở miền Nam để rồi hơn mười năm sau, cả nước đứng trên bờ vực sụp đổ về kinh tế và họ phải buộc "đổi mới", thực chất là "đổi lại một phần như cũ" mô hình kinh tế thị trường, tự do ở miền Nam !

Người dân Việt càng không có bất cứ lý do gì để tin tưởng, tự hào vào sự lãnh đạo của đảng cộng sản khi sau hơn 40 năm, vị trí của Việt Nam và người Việt Nam trên thế giới nó tệ hại, nhỏ nhoi đến mức nào. Cuối cùng, điều khác biệt quan trọng nhất, đó là nếu Đảng cộng sản Trung Quốc có tồn tại thêm vài ba thập niên nữa thì Trung Quốc cũng chả mất đi một tấc lãnh thổ lãnh hải nào, thậm chí còn được thêm do lấn biển, chiếm đảo của các nước láng giềng, nhưng đảng cộng sản Việt Nam mà tồn tại thêm chừng một thập niên nữa thôi, thì Việt Nam nhiều phần chỉ còn là một khu tự trị của Tàu ! Và đất nước này chả còn lại gì, mọi thứ tài nguyên cho đến đất đai đã bị khai thác, đem cho vay cho thuê, đem bán sạch… Chỉ còn lại một đống nợ !

Một cái đảng cầm quyền không đem lại được lợi lộc gì cho nước cho dân, chỉ toàn phá hoại, thì có lý do gì để vẫn tồn tại trên đầu trên cổ nhân dân, làm mất đi thêm bao nhiêu cơ hội và làm chậm thêm thời gian làm lại từ đầu của đất nước ?

Song Chi

Nguồn : RFA, 30/10/2017

Published in Diễn đàn

Cùng nhau mở con đường cải cách, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới

Một kiến nghị tâm huyết

caito1

Mục lục

I. Đòi hỏi sinh tử : Cải cách đổi đời đất nước

II. Cải cách phải là sự nghiệp của toàn dân

III. Cái đích phải tới

***

Phụ lục I 

Về con đường cải cách đi qua Đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển đổi trở thành đảng của dân tộc (Nguyễn Trung)

Phụ lục II 

Về chủ nghĩa Marx – Lenin (Nguyễn Trung)

Phụ lục III 

Về Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam (Nguyễn Trung)

Phụ lục I

Về sự hình thành và phát triển xã hội dân sự ở Việt Nam (Phạm Khiêm Ích)

*********************

Nội dung

Cải cách thường phải do một lực lượng chính trị có ảnh hưởng và quyền lực chi phối quốc gia tiến hành – ví dụ như đảng nắm quyền, chính phủ, một lực lượng chính trị mạnh áp đảo… Nhưng tôi vẫn đặt vấn đề cả nước cùng tham gia cải cách vì các lý do sau đây :

I. Cải cách đã trở thành đòi hỏi sinh tử của đất nước.

II. Vì là cải cách đổi đời đất nước, nên phải là sự nghiệp của toàn dân.

III. Cái đích cải cách phải tới là hình thành một thể chế chính trị - nhà nước dân chủ dựa trên kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự.

Xin trình bầy lần lượt như sau.

*****************

caicach2

I. Đòi hỏi sinh tử : Cải cách đổi đời đất nước

Cục diện thế giới hiện nay đặt nước ta vào tính thế nguy hiểm chưa từng có kể từ khi giành được độc lập thống nhất 30/04/1975 :

- Tranh chấp Mỹ - Nga – Trung rất phức tạp nói riêng và những vấn đề kinh tế, chính trị và an ninh nóng bỏng ở phạm vi toàn cầu trong cục diện thế giới đa cực hiện nay nói chung đặt ra cùng một lúc nhiều vấn đề lớn chưa có lời giải. Chiến tranh lạnh II ngày càng quyết liệt trên các mặt trận kinh tế, chính trị, quân sự. Đang tiềm tàng cùng một lúc các nguy cơ xung đột lớn ở Châu Á, Châu Âu và Trung Đông có thể dẫn tới chiến tranh thế giới III.

Giới chiến lược Mỹ cho rằng cả Trung Quốc và Nga vì lợi ích riêng đều muốn khai thác sự lúng túng của Mỹ trong vấn đề tên lửa và vũ khí A của Bắc Triều Tiên. Vì thế cho đến nay hai nước này vẫn không đi đến cùng với Mỹ (trên thực tế gần như bỏ mặc cho Mỹ) trong việc gây sức ép phải có đối với Bắc Triều Tiên. Sự nghi ngờ của Mỹ đi xa tới mức cho rằng : Bắc Triều Tiên được sự giúp đỡ nào đấy về kỹ thuật, vật chất... ; có người nói tiềm tàng những vụ đổi chác lớn – ví dụ đổi vấn đề tên lửa và vũ khí A của Bắc Triều Tiên lấy "cái lưỡi bò" ở Biển Đông… (chẳng lẽ lịch sử có thể lập lại chuyện "Kissinger – Chu Ân Lai 1972" ?).

Trong cuộc đấu tay ba Mỹ - Nga - Trung mỗi bên đều có cái mạnh và cái yếu riêng với sự tập hợp lực lượng và phe cánh riêng rất phức tạp, có nhiều mặt trận đối kháng chính/phụ, nóng/lạnh khác nhau, cục diện thay đổi từng giờ.

Cái mạnh nổi bật của Trung Quốc là sự phát triển năng động của kinh tế thế giới cần thị trường rộng lớn của Trung Quốc, sự nổi trội sức mạnh tại chỗ so với các nước láng giềng, có tiềm lực thực hiện chiến lược thâm nhập, câu giờ và phân hóa đối phương, chuẩn bị sẵn mọi trận địa khác nhau tại nhiều châu lục và lấn từng bước, kết hợp với các thủ đoạn : gặm dần (thái xúc-xích salami), lấy thịt đè người, phản ứng nhanh, mục tiêu biện minh cho biện pháp (vô luật và vô đạo đức)… Chỗ yếu lớn nhất của Trung Quốc là tình hình nội trị Trung Quốc có nhiều vấn đề lớn (đồng thời rất nguy hiểm cho bên ngoài), kinh tế đang trong thời kỳ phải chuyển đổi mô hình phát triển do kinh tế thế giới đã thay đổi. Hiện nay Trung Quốc đang trở nên nguy hiểm nhất đối với các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á - trong đó dặc biệt là Việt Nam, đã thao túng được đáng kể ASEAN. 

Thời Tập Cận Bình, đặc biệt là trong những năm gần đây và hiện tại, Trung Quốc đã có những bước leo thang cao nhất đến nay, quyết thực hiện "đường lưỡi bò" tại Biển Đông, hoàn tất việc xây các căn cứ quân sự trên các đảo đã chiếm, tiến hành nhiều hoạt động gây căng thẳng phía Bắc là Biển Hoa Đông, kết hợp chặt chẽ với những bước đi kinh tế, chính trị của Trung Quốc ở phạm vi toàn cầu. 

Cục diện thế giới hiện tai có nhiều hệ lụy toàn cầu rất sâu sắc, trong đó đã làm xuất hiện một trong những hệ quả rất nhạy cảm và trực tiếp tác động vào nước ta : Vì nhiều lý do toàn cầu và khu vực tại những nơi khác nhau trên thế giới, Biển Đông nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung đang dần dần trở thành một khu vực trống có lợi cho Trung Quốc, hoặc trong tình huống nhất định có thể đột biến trở thành vùng trống – dù chỉ trong khoảnh khắc, và Trung Quốc đã sẵn sàng. Tình hình này còn có nguyên nhân : Vì nhiều lý do trên thực tế ảnh hưởng và sự có mặt của Mỹ tại khu vực này từ thời Obama và nhất là hiện nay không đủ mạnh để kiểm soát có hiệu quả sự bành trướng tại chỗ quyền lực của Trung Quốc, giữa lúc thế giới có nhiều cơ hội "đục nước béo cò" khác với những hệ lụy có thể liên quan đến Biển Đông. 

Việt Nam hiện nay đứng trước thách thức quyết liệt chưa từng có kể từ sau chiến tranh 17/02/1979. Điều gì sẽ xảy ra và Trung Quốc có thể đi xa tới đâu, nếu xu thế nói trên ở Biển Đông diễn tiến tiếp tục, hoặc khi xảy ra đột biến lớn tại bất kỳ một điểm nóng nào đó trong cục diện thế giới hiện nay ? Trong khi đó Trung Quốc đã tạo ra được ở Việt Nam ở mức cao nhất đến nay sự phụ thuộc về kinh tế, sự lệ thuộc về chính trị, sự uy hiếp nghiêm trọng về an ninh quốc phòng, và triển khai tiếp sự can thiệp sâu hơn nữa vào nội bộ nước ta.

- Trong cục diện quốc tế và khu vực rất nguy hiểm và nhạy cảm hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kỳ trầm trọng của cuộc khủng hoảng toàn diện bắt đầu từ Đại VII (1991). Nghĩa là Viêt Nam đang ở trong tình thế bị uy hiếp nghiêm trọng nhất trên cả hai phương diện đối nội và đối ngoại. Đặc biêt là : Kinh tế tuy đạt mức thu nhập trung bình thấp, song không bền vững, đang ở thời kỳ khó khăn nhất sau 30 năm đổi mới với nhiều vấn đề cơ bản, ách tắc, nóng chưa có lời giải (vốn, nợ, tham nhũng, kết cấu hạ tầng, quy hoạch phát triển, môi trường, năng lượng, nước, năng lực quản trị quốc gia, giáo dục, biến đổi khí hậu…), nội trị rối ren, an ninh quốc phòng bị uy hiếp quyết liệt nhất trong tình thế phải đối mặt với nguy cơ bị cô lập rất cao.

- Và 30 năm đổi mới cho thấy ý thức hệ, con đường Đảng cộng sản Việt Nam ; từ Đại hội VII đất nước đi vào thời kỳ khủng hoảng toàn diện, từ mấy năm gần đây là thời kỳ trầm trọng nhất chưa từng có kể từ sau 30/04/1975. Đấy cũng là những nguyên nhân gốc gây ra lãng phí, tham nhũng và bất công xã hội vô cùng nặng nề, cướp đi của đất nước nội lực phải có để có thể đương đầu với mọi thách thức sống còn trong cục diện quốc tế ngày càng nóng bỏng hôm nay. Đồng thời đã áp dụng quá nhiều chủ trương chính sách sai lầm, bưng bít sự thật và ngu dân, kèm theo những hành động trấn áp khắc nghiệt, tất cả khiến cho khối đại đoàn kết dân tộc bị phân hóa sâu sắc, trí tuệ và ý chí phấn đấu vươn lên của đất nước bị tê liệt, làm tổn thương nghiêm trọng tinh thần tự trọng dân tộc và thể diện quốc gia, lòng dân phân tán và mất lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng.

Từ Hội nghị Thành Đô (1990) đến nay cho thấy đường lối ngoại giao leo dây để giữ "đại cục", nhưng không có nội lực vững mạnh của quốc gia làm nền tảng, lại thêm những yếu kém của đội ngũ lãnh đạo, nên đã thất bại nghiêm trọng. Mỗi ngày ta phải nhân nhượng một tý để giữ "đại cục" như thế, để hôm nay là cả một cái thòng lọng không gỡ ra nổi siết trên cổ đất nước, uy tín quốc tế giảm sút nặng nề, biên cương bờ cõi tổ quốc bị xâm phạm, đất nước lâm vào thế vừa lệ thuộc và phụ thuộc, vừa đơn độc một cách nguy hiểm.

Toàn bộ tình hình nêu trên còn cho thấy đường lối đối nội và đối ngoại của đảng chẳng những đem lại cho đất nước những tổn thất lớn, mà còn đẩy đất nước vào con đường phát triển vừa lạc hậu, vừa lạc lõng trong xu thế phát triển chung của thế giới ngày nay. Xem xét kỹ thực chất, quan sát trên thế giới sẽ thấy Việt Nam hiện nay là nước duy nhất còn lại đang cố tìm cách níu kéo ý thức hệ có cỗi rễ là chủ nghĩa Marx-Lenin và chủ nghĩa cộng sản để duy trì chế độ toàn trị và quyền lực của đảng trong điều hành đất nước – mặc dù lãnh đạo đảng cũng thừa nhận chưa biết cuối thế kỷ này liệu sẽ có chủ nghĩa xã hội hay không ! Nghĩa là trên thực tế về nhiều mặt sâu sắc bên trong, nước ta vẫn đang một mình một đường đi trong thế giới hôm nay.

Sau ba thập kỷ hội nhập quốc tế, nền kinh tế đất nước vẫn gia công là chủ yếu và chưa xác lập được vị trí phải có trong nền kinh tế toàn cầu (ngôn ngữ chuyên môn thường nói về các chuỗi cung / ứng). Chế độ toàn trị nặng về trấn áp các quyền tự do dân chủ, cùng với nền kinh tế yếu kém đày rẫy bất công và tham nhũng đã dựng nên một nền nội trị vừa không có khả năng vừa không cho phép thực hiện đường lối đối ngoại dấn thân. Cho nên trên thực tế nước ta chỉ giành được vai trò quốc tế thấp, không đúng với tầm vóc và vị trí chiến lược của quốc gia, chưa đáp ứng được những đòi hỏi quan trọng của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc ; đất nước bị thua thiệt nhiều mặt, thậm chí bị xâm phạm, mặc dù trên danh nghĩa đã thiết lập được mối quan hệ đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện trên mọi Châu lục.

 Một mình một đường đi như vậy, nước ta càng đuổi theo thiên hạ, nhưng hôm nay càng tụt hậu xa hơn và yếu đi – ngay cả so với tất cả các nước láng giềng, tiếp tục lạc lõng.

Trong khi đó địa kinh tế và địa chính trị của cục diện quốc tế hôm nay khách quan đặt ra đòi hỏi phải có một Việt Nam là một quốc gia độc lập tự chủ, vững mạnh và phát triển, để có thể đóng góp tích cực vào lợi ích của hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực ĐNÁ và trên thế giới. Lợi ích sống còn của Việt Nam cũng đòi hỏi phải tận dụng được yếu tố mới này để tạo cho mình một tập hợp lực lượng rộng khắp hậu thuẫn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đảng hôm nay quên mất bài học việc tạo ra được một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ cứu nước – kể cả ngay trong lòng nước Mỹ - là một trong những yếu tố quyết định giành thắng lợi. 

Có thể kết luận :

Thất bại của 42 năm đầu tiên độc lập thống nhất đất nước phải hứng chịu về nhiều mặt chính là thất bại của việc lấy chủ nghĩa trà đạp trí tuệ và các giá trị của tự do – dân chủ - quyền con người, là do người nắm quyền giành được một số lợi ích phe nhóm nhưng phải hủy hoại nhiều lợi ích quốc gia và lợi ích của dân tộc, là thất bại của xây dựng chủ nghĩa xã hội - với kết quả gặt hái được là để mọc lên trên đất nước ta hôm nay một chế độ toàn trị khắc nghiệt, nhưng đối với bên ngoài độc lập 42 năm mà vẫn chưa độc lập ! 

Thất bại của 42 năm trước hết là do để cho tha hóa của chế độ một đảng biến đảng thành đảng cai trị hôm nay cướp đi mất tiền thân của nó là một đảng cách mạng đã từ thế hệ này sang thế hệ khác hy sinh chiến đấu vì nước và đã làm nên sự nghiệp giành lại độc lập thống nhất, là thất bại của sự hiểu biết mơ hồ cái thế giới khắc nghiệt chúng ta đang sống, là thất bại của sự giác ngộ kém cỏi – hay là không giác ngộ được – lợi ích quốc gia của ta nằm ở chỗ nào trong cái thế giới quyết liệt này – điển hình là đường lối ngoại giao bắt đầu từ Thành Đô, mới đây lại xảy thêm vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. 

Khái quát lại :

Bốn cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại và 42 năm độc lập thống nhất, công sức tiền của đổ ra cho công nghiệp hóa như núi biển, song tất cả chỉ để đạt được nền kinh tế gia công, lãng phí và tham nhũng làm cạn kiệt mọi nguồn lực và tài nguyên quốc gia, đã đạt mức có thu nhập trung bình (thấp) song kinh tế không bền vững, năng suất lao động rất thấp, môi trường tự nhiên bị hủy hoại nặng nề, chế độ toàn trị đầy rẫy bất công và trấn áp, vị thế quốc gia èo uột… Trong khi đó từ sau chiến tranh 17/02/1979 đến nay không một lúc nào Trung Quốc ngừng nghỉ thực hiện dã tâm bành trướng "đường lưỡi bò" ; ngay trong những tuần vừa qua Trung Quốc ép ta phải rút việc khai thác dầu khí khỏi lô 136.03 với lời đe dọa trực diện trắng trợn sẽ chiếm nốt tất cả các đảo còn lại ở Trường Sa, tiến hành tập trận bắn đạn thật trên Biển Đông ở quy mô lớn nhất, nằm sâu vào vùng biển nước ta 11.000 km2 và cách Đà Nẵng 75 hải lý ! 

Đau quá ! Nhục quá ! Có lời lẽ nào nói hết được hiểm nguy phía trước đang chờ đợi đất nước ! 

Toàn bộ sự vận động nói trên của đất nước trong xu thế phát triển hiện nay của chế độ toàn trị với ý thức hệ như vậy phải được chấm dứt, để tìm đường hòa bình cải cách chuyển đất nước đi lên con đường : Giải phóng nội lực và xây dựng cho đất nước vị thế quốc gia mới. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong cục diện quốc tế ngày nay đòi hỏi phải có đủ sức mạnh nội lực để phát triển và đồng thời để tập hợp được sự [1] hợp tác và hậu thuẫn rộng rãi trên thế giới. Một sự nghiệp như vậy đòi hỏi phải có một thế chế chính trị quốc gia mới phù hợp. Cải cách để đổi đời đất nước trở thành đòi hỏi sinh tử, cả nước phải đứng lên thực hiện.

II. Cải cách phải là sự nghiệp của toàn dân

- Đổi mới từ 1986 bắt nguồn từ phong trào "phá rào" của nhân dân, trong tình thế đất nước vô cùng hiểm nghèo. Khi trở thành chủ trương của đảng, đổi mới giành thành tựu ngoạn mục, vì nó giải phóng sức mạnh của toàn dân – nguyên nhân cốt lõi là thực hiện dân chủ và thừa nhận kinh tế thị trường.

Qua đổi mới 1986, bộ mặt đất nước bắt đầu có da có thịt, bè bạn ngạc nhiên và vui mừng, còn mọi kế hoạch thù địch và bao vây cấm vận hiển nhiên đã thất bại. Sức mạnh và nghị lực sáng tạo của nhân dân là như vậy. Trong 30 năm sau đổi mới 1986, có thể nói sức mạnh và tiềm năng của nhân dân - ở đây tôi muốn nhấn mạnh trước hết là vai trò của nông dân nói riêng và của toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân nói chung – luôn luôn là chỗ dựa vững chắc, thậm chí không hiếm lúc gian nan là chiếc phao cứu sinh, hoặc là bệ đỡ cho những bước phát triển mới… của nền kinh tế. Lùi nữa về quá khứ, sức mạnh toàn dân tộc là yếu tố quyết định làm nên thắng lợi vẻ vang của 4 cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại.

Truyền thống và sức mạnh nêu trên vừa là yếu tố quyết định thắng lợi, vừa là đòi hỏi như một điều kiện tiên quyết : Cuộc cải cách vĩ đại đổi đời đất nước cần phải được tiến hành với tính chất là sự nghiệp của toàn dân, do toàn dân, và vì toàn dân. Bởi vì đây là cuộc cải cách sâu rộng làm thay đổi triệt để mọi lĩnh vực của cuộc sống đất nước để trở thành một quốc gia phát triển, trước hết là thay đổi chính từng người dân từ đây thành người chủ của đất nước.

Xin nhấn mạnh như một nguyên lý : Không bao giờ có thể có một nước giầu mạnh của một nhân dân bị nô lệ !

Một đất nước giầu mạnh chỉ có thể được kiến tạo nên bởi một nhân dân tự do và là người chủ của quốc gia mình. Mục tiêu chiến lược này lẽ ra đã phải được thực hiện ngay sau 30/04/1975, bây giờ không thể trì hoãn được nữa. Mục tiêu chiến lược này khi trở thành khát vọng của nhân dân, đất nước hôm nay sẽ có nguồn lực sáng tạo và sức mạnh bất khả kháng để phát triển. 

- Trong chế độ toàn trị, cái gì nhà nước không quản được thì cấm, thần dân của nó phải chấp nhận và buộc phải quen sống trong cái lồng quản/cấm này ; mấy chục năm quản và cấm như thế chế độ toàn trị đã tạo ra cho thần dân của nó những tập quán và một văn hóa sống lạc hậu.

Trong chế độ dân chủ của nhà nước pháp quyền, công dân chẳng những phải tự giác ngộ tất cả về quyền và nghĩa vụ để vươn lên làm người trưởng thành, để tự quản chính mình, và còn phải làm nhiệm vụ chủ động tham gia vào đời sống mọi mặt của đất nước với tính cách là chủ nhân của quốc gia. Hơn thế nữa, mỗi công dân như vậy còn vừa là đối tác của nhau, vừa là đối tác của cả thế giới, để có khả năng tạo ra cho mình khả năng hợp tác theo tinh thần đồng đội (teamwork skill), đồng thời cũng phải có bản lĩnh và khả năng chịu đựng hoặc xử lý được mọi tác động từ thế giới bên ngoài, chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế của đất nước vừa là với tính chất công dân Việt Nam, vừa với tính cách là công dân thế giới…

Như vậy về tính chất, khả năng và quyền năng của một bên là thần dân của chế độ toàn trị, và một bên là công dân của chính thể dân chủ pháp quyền có sự khác nhau một trời một vực. Đây là lý do cơ bản nhất khiến sự nghiệp cải cách đổi đời con người và đổi đời đất nước sẽ phải bặt đầu từ học.

Toàn dân, bao gồm cả các đảng viên, không phân biệt bất kể một thứ bậc nào trong xã hội, đều phải học, học lại, giúp nhau học – để trở thành một công dân tự do của trưởng thành, có trí tuệ, ý chí, bản lĩnh và khả năng/quyền năng làm chủ chính mình và làm tròn trách nhiệm người chủ một quốc gia trưởng thành. Sự trưởng thành như thế của từng công dân trong chính thể mới được phát huy đến đâu, đất nước sẽ phát triển đi xa tới đấy !

Công dân của chính thể mới nhất thiết phải học để tự tay mình chủ động và cùng nhau xây dựng nên xã hội dân sự cho chính mình như là một trường học rèn luyện và phấn đấu để tự khẳng định mình, là môi trường thực thi trực tiếp quyền và trách nhiệm của mình đối với chính thể và nghĩa vụ đối với quốc gia, là môi trường quảng bá và vun đắp các giá trị và truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thụ những giá trị của văn minh nhân loại. Vì chính mình và vì đất nước này, cần phải học văn hóa sống "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người", "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi người !", không để cho dối trá, mỵ dân, cám dỗ lường gạt, quyết đối mặt với cái ác và bênh vực lẽ phải, làm cho tổ quốc của chúng ta là nơi đáng sống với tất cả niềm tự hào chính đáng của mình. 

Công dân của chính thể mới cần đặc biệt quan tâm học hỏi và thay đổi chính mình, để thấu hiểu nỗi đau của đất nước, hiểu những bài học cay đắng trên chẳng đường đầy máu và nước mắt để đi tới được độc lập thống nhất hôm nay, qua đó xây dựng cho bản thân mình chính kiến về đường đi nước bước của đất nước trong thế giới đã thay đổi này. Phải học để hiểu nỗi nhục của đất nước phải chịu đựng những chén ép và tổn thất do tình trạng chậm phát triển của quốc gia mình, nên không thể mở mày mở mặt với thiên hạ, đến mức tổ quốc của chúng ta được thiên hạ tặng cho biệt danh : quốc gia không chịu phát triển ! Nghĩa là mỗi người phải học để nhìn nhận công việc của quốc gia cũng là công việc của chính mình, không thể phó mặc cho ai khác tùy tiện. 

Cần phải học nhiều nữa để thấm thía nỗi hèn kém và cả những hư hỏng của chính bản thân mình và của đất nước, do cái dốt, cái lạc hướng, và cái khiếp nhược trước quyền uy sinh ra – trong đó cần phải thấy sự hèn kém này chính là một trong các thành tố tạo nên dinh lũy kiên cố của chế độ toàn trị hiện nay, những bước bị khuất phục đã xảy ra trước sự bành trướng và thâm nhập các mặt của Trung Quốc, cũng như thói tự ti và sính phương Tây, sính theo cái này hay theo cái khác và quên mất chính mình là ai. Đã xảy ra không hiếm trường hợp hèn kém đến mức đánh mất hoặc để bị cướp mất tinh thần tự trọng dân tộc và thể diện quốc gia… 

Cần phải học bằng được hòa giải dân tộc, để hàn gắn vết thương tay trái chém tay phải đến hôm nay vẫn còn rỉ máu. Cần phải học bằng được điều này để làm cho quốc gia đủ mạnh và vững vàng, không để cho bất kể tình huống nào các mưu đồ hoặc quyền lực đen tối dù từ đâu tới lại có thể một lần nữa xô đẩy đất nước vào thảm họa nội chiến này. Và trên hết cả, cần thông qua hòa giải dân tộc, để có được sự cố kết dân tộc làm nên một quốc gia chẳng những có sức mạnh bất khả kháng với mọi thách thức từ bên ngoài, mà còn là môi trường nẩy nở các giá trị cao đẹp, là nơi nuôi dưỡng, làm bệ đỡ, và đồng thời là thành lũy bảo hộ cho mọi nỗ lực tinh hoa của từng công dân của nó… 

Xem như thế, công dân của thể chế chính trị mới phải học rất nhiều, học tất cả, để phát huy lợi thế nước đi sau qua sự nghiệp cải cách này xây dựng thành công một thể chế chính trị dân chủ của nhà nước pháp quyền của Việt Nam, phù hợp cho Việt Nam, nhằm vào mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam độc lập của tự do - dân chủ - hạnh phúc, trên nền tảng một quốc gia giầu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh, như đã thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập 02/09/1945 và Hiến pháp 1946. 

Có thể nói đây là cải cách của học tập. Học như thế là nội dung chiều sâu phải thực hiện được trong quá trình cải cách. Vì có con người như thế, đất nước sẽ có tất cả. Học như thế để dứt khoát không học đòi. Học để từng công dân trực tiếp tham gia cải cách vì chính mình và vì đất nước. Vì thế, cải cách như vậy phải là sự nghiệp của toàn dân, với tính chất là toàn dân giác ngộ trực tiếp tiến hành cuộc cải cách trong đại này, được khai thông con đường thực hiện đi qua Đảng cộng sản Việt Nam như đang là đã chuyển đổi thành đảng của dân tộc.

III. Cái đích phải tới

Nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại này của đất nước hôm nay đặt lên vai Đảng cộng sản Việt Nam và đội ngũ lãnh đạo không phải là đập vỡ "bình" hay sửa "bình". Cả hai việc này đều không thể, không cần thiết, và đều không phải là giải pháp, thậm chí có thể nguy hiểm cho đất nước.

Nhiệm vụ lịch sử không được phép tránh né của đảng hôm nay là phải cất cái "bình" hiện nay vào nơi trang trọng nhất có thể trong bảo tàng – phần lịch sử Việt Nam cận đại, để đánh dấu sự kết thúc con đường đất nước đã đi từ năm 1930 đến hôm nay, để từ đây thông qua cải cách thể chế chính trị mở ra một thời kỳ phát triển mới của nước Việt Nam độc lập thống nhất trong thế giới đã sang trang. 

Song Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay như đang là không có trí tuệ, phẩm chất và khả năng thực hiện nhiệm vụ lịch sử nó phải làm nói trên. Và nếu cố tình vẽ ra một nhiệm vụ như thế cho đất nước thì nó cũng không thực hiện được, nhân dân cũng không tin. 42 năm độc lập thống nhất đã chứng minh thuyết phục : Ngoài đổi mới 1986 là nỗ lực của cả nước, Đảng cộng sản Việt Nam như đang là cho đến nay chỉ có thất bại trong mọi nỗ lực cải cách, dù đấy chỉ là những cải cách ở quy mô các vấn đề từng phần hay cục bộ (ví dụ : cải cách giáo dục, cải cách hành chính, tinh giảm biên chế…). Đơn giản vì bản chất và lợi ích của Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay đối kháng với cải cách, do đó nó coi những ý tưởng cải cách là suy thoái đạo đức chính trị tư tưởng, là tự diễn biến, đặc biệt đố kỵ trong các vấn đề như xóa bỏ "Điều 4", hòa giải dân tộc, xã hội dân sự… 

Xin lưu ý : Cải cách đổi đời đất nước mang tầm vóc và nội dung quan trọng, bao quát toàn bộ đời sống mọi mặt của đất nước, làm nhiệm vụ thay đổi triệt để toàn bộ hệ thống chính trị - nhà nước của quốc gia hiện có. Nhưng không được phép để xảy ra tình huống xuất hiện khoảng trống quyền lực trong khi tiến hành cải cách. Vì lẽ cốt tử này, cải cách phải được một lực lượng chính trị có ảnh hưởng chi phối quốc gia thực hiện. So sánh tương quan các lực lượng chính trị - kinh tế - xã hội ở nước ta trong tình thế cấp bách hiện nay, một lực lượng chính trị đủ mạnh và có sẵn như thế chỉ có thể là Đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển đổi thành đảng của dân tộc. Đây cũng là điều lý tưởng nhất có thể lúc này để tiến hành cải cách trong hòa bình theo tinh thần khép lại quá khứ và không hồi tố, vì thời gian và nguy cơ không chờ đợi !

Vậy chỉ còn con đường sống duy nhất : Đảng cộng sản Việt Nam như đang là phải lột bỏ ý thức hệ và tình trạng thoán quyền, chỉ giữ lại cho mình trách nhiệm ràng buộc với đất nước, tự thay đổi mình trước thành đảng của dân tộc với tinh thần "sống hay là chết", để có phẩm chất và khả năng mới của sự giác ngộ Tổ quốc trên hết, để từ đó mới có thể đề xướng được cải cách, và vận động được cả nước đứng lên thực hiện.

Muốn thế, Đảng cộng sản Việt Nam như đang là phải làm được 2 việc :

1. Phải nhận thức được đòi hỏi sống còn đưa quốc gia bước sang thời kỳ phát triển mới trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi là trách nhiệm ràng buộc của đảng ; nếu Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay từ chối không làm, chống lại, hoặc làm hỏng… đều sẽ đồng nghĩa với phạm trọng tội chống lại quốc gia, đảng không còn chính danh để tồn tại ; nếu để xảy ra như thế, cái trước sau phải đến không thể tránh được sẽ là : Chế độ toàn trị sẽ dẫn tới "dân lật thuyền", hoặc bị tha hóa làm cho sụp đổ, đất nước lâm vào đại họa, chôn vùi theo toàn bộ sự nghiệp của đảng ;

2. Đảng phải quyết tâm thay đổi chính mình trước, phải tin vào nhân dân, và tự tin chính mình, quyết đi cùng với nhân dân mở ra trang sử mới đổi đời này của đất nước. Làm được như thế, ngoài cái tha hóa và tham nhũng thối nát ra, đảng không có gì để mất ! Nắm mọi quyền lực trong tay, đảng đã dẫn dắt đất nước đi vào tình thế đau lòng và hiểm nghèo hôm nay, đảng phải có trách nhiệm ràng buộc tự lột xác mở lối ra cho đất nước ! Đảng ra đời từ yêu nước, hy sinh cứu nước đã làm nên sự nghiệp của đảng. Giữ được truyền thống này và có nhân dân, đảng sẽ thực hiện được sứ mệnh lịch sử mới này.

Như thế, Đảng cộng sản Việt Nam như đang là cần tự thay đổi mình trước thành đảng của dân tộc – như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cách đây 22 năm đã chính thức nêu ra với đảng (thư 09/08/1995). Đây là điều kiện tiên quyết tất yếu. Chỉ trên cơ sở đó, đảng mới có thể đề xướng, có khả năng và có chính danh để tiến hành cải cách, động viên được sự tham gia của toàn dân.

Con đường đảng đã thay đổi thành đảng của dân tộc để cùng với toàn dân tiến hành cải cách đổi đời đất nước, sẽ là con đường tất cả cùng thắng rất lớn, và không gì có thể ngăn cản được. Tất cả chỉ còn phụ thuộc duy nhất vào việc Đảng cộng sản Việt Nam như đang là dám vứt bỏ mọi tha hóa và tham nhũng thối nát của mình, dám chặn đứng mọi sự can thiệp vào nội bộ ta từ bên ngoài.

Làm được như thế, đảng sẽ tránh được mắc phải trọng tội phản dân phản nước trước bước ngoặt của lịch sử, trở thành đảng của dân, của nước và xác lập được cho mình con đường vì dân, vì nước trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, kế thừa được truyền thống cách mạng vẻ vang cứu nước của các thế hệ đi trước.

Đảng cần nuôi cho mình khát vọng làm được như thế, vì còn gì đáng sống hơn cho một con người, cho một đảng viên và cho một đảng là trở thành người đề xướng và chung tay với cả dân tộc mở ra một thời kỳ phát triển mới của tổ quốc ! ? Đảng phải làm như thế để không phản bội các bậc tiền bối của mình !

Đảng cộng sản Việt Nam như đang là quyết tự thay đổi mình trước để làm được như thế, có thể nói sự nghiệp cải cách có ý nghĩa sinh tử này của đất nước triển vọng thành công mười phần đã đạt được tới tám, chín phần ! Làm được như thế, Việt Nam bước lên con đường phát triển mới trong thế giới mới hôm nay sẽ là lẽ tự nhiên, tất yếu, và bất khả kháng.

Vẫn cứ phải xin nhắc lại : Nếu đảng quyết không làm như thế, thậm chí chống lại làm như thế, hoặc sợ không dám làm như thế, sẽ có nghĩa đảng tự tay xóa bỏ toàn bộ sự nghiệp cách mạng của đảng và chống lại đất nước. Trong tình hình nghiêm trọng hiện nay, nếu bây giờ lãnh đạo đảng vẫn quyết như thế, thì nên tuyên bố công khai trước toàn dân, toàn thể các đảng viên phải bầy tỏ thái độ rõ ràng của mình, các tầng lớp nhân nên dân huy động trí tuệ của mình để quyết định. Cho đến nay đảng đã thực hiện nhiều biện pháp chống lại cải cách : Điều 4 Hiến pháp, 19 điều cấm, nghị quyết 244, NQ TƯ 4 (30-10-2016) với 27 "biểu hiện" phải chống (đặc biệt là nhóm 3 – biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ)… Bây giờ đứng trước bước ngoặt của lịch sử đất nước, lãnh đạo đảng nhất thiết phải xem lại. Hôm nay phải lột xác cứu đảng để mở đường cải cách cứu nước còn hơn cả cứu hỏa ! Bây giờ vẫn còn kịp ! 

Nội dung cải cách có thể phác họa một cách tóm lược như sau :

Thứ nhất : Mục đích cuối cùng và cũng là cao nhất cải cách chính trị ở nước ta hôm nay phải đạt được nên là : Từ hòa giải, đoàn kết và đồng thuận dân tộc quật khởi nên một quốc gia Việt Nam phát triển của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng ta – đúng với tinh thần đã nêu từ Cách Mạng Tháng Tám : "Nước Việt Nam là của người Việt Nam !", với các tiêu chí Dân chủ, Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc

Thứ hai : Kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự là 3 trụ cột làm nên quốc gia vững bền, phải được xây dựng và phát triển từng bước thích hợp trong tổng lộ trình hình thành nên một nước Việt Nam phát triển, với các tiêu chí như đã nêu trong điểm thứ nhất

Thứ ba : Thể chế chính trị cần phải xây dựng là một nhà nước pháp quyền dân chủ, có phân định rạch ròi các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, hoạt động ràng buộc nhau và kiểm soát lẫn nhau trong khung khổ chung của một Hiến pháp mới ; nhà nước này được xây dựng và hình thành trên những nguyên tắc của bầu cử dân chủ. Kinh tế thị trường và xã hội dân sự là 2 yếu tố căn bản tạo dựng nên nhà nước pháp quyền này, vì lẽ này nhà nước pháp quyền dân chủ tất yếu phải được xây dựng trên nền tảng của thể chế chính trị dân chủ đa nguyên, được thiết kế theo một hiến pháp mới đúng với tinh thần nhà nước do dân, của dân, vì dân. Đây phải là cái đích cuối cùng và cao nhất của toàn bộ quá trình cải cách chính trị lần này, được thực hiện dần từng bước dựa trên mọi thành quả kinh tế - chính trị - xã hội và tiến bộ của quốc gia đạt được trong suốt quá trình tiến hành cải cách này.

Học hỏi là động lực trí tuệ xuyên suốt quá trình này – vì thế tôi gọi đó là thể chế chính trị đa nguyên của học hỏi, của giác ngộ, của phát triển, bởi vì nó được xây dựng từng bước và thường xuyên nâng cao theo tiến trình của giác ngộ và phát triển ; nó khác hẳn với đa nguyên của bầy đàn, vô minh và hỗn loạn. Nói đơn giản : Đó là lấy mở rộng tự do dân chủ tạo ra giác ngộ của trí tuệ và đồng thuận xã hội làm động lực cho việc tiến hành cải cách, để từng bước xây dựng nên một thể chế chính trị mới. Vì thế có thể nói : Cải cách chính trị lần này là tiến hành những cuộc vận động chính trị lớn và sâu rộng trong toàn xã hội như đã từng làm thời Cách Mạng Tháng Tám nhằm thay đổi sâu sắc toàn diện đời sống đất nước.

Thứ tư : Các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền sở hữu cá nhân, và các quyền con người phải được thể hiện đầy đủ và được bảo đảm trong Hiến pháp, đồng thời được phản ánh trong mọi bộ luật của quốc gia. Những quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội, quyền biểu tình, quyền tự do báo chí phải được xem và thiết kế là những quyền trực tiếp bảo đảm việc thực hiện các quyền công dân và quyền con người, đồng thời những quyền này làm nhiệm vụ tạo nền móng cho sự hình thành và hoạt động của xã hội dân sự, mang lại động lực cho tiến hành cải cách. Quân đội, công an và các lực lượng chuyên chính khác là công cụ bảo vệ đất nước và giữ gìn an ninh quốc gia, được xây dựng và hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và luật pháp quốc gia, chỉ trung thành với quốc gia, với nhân dân.

Thứ năm : Toàn bộ các đảng phái chính trị, các loại hình hiệp hội cùng các thành viên của nó chỉ được hoạt động trong khuôn khổ của xã hội dân sự, trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật – bao gồm cả luật/các luật về các đảng phái chính trị, hiệp, hội, các tổ chức dân sự khác… Tất đều bình đẳng trước pháp luật, tự túc về tài chính và không được sử dụng tiền thuế của dân.

Một khi những cá nhân của những tổ chức này thông qua bầu cứ dân chủ theo luật định được cử vào tham gia bộ máy nhà nước thì trở thành đại diện của các cử tri bầu cho họ, hoạt động theo Hiến pháp, chứ không đại diện cho các đảng phái hay các tổ chức chính trị xã hội xuất thân của họ. Khái niệm đảng cầm quyền chỉ thuần túy là tên gọi không hơn không kém cho đảng phái có nhiều thành viên (thường là chiếm đa số hoặc thông qua liên minh) tham gia chính quyền. Nghĩa là : Không có các đảng phái hay các tổ chức chính trị xã hội với tính chất là chính nó trong bộ máy và hệ thống pháp quyền của nhà nước, đây là đặc chưng cốt lõi "nhà nước do dân, của dân, vì dân".

Trên đây chỉ là một gợi ý sơ bộ để tham khảo. Tôi tin rằng nếu lãnh đạo đảng huy động trí tuệ cả nước xây dựng chiến lược cải cách đưa đất nước đi vào thời kỳ phát triển mới, chắc chắn đất nước sẽ có được một chiến lược cải cách của toàn dân và nhất định thành công. 

Tới đây tôi trân trọng đề nghị : 

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, với trách nhiệm là người giữ cương vị cao nhất trong đảng, yêu cầu Bộ Chính trị ra quyết định khép lại quá khứ, đoàn kết toàn Bộ Chính trị và toàn đảng, huy động toàn đảng và dựa vào trí tuệ của nhân dân cả nước quyết tiến hành cuộc cải cách chính trị không thể trì hoãn này. Đảng phải thay đổi thành đảng của dân tộc để có thể dấy lên cuộc cải cách của toàn dân cứu nước và đổi đời đất nước ! Đây cũng là con đường cứu đảng thành đảng của dân tộc, mãi mãi đi với dân tộc. Thời gian không chờ đợi. Mọi thách thức trong/ngoài đang uy hiếp đất nước không biết chờ đợi !

Trước những thách thức nghiêm trọng của quốc gia, tôi cầu mong cả nước – đặc biệt là những đảng viên muốn cứu đảng để cứu nước – hãy lên tiếng về vận mệnh đất nước, cùng nhau làm tất cả mọi việc vì đất nước với sự giác ngộ cao nhất về cuộc cải cách phải tiến hành này !

Nguyễn Trung

Xin đọc tiếp 3 phục lục đính kèm

**************

Phụ lục I

Về con đường cải cách đi qua Đảng cộng sản Việt Nam đã thay đổi trở thành đảng của dân tộc

Thực trạng hiện nay là :

- Đảng như đang là ngày càng không có dân đi với mình và ngày càng bất cập do tha hóa và do nhiệm vụ đất nước đặt ra cho đảng ngày càng vượt tầm, khiến đảng ngày càng bị thách thức, càng phải trấn áp để giữ chế độ toàn trị ;

- Trong xã hội dân sự hiện nay dân tình ngày càng bức xúc và không có đường lùi ; dân hiện nay tuy chưa đủ sức lật thuyền xóa bỏ đảng, nhưng tình hình ngày càng đến gần tức nước vỡ bờ, cùng tắc biến ;

- Tình hình từ hai, ba khóa đại hội nay cho thấy mâu thuẫn giữa một bên đảng một bên dân nói trên gây ra nhiều xung đột ngày càng lớn và quyết liệt, hoặc ngầm ngầm, hoặc bùng nổ công khai. Tình trạng bế tắc này tự nó đang hấp dẫn ngày càng mạnh mẽ những bi kịch tồi tệ nhất đến với đất nước, với mọi kết cục thê thảm có thể.

Trong những bi kịch có thể xảy ra này, bạo loạn lật đổ, hoặc chế độ tự sụp đổ là nguy hiểm nhất, sẽ có thể mang lại cho đất nước đau khổ và tổn thất lớn nhất. Bởi vì sự phá hủy này nếu xảy ra sẽ chỉ đem lại điêu tàn cho đất nước. Trong cái bầu không khí chiến tranh lạnh muốn ăn thịt người trên thế giới hiện nay, nhất là Việt Nam lại nằm ở vị trị địa đầu trong khu vực, sẽ không sao đoán trước được cái gì sẽ xảy ra cho nước ta tiếp theo sự phá hủy này !

Điều chắc chắn : Quốc gia bạo loạn, nạn "đục nước béo cò" dù là cò "nội" hay cò "ngoại" sẽ tìm đến như kền kền tìm xác thối ! Mong đừng ai mù quáng tưởng rằng đấy sẽ là "sự phá hủy sáng tạo" của Schumpeter ! Chỉ cần xem ai là người khích cho nước ta phải rối ren hơn nữa, sẽ thấy ngay sự phá hủy này có thể mang lại cho đất nước những gì. Song giữ nguyên trạng chế độ toàn trị ngày càng ruỗng nát thế này, trước sau cũng tất yếu dẫn tới bạo loạn !

Hai năm khóa Đại hội XII cho thấy : Mọi nỗ lực rất quyết liệt và chật vật nhằm cứu vãn tình hình cho đến nay của đảng và của chế độ toàn trị trong mọi lĩnh vực cuộc sống đất nước chỉ là "bịt lỗ hà, ra lỗ hổng", hoặc là "giật gấu vá vai". Hệ thống kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội của đất nước dù có vắng bớt được đôi ba bộ mặt tham nhũng xấu xí ; song chồng chéo, manh mún, ăn bám, tham nhũng, và mục ruỗng của hệ thống trước sau vẫn nguyên vẹn. Nghĩa là : (a) cỗ máy sản sinh ra mọi tội lỗi của chế độ toàn trị, và (b) hiện trạng nguy hiểm của đất nước đều còn nguyên vẹn, và tình hình mọi mặt đang ngày càng rối thêm. Đất nước đang èo uột tiếp để chịu bó tay làm mồi cho mọi ý đồ xấu xa phía trước. Trong khi đó thời gian và mọi thách thức trong / ngoài không biết chờ đợi. Khoanh tay bất lực ngồi yên, hay cứ loay hoay mãi ngứa đâu gãi đấy, cháy đâu chữa đấy như đang làm, đều đồng nghĩa với tự sát. Phải nhìn thẳng vào sự thật này để không lạc hướng trong lúc tìm lối ra cho đất nước : Lột xác cứu đảng để cải cách mở đường cứu nước – lẽ ra đây phải là nội dung duy nhất của Đại hội XII ! 

Chỉ có con đường sống : Đảng phải thay đổi chính mình thành đảng của dân tộc, còn dân quyết đi cùng với đảng đã thay đổi, để cùng sống, sống được, trên hết là để có thể cùng nhau thực hiện cải cách cứu mình và cứu nước, và mở ra cho đất nước thời kỳ phát triển mới.

Lý tưởng nhất, con đường này sẽ là : Bộ Chính trị huy động trí tuệ cả nước và trong Đảng, vận dụng những kinh nghiệm thành/bại trên con đường phát triển của chính nước ta và các nước khác trên thế giới xây dựng nên chiến lược cải cách của ta, sau đó làm cho chiến lược cải cách trở thành nghị quyết của toàn Đảng – bắt đầu là của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Sau cùng là việc thay đổi đảng thành đảng của dân tộc và thực hiện cải cách trở thành nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc.

Thực hiện nghị quyết đại hội, đảng – thông qua đảng viên và các tổ chức cơ sở của mình – làm nhiệm vụ hạt nhân lãnh đạo và đồng thời là lực lượng nòng cốt vận động nhân dân cả nước tiến hành cuộc cải cách này theo kế hoạch và các bước đã thiết kế được, với tổng lộ trình gồm 2 phần trước sau dưới đây :

A. Đảng tiến hành thay đổi chính mình trước trở thành một đảng mới : đảng của dân tộc ; sau đó

B. Triển khai trong cả nước chiến lược cải cách của đảng mới.

Đại thể cải cách có thể chia thành 3 giai đoạn sau đây :

Giai đoạn I :

Hoàn thành phần A của tổng lộ trình, làm xong việc chuyển đổi thành đảng mới với cương lĩnh mới, điều lệ mới, tiến hành tổ chức lai đảng theo tinh thần lấy xã hội dân sự làm môi trưởng rèn luyện, phấn đấu và hoạt động của đảng, với mục tiêu trở thành lực lượng chính trị mạnh nhất và có tính tiền phong chiến đấu cao trong xã hội dân sự. Đảng mới sẽ tiến hành mọi hoạt đông thực hiện các nhiệm vụ của mình theo tinh thần "Điều 4" của Hiến pháp hiện hành không còn tồn tại nữa trong thực tế (vì lúc này chưa có Hiến pháp mới). Có những điểm nổi bật sau đấy :

1. Cương lĩnh mới của Đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển hóa thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ - nên lấy lại tên cũ là Đảng Lao động Việt Nam, gồm 3 phần chính :

(a) khẳng định mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam phát triển theo con đường dân tộc và dân chủ, hòa nhập cộng đồng thế giới vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, phấn đấu giành vị thế xứng đáng trong kinh tế thế giới toàn câu hóa ở giai đoạn hiên nay ;

(b) xây dựng một thể chế chính trị / nhà nước dân tộc và dân chủ của hòa giải và đoàn kết dân tộc dựa trên kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ đất nước của nhân dân ;

(c) chuyển đổi và xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ trên cơ sở gìn gữ và phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước, sự nghiệp giành độc lập thống nhất, các giá trị của dân tộc và của văn minh nhân loại, nguyện phấn đấu đi tiên phong trong hàng ngũ dân tộc vì sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, dân chủ, giầu mạnh, công bằng, văn minh.

2. Điều lệ đảng mới bảo đảm cho đảng viên và toàn đảng được tổ chức và xây dựng phù hợp tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước, đòi hỏi đảng viên thông qua học tập :

- nâng cao kiến thức và giác ngộ chính trị để có năng lực và phẩm chất lấy xã hội dân sự làm môi trường phấn đấu ;

- gương mẫu mọi mặt để có thể trở thành hạt nhân lãnh đạo trong mọi hoạt động của xã hội dân sự, qua đó phát huy ý chí, nội lực và sự sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cải cách đòi hỏi ;

- khơi dậy mọi sáng kiến và phong trào của nhân dân trong xã hội dân sự, đi tiên phong xây dựng những phong trào vận động lớn của toàn quốc hoặc từng vùng miền, từng lĩnh vực để giải quyết những vấn đề trọng đại trong kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ;

- đẩy mạnh cải cách giáo dục, xây dựng nếp sống mới tôn trọng luật pháp và các quyền của công dân, quyền con người ;

- tạo ra những chuyển biến mới mọi mặt của đất nước, thực hiện những kế hoạch phát triển, tạo công ăn việc làm mới, tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, gìn giữ môi trường tự nhiên, tranh thủ đầu tư nước ngoài và hợp tác quốc tế.

- xây dựng mới phù hợp với hiến pháp và pháp luật mới (sẽ phải có) những tiêu chuẩn của đảng viên và tổ chức đảng các cấp phù hợp với thể chế chính trị dân chủ pháp quyền và khả năng hoạt động của đảng / các tổ chức cơ sở đảng trong xã hội dân sự để trở thành lực lượng chính trị có khả năng đi tiên phong trong mọi tiến bộ của đất nước ;

- lấy thúc đẩy những thành quả đạt được trong vận động xã hội dân sự thành những động lực bên cạnh những động lực kinh tế - chính trị - xã hội khác góp phần thúc đẩy sự phát triển và những tiến bộ mới của đất nước ;

- cho ra khỏi đảng những đảng viên không muốn hoặc không đủ điều kiện là đảng viên của đảng mới, đẩy mạnh kết nạp đảng viên mới – trước hết là trong đối tượng thanh niên, học sinh, sinh viên, trí thức, doanh nhân giỏi… nhằm mang lại cho đảng năng lực và sức sống mới, dứt khoát vứt bỏ chủ nghĩa lý lịch và chủ nghĩa thành phần và hậu duệ.

- qua thực tiễn phấn đấu này rèn luyện đảng trở thành lực lượng chính trị nòng cốt và đội ngũ tiên phong của một nước Việt Nam mới : Đảng theo đuổi những giá trị của dân tộc và dân chủ, những tiến bộ mới của trí tuệ và văn minh nhân loại.

Xin đặc biệt lưu ý về đảng : Đối tượng vận động của đảng chính trị luôn luôn là nhân dân. Quan điểm đúng đắn này đã được nhấn mạnh : Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng (nói đúng hơn : Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân). Trung thành với quan điểm này, đảng đã làm nên thắng lợi của 4 cuộc kháng chiến vĩ đại.

Ngày nay, cải cách là để xây dựng quốc gia độc lập có chủ quyền của thể chế chính trị pháp quyền dân chủ, trong đó nhân dân là chủ đất nước với tính cách là công dân trong xã hội dân sự. Vì thế trong cải cách đổi đời đất nước, Cương lĩnh và Điều lệ mới của đảng (đã thay đổi trở thành đảng của dân tộc) cần làm rõ nhiệm vụ của đảng và đảng viên là phải có phẩm chất, năng lực, xác định mục tiêu phấn đấu là lấy xây dựng và phát triển xã hội dân sự làm môi trường nuôi dưỡng và phát huy sự trưởng thành, quyền năng và sức mạnh của công dân, coi đây là mặt trận chính trị số một của đảng để thực hiện hòa giải, đoàn kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thế giới hôm nay. Đây là nhiệm vụ cơ bản hàng đầu của một đảng lãnh đạo trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, khác hẳn với thời kỳ làm nhiệm vụ cách mạng giành độc lập và kháng chiến cứu nước ! 

Đặc điểm mới này quyết định bản chất hoàn toàn mới của đảng, đồng thời đòi hỏi phải có đường lối mới và tổ chức mới của đảng mà cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đề cập tới (thư 09/08/1995). Nhiệm vụ đổi mới Đảng cộng sản Việt Nam như đang là thành đảng của dân tộc trước hết là hiểu theo tinh thần này. Chủ động xây dựng và phát triển xã hội dân sự như thế là môi trường rèn luyện phẩm chất của tính chiến đấu và tính tiền phong của đảng, đồng thời là bí quyết để phấn đấu giành về cho đảng vai trò lãnh đạo trong thể chế chính trị dân chủ đa nguyên.

Đây là những đòi hỏi rất cao về trí tuệ, bản lĩnh và các phẩm chất thuộc các phạm trù đạo đức và giá trị. Tất cả nói lên Đảng cộng sản Việt Nam như đang là phải thay đổi hoàn toàn về bản chất, đúng với quy luật : nhiệm vụ mới của đất nước đòi hỏi phải có đảng chất lượng mới, nếu không muốn bị loại bỏ. 

Có thể tổng kết : Trước 30/04/1975 là giai đoạn làm nhiệm vụ cách mạng để giành độc lập thống nhất, sau 30/04/1975 là làm nhiệm vụ phát triển để xây dựng và bảo vệ tổ quốc ; vì không nhận thức được sự khác nhau của 2 nhiệm vụ chính trị là cách mạng và phát triển như thế để thay đổi, nên 42 năm qua từ đảng lãnh đạo đảng đã biến chất thành đảng cai trị, không oan uổng !

3. Ra Tuyên bố của Đảng cộng sản Việt Nam chuyển đổi thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ (nên đổi tên là Đảng Lao Động Việt Nam), tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới quyết định đổi mới thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ (Đảng Lao Động Việt Nam), làm rõ đất nước đã hoàn thành một giai đoạn phát triển, ngày nay phải chuyển sang một giai đoạn mới để trở thành một nước phát triển trong một thế giới đã sang trang đi vào thời kỳ của một cục diện quốc tế mới.

Khẳng định mục tiêu chiến lược của đảng mới là kế tục mọi thành tựu đất nước đã giành được đến nay để đưa đất nước lên con đường trở thành nước phát triển của một thể chế chính trị / nhà nước dân tộc và dân chủ dựa tên kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất, dân chủ và giầu mạnh ; lấy hòa giải đoàn kết dân tộc và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc và của văn minh nhân loại làm động lực thực hiện mục tiêu trọng đại này ; kêu gọi toàn dân nỗ lực chung vai sát cánh với đảng thực hiện, đảng nguyện trung thành với lợi ich của nhân dân và của đất nước, phấn đấu trở thành chỗ dựa tin cậy và là lực lượng nòng cốt của cả nước trong thực hiện cuôc cải cách đổi đời đất nước cũng như trên con đường đưa đất nước trở thành nước phát triển theo kịp tiến bộ của nhân loại.

Đảng ra tuyên bố trước toàn thế giới về quyết định thực hiện cuộc cải cách trọng đại này : 

- khẳng định xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất, dân chủ và giầu mạnh, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển trong quan hệ với moi quốc gia và với các tổ chức quốc tế và khu vực ;

- lấy phát huy hòa giải đoàn kết dân tộc, các giá trị của dân tộc, tự do, dân chủ, bảo vệ và phát huy các quyền con người và bảo vệ môi trường làm động lực xây dựng và bảo vệ đất nước ;

- Việt Nam khẳng định theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tôn trọng luật pháp quốc tế, làm tròn trách nhiệm của thành viên Liên hiệp quốc ;

- Việt Nam kêu gọi mọi quốc gia và mọi tổ chức quốc tế và khu vực chủ động góp phần mình gìn giữ hòa bình, bảo vệ tự do lưu thông hàng hải, và giải quyết hòa bình mọi tranh chấp có liên quan đến vấn đề chủ quyền trên trong Biển Đông theo tinh thần UNCLOS 1982 và luật pháp quốc tế, cùng chung sức phát huy vai trò của ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu vực của hòa bình, hợp tác và phát triển, qua đó góp phần vào hòa bình và sự thịnh vượng chung của thế giới ;

- trong trường hợp Việt Nam bị xâm lược, Việt Nam quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình, đồng thời giành cho mình quyền kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng thế giới.

Nói thì ngắn gọn như vậy, song nội dung là quyết xây dựng đối nội và theo đuổi một đường lối đối ngoại dấn thân, để tạo ra vị thế quốc gia mới cho đất nước.

Ngay sau khi ra 2 tuyên bố nói trên, trả lại tự do cho tất cả những người bị tù vì bất đồng chính kiến với chế độ chinh trị, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho họ đem hết sức mình tham gia cuộc cải cách vĩ đại của đất nước ; đồng thời tiến hành cuộc vận động lớn trong cả nước thực hiện hòa giải và đoàn kết dân tộc, tạo ra sự đồng thuận của toàn dân tộc tiến hành thắng lợi cuộc cải cách đổi đời đất nước. 

Trong Giai đoạn I này, như một khởi động đầu tiên của toàn hệ thống chính trị - xã hội cả nước, đảng tiến hành ngay cuộc vận động lớn trong cả nước thực hiện tiết kiệm triệt để chi tiêu – trước hết gương mẫu cắt giảm mọi chi tiêu có thể cho đảng và trong đảng, để cứu nguy thâm hụt ngân sách quốc gia, dồn mọi nguồn lực cho yêu cầu phát triển của kinh tế. 

Qua cuộc vận động này xây dựng và hình thành một phong cách làm ăn trung thực, hiệu quả, tiết kiệm trong cả nước. Từ đó xây dựng những chuẩn mực đạo đức và chính trị đầu tiên của quốc gia cần xác lập cho toàn bộ sự nghiệp đưa đất nước trở thành nước phát triển. Tạo dựng được phong trào mở đầu nhưng rất quan trọng này, hy vọng những giá trị tốt đẹp sẽ được củng cố và có sức sống mới, đồng thời đất nước sẽ nảy nở những tinh hoa và trí tuệ mới. Đây có thể là cái đà đầu tiên vận động toàn bộ quá trình cải cách và xây dựng đất nước. 

Tóm lại, Giai đoạn I thực hiện xong nhiệm vụ đảng tự thay đổi và cải cách đảng trước về đường lối, về tổ chức và về phương thức hoạt động, để có khả năng xây dựng xong và triển khai chiến lược cải cách và phương thức / kế hoạch thực thi trong cả nước. Trên cơ sở tự cải cách chính mình trước như vậy, đảng chủ xướng và dẫn dắt cả nước thực hiện cuộc cải cách trọng đại này.

Ngay lập tức (nghĩa là trong khi chưa có Hiến pháp mới) đảng chuyển sang hoạt động theo phương thức của đảng cầm quyền trong một thể chế chính trị pháp quyền dân chủ (trước hết với tinh thần trên thực tế coi như không còn "Điều 4"), lấy xã hội dân sự làm địa bàn hoạt động chủ yếu, thực hiện những sửa đổi / cải cách bước đầu cần thiết hệ thống hành chính quốc gia để bảo đảm yêu cầu xúc tiến cải cách, duy trì đươc sự vận hành liên tục của mọi lĩnh vực trong cuộc sống trong suốt thời gian tiến hành cải cách, không để xảy ra khoảng trống quyền lực.

Giai đoạn II :

- Thực hiện tiếp những bước cải cách cụ thể đã đề ra trên cơ sở về cơ bản giữ bộ khung cũ của toàn bộ hệ thống hành chính sự nghiệp với những thay đổi cần thiết về tổ chức, cơ chế hoạt động, nhân sự, song song với thi hành những chính sách mới hoặc những quy định mới đúng với tinh thần và nội dung của cải cách. Đặc biệt chú trọng xây dựng và thực hiện ngay những luật cơ bản (có thể là những Luật tạm thời trước khi có Hiến pháp mới) về tự do báo chí, tự do thành lập hiệp hội, về quyền biểu tình, về quyền thể hiện ý chí của nhân dân, về quyền con người, bảo đảm thực hiện công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình.., qua đó tạo ra động lực quyết định xúc tiến cải cách. Tất cả những hoạt động này dựa trên nền tảng nâng cao dân trí và tinh thần thượng tôn pháp luật, hòa giải và đoàn kết của nhân dân cũng như của hệ thống chính trị / nhà nước… Tất cả những bước đi mới này nhằm phát huy mọi động lực toàn xã hội thúc đẩy tiến trình cải cách diễn ra năng động và hiệu quả, giảm thiểu ở mức có thể nhất mọi xung đột hay tổn thất không đáng có, kết hợp với xây dựng và thực hiện nếp sống văn minh, gìn giữ và phát huy những giá trị đạo đức xã hội.

- Xây dựng những chính sách và chủ trương thực hiện mới để thực hiện song song các nhiệm vụ phát triển kinh tế, giải quyết những nhiệm vụ chính trị / văn hóa / xã hội phải tiến hành, thực hiện những bước cải cách giáo dục ở giai đoạn này phù hợp với tiến trình của cải cách. Đây vừa là những nhiệm vụ phát triển cụ thể phải thực hiện song song với tiến trình cải cách, đồng thời tạo tiền đề tiến hành thay đổi / xây dựng các bộ luật mới.

- Bàn hành dự thảo hiến pháp mới huy động toàn dân tham gia xây dựng.

- Ban hành dự thảo và thông qua Luật về các đảng phái chính trị và các tổ chức đoàn thể xã hội để xây dựng thành bộ luật chính thức sau này làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của mọi đảng phái chính trị và đoàn thể xã hội. Bộ Luật này bảo đảm các đàng phái chính trị và đoàn thể xã hội bình đẳng trước pháp luật, tự chủ về tài chính, không được sử dụng thuế và ngân sách của nhà nước, lấy xã hội dân sự làm môi trường phát triển và hoạt động của mình, đồng thời góp phần bảo đảm trong hệ thống chính trị / nhà nước và bộ máy vận hành của quốc gia chỉ có Hiến pháp và luật pháp quyết định tất cả.

Giai đoạn III :

Thông qua Hiến pháp mới, đồng thời thực hiện tiếp mọi bước đi của cải cách trong giai đoạn này, xây dựng / hoàn thiện những luật pháp và thể chế kinh tế theo Hiến pháp và hệ thống pháp luật mới. Thành tựu phát triển kinh tế và sự ra đời của thể chế chính trị / nhà nước mới theo Hiến pháp mới là thước đo nội dung và quá trình tiến triển của cải cách ở giai đoạn này. 

 Nên tham khảo mô hình thế chế chính trị / nhà nước và bộ máy hành chính sự nghiệp của Singapore, Nhật và Hàn Quốc để vận dụng vào nước ta theo tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập 02/09/1945, Hiến pháp 1946 và cách tổ chức quốc hội 1946, được bổ sung những nét cập nhật phù hợp với đòi hỏi của đất nước và bối cảnh quốc tế hiện tại. Nét đặc trưng chung của 3 mô hình này (Singapore, Nhật, Hàn Quốc) là tính tập trung để tạo ra khả năng quyết đoán cao, đồng thời bảo đảm được dân chủ, tính công khai minh bách và trách nhiệm giải trình.

Trên cơ sở những bước tiến mới nói trên, tiến hành xây dựng một thể chế chính trị / nhà nước đa nguyên, hình thành một số đảng chính trị mới theo Hiến pháp mới và Luật về đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội dân sự như đã được thông qua ở giai đoạn II.

Nên xây dựng các lý lẽ thuyết phục, và được bảo đảm bằng bộ luật về các đảng phái chính trị và đoàn thể nói trên được thiết kế phù hợp, để hình thành thêm các đảng chính trị mới có thể tham chính thông qua Luật bầu cử dân chủ tự do và theo quy định của Hiến pháp.

Ở nước ta, hợp lý nhất có lẽ chỉ nên hình thành thêm 2 đảng tham chính mới như đã từng có trong thời đầu của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – đó là đảng Dân Chủ và Đảng Xã hội – song phải là 2 đảng có thực quyền và bình đẳng trước pháp luật như mọi đảng khác theo Luật. Nếu có nhiều đảng nữa sẽ rối và không cần thiết. Hiến pháp và các bộ Luật liên quan cần được thiết kế sao cho bảo đảm nghiêm túc yêu cầu : thực hiện đa nguyên, nhưng bảo đảm không quá 3 đảng tham chính trong tranh cử và bầu cử ; thủ lĩnh của đảng có đa số ghế lớn nhất trong Quốc hội sẽ là tổng thống với chức năng là người đại diện quốc gia cao nhất và có quyền lực cao nhất cả nước ; thủ tướng là người trực tiếp điều hành nội các (chính phủ) do tổng thống bổ nhiệm và được quốc hội chấp thuận ; với điều kiện của nước ta, nên thực hiện chế độ 1 viện duy nhất là quốc hội ; tuy nhiên nên thực hiện chế độ bầu cử từng phần so le để bảo đảm sự hoạt động liên tục của quốc hội (không bị gián đoạn qua mỗi kỳ bầu cử). Tiến hành bầu cử thành lập hệ thống nhà nước theo Hiến pháp mới, nên mời sự giám sát quốc tế cuộc bầu cử để nâng cao uy tín của chính thể mới, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ / hậu thuẫn của cộng đồng quốc tế.

Nên chuẩn bị sớm một chiến lược cải cách như trên để được thông qua sớm nhất có thể tại một đại hội đảng toàn quốc bất thường, sau đó triển khai thực hiện. Nhưng ngay sau khi Bộ Chính trị đã đi tới được quyết định phải tiến hành cải cách, Bộ Chính trị nên có ngay một tuyên bố trình bầy rõ quyết định chiến lược này, kêu gọi cả nước và toàn đảng đoàn kết và phát huy tinh thần yêu nước đem hết tâm huyết tham gia sự nghiệp cách bằng mọi hành động và việc làm thiết thực, dấy lên trong cả nước một hào khí mới, làm cho nhân dân và từng đảng viên ngay từ ngày đầu tiên cảm nhận được sự nghiệp cải cách này là trách nhiệm của chính mình, chủ động làm mọi việc có thể góp phần tham gia của mình.

Trong quá trình chuẩn bị Đại hội XII tôi đã kiến nghị thành lập nhóm ad hoc gồm các đồng chí Bùi Quang Vinh, Vũ Đức Đam và Phạm Bình Minh giúp đảng xây dựng nội dung Đại hội theo hướng xúc tiến cải cách nói trên. Nay tôi xin đề nghị một lần nữa : Bộ Chính trị nên quyết định lập sớm một nhóm như thế giúp đảng bắt tay ngay vào việc chuẩn bị và xây dựng chiến lược cải cách.

Trên đây chỉ là những gợi ý thô sơ ban đầu để tham khảo.

Nguyễn Trung

*******************

Phụ lục II

Về chủ nghĩa Marx – Lenin 

Muốn tiến hành cải cách chính trị, đảng phải chủ động loại bỏ "chủ nghĩa Marx – Lenin" và ý thức hệ đi kèm. Bởi các lẽ :

a. Đảng phải từ bỏ ý thức hệ lỗi thời để thay đổi chính mình thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ.

b. Giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi đảng phải có một thế giới quan mới xác lập được con đường phát triển theo các giá trị của dân tộc và dân chủ, giành được vị thế quốc gia mới trong thế giới hôm nay.

c. Chứng minh trước nhân dân và tranh thủ được lòng tin của nhân dân là đảng đã trở thành một đảng mới của dân tộc và dân chủ mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thế giới hôm nay đòi hỏi.

Nên có những công trình nghiên cứu khoa học và nghiêm túc giải quyết thấu đáo, thuyết phục nhiệm vụ khó khăn này để giải phóng tư duy theo tinh thần loại bỏ những cái sai và lỗi thời, gìn giữ những giá trị đúng đắn, hướng về những giá trị mới mà thực tế khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi. 

Trong khuôn khổ tâm sự và trao đổi, chỉ xin nêu ra một số suy nghĩ ban đầu dưới đây. 

Trước hết xin nói ngay : Cả Marx và Lenin đều không sáng lập ra chủ nghĩa này – nó không tồn tại.

Chính bản thân Marx – và cả Ăng-ghen – đều cho tác phẩm trí tuệ của mình là lý luận mang tính giải thích và thúc đẩy sự phát triển của cuộc sống. Marx và Engels suốt cuộc đời mình đã nhiều lần tiếp tục điều chỉnh những chỗ sai, có nhiều sửa đổi quan trọng, bám vào thực tiễn và sự vận động của lịch sử để tiếp tục phát triển lý luận của mình. Tới nay đã có thể lọc ra khoảng 9 – 10 lần Marx và Engels đã có những thay đổi như thế. Cả Marx và Engels đều coi lý luận của mình là mở, đòi hỏi vận dụng sáng tạo bám sát cuộc sống chứ không giáo điều, không bao giờ coi nó là học thuyết hay chủ nghĩa mang tính khuôn sáo, áp đặt. 

Còn Lenin cũng chưa từng đưa lý luận Marx lên thành một thứ chủ nghĩa, cũng chưa hình thành được chủ nghĩa riêng của Lenin, vì bản thân Lenin còn đang viết NEP (New Economy Policy – Chính sách kinh tế mới, 1924) dở dang thì qua đời. Trước khi soạn thảo NEP, điều bổ xung của Lenin vào học thuyết Marx là quan điểm "chuyên chính vô sản". Song trong quá trình viết NEP chính Lenin không nhắc tới hoặc đã thay đổi quan điểm này. Thực tế cũng đã chứng minh chuyên chính vô sản là sai lầm. 

Chủ nghĩa Marx - Lenin như được nói tới, được hiểu và dạy, được thực hành trong Đảng cộng sản Việt Nam và ở nước ta cho đến hôm nay được lấy ra từ các phiên bản "Liên Xô" và "Trung Quốc" (nghĩa là không phải từ gốc), có đôi chút biến báo vì lý do phiên dịch hoặc vì theo cách hiểu của Việt Nam, vừa có nhiều cái sai so với những điều Marx viết ra, vừa đã tự chứng minh là sai trong thực tiễn Việt Nam 42 năm nay.

Sự thật là chủ nghĩa Marx - Lenin được các lãnh tụ của phong trào cộng sản (Stalin, khoảng năm 1927, một số nhân vật khác…) chắt lọc chủ yếu từ Tuyên ngôn cộng sản, rồi dựng lên thành một chủ nghĩa, một học thuyết nhằm xác lập vai trò độc tôn lãnh đạo cách mạng (trước hết lúc đó là của Liên Xô) và sự tồn tại của Đảng cộng sản với tính cách là một đảng độc tôn như thế, và để chi phối mọi tư duy và hành động của toàn xã hội theo quan điểm của Đảng cộng sản. Nội dung cốt lõi là xóa bỏ tư hữu tư liệu sản xuất, thiết lập chuyên chính vô sản, coi đấu tranh giai cấp là động lực của phát triển.

Ngoài ý nghĩa là một cẩm nang của cách mạng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Marx - Lenin như vậy có thể được xem như sự khẳng định vai trò lãnh đạo tư duy của Liên Xô (và phần nào cả tôn sùng cá nhân Stalin, sau này Khrushchev (Khrouchtchev) đã bác bỏ, nhưng ở ta lại phê phán Khrushchev là xét lại) trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Marx viết Tuyên ngôn cộng sản năm 30 tuổi (1848), và hầu như đây là tác phẩm duy nhất Marx đề cập đến chủ nghĩa cộng sản một cách đầy đủ nhất với tính cách là một hình thái xã hội mới tất yếu sau chủ nghĩa tư bản. Song trong toàn bộ cuộc đời còn lại sau đó, Marx hầu như bỏ không theo cách tiếp cận như vậy nữa, mà đi sâu vào bản chất sự vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản đương thời. Dù không kiên định, song đã có lúc Marx thừa nhận không thể làm thầy bói cho lịch sử như các dự báo của mình, cho rằng lịch sử chỉ chấp nhận may đo, chứ không thể ốp may sẵn (Việt Phương). Marx đã hoàn thành "Tư bản" tập I, sau đó Engels từ những phần việc dở dang của Marx hoàn thành tiếp "Tư bản" II và III, trong đó hầu như không nói tới chủ nghĩa cộng sản nữa.

Đáng chú ý là : sau này Marx, song rõ nhất là Engels nhân dịp 25 năm Tuyên ngôn cộng sản, đều coi Tuyên ngôn cộng sản chỉ có giá trị lịch sử, cuộc sống hoàn toàn không diễn ra như đã viết trong Tuyên ngôn cộng sản. Một số quan điểm quan trọng khác của Marx về đấu tranh giai cấp, về quy luật bóc lột giá trị thặng dư, về quy luật tiến hóa của lịch sử… cũng cho thấy nhiều chỗ không đúng và càng không theo kịp cuộc sống ngày nay… Trong khi đó những phân tích của Marx về chủ nghĩa tư bản cho đến hôm nay vẫn có nhiều giá trị thời sự [1]

Một vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan đến vấn đề đang bàn : Từ 6 - 7 thập kỷ nay nhiều công trình nghiên cứu khoa học và nhiều học giả có uy tín trên thế giới đánh giá thống nhất : chế độ của Hítle, Stalin và Mao có 3 đặc điểm giống nhau :

1. thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước - dù tên gọi của nó là gì,

2. tẩy não (chỉnh huấn, học tập, cải tạo...) để mọi người phải trung thành với chế độ,

3. biến con người thành công cụ với đòi hỏi phải phục vụ tuyệt đối chế độ (thông qua hiến pháp, luật pháp, chính sách...).

Chủ nghĩa xã hội quốc gia của Hitler (Đức quốc xã) muốn dựng lên một đế chế của giống người Aryan thượng đẳng, song hiện thân của nó là chủ nghĩa phát-xít Đức, và nó là thủ phạm số 1 gây ra chiến tranh thế giới II.

Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô lúc đầu là cái nôi và là thành trì của cách mạng vô sản thế giới, song tha hóa dần hướng về một đế chế trong quan hệ giữa Nga và các nước trong Liên bang xô viết, cũng như giữa Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu với nhiều rạn nứt, để cuối cùng là tan vỡ.

Ngay từ lúc quy mô nền kinh tế Trung Quốc còn đứng rất xa ngoài tốp 50 nước đứng đầu thế giới, chủ nghĩa xã hội/chủ nghĩa cộng sản của Mao với quan điểm "gió Đông thổi bạt gió Tây" đã mang màu sắc bá quyền. (Trung Quốc không theo chủ nghĩa Marx - Lenin vì chống Liên Xô, mà chỉ một thời nêu là "chủ nghĩa Marx"). 

Cả 3 chế độ toàn trị nói trên đều có những thảm sát đẫm máu lịch sử sẽ không thể quên, những tội ác hủy hoại đến tận cùng quyền con người.

Trong khi đó những khát vọng thể hiện đặc trưng hay thuộc tính của chủ nghĩa xã hội hiện thực hôm nay xuất phát từ những khát vọng xa xưa của loài người, sớm nhất là từ thời Plato và Aristotle thuộc nền văn minh Hy Lạp. Rồi những giá trị này trở thành những quan điểm chính trị rõ rệt ở thế kỷ thứ 16, nổi bật là Thomas More (The Utopia), và ngày nay vẫn là hoài bão của loài người về các giá trị của tự do, hạnh phúc...

Chủ nghĩa xã hội hiện thực – có thể nói như vậy – hôm nay được thấy trước hết ở các nước Bắc Âu, thuộc phong trào dân chủ xã hội – nghĩa là hoàn toàn không phải là sản phẩm của chủ nghĩa Marx - Lenin. Tiền thân của phong trào dân chủ xã hội ngày nay là Quốc tế II mà Marx và Engels lúc sinh thời đã phê phán rất quyết liệt, cho là cải lương và thủ tiêu đấu tranh giai cấp. Song sang thế kỷ 21 phong trào dân chủ xã hội trên thế giới cũng đang đi vào thời kỳ thoái trào, xã hội loài người đứng trước nhiều vấn đề mới truyền thống và phi truyền thống, những bất công mới, những đòi hỏi mới trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay ; đồng thời – như 2 mặt của một đồng xu, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức mới…

Vậy chủ nghĩa Marx - Lenin với tính cách là nền tảng lý luận của những gì được gọi là xã hội chủ nghĩa hay định hướng xã hội chủ nghĩa được giảng dạy và thực hiện ở nước ta thực chất là gì ? Lãnh đạo đảng đang đòi hỏi phải bảo vệ, phải trung thành với chủ nghĩa Marx - Lenin nào, nó là những nội dung cụ thể gì ? Nó có thể soi sáng con đường nào cho đảng, dẫn đất nước đi tới đâu ?

Mọi câu trả lời tìm được trong cuộc sống đều dẫn tới kết luận : Đó là một tập hợp lý luận đầy khiên cưỡng, duy ý chí và mâu thuẫn, xong lại có nhiệm vụ xác lập và biện minh cho vai trò độc tôn của Đảng cộng sản, là nền tảng lý luận, là lá cờ giương lên để gò đất nước vào sự lãnh đạo của đảng, v v… đồng thời là nguồn gốc và mầm mống của chế độ toàn trị ở nước ta hôm nay.

Đáng lưu ý là nội dung của chủ nghĩa Marx - Lenin về xây dựng chủ nghĩa xã hội được xác định tập trung trong Tuyên bố Mạc-tư-khoa 1957 của các Đảng cộng sản và CN quốc tế đã có nhiều điểm khiên cưỡng trái hẳn với lý luận của Marx [2]. Cho đến nay chưa một lần nào và bất kỳ ở đâu có thể thực hiện được nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội như đã ghi trong tuyên bố Mạc-tư-khoa. Đơn giản vì những điều đã được xác định này không hiện thực, duy ý chí, nên thất bại [3]. Vì lẽ này các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô – Đông Âu cũ sụp đổ. Cũng vì lẽ này Việt Nam đã phải tiến hành đổi mới 1986, và hiện nay đang bâng khuâng không biết đến hết thế kỷ này sẽ có chủ nghĩa xã hội hay không ?

Bi kịch kép của lý luận Marx là ngoài sự sụp đổ của các nước Liên Xô - Đông Âu cũ, đến nay cũng chưa có một cuộc cách mạng nào thắng lợi đã xảy ra theo lý luận của Marx. Trước khi mất 2 năm, Marx đọc cho con rể mình viết góp ý với đường lối của Đảng công nhân Pháp : cách mạng có thể giành thắng lợi bằng con đường hòa bình, nghĩa là không phải bạo lực, cụ thể là thông qua bầu cử ; 1895 Engels cũng góp ý như vậy với Đảng công nhân Đức, song Lenin không biết những điều này…

Sau khi Marx mất, Engels tập hợp tiếp các tác phẩm của Marx và đã có lúc thô thiển hóa những ý tưởng của Marx thành "chủ nghĩa"… (Việt Phương và một số học giả nước ngoài khác). Việt Phương còn dẫn ra những chỗ sai khác của Marx trong kinh tế chính trị học. Đúng là dù vĩ đại đến mấy, con người bao giờ cũng vẫn là nhân vô thập toàn : Marx là một trong những triết gia và nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất – tích cực cũng như tiêu cực – đối với nhân loại trong thế kỷ 20.

Có một điều cần suy nghĩ : Nếu đồng nhất (1) tư tưởng – lý luận Marx và (2) phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, và (3) chủ nghĩa cộng sản diễn ra dưới dạng các chế độ toàn trị ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa làm một, e rằng sẽ không đúng. Dù tác động qua lại với nhau sâu sắc thế nào, song đây vẫn là 3 thực thể khác nhau. Nên có nghiên cứu khách quan giải đáp thỏa đáng. Với cách đặt vấn đề như vậy, tôi cho rằng :

- Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là một cuộc đấu tranh cách mạng, là một phản ứng tất yếu và rất đáng trân trọng của nhân loại trước thực tế phát triển đẫm máu và mồ hôi người lao động trong chủ nghĩa tư bản cho đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, chính phong trào đấu tranh cách mạng này đã góp phần quan trọng làm nên những tiến bộ xã hội của nhân loại trong thế giới hôm nay.

- Chủ nghĩa tư bản nói chung hay là các nước tư bản – cũng có lúc với những đối tượng nào đó ngôn ngữ ta gọi là các nước đế quốc – một phần do đòi hỏi tự thân, một phần do tác động của các trào lưu tiến bộ, trong đó có phong trào cộng sản và công nhân quốc tế - đã có rất nhiều điều chỉnh, nhất là kể từ sau chiến tranh thế giới II đến nay, trên thực tế đã và đang dẫn đầu thế giới trong thực hiện một số giá trị quan trọng.

- Chủ nghĩa cộng sản như đã xuất hiện ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa thuở ban đầu là kim chỉ nam của phát triển, và sau đó một mặt do duy tâm và duy ý chí, mặt khác do tha hóa, dần dần biến thành chế độ toàn trị. Nhìn chung, đó chính là sự diễn biến của một quá trình tha hóa.

- Khi quyền lực của chế độ toàn trị là tuyệt đối với nhiều tội ác đẫm máu, chủ nghĩa Marx - Lenin ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa chỉ còn lại là cái tên (cái bình phong) tuyệt đối, đã dẫn tới sự sụp đổ ở các nước Liên Xô - Đông Âu, và hiện vẫn đang tiếp diễn ở các nước gọi là xã hội chủ nghĩa còn lại.

- Chủ nghĩa cộng sản của phong trào cánh tả bắt đầu từ thời Mao-ít rộ lên một thời ở một số nước đang phát triển song cũng tàn lụi rất nhanh, để lại dĩ vãng đau buồn ở những nơi nó xuất hiện. Phong trào này không có mối liên quan nào đó với chủ nghĩa Marx - Lenin với nghĩa đang được hiểu.

- Chủ nghĩa Marx - Lenin lúc đầu được hiểu và vận dụng như một học thuyết cách mạng dẫn dắt sự phát triển của nước ta – dưới dạng xây dựng chủ nghĩa xã hội, rất tả khuynh, song dần dần bị quyền lực biến tướng thành ý thức hệ bảo vệ chế độ toàn trị. Quyền lực càng được củng cố bao nhiêu thì chủ nghĩa Marx - Lenin càng bị tước bỏ về nội dung bấy nhiêu. Hôm nay chỉ còn lại chức năng là cái mộc và cái khiên của chế độ toàn trị.

- Tất cả những thứ nêu trên đều không phải là hiện thân của lý luận Marx.

- vân… vân…

Nhân kỷ niêm 100 năm Tuyên ngôn cộng sản, hội thảo quốc tế ở Paris đánh giá : Trong toàn bộ tác phẩm của Marx, kể cả trong các thư riêng, đỉnh cao của tư tưởng Marx thể hiện trong quan điểm được nói ra rành rọt, nguyên văn là "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi người !" - một lần duy nhất được viết ra trong Tuyên Ngôn Cộng Sản. Nhưng tư tưởng này không hề được thực hiện trong bất kỳ một nhà nước cộng sản nào cho đến nay, thậm chí bị vứt bỏ hoàn toàn ! (Xem bản ghi của Việt Phương). 

Hơn nữa, trên đời này ngoài kinh thánh được các tín đồ của mình phong tặng sự vĩnh cửu, không có lý luận khoa học nào là vạn năng, bất di bất dịch và trường tồn – trong lĩnh vực khoa học xã hội càng không, vì con người luôn luôn hướng về sự giải phóng chính mình ; mọi thứ "chủ nghĩa" đều phải áp đặt tư duy của chính nó. Chỉ có các giá trị mà con người xây dựng nên được trong quá trình phát triển của chính mình là trường tồn. Song các giá trị này cũng phải thường xuyên phát triển theo sự vận động của thời gian, thời đại… 

Đến đây có thể kết luận :

- Cchủ nghĩa Marx - Lenin như đang được hiểu và vận dụng ở nước ta là tam sao thất bản (từ Liên Xô, Trung Quốc), lại được tuyên giáo ta qua các thời kỳ "chế biến thêm" và "chốt lại"... Một thứ chủ nghĩa Marx - Lenin như thế hầu như chỉ còn lại là một bình phong, một nhãn mác, hay là một căn cứ mơ hồ, chỉ để mang lại cái chính danh cho "định hướng xã hội chủ nghĩa" mà Đảng muốn ốp cho đất nước.

- Chủ nghĩa Marx - Lenin như hiện nay ở nước ta chỉ còn làm được chức năng trang trí tư tưởng, một thứ bùa hộ mệnh, một kiểu ngọn cờ… để biện minh cho vai trò độc tôn và quyền lực của Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay trong xã hội Việt Nam. Nói trung thành với chủ nghĩa Marx - Lenin dịch ra đúng nghĩa là áp đặt sự thừa nhận trạng thái hoàn toàn bế tắc về lý luận của một đảng chính trị, và tính hư vô của lý tưởng mà đảng theo đuổi.

Tất cả chỉ với mục đích duy nhất : củng cố quyền lực của Đảng, loại bỏ phản kháng, trấn áp bất đồng.

Trong cuộc sống thực của đất nước ta hôm nay, ngoại trừ một số quan điểm sai lầm như chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp, tập trung dân chủ.., rất khó tìm được bất kể một quyết định, hay hành động hoặc một kết quả thực tiễn nào của Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay mang nội dung chủ nghĩa Marx - Lenin như đã được xác định trong Tuyên bố Moskva 1957 nói trên, hoặc theo chính các giáo lý giảng dạy. Đơn giản vì những thứ này đều không khả thi. Song lại ngụy biện là vận dụng sáng tạo vào nước ta !

Thực tế này giải thích hiện tượng : xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta do thất bại, nên từ vài thập kỷ nay buộc phải hạ thấp xuống thành "định hướng xã hội chủ nghĩa". Tuy thế đến bây giờ vẫn không xác định rõ được định hướng xã hội chủ nghĩa là cái gì. Đơn giản vì "định hướng" như thế không có thực. Tất cả những gì tốt đẹp định làm và cố tìm cách gói ghém chúng vào khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta – ví dụ như công bằng, dân chủ, văn minh, phúc lợi xã hội, chống bóc lột, trách nhiệm của nhà nước… - trên thực tế chỉ là những bánh vẽ, hoặc giả có điểm nào cố sức làm (ví dụ trong y tế, trong giáo dục, trong thực hiện qua loa một số quyền tự do dân chủ nào đó…) kết quả nếu đạt được thường ở mức độ rất thấp và kém rất xa tất cả các nước cùng ở mức thu nhập trung bình (thấp) như nước ta, kém hẳn các nước phát triển.

Sự thật là nước ta hiện nay bị xếp vào nhóm "top" các quốc gia có chế độ chính trị mất tự do dân chủ, vi phạm nhân quyền và bất công nhất trên thế giới. Cho nên càng bàn mãi về định hướng xã hội chủ nghĩa càng bí. Vì vậy tuyên giáo của Đảng đã "chốt" lại hộ để khỏi phân vân mãi chưa ra : Cốt lõi của "định hướng xã hội chủ nghĩa" là bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững kinh tế nhà nước là chủ đạo ! Song oái oăm thay chính cái được "chốt" lại này lại là nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản thân hữu và tư bản hoang dã đạt tới đỉnh cao ở nước ta 10 năm qua, bây giờ Đảng phải kêu gọi chống. Trong khi đó Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII lại quy kết mầm mống của chủ nghĩa tư bản thân hữu ở nước ta là kinh tế tư nhân ! Phi lý đến thế là cùng. Song chính cái "chốt" lại này khiến nước ta xin mãi hàng chục năm nay sự công nhận là "kinh tế thị trường" mà vẫn không được !

Cuộc sống luôn luôn đòi hỏi giải phóng tư duy khỏi sự kìm kẹp của ý thức hệ, để mở mang trí tuệ phấn đấu cho những giá trị đã được văn minh của nhân loại xác lập.

Nguyễn Trung

*****************

Phụ lục III

Về Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam

Một trong những cái lầm chết người từ Thành Đô đến nay là ta bị "16 chữ và 4 tốt" mê hoặc, cứ tưởng ta giống Trung Quốc, nên có thể đi với nhau, dựa vào nhau, học nhau, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.., mà quên mất ta không hề, không bao giờ, và không thể giống Trung Quốc về bất kỳ phương diện nào, nhất là quên khuấy đi mất trước sau ta chỉ là cái đích của Trụng Quốc !

Xin nhắc lại :

Đảng cộng sản Việt Nam không bao giờ giống Đảng cộng sản Trung Quốc, nên không thể và không được làm theo Trung Quốc ! Đừng bao giờ quên điều chết người này !

Hữu nghị, hợp tác, vân vân… là những chuyện hoàn toàn khác và chỉ thuộc lĩnh vực đối ngoại.

Sự thật đơn giản thế này :

- Trung Quốc của một đế chế hồi sinh luôn luôn cần một đảng độc tài toàn trị cực mạnh để giữ cho Trung Quốc khỏi tan rã thành những nước nhỏ, và để tạo lực chiếm ngôi bá chủ trên thế giới. Mao Trạch Đông đã nhiều lần khẳng định công khai : Đảng cộng sản Trung Quốc là vô thiên vô pháp, trời cũng không so được ! 

Cứ nhìn những gì đẫm máu đã xảy ra ở Trung Quốc và những hành vi của Trung Quốc trên thế giới từ thời Mao cho đến hôm nay, sẽ thấy quan điểm "vô thiên, vô pháp, mục tiêu biện minh cho biện pháp" của Mao là xuyên xuốt toàn bộ hệ thống chính trị Trung Quốc về đối nội cũng như đối ngoại.

- Nhưng Việt Nam là một láng giềng sát nách lại cần một đảng cầm quyền xây dựng cho quốc gia mình một thể chế chính trị dân chủ lành mạnh, để phát huy hết mức sức mạnh dân tộc và tranh thủ dược cả thế giới hậu thuẫn, qua đó mới có thể tồn tại và trở thành một láng giềng được tôn trong của Trung Quốc ! Việt Nam không làm được như thế thì chắc chắn sẽ chỉ là cái đích Trung Quốc đã bỏ túi.

Hiển nhiên như ban ngày : Xem vậy nhiệm vụ chính trị đối với quốc gia của 2 đảng Trung Quốc và Việt Nam đối nghịch nhau như giữa đen và trắng vậy. Đừng giây phút nào mơ hồ điều này ! Đừng để cho lăng kính ý thức hệ nhìn lệch sự thật này.

Cho nên "16 chữ và 4 tốt" chỉ là ngoại giao Trung Quốc đưa ra mà thôi, phải luôn luôn đối chiếu giữa nói và làm như thế nào. Rất tiếc rẳng "16 chữ và 4 tốt" khi ra đời Trung Quốc lúc ấy mới chỉ làm xong việc chiếm các đảo của ta, hôm nay làm xong việc hình thành một hệ thống căn cứ quân sự trên các đảo này.

Nếu Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay nghĩ mình giống Trung Quốc, chọn nhiệm vụ chính trị của mình là học và làm theo Trung Quốc, làm giống Trung Quốc… thì vô lý quá. Ví dụ, Trung Quốc làm Thiên An Môn, chẳng lẽ ta cũng làm Thiên An Môn ? Trung Quốc khủng bố Lưu Hiểu Ba, ta cũng phải bắt chước ? Lại còn học Trung Quốc nhiều thứ chính trị khác, nhờ Trung Quốc đào tạo cán bộ, lại cả cán bộ cao cấp nữa… Làm như thế sẽ chỉ hàm nghĩa là làm cho nước mình sớm trở thành cái đích đạt được của Trung Quốc mà thôi ! 

Cho phép tôi nói bỗ bã thế này :

- Đảng của Trung Quốc cần bạo quyền để giữ bá quyền trong nước và đối với thế giới, nhiệm vụ chính trị đối với quốc gia của nó là thế.

- Đảng của Việt Nam cần dân chủ phát huy nội lực của nhân dân và giành được vị thế tranh thủ được hậu thuẫn của cả thế giới để làm cho nước mạnh có thể sống được bên cạnh Trung Quốc.

Nghĩa là mỗi đảng này có nhiệm vụ chính trị đối với quốc gia của nó khác nhau như giữa đêm và ngày, giữa nước và lửa vậy !

Nếu đảng của Việt Nam cũng bắt chước đảng Trung Quốc làm bạo quyền, thì giỏi lắm cũng chỉ có thể bạo quyền với chính nhân dân nước mình mà thôi. Nhưng làm như thế, sẽ giúp Trung Quốc bá quyền được nước mình sớm hơn ! Nếu làm như thế, đảng của Việt nam sẽ là đảng gì ? Dân có để cho đảng yên không ? Đảng của Việt Nam có nên như thế không ? Phải nghĩ lại !

Hai đảng này không giống nhau chút nào cả.

Nhất thiết phải tạo dựng được quan hệ hữu nghị và hợp tác lâu dài với Trung Quốc. Song nếu ta muốn đạt được điều này, nhất thiết phải có nhân cách, bản lĩnh và thực lực ; còn nếu chỉ là kẻ dặt dẹo, là con nghiện, thì hữu nghị và hợp tác chỉ có thân phận kẻ ăn mày và chứ hầu mà thôi !

Nói đến hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc là phải nói đến hữu nghị thật, hợp tác thật, trước sau phải làm bằng được.

Có thể sẽ không phải quá lời : Không ai cần mối quan hệ hữu nghị láng giềng tốt với Trung Quốc bằng Việt Nam ! Cũng chưa nước nào bỏ ra nhiều công sức như thế cho mục tiêu này. Song cũng chưa nước nào phải trả giá đắt như Việt Nam. Đấy là sự thật trần trụi.

Nếu hiện nay hữu nghị - hợp tác với Trung Quốc chưa được là thật, thì ta phải tìm cách tạo ra lực đứng trên đôi chân của ta, để khẳng định được là chính ta, nhờ đó để có thể làm cho hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc trở nên thật.

Còn hữu nghị cửa miệng, hợp tác cửa miệng, sẽ chỉ là lừa nhau mà thôi. Nhìn lại, lừa nhau như thế, cho đến nay hầu như chỉ có ta bị lừa. Làm ngoại giao cả đời, tôi chưa thấy ta lừa nổi Trung Quốc một lần nào, vì nước này lớn quá và xảo quyệt quá để có thể lừa. Vậy chỉ còn con đường tạo ra thực lực và bản lĩnh để có được hữu nghị thật, hợp tác thật với Trung Quốc thì mới sống được ! Thứ này không xin được.

Hay là chọn con đường làm chư hầu ? Xin đừng quên lịch sử quan hệ Việt – Trung hơn một nghìn năm nay !

Không có con đường giả vờ nào khác mà đi cả.

Tất cả cho thấy chỉ còn cách phải đổi đời để sống thật !

Mất nước 80 năm vào tay thực dân Pháp, chỉ vì triều Nguyễn hồi ấy chưa nghĩ đến đổi đời để bước vào cái thế giới đã thay đổi mà sống. Bây giờ có lại được độc lập thống nhất, nhưng trong một thế giới lại thay đổi tiếp. Bài học rút ra từ 80 năm thuộc địa "phải đổi đời để sống" chẳng lẽ hôm nay vô nghĩa đối với Đảng cộng sản Việt Nam hay sao ? Nguy cơ tái diễn cái quán tính lịch sử tệ hại của những thế kỷ đất nước ta đã sống trong cái bóng Trung Quốc chính là ở chỗ này !

Xin nhấn mạnh một lần nữa : Nhiệm vụ chính trị và trách nhiệm đối với quốc gia của Đảng cộng sản Việt Nam chẳng có một nét mảy may nào giống đảng của Trung Quốc – và đây chính là chỗ lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay mơ hồ nhất, mất cảnh giác nhất ! Cứ nghĩ cùng là xã hội chủ nghĩa thì giống nhau và đi được với nhau ! Với những thất bại nghiêm trọng cho đất nước và những hệ quả lâu dài đến hôm nay vẫn chưa tỉnh và chưa sao gỡ ra được !

Mong suy nghĩ kỹ điều này.

Xin nhắc lại tại đây, lãnh đạo đảng thời hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã từng tổng kết : Mọi thắng lợi đạt được, trước hết là nhờ độc lập tự chủ trong tư duy và đường lối, mọi thất bại vấp phải là do mất độc lập tự chủ trong tư duy và rập khuôn Trung Quốc ! Lãnh đạo hồi ấy đã kiểm điểm sâu sắc những bài học đau đớn như cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, chỉnh huấn, rèn cán chỉnh cơ, để cho ý thức hệ mao-it ảnh hưởng đến một số đường lối chính sách… Thậm chí hồi đó đã có người còn muốn nhập khẩu cả cách mạng văn hóa vào Việt Nam, nhưng đã bị bác bỏ quyết liệt… Bộ chính trị hồi đó luôn luôn nhắc nhở phải độc lập tự chủ trong tư duy và cảnh giác với mọi thâm nhập từ bên ngoài và giáo điều, quyết không để cho bên ngoài – dù là ai – can thiệp vào đường lối cách mạng của mình.

Nghị quyết 15 về đẩy mạnh kháng chiến cứu nước của ta và Nghị quyết 9 về đối ngoại là những vị dụ tiêu biểu về kiên định độc lập tự chủ trong tư duy chiến lược và trong hành động, quyết gạt bỏ mọi ảnh hưởng, tác động, áp lực từ bên ngoài, để thực hiện đến cùng mục tiêu chiến lược giành lại độc lập thống nhất đất nước.

Xin kể lại như vậy với các thế hệ lãnh đạo hôm nay để tham khảo. 

Muốn hay không, Trung Quốc hôm nay đã trở thành vấn đề của cả thế giới. Thực tế khách quan này đối với Việt Nam còn nghiêm trọng hơn, sát phạt hơn nhiều. Nước ta không lựa chọn được thế giới, nên chỉ còn cách làm sao lựa chọn được vị thế quốc gia phải có để sống được trong thế giới này – trong đó có đòi hỏi không thể thiếu là phải xác lập bằng được quan hệ lâu dài láng giềng tốt với Trung Quốc, có được hữu nghị thật, hợp tác thật. Nhìn rõ và quyết nắm lấy bằng được cái đích này, mỗi người Việt chúng ta – và trước hết là đảng nắm quyền, sẽ biết được và xác định được con đường phải đi và phải làm gì. Trời đất không cho chúng ta thoát khỏi nhiệm vụ này, địa kinh tế và địa chính trị của thế giới hôm nay đặt lên vị trí địa đầu của nước ta số phận như vậy. Nên chi còn cách xác lập lòng tự trọng, thay đổi chính bản thân mình, để bắt tay thực hiện cái quy luật muôn đời : "Có lực mới vực được đạo !".

Người Nhật, người Hàn Quốc, người Israel cho chúng ta nhiều bài học thành công của quốc gia họ xuất phát từ trân quý lòng tự trọng này. Xin cùng nhau suy nghĩ về điều này. Nước ta trước sau rất muốn, rất cần hữu nghị – hợp tác với Trung Quốc, nhưng phải gian khổ tìm cách tạo lập nên, thứ này không thể xin được.

Nói đất nước đã sang trang trong một thế giới đã sang trang, trước hết nên bắt đầu từ suy nghĩ như trên./.

Hà Nội – Võng Thị, 20/09/2017

Nguyễn Trung

*******************

Phụ lục IV

Vê sự hình thành và phát triển xã hội dân sự Việt Nam  

Xã hội dân sự ở Việt Nam có quá trình hình thành và phát triển khá đặc biệt, gặp nhiều khó khăn, trắc trở, khi nở rộ, khi lụi tàn. Vai trò của nó đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay rất mờ nhạt.

Xã hội dân sự đã hình thành cùng với sự hình thành nhà nước pháp quyền dân chủ, từ sau Cách mạng tháng Tám. Đây là điều được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Ngay sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 3/9/1945 trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ việc tổ chức sớm Tổng tuyển cử, xây dựng một Hiến pháp dân chủ, đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền tự do dân chủ là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất. Ngay sau đó ngày 8/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 14/SL mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội.

Sau bốn tháng chuẩn bị trong những điều kiện vô cùng khó khăn, ngày 6/1/1946 cuộc Tổng tuyển cử đã được tiến hành trên phạm vi cả nước, trong một bầu không khí dân chủ thật sự. Trong bản báo cáo ngắn gọn trước Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất ngày 2/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định : "Trong cuộc toàn quốc đại hội đại biểu này, các đảng phái đều có đại biểu mà đại biểu không đảng phái cũng nhiều, đồng thời phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số cũng đều có đại biểu. Vì thế cho nên các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng phái nào mà là đại biểu cho toàn thể quân dân Việt Nam. Đó là một sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết thành một khối".

Một thành tựu có tính lịch sử mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại là bản Hiến pháp đầu tiên của nuớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà Nguời là Truởng Ban Dự thảo. Hiến pháp ấy xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là : "bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ". Bản Hiến pháp dân chủ này ghi ngay trong trong Điều 1 : "Nuớc Việt Nam là một nuớc dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nuớc là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo".

Đặc biệt Hiến pháp đầu tiên đã khẳng định những quyền cơ bản của công dân Việt Nam : Quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức hội họp, tự do tín nguỡng, tự do cu trú, đi lại trong nuớc và ra nuớc ngoài (Điều 10). Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín... (Điều 11). Quyền tư hữu tài sản được đảm bảo (Điều 12).

Những điều trên đây chứng tỏ rằng giữa xã hội dân sự với nhà nuớc pháp quyền và chế độ dân chủ có quan hệ mật thiết, bổ sung cho nhau. Không thể có cái này mà không có cái kia.

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ công nhận và tôn trọng những quyền cơ bản của công dân, mà còn tạo điều kiện cho mọi công dân thực thi những quyền ấy. Tôi muốn nói đến những Sắc lệnh và những Nghị định của Chính phủ tạo điều kiện cho công dân thực thi quyền tự do lập hội và tự do ngôn luận.

Ngày 22/4/1946 Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến ký Sắc lệnh số 52 quy định việc lập hội. Sắc lệnh này, ngoài chữ ký của chủ tịch Hồ Chí Minh còn có chữ ký của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe và Bộ trưởng Bộ Tài Chính Lê Văn Hiến. Lúc này chưa có Hiến pháp, Sắc lệnh này là hình thức pháp lý cao nhất. Sắc lệnh xác định : "Hội là một đoàn thể có tính cách vĩnh cửu gồm hai hoặc nhiều người giao ước hiệp lực mà hành động để đạt mục đích chung ; mục đích ấy không phải là để chia lợi tức" (Điều l). Định nghĩa trên đây xác nhận "hội" không phải là tổ chức kinh tế để chia lợi tức, cũng không phải là cơ quan Nhà nước, đó chính là tổ chức xã hội dân sự. Sắc lệnh quy định : "Cấm không được lập những hội có mục đích và hoạt động làm đồi bại phong tục, hại đến trật tự chung, hoặc đến sự an toàn của quốc gia" (Điều 2).

Thủ tục thành lập hội rất đơn giản và dễ dàng. Người sáng lập hội phải đủ 21 tuổi, là người xưa nay không có can án thường phạm. Những người sáng lập ra hội phải làm Giấy khai, kèm theo hai bản Điều lệ gửi cho Uỷ ban hành chính Kỳ (tức là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ), hoặc Bộ Nội vụ. 15 ngày sau khi nhận được Giấy khai và Điều lệ, Ủy ban hành chính Kỳ sẽ phải chuyển cả hồ sơ và phát biểu ý kiến lên Bộ Nội vụ. Bộ trưởng Bộ Nội vụ xét hồ sơ và nếu cho phép hội thành lập sẽ ký Nghị định cho phép. Sau hạn 45 ngày kể từ hôm phát biên lai, nếu Bộ Nội vụ không trả lời ngăn cấm hội thành lập và hoạt động, thì hội sẽ coi như được thành lập (Điều 3, Điều 4).

Nguyên tắc bắt buộc là phải tôn trọng sự tự nguyện của hội viên : "Không hội viên nào có thể bị cưỡng bách ở trong hội. Tuỳ ý hội viên muốn xin ra bao giờ cũng được, dù hội lập ra có thời hạn nhất định mặc lòng, miễn là hội viên xin ra hội đã thanh toán các trái khoán đối với hội và đã báo trước một tuần lễ" (Điều 7).

Chỉ 2 tuần sau khi công bố sắc lệnh, ngày 6/5/1946 Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã ký Nghị định cho phépNghiệp đoàn khách sạn Việt Nam được thành lập. Đó là hiệp hội sớm nhất được thành lập theo quy định của sắc lệnh số 52 ngày 22/4/1946. Từ đó đến cuối năm 1946, trong vòng 6 tháng có tới 65 hội được thành lập, tính trung bình cứ 3 ngày có thêm 1 hội mới. Các hội tiêu biểu là : hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Nghị định thành lập ngày 5/7/1946, về sau đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), đảng Xã hội Việt Nam (30/7/1946), Liên đoàn Công giáo Việt Nam (6/8/1946), Liên đoàn Lao động trí thức thành phổ Đà Nằng (26/8/1946), Hội Công chức Bình Định (11/10/1946), hội Cựu đệ tứ Cứu thế Ái hữu ở Hàm Nghi, Thuận Hóa (được tiếp tục hoạt động), hội Kiến thiện Kiến An ở Hải Phòng (11/10/1946), hội Việt Nam học xá Nhân viên Ái hữu ở Hà Nội (30/8/1946), hội Từ Liêm Văn học Ái hữu làng Phú Mỹ, huyện Từ Liêm (11/10/1946), hội Văn miếu văn học hiệp hội ở Hà Nội (3/7/1946), hội Phụ nữ ca vũ tương tế có trụ sở ở biệt thự Thanh Hà làng Thổ Quan, Ô Chợ Dừa, Hà Nội (3/7/1946), đoàn Nữ hướng đạo Việt Nam trụ sở ở Hà Nội (11/10/1946), hội Hợp thiện ở 125 Phùng Hưng, Hà Nội (5/6/1946 được phép tiếp tục hoạt động), hội Việt - Mỹ thân hữu (5/6/1946 được phép tiếp tục hoạt động).

Quả thật các hội rất đa dạng, từ các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức quần chúng, các tổ chức tôn giáo, văn học nghệ thuật, các tổ chức chính trị, các NGO và phần lớn là các tổ chức Ái hữu. Đây chính là các tổ chức xã hội dân sự, hình thành ở rất nhiều tỉnh thành trong cả nước. Cần nhấn mạnh rằng Đảng Xã hội VIệt Nam được thành lập theo Sắc lệnh số 52 quy định việc thành lập Hội (đảng dân chủ Việt Nam được thành lập từ năm 1944, trước sắc lệnh số 52). Như vậy Đảng cũng chỉ là một thứ hội mà thôi, không phải là một thứ gì thần thánh hóa cả. Suốt trong 6 tháng chỉ có một trường hợp Bộ Nội vụ bác đơn xin thành lập hội của "Quốc gia thanh niên đoàn" ngày 23/5/1946. Bác đơn như vậy cũng có Nghị định đàng hoàng, công khai. Trong tình thế rất khó khăn hiểm nghèo phải có lòng tin tuyệt đối vào nhân dân thì Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa mới có thể mạnh dạn phát huy tinh thần dân chủ của mọi tầng lớp nhân dân như vậy.

Trong khi đó hơn 10 năm nay Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thông qua được Luật lập hội, nghe nói đã có đến bản dự thảo lần thứ 14 ! Chẳng lẽ lại sợ xã hội dân sự, sợ dân đến như vậy sao ? Thật vô lý, thật đáng buồn !

Cùng với việc tạo hành lang pháp lý cho nhân dân thực hiện quyền tự do lập hội, Chính phủ đầu tiên cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền tự do ngôn luận.

Ngay từ tháng 9 năm 1945 Chính phủ đã công bố thể lệ mới về việc cho phép xuất bản báo chí. Chỉ trong vòng 3 tháng cuối năm 1945, Bộ Nội vụ do ông Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng đã ký hàng loạt Nghị định cho phép xuất bản 87 tờ báo (hầu hết là báo tư nhân), báo hàng ngày và hàng tuần bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Hoa. Như vậy trung bình cứ một ngày lại có thêm một tờ báo mới.

Có thể kể ra một số tờ báo tiêu biểu :

- Nhật báo Tự do của ông Trần Khánh Dư xuất bản tại Hà Nội theo Nghị định của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 8/10/1945.

- Tuần báo Văn mới của ông Trương Tửu (8/10/1945), Việt Nam hồn của ông Lê Văn Trương. Báo Dân quyền của ông Lê Văn Thanh.

- Tuần báo Ý Dân của ông Nguyễn Quang Cận (12/10/1945), Tuần báo Nói thẳng của ông Đoàn Phú Tứ (7/12/1945). Nhật báo Nói thật của ông Trịnh Văn Hoàng tại Nam Định (7/12/1945). Tuần báo Văn Hóa của ông Từ Giấy. Tuần báo Bạn gái của bà Nguyễn Thị Lý. Tuần báo Tòa sen của ông Trịnh Giai Ngân. Tờ Đa Minh bán nguyệt san của Nhà chung Bùi Chu, Nam Định (24/11/1945). Đội Cấn tuần báo của ông Nguyễn Nhật Thăng tại Thái Nguyên (22/10/1945). Quyết chiến tuần báo của ông Dương Thế Châu tại Phủ Lý (22/10/1945). Tuần báo Bạn quê của ông Hoàng Tiến Lộc tại Hải Dương (24/10/1945). Báo Dân chủ nhật báo của ông Đỗ Trọng Giang tại Hải Phòng (24/10/1945). Việt Mỹ tạp chí của bán nguyệt san tại Hà Nội (31/10/1945). Hanoi Tribune báo hàng ngày bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp của ông E.de Pollak (17/11/1945). Tờ La RépubliqueThe Republic của ông Nguyễn Đình Thi (28/9/1945). Tờ L'Entente báo hàng ngày của ông Jean Saumont. Báo Nam Hoa báo hàng ngày bằng tiếng Việt và tiếng Hoa của ông Hồ Dzếnh.

Những số liệu trên đây chứng tỏ xã hội dân sự đã hình thành rõ rệt, tất nhiên dưới dạng sơ khai, chưa hoàn thiện, nhưng đã đóng vai trò thiết yếu trong buổi đầu xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, tự do. Không có xã hội dân sự làm sao có dân chủ, tự do được ?

Cuối năm 1946 kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Từ đó đến năm 1979 nước ta trải qua 3 cuộc chiến tranh ác liệt, chiến tranh chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và chống bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh năm 1979. Chiến tranh kéo dài làm đảo lộn cuộc sống xã hội, hạn chế rất nhiều tự do, dân chủ của người dân. Năm 1950 Việt Nam mở cửa biên giới với Trung Quốc, chúng ta có thêm súng đạn, lương thực để chống thực dân, đồng thời cũng có cả chủ nghĩa Mao nữa. Các sách Bàn về mâu thuẫn, Bàn về thực tiễn là sách gối đầu giường của nhiều nhà lý luận triết học ở ta. Năm 1953 ta tiến hành cải cách ruộng đất, rồi hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo tư sản... Sau đó là các vụ Nhân văn giai phẩm, Chống xét lại, đã gây hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc tại Việt Nam. Xã hội dân sự cứ lịm dần, lịm dần...

Đặc biệt sau chiến tranh, chuyên chính vô sản được xác lập trên phạm vi toàn quốc. Hiến pháp năm 1980 long trọng xác nhận điều đó, cùng với việc xác nhận vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mô hình Xô Viết được xác lập. Điều 6 Hiến pháp Liên Xô được sửa đổi thành Điều 4 Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Giờ đây khái niệm "Chuyên chính vô sản" ghê sợ không được sử dụng nữa mà thay bằng "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa". Nhưng điều đó không thay đổi gì về bản chất, cơ chế chung "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" được Tổng bí thư Lê Duẩn định nghĩa là "chuyên chính vô sản ở Việt Nam" vẫn giữ nguyên trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp sửa đổi năm 2013. Do vậy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ là biến thái của chuyên chính vô sản mà thôi. Trong quá trình phát triển đó xã hội dân sự bị xóa bỏ, để nhường chỗ cho xã hội toàn trị (totalitarian society).

Từ đầu thập niên 90, cùng với quá trình dân chủ hóa đất nước, xã hội dân sự từng bước được phục hồi. Nhiều nhà nghiên cứu phân tích quá trình dân chủ hóa trên thế giới đã rút ra kết luận là : quá trình dân chủ hóa ở tất cả các nước đều gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội dân sự. Không như vậy, quá trình dân chủ hóa sẽ không có nội dung xác thực. Dân chủ hóa về thực chất là chuyển quyền lực chính trị trong tay Nhà nước sang tay nhân dân. Nhân dân phải trở thành chủ thể của quyền lực Nhà nước. Đấy chính là Nhà nước pháp quyền đích thực, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, hay như Hiến pháp dân chủ năm 1946 ghi rõ : "tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam". Chính vì vậy chúng tôi nhiều lần khẳng định : "xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền và dân chủ là không thể tách rời". Điều đó đòi hỏi phải cải cách chính trị, chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa.

Xã hội toàn trị là đối lập với xã hội dân sự. Khái niệm này chỉ những xã hội thực hiện một sự kiểm soát hoàn toàn đối với toàn bộ đời sống xã hội nói chung và đời sống mỗi con người nói riêng. Hannah Arendt dùng khái niệm này để khái quát các chế độ có bản chất và đặc trưng giống nhau, dựa trên sự thống trị tuyệt đối của Nhà nước đối với các công dân trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Những nét chủ yếu của xã hội toàn trị là :

- Lấy một hệ tư tưởng đặc biệt làm nền tảng cho sự tồn tại của chế độ và hợp pháp hóa quyền tồn tại của nó, toàn thể nhân dân bắt buộc phải coi hệ tư tưởng đó là hệ tư tưởng thống trị toàn xã hội.

- Đặt lợi ích và các quyền tự do của cá nhân phục tùng tuyệt đối lợi ích xã hội, do Nhà nước đại diện.

- Quyền lực chính trị nằm trong tay một đảng duy nhất, đảng cầm quyền và Nhà nước hòa thành một thể thống nhất.

- Xã hội bị Nhà nước hóa triệt để, xã hội dân sự bị xóa bỏ, đặc biệt là cấm các đảng chính trị khác và tất cả các tổ chức xã hội không thuộc quyền lãnh đạo của Đảng cầm quyền.

- Vai trò của pháp luật bị giảm sút, Nhà nước có quyền quyết định mọi cái mà không bị kiểm soát,hoặc hạn chế bởi luật pháp, không có tam quyền phân lập để hạn chế sự lạm quyền, nhà nước pháp quyền bị xóa bỏ.

- Thực hiện độc quyền ngôn luận và thông tin ; mọi phương tiện thông tin và báo chí đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của bộ máy Đảng và Nhà nước.

- Lấy bạo lực làm phương tiện hàng đầu của sự thống trị ; sử dụng khủng bố chính trị như một công cụ chính trị đối nội.

Trái ngược với xã hội toàn trị là xã hội dân sự. Có vô vàn định nghĩa khác nhau về xã hội dân sự. Nhưng theo tôi, định nghĩa của học giả Nguyễn Khắc Viện và Nguyễn Kiến Giang trong cuốn Từ điển Xã hội học năm 1994 đã làm nổi bật được cái cốt lõi của xã hội dân sự (được gọi là xã hội công dân). Đó là xã hội trong đó người dân là chủ thể của xã hội và do đó cũng là chủ thể của nhà nước, Nhà nước phục tùng lợi ích của công dân, mà không phải ngược lại.

Định nghĩa này quán triệt được quan niệm mà K. Marx đã nêu ra trong Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel về mối quan hệ giữa xã hội dân sự với Nhà nước : "Nhà nước chính trị không thể tồn tại nếu không có cơ sở tự nhiên là gia đình và cơ sở nhân tạo là xã hội dân sự. Chúng là conditio since qua non (điều kiện cần thiết) của Nhà nước. Nhưng (ở Hegel) điều kiện biến thành cái chịu điều kiện, cái quy định biến thành cái bị quy định, cái sản sinh biến thành sản phẩm của sản phẩm của nó". Như vậy "Mối quan hệ thật sự ở đây đã đặt lộn ngược. Ở đây điều giản đơn nhất được miêu tả thành rối rắm nhất ; còn điều rối rắm nhất lại được miêu tả thành điều giản đơn nhất, cái phải là điểm xuất phát thì trở thành kết quả thần bí, còn cái lẽ ra phải có tư cách là kết quả hợp lý thì lại trở thành điểm xuất phát thần bí".

Trên đây là K.Marx phê phán quan điểm của Hegel. Rất tiếc rằng, ngày nay một số người tự nhận là theo chủ nghĩa Marx, nhưng lại tuyệt đối hóa vai trò của Nhà nước, biến Nhà nước thành chủ thể, còn công dân chỉ biết phục tùng Nhà nước chuyên chế. Thật ta, trong mọi xã hội đều có hai cực : Công dân và Nhà nước. Ngay cả trong xã hội dân sự, cũng không thể không có Nhà nước đứng ra điều khiển và quản lý các công việc xã hội, nhưng tất cả những điều đó đều nhằm thực hiện đầy đủ các quyền của công dân, các quyền của con người, trong khi đòi hỏi các công dân thực hiện những nghĩa vụ của mình với nhà nước, cũng tức là đối với toàn xã hội. Vai trò của Nhà nước trong xã hội dân sự khác về nguyên tắc trong xã hội cực quyền, ở đó lợi ích và quyền của con người bị đặt xuống dưới và hy sinh cho lợi ích và các quyền của nhà nước chuyên chính.

Xã hội dân sự là một thành tựu to lớn của sự phát triển lịch sử của loài người. Xã hội dân sự là một cơ thể phát triển không ngừng và hoàn thiện không ngừng. Những yếu tố cấu thành của xã hội ấy là : Sở hữu của các công dân với tư cách cá nhân, các quyền tự nhiên của con người và các quyền tự do cá nhân của công dân, chế độ dân chủ về mặt chính trị và nhà nước pháp quyền. Bản thân các yếu tố ấy cũng không ngừng phát triển và hoàn thiện, cùng với sự phát triển và hoàn thiện của toàn bộ hệ thống xã hội dân sự.

Ngày nay, trong quá trình dân chủ hóa, ngày càng nhiều người nhận thức sâu sắc rằng chỉ có thể xây dựng chế độ dân chủ trên cơ sở xã hội dân sự. Chừng nào xã hội dân sự chưa vững vàng thì chừng đó dân chủ vẫn chưa được bảo đảm. Ngược lại, dân chủ hóa là một trong những động lực chính để xây dựng xã hội dân sự.

Việc chuyển từ xã hội cực quyền sang xã hội dân sự ở nước ta gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Nhưng đây là quá trình tất yếu không thể đảo ngược được.

Hà Nội, ngày 24 tháng 9 năm 2017

Phạm Khiêm Ích


[1] Tham khảo thêm : Nguyễn Trung, "Dòng đời", quyển một, chương 5, tr. 226 – 246.

[2]Tham khảo : Declaration of communist and workers' Parties of the socialist countries meeting in Moscow, USSR, 1957

 https://www.marxists.org/history/international/comintern/sino-soviet-split/other/1957declaration.htm

[3] Xin lưu ý : Do chống Liên Xô từ đầu, nên Đảng cộng sản Trung Quốc không có chủ nghĩa Marx - Lenin, mà chỉ có "Chủ nghĩa Marx", chủ yếu chỉ để biện minh cho những chuyên chinh của Đảng cộng sản Trung Quốc thời kỳ đầu. Ngay sau khi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, Trung Quốc hầu như chỉ có chủ nghĩa Mao. Và ngày nay ai không hiểu "chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc" là gì ?

Nguồn : viet-studies, 27/09/2017

Published in Diễn đàn