Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

 

Tâm sự với tri thức Việt tộc

liberté0

Phần 1

Tự do là rể của hệ tự (tự tin, tự lập, tự chủ) không có tự do sẽ không có nhân quyền và dân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằng và bác ái để có tam quyền phân lập : lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh.

Tự do là gốc của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bót, xiết, ngăn, chặn bởi ích kỷ, tư lợi luôn là mối đe dọa trong đời sống cộng đồng, trong sinh hoạt tập thể.

Tự do là cội của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, nhận thức, tâm thức, làm nội lực cho thăng hoa cá nhân, cho thăng tiến tập thể, cho thăng chất cộng đồng, không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.

Tự do là nguồn của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là dàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhúng cho tự do cộng đồng, để đưa xã hội vào qủy đạo trong cá nhân làm động cơ cho dân tộc, là động lực cho đất nước.

Tự do là nền của hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến) trong đó có tự do sáng kiến của tập thể, có tự do sáng lập của cộng đồng, có tự do sáng tạo của cá nhân kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của một dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng, cung nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại.

Tự do là trụ của hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) được tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân bản, nhân tính, trong đó nhân quyền hổ trợ cho nhân nghĩa có chổ đứng xứng đáng trong nhân cách của mọi cá nhân qua tự do. Tức là tự do làm người một cách liêm sĩ nhất, tự do làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất.

Tự do là cột của hệ cá (cá nhân, cá thể, cá tính), tại đây tự do nâng hệ tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, lao động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân có đạo đức với xã hội, và chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội văn minh, dân chủ, nhân quyền hiện nay.

Tự do là móng của hệ tư (tư duy, tư tưởng) trong đó các hệ thống tư tưởng văn minh luôn lấy tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của nhân loại làm mấu chốt cho hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diển luận) để làm cao, sâu, xa, rộng hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân văn), nếu không có tự do nghiên cứu, điều tra, điền dả, trong học thuật thì sẽ không có hệ phát (phát minh, phát huy, phát triển) trong tất cả các chuyên nghành khoa học.

Tự do là mái nhà của hệ triết (từ triết học tới minh triết) đây chính là quá trình tiến hóa tư duy của nhân loại qua nhân tri luôn cũng cố cho nhân trí trong quy luật tiến hóa của nhân loại, qua đó ta biết thêm nhiều để hiểu sâu hơn hệ nội (nội chất, nội hàm, nội công) của nhân tính, cụ thể là để thấu suốt hơn số kiếp của con người, thân phận của cá nhân trong nhân thế.

Tự do là thuật để chống hệ tham (tham quan, tham quyền, tham chức) mà thực chất là để duy trì tham nhũng, mà dân tộc đã bị tướt đi quyền tự do bầu cử để chọn người tài phục vụ đất nước, tự do biểu tình trước vô số các bất công trong xã hội hiện nay. Chính tự do dẫn dắt dân chủ, chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối nhân quyền, trong đó có tự do để tự chọn cho mình một tương lai, một chân trời không có tham quan bất tài, không có tham nhũng vô nhân, làm quỵ kiệt mọi tiềm năng phát trển của Việt tộc, đó là tự do diệt bọn "sâu dân, mọt nước".

Tự do là vốn để chống hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) đang truy diệt nội công Việt tộc, đang vùi lấp nội lực trí thức, đang thủ tiêu sung lực thanh niên, đang bóp nghẹt mảnh lực của toàn dân trên con đường phát triển kinh tế, khoa học, kỷ thuật... Một hệ độc đang giết lần, giết mòn mội sinh lực xã hội, biến thanh niên là nguyên khí của quốc gia thành các kẻ làm thuê, làm công với điều kiện lương bổng tồi, với bảo hiểm lao động tục. Chỉ có tự do của toàn dân, của toàn xã hội, của mọi cá nhân mới loại bỏ được hệ độc này đang thiêu hủy tiền đồ của tổ tiên, biến nam giới Việt tộc thành lao nô, biến nữ giới Việt tộc thành nô tỳ cho các nước láng giềng. Tự do phải được sát minh, sát nhận, sát chứng để vỉnh viển gạt hệ độc đang trù ếm tương lai của gióng nòi này.

Tự do là lực để chống hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm chiếm) của bọn lãnh đạo Bắc kinh, mang phong cách không nhân cách mà ta có thể gọi chúng là : tầu tặc, với ý đồ muôn thửa xâm lăng để đồng hóa Việt tộc. Chỉ có tự do bảo trì chủ quyền, tự do bảo đảm độc lập, tự do bảo quản đất nước của toàn dân, ta mới đi trên lưng bọn bán nước cho tầu tặc đang lẫn lách trong giới lãnh đạo hiện nay. Chỉ có tự do của chính ta, ta mới đi trên vai bọn lãnh đạo "hèn với giặc, ác với dân", vì chúng đã vong thân đang chờ vong quốc Chỉ có tự do của chính ta, ta mới đi trên đầu bọn tầu tặc chỉ biết dùng tự do của kẻ mạnh để trộm, cắp, cướp, giật, đất đai biển đảo của láng giềng, mà không biết dùng tự do của chúng để làm đẹp tự do của nhân phẩm.

Tự do là nhân tính

Tự do có trong nhân tính, tự khi con người phải tự gầy dựng cho mình một chương trình, một dự phóng, một tương lai nếu con người không dựa vào được thượng đế, thần linh hay tôn giáo hoặc di đoan đẻ gánh số kiếp của mình.

Tự do hiện diện trong chất sống của một cá thể, luôn được cũng cố bởi các phương án của cá thể đó trong suốt quá trình sinh tồn của mình : tự thân trong tự chọn để tự chủ trong tự tin là chỉ có mình mới nuôi, mới sống cho mình, nghĩa là chỉ có mình mới tự cứu mình được mà thôi.

Tự do khi được định vị, định hình, định dạng qua ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp : tự do là tự do, thì tự do không còn cần tới cách giải quyết siêu hình (học) là con người sinh ra và số phận của nó thuộc về hoặc nằm trong tay môt đấng tối cao là thượng đế sáng tạo ra cuộc sống và con người. Bản chất của tự do là vô thần, vì nội chất của tự do là vô thánh, nhưng tự do không vô đạo, nếu định nghĩa đạo là con đường, thì chính tự do là con đường để nhân sinh đi đúng vào hướng của nhân tính. Nếu luận điểm này là cơ sở cho phạm trù tự do, thì chuyện có thượng đế hay không, không còn hệ trọng nữa, vì chính con người phải quyết định và quyết đoán số phận của mình như giải quyết một vấn đề sinh tử : con người là phương án, nhân sinh là dự phóng luôn đi về phía hay, đẹp, tốt, lành của nhân tính !

Tự do trong hay, đẹp, tốt, lành của nhân tínhtự do của trách nhiệm, của bổn phận ngay trên phương án cho tương lai, ngay trên dự phóng của mai sau, thì tự do chính là đạo lý làm nên luân lý trong đó con người biết nhận trọng trách cho chính một viển ảnh nhân đạo có hậu cho mình và cho đồng loại.

Tự do là câu hỏi trên thượng nguồn của con người trước cuộc sống, mà chính con người đó phải tìm ra câu trả lời ngay trong hạ nguồn của cuộc đời mình ; khi thi sĩ người, cỏ cây, nhân loại". Và, nhân Vũ Hoàng Chương trong bi quan đã rơi vào : "Chúng tôi tuổi trẻ đầu thai lầm thế kỷ", rồi lại đặt câu hỏi : "Ta làm chi đời ta ?", thì cậu thanh niên thửa nào là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã có câu trả lời ngay trong chiến tranh tang tóc của Việt tộc thế kỷ XX vừa qua : "Tôi yêu mọi loại này của Trịnh Công Sơn có (đầy và dầy) nhân tính trong một định nghĩa tự do có trách nhiệm trước nhân sinh và mọi sinh vật chúng quanh nhân sinh đó !

Tự do là nhân bản

Tự do là quyền chọn lựa, chọn lựa lúc đầu là giải thích cuộc sống qua một đấng thượng để tối cao sáng tạo ra mọi sự sống, trong đó có cuộc sống, thân thể, hình hài, tư duy của con người, cho đến nay chúng có tự do là không tin (hoặc không còn tin nữa) là thượng đế có thể cứu rổi con người trước các thử thách của đói nghèo, các thăng trầm của bịnh tật, của chết chóc, tới từ chiến tranh, từ bạo lực...

Tự do là quyền quyết định, quyết định đi theo một ý thức hệ chính trị (thí dụ như ý thức hệ cộng sản) để làm cách mạng, để đổi đời rồi đổi kiếp, và khi cách mạng thành công, con người khám phá ra bọn lãnh đạo cách mạng chỉ là bọn trộm, cắp, cướp, giật, như tổ tiên đã giáo dưỡng cho con cháu : "cướp ngày là quan". Vì, chúng đã biến chất từ các nhóm lợi ích để hình thành ra các mafia ngay trong chính quyền độc đảng của chúng, để làm chuyện "sâu dân mọt nước", trong đó có kẻ sẵn sàng bán nước, chúng ta được quyền quyết định không tuân thủ quyền lịnh của chúng, vì chúng đã vong quốc trong ma đạo vong thân của chúng !

Tự do là quyền phán đoán, phán đoán lịch sử để hiểu sử tính, để thấu sử luận để không lặp lại sai lầm về sử quan trong tương lai, phán đoán các chính quyền độc đảng làm chỗ dựa cho độc tài, độc trị, độc tôn, để chọn lựa và quyết định cuộc sống theo hướng đa tài dựa trên đa trí, đa năng, đa hiệu, có cơ sở trong đa nguyên để bảo đảm dân chủ vì nhân quyền của chúng ta.

Tự do là quyền hành động, hành động để nhân cách của chúng ta được tôn trọng trong nhân phẩm của một nhân tính trọng nhân quyền, quý nhân tri, yêu nhân trí để nhân thế được tự do chọn lựa nhân nghĩa, nhân từ, nhân đạo, tức là nhân bản.

Tự do trong nhân hành

Tự do không trừu tượng, tự do có hai thế thăng bằng : thân thể và tư tưởng, trong thân thể có thể xác của cá nhânbản thể là sự trao truyền sự sống tới từ cha mẹ và tổ tiên, trong tư tưởng có tư duytự lợi, tư duy theo phương hướng của tri thức tạo nên ý thức, tư lợi theo định hướng phòng thân, thủ thân, lập thân.

Tự do không mơ hồ, không tự sát, không ai chống một cá nhân được quyền tự sát, nhưng tự do của nhân sinh là để bảo vệ thân thể và tư tưởng, như bảo vệ hai thế thăng bằng khác : sự sốngsự tồn tại, chính cái quyền được sống là định nghĩa đầu tiên của tự do, chính cái quyền được tồn tại là định nghĩa thứ nhì của tự do. Cả hai định nghĩa này làm nên tính duy lý, hợp lý và chỉnh lý trong động cơ của tự do : hành động của tự do.

Tự do được cụ thể hóa hóa qua hành động của tự do theo quá trình : hiểu biết-chọn lựa-quyết định để hành động vì tự do, tự do được sống, tự do được tồn tại trong cuộc sống, và vận dụng cuộc đời, xã hội, cộng đồng, tập thể, gia đình... để ngày ngày thực hiện tự do cao hơn, rông hơn, sâu hơn, xa hơn.

Tự do luôn thực hiện nhân quyền của nó cao hơn, rông hơn, sâu hơn, xa hơn, nó đòi hỏi được lập gia đình qua hôn nhân, cùng lúc nó cũng muốn sống độc thân để giữ gìn tự do cá nhân của nó, chưa hết nó đòi hỏi được ly thân rồi ly hôn, giờ nó còn muốn hôn nhân cho các cá nhân đồng tính.

Tất cả đòi hỏi này không hề mâu thuẩn nhau, vì tự do không có khung, chẳng có khuôn, nó là lãnh thổ của nhân tính, luôn muốn nới rộng biên giới, cùng lúc nó muốn phá luôn các ngục tù ý thức hệ, các mô hình bảo thủ, các mô thức lỗi thời, để nhân tri nên cao nhân loại, để nhân trí đào sâu nhân tình. Không vô chính phủ cũng không loạn luân, không cực đoạn cũng không ích kỷ, tự do trọng đạo lý, quý đạo đức, nhưng tự do biết sắp, xếp, đổi, sửa luân lý để cuộc sống đáng sống hơn, đáng sống rồi thì phải sống vui để vui sống, từ đó nhân sinh không còn tù hãm nhân trí nửa !

-------------------

liberté01

Phần 2

Tự do giữa nhân tình

Tự do quyết định thân thể và tư tưởng, tự do quyết đoán luôn cho cá nhânbản thể, tự do quyết nghiệm luôn cho tư duytự lợi, như vậy tự do khôn những đẩy xa mê tín và dị đoan, nó còn đẩy lùi luôn thượng đế và tôn giáo nếu thượng đế và tôn giáo không thuyết phục được nó trên đường đi tìm sự thật, để hiểu chân lý, từ đó tạo ra lẻ phải.

Tự do có thể đi tìm sự thật từ chính trị qua kinh tế, từ tâm linh qua tôn giáo, từ dấn thân qua cách mạng, nhưng kẻ đòi tự do cho sự thật phải trả giá cho sự chọn lựa của mình, mỗi chuyện trên đời này qua chọn lựa của mỗi cá nhân đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn đòi hỏi chuyện : đúng giá ! So với các giá trị mà mình muốn vương tới, đi tới. Tự do luôn có tri thức sống động để chống lại chuyện : quá giá phá giá ! Vì tự do luôn mang lý trí sinh động chống lại tham ô, tham nhũng của bọn tham quan, tham quyền sống nhờ quá giá phá giá, mà nội chất của bọn này là : cờ gian, bạc lận.

Tự do có thể đi tìm chân lý, từ nghiên cứu qua điều tra, từ điền dã qua kiểm tra, từ so sánh qua tổng kết, nhưng kẻ đòi tự do tìm chân lý phải trả giá cho sự lao tác của mình, mỗi khám phá, mỗi phát minh, mỗi kết quả đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn yêu cầu : "có thực mới vực được đạo", mà thực trong hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) không phải là thực phẩm mà là sự thực (sự thật). Chính sự thựcgốc, rể, cội, nguồn của khoa học, luôn chứng thực để chứng minh, và sự thựcnền, cột, trụ, móng cho chân lý được ra đời và được công nhận.

Tự do có thể đi tìm lẻ phải, từ đạo lý qua đạo đức, từ luân lý qua giáo dục, từ kinh nghiệm qua trải nghiệm, nhưng kẻ đòi tự do cho lẻ phải phải trả giá cho sự liêm chính của mình, mỗi hành vi liêm sĩ, mỗi hành động liêm minh, mỗi hành tác đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn chu đáo trong chuyện : được mắt ta ra mắt người, trong đó tư lợi cá nhân không được thủ tiêu công lợi của tập thể. Chính lẻ phải đưa công bằng vào công lý, giao pháp lý cho pháp luật. Chính phương trình công bằng-công lý-pháp lý-pháp luật là phương pháp luận hổ trợ cho định nghĩa về tự do để tự do này không được đập, phá, thiêu, hủy các tự do khác !

Tự do kề nhân phẩm

Tự do cận kề nhân phẩm, khi nó nhận ra chính nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành sẽ cứu nhân thế còn nhiều điều xấu, tồi, tục, dở, khi chính tự do dùng nhân phẩm để xem, xét, khảo, tra nhân loại còn lắm chuyện thâm, độc, ác hiểm, trong đó nhân sinh vẫn còn là nạn nhận của nhân tình, khi nó đã mất nhân tính.

Tự do song hành cùng nhân đạo, khi nó chọn đạo lý để giữ khoan dung, đạo đức để nắm rộng lượng, luân lý để nâng vị tha, khi cái bạo (bạo lực, bạo động, bạo hành) còn đang tung hoành bởi cái độc (độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) qua độc đảng, đang ngày ngày làm kiệt quỵ sinh lực của hệ hiệu (hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả) vì cái độc này đã giết ngay trên thượng nguồn hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo)chính là định nghĩa năng động nhất của tự do : tự do sáng tạo !

Tự do luôn là tự do có điều kiện, điều kiện nhân phẩm dùng nhân lý, nhân tri, nhân trí để cũng cố, để thăng hoa nhân nghĩa, nhân từ, nhân đạo, để đưa nhân tình, nhân thế, nhân loại vào đúng quỷ đạo của nhân quyền : sống chung vì đáng sống. Nếu tự do không có điều kiện sẽ là tự do trong tự sát, vì nó biến cuộc sống thành địa ngục, cuộc đời thành âm phủ, chính thi hào Nguyễn Du đã nhận thức rõ điều này trong Văn tế chúng sinh : "Cõi dương còn thế chi là cõi âm".

Tự do luôn là tự do có điều kiện vì nó muốn lánh địa ngục, xa âm phủ, vì nội chất của nó là sống hay, sống đẹp, sống tốt, sống lành, chớ không phải sống tồi, sống tục, sống dở, sống nhục, chính Trịnh Công Sơn chối bỏ và lên án loại cuộc sống này, mà nhạc sĩ gọi là : "Kiếp cỏ hèn mọc đầy núi sông !"

Tự do đón nhân tri

Tự do đón nhân tri như tự do đón nhận kinh nghiệm tới từ cuộc sống, biến kinh nghiệm thành kiến thức, rồi đưa đạo lý vào tri thức để có ý thức về cuộc đời, có nhận thức giữa sự sống và cái chết, từ đó chọn sự sống trong cái sống đúng rồi biến nó thành cái sống cho đáng.

Tự do đón nhân tri như tự do đón tiếp thử thách tới từ các khó khăn mà ta gặp ngay trong cuộc sống, giải quyết các khó khăn, bằng tự do của chính mình, tự chọn lựa cách giải quyết tới quyết định các phương tiện để vượt thoát (và vượt thắng) các khó khăn. Tự do xử lý các khó khăn tương đối qua cải cách (giữ sân chơi, nắm trò chơi, và chỉ cần đổi luật chơi) để vượt khó khăn, đó là tự do cải cách. Tự do cũng xử lý các khó khăn tuyệt đối (xóa sân chơi, dẹp trò chơi, bỏ luôn luật chơi) để làm lại mới hoàn toàn, đó là tự do cách mạng.

Tự do đón nhân tri như tự do chấp nhận thăng trầm, chấp nhận nghèo khổ nhưng luôn phấn đáu để vương lên, cam chịu tiết kiệm để lập vốn, cán đán cần lao để phát triển, pháp minh để làm cho bằng được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên ; trong đó có tự do "cắn răng" chịu cực để hy sinh cho con cái, cho các thế hệ mai sau thành đạt trong học hành, thành tựu trong nghề nghiệp, thành công trong kinh tế.

Tự do bồng thử thách, cõng thăng trầm luôn là tự do của dự phóng muốn biến ngày mai phải đẹp hơn, hay hơn, tốt hơn, lành hơn hôm nay. , tự do của dự phóng luôn là tự do của chương trình được tính toán, được xếp đặt, được tổ chức, được quản lý, được thực hiện qua thời gian và qua không gian do chính tự do có ý thức chọn lựa.

Tự do có ý thức, không hề là loại tự do thụ động, "ba phải", "nửa vời", "lúc thế này, khi thế khác", mà chính ý thức của tự do sản sinh ra ý định thực hiện dự phóng, ý muốn tổ chức chương trình, để hành thành ý đồ phải thành công qua chiến lược lâu dài, chiến thuật ngắn hạn, kể cả sách lược được dựng nên qua mưu lược, tất cả tạo nên ý lực cho hệ quyết (quyết định, quyết đoán, quyết tâm).

Tự do có ý thức, có dự phóng, có chương trình qua phương trình ý thức-ý định-ý muốn-ý đồ-ý lực là điều kiện, là tiền đề, là thượng lưu của tự do muốn thay đời đổi kiếp của Việt tộc. Vì có ý thức nên chúng ta thấy cái bất công của xã hội do lãnh đạo bất tài dựa độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam với sự xuất hiện của dân đen, dân oan. Chính phương trình ý thức-ý định-ý muốn-ý đồ-ý lực này sẽ giúp Việt tộc đón nhận nhân tri để có nhân trí mà chống đối, mà đấu tranh, mà phấn đấu cho tương lai của đất nước !

Tự do giữa nhân tính

Tự do giữa nhân tính được thể hiện từ nhân loại tới nhân sinh, nó không thể được định nghĩa ngoài nhân tính, tự do là tự do của nhân tính, có nhân đạo, hiểu nhân nghĩa, thấu nhân từ, vững nhân tâm. Có những kẻ lợi dụng tự do cá nhân để biển lận, có tham quan lạm dụng tự do của quyền lực để tham nhũng, đó là lạm quyền, đây chỉ là loại tự do trục lợi để bòn rút, nó đe dọa tới tiềm năng tự do của tha nhân, nó sói mòn tự do của đồng loại, nó thiêu rụi tự do phát triển của đất nước, nó làm quỵ gục tự do được sống yên, sống lành, sống đẹp của đồng bào ta. Loại tự do này rất đe hèn, vì nó quá thấp với định nghĩa về tự do mà chúng ta muốn tìm tới, chẳng hạn như tự do tổng kết về cuộc đời của mình, khi thấy đồng bào và chính thân phận mình đang trong ngỏ cụt, rồi bi quan trước số phận của dân tộc, của đất nước, đó là lời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn : "Trong nổi tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời cùng ngồi xuống và tha thứ cho nhau...".

Tự do giữa nhân tính xa lạ với tất cả loại ngữ văn "tự do phải tuyệt đối", tất cả loại ngữ pháp "tự do là muốn làm gì thì làm", tất cả kiểu phát biểu này đều đáng ngờ, vì loại ngôn từ này lạm dụng tự do để dễ dàng ích kỷ, lợi dụng tự do để dễ bề trục lợi. Loại ngôn ngữ này chỉ muốn hiểu tự do một cách thô thiến nhất để đánh tráo, đánh lận con đen, mà quên đi các điều kiện của nhân tính luôn làm gốc, rể, cội, nguồn cho mọi định nghĩa về tự do, cùng lúc các điều kiện của nhân tính này nâng, che, cỏng, bồng tự do, chỉ để bảo vệ tự do được sống và phải sống bền trong nhân tính.

Tự do giữa nhân tính, khẳng định quyền sống giữa nhân sinh, quyền được tồn tại trong nhân loại, và nhất là quyền có kiến thức đúng về nhân thế, trong đó nhân tính luôn cần nhân trí để có nhân tri, mà tri thức không tự nhiên có trong nảo bộ của cá nhân mà tri thức tới tự tha nhân. Đây là cơ sở để hình thành xã hội học : một cá nhân sống riêng rẻ, biệt lập trong rừng không có đời sống xã hội, không có sinh hoạt xã hội, không có quan hệ xã hội, thì không biết là mình : phải chết ! Tức là không có tri thức về cái chết. Và, khi cá nhân đó sống trong xã hội, thấy tha nhân chết trước mắt của mình, khi sự sống không còn thì thân thể chỉ là thi thể, lúc đó cá nhân đó mới có tri thức về cái chết, và tri thức đó tới tự tha nhân. Như vậy xã hội là môi trường giữa sự sống và cái chết, trong đó tự do không thể đơn phương độc mả, một cách vô điều kiện, mà quên đi nhân sinh trong đó có tha nhân có cùng một điều kiện nhân loại với mình, có cùng một môi sinh trong cùng một nhân tính với mình.

Tự do của nhân chủ

Tự do của nhân chủ, là tự do có thế đứng và thế đi, có hành động và hành tác trong thế thăng bằng của nhân quyềndân chủ (nhân quyền trong dân chủ, và dân chủ bằng nhân quyền). Ngữ pháp nhân chủ phải dựa trên định nghĩa về chủ thể, không chỉ là cá nhân hay cá thể, mà chủ thể khi hiểu đạo lý (hay, dẹp, tốt, lành) rồi, khi thấu luân lý (bổn phận và trách nhiệm) rồi, thì có tự do trong sáng kiến để cải thiện điều kiện làm người của mình. tự do trong sáng lập để gây dựng các phương án cho tương lai, vì muốn được thăng hoa trong cuộc sống, có tự do trong sáng tạo. Và, tự do trong sáng tạo không những để thành công trong học đường, thành quả trong nghề nghiệp, thành tựu trong xã hội, mà còn sáng tạo từ văn hóa qua nghệ thuật, từ lao động qua sáng tác ra nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan cho riêng mình, để có tư duy riêng, để có tư tưởng riêng, mà không quên đồng loại, luôn song hành với mình trong cuộc sống.

Tự do của nhân chủ qua nội hàm của chủ thể luôn là tự do có ý thức, một ý thức tới từ tha nhân, tới từ xã hội, một ý thức về kinh nghiệm trong thực tế (thí dụ như không được giết người, vì sẽ bị người giết qua báo thù, qua luật pháp, qua tù ngục, qua tử hình...) như vậy ý thức tới từ ngoại cảnh, mà ngoại cảnh thì thuộc về phạm trù của hiện tượng luận. Nhưng, tự do có ý thức cũng chứa các điều kiện của nội tâm, thuộc về bản thể học, trong đó ý thức xếp đặt lại quá khứ, tổ chức lại kỷ niệm, quản lý luôn hồi ký, trong đó các ký sự giúp chủ thể nhận rõ ra các quy luật của biện chứng : hạnh phúc đối nghịch lại với khổ đau ; những cái hay, đẹp, tốt, lành đối ngược lại với những cái xấu, tồi, tục, dở ; trong đó đạo lý, đạo đức, luân lý đối đầu để chống lại những cái thâm, độc, ác, hiểm đang đe dọa tự do của chúng ta. Thí dụ như chuyện bọn tầu tặc đầu độc dân tộc ta qua thực phẩm, ô nhiểm môi trường ta qua công nghiệp bẩn thỉu của chúng, nhất là thao túng Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng lại còn cấu kết với vài bọn bán nước trong lãnh đạo, để âm mưu xâm lăng, thôn tính, đồng hóa Việt tộc ta, thì chúng ta phải sử dụng mọi mức độ, mọi trình độ của tự do nhân chủ của chủ thể có ý thức để đề kháng, để chống đối âm mưu tồi tệ này của tầu tặc !

-------------------

liberté02

Phần 3

Tự do qua nhân trí

Tự do qua nhân trí là hành trình của chủ thể qua hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức) trong "tổng thức" (ý thức, nhận thức, tâm thức), tại đây thức được sống và được tồn tại qua tỉnh thức trước điều kiện làm người của mình, this dụ qua chữ nhân của khổng học, qua chữ đạo của lảo học, qua quy luật sinh, lảo, bịnh, tử của phật học.

Tự do qua nhân trí luôn là hành trình khám phá (đi một ngày đàng, học một sàng khôn), luôn là hành trình khai phá (thương người như thể thương thân), luôn là hành trình khai sáng vừa cho trí tuệ, vừa cho đạo đức (nắng ba năm ta không bỏ bạn, mưa một ngày bạn đã bỏ ta).

Tự do qua nhân trí có phương trình riêng của nó khám phá-khai phá-khai sáng vì được khai thị, mở mắt nhìn đời bằng ý thức được dựng nên từ tri thức, chính ý thức quyết định ba nền móng cho các định luận về tự do :

- ý thức của tư duy về tự do

- ý thức của hành động về tự do

- ý thức của đấu tranh vì tự do

Tự do qua nhân trí phân biệt được các sinh hoạt xã hội rất khác biệt của chủ thể, trong đó nghề nghiệp khác chuyên môn, chức năng khác vai trò, thân phận khác số kiếp, vì cam phận chấp nhận trong thụ động của cá nhân là chịu nhắm mắt-khoan tay-quỳ gối với vị thế của nạn nhân, nó hoàn toàn xa lạ với định vị của tự do là đòi hỏi, là đấu tranh, là chủ động để chống lại kiếp khuất phục trước các bất công.

Tự do qua nhân trí chống lại tất cả phản xạ vô điều kiện trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt xã hội, trong quan hệ xã hội ; không những phản xạ nhắm mắt-khoan tay-quỳ gối đều đáng chê, khinh, ghét, bỏ, mà kể cả chuyện máy móc hóa ngữ vựng thưa, bẩm, dạ, vâng trước các tầng lớp lãnh đạo đang bóc lột, đang bòn rút, đang tha hóa đạo đức xã hội. Chính tự do sẽ là nền, móng, cột, trụ cho bất tuân dân sự, nếu cuộc đời bị đe dọa, nếu cuộc sống bị tha hóa.

Tự do qua nhân trí của chủ thể có ý thức là sự thông minh đề nghị chúng ta phải cân, đo, đong, đếm trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt xã hội, trong quan hệ xã hội, bằng thực nghiệm (một duyên, hai nợ, ba tình), bằng khoa học (duy lý, chỉnh lý, hợp lý). Và, tự do bó buộc chúng ta phải tra, truy, xét, kiểm lại chính ý thức của chúng ta trước các bất công vẩn còn tồn tại trong xã hội, để làm cho bằng được chuyện mà thi hào Nguyễn Du đã dặn con cháu : "Phải lần cho tới tận nguồn, lạch sông"về các điều kiện làm người để thấy, hiểu, thấu, nhận phẩm chất của tự do.

Tự do ngay trong nhân dạng

Tự do ngay trong nhân dạng là tự do từ hành vi tới ngôn ngữ, từ hành động tới xử thế, vì trong đối nhân xử thế ta thấy được những cá nhân nào đã có hoặc chưa có tự do. Chính nhân dạng là kết quả của nhân cách, dựng nên tư cách được để tạo ra phong cách cá nhân, tự lao động qua sáng tạo, từ hợp tác qua đấu tranh.

Tự do ngay trong nhân dạng còn là hậu quả (hoặc hiệu quả) ngay trong truyền thông khi chế tác ngôn ngữ, trong kiểu không, thiếu, vắng, biệt tự do : "thiên mệnh"", ý trời", "trời đã định"... hay kiểu biết, hiểu, thông, thấu tự do : "nhân quyền", "nhân phẩm", "nhân lý", "nhân trí"... Đây không phải chỉ là cách nói, là khuôn ngôn ngữ mà là mức độ và trình độ làm người, muốn hay không tiếp nhận nhân trí, để dùng tự do mà đòi hỏi nhân sinh phải có nhân tính. Đó là quá trình nhận thức về tự do của Thúy Kiều qua ý thức của Nguyễn Du, đi từ vô thức "Ngẩm hay muôn sự tại trời. Trời kia đã bắt làm người có thân", tới thụ động nhưng thách thức "Cũng đành nhắm mắt xuôi chân. Để xem con vận xoay vần tới đâu", và cuối cùng là tới nhận thức "Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều !".

Tự do ngay trong nhân dạng là biểu hiện ra ngoại cảnh, ra đời sống xã hội, ra sinh hoạt xã hội, ra quan hệ xã hội một nội dung : chấp nhận hay không số kiếp của mình trước bất bình đẳng, chấp nhận hay không số phận của mình trước bất công. Và, nếu muốn, có, nhận, thâu tự do, thì tự do sẽ thay đổi số kiếp mình, thì tự do sẽ lật ngược số phận oan khiêng của mình, để tạo ra một kiếp mới, để sinh ra một phận mới lành hơn, tố hơn, hay hơn, đẹp hơn.

Tự do ngay trong nhân dạng luôn mang cùng lúc ba nội hàm, gầy dựng nên nội chất, đúc kết ra nội dung của tự do :

- Ý thức hiện hữu : có mặt trong cuộc sống, lấy tự do để định hướng nhân sinh quan.

- Ý thức chủ thể : có mặt giữa cuộc đời, lấy tự do để định vị thế giới quan.

- Ý thức lý tưởng : có mặt trong thế sự với lý tưởng của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành cho mình, cho mọi người, cho chuyện sống chung trong xã hội là chuyện mong muốn, chớ không phải là chuyện cam chịu.

Tự do ngay trong nhân dạng với ý lực của tự do, được thực hiện cụ thể bởi hai tư duy :

- Tự do biến ước nguyền thành hiện hữu, hiện diện, hiện tại ngay trong phương án xây dựng cuộc sống.

- Tự do biến dự phóng trở thành : dự đoán, dự tính, dự phòng ngay trong sinh hoạt thay đời, đổi kiếp vì mình, cho mình.

Tự do giáo dưỡng dân chủ

Tự do giáo dưỡng dân chủ ngay trong chuyện chuyển đổi tư duy, từ chuyện "mỗi người giữ một vị trí" trong định chế, trong cơ chế, để cá nhân không được "cựa quậy" gì trong một chế độ ; cho tới nhận thức ra là "mỗi người được đổi vị trí" của mình trong cuộc sống, trong xã hội, cùng lúc đổi luôn số kiếp của tập thể, số phận của cộng đồng của mình trước môt hệ thống ý thức hệ quái tâm dị nảo áp chế nhân quyền.

Tự do giáo dưỡng dân chủ ngay trong đấu tranh cho công bằng xã hội, chống lại chuyện "con vua thì được làm vua", với bi hài kịch "thái tử đảng" sinh ra như những quái thai vô tài bất tướng nhưng được lãnh đạo theo kiểu cha truyền con nối của thể loại "con quan thì được làm quan", gây một thảm kịch cho cả dân tộc : "cả họ làm quan" qua gia đình, hậu duệ, thân tộc, họ hàng... với một cơ chế quái vật ma hình quỷ tướng làm trò hề cho các quốc gia dân chủ văn minh.

Tự do giáo dưỡng dân chủ được chứng minh ngay trong lịch sử của Việt tộc là chuyện "con vua thì được làm vua, con sải thì quét lá đa" là vừa sai trái vừa vô minh, vì vừa bất công vừa vô nhân. Hãy nhớ lại trường hợp của Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là con "sải chùa" mà cũng là minh sư Vạn Hạnh, đã lập ra triều Lý, sáng ngời trong Việt sử, một triều với các khai quốc công thần dụng nội lực văn hóa Việt để chế tác ra sung lực cho văn minh Việt, để gầy dựng nên hùng lực cho văn hiến Việt.

Tự do giáo dưỡng dân chủ được chứng minh qua quá trình của các cá nhân, các tập thể, các cộng động, từ vị thế nạn nhân của bất công và trong thăng trầm đã chủ động chấp nhận thử thách để tiếp nhân từ do để đề kháng, để đòi hỏi, để đấu tranh, trường hợp các phong trào dân oan là minh chứng thông minh cho tri thức của tự do :

- Phong trào dân oan Dương Nội, với gia đình của chị Cấn Thị Thêu từ phong trào bảo vệ đất tới đấu tranh vì dân chủ, vi nhân quyền có tàm vóc quốc tế.

- Phong trào dân oan Đồng Tâm, với dân làng sáng suốt "bắt giữ công an" đã đàn áp họ để cướp đất họ, tới vận động truyền thông dân chủ trong cả nước để cùng đồng tâm với nhau đấu tranh vì dân chủ.

- Phong trào dân oan Thủ Thiêm, với dân cư quyết tâm bám đất, chống bọn ma só lãnh đạo thành phố buôn đất bán dân, chặn lại bọn ma bùn chủ thầu buôn đất bán nhà, giờ đã thành phong trào dân chủ được sống và được chết ngay trên mảnh đất của mình, những mảnh đất có được nhờ lao động của tổ tiên và của chính mình.

Tự do chế tác cá tính

Tự do chế tác cá tính, không những qua phẩm chất của cá nhân, đòi hỏi sống bằng chính nhân phẩm của mình, mà tự do còn chủ động để hành động một cách rất cụ thể qua sáng kiến trong cải cách, sáng lập ra các hội đoàn, sáng tạo ra các phương án phù hợp với mong muốn, với chờ đợi, với tâm nguyện : thay đời đổi kiếp, cho mình, cho thân quyến, cho đồng bào, cho đồng loại. Chính vì tự do luôn bức thiết nên cá tính là kết quả, hậu quả, hiệu quả của tư duy, của hành vi trong hành tác cá nhân, giờ đã có nội lực của kiến thức, sung lực của ý thức, hùng lực của nhận thức để đòi hỏi, để đấu tranh. Có cá tính để đề kháng, có cá tính để đối kháng chống bất công, chống bạo quyền, đây là định nghĩa của cá tính, vừa là thượng nguồn, vừa là hạ nguồn của các định luận về tự do.

Tự do chế tác cá tính, tức là giúp cá nhân cho xuất-hiện-để-thể-hiện cá tính của mình, để khẳng định chuyện thay đời đổi kiếp là chuyện khả thi : làm được và phải làm ! Như vậy tự do biến số phận thành dự phóng, biến cá tính thành sung lực của tương lai. Tự do dẫn dắt tự chủ, chính cá tính qua tự do biến ảo thành thực (thực chất, thực tại, thực tế) qua thực tài của cá tính, biết hành động theo kim chỉ nam của tự do. Và, cả hai tự do cùng cá tính, đã biến cá nhân thành chủ thể, vừa có trách nhiệm với cộng đồng, vừa có bổn phận với tập thể, vừa có đạo đức với dân tộc ; cùng lúc có sáng kiến theo dự phóng, có sáng lập cho tương lai, và có chương trình cụ thể qua sáng tạo, để chế tác ra các đạo lý hay, đẹp, tốt, lành.Từ đấu tranh Dương Nội tới đấu tranh Đồng Tâm, từ đấu tranh Thủ thiêm giờ với hàng trăm phong trào dân oan trên ba miền của đất nước, trong cả nước, các cá nhân mà lúc đầu còn riêng rẻ, giờ qua đòi hỏi, qua phong trào, qua truyền thông... đã trở thành chủ thể có cá tính mang nội chất tự do vì dân chủ,

Tự do chế tác cá tính, biến nạn nhân thành chủ thể, có tự do hiểu sự thật để nhận diện thủ phạm trong bạo quyền qua độc tài, tham nhũng qua tham quan, nhận diện chân lý để chứng minh các phong trào dân oan là hậu quả của chuyện trộm, cắp, cướp, giật của bọn bạo quyền thông đồng với bọn thầu đất. Chính nạn nhân giờ đã trở thành chủ thể tự do dầy cá tính bảo vệ sự thật để bảo toàn chân lý, bảo hành lẻ phải. Phương trình sự thật-chân lý-lẻ phải là rể của đạo lý, gốc của luân lý, cội của đạo đức, giờ đã đứng về phía nạn nhân, đã đứng về phía nước mắt, đã đứng về phía nhân quyền !

Tự do luôn song hành với nhân phẩm. Tự do luôn song đôi với nhân tính. Tự do song cặp với nhân cách. Và, ta phải phân tích cao, sâu, xa, rộng hơn nữa : Tự do mang hùng lực của"mâu thuẩn bổ sung" (ngược nhau nhưng không kình chống nhau) đó là tự do vừa đề kháng, vừa sáng tạo để chiến thắng, đó là tự do vừa trường kỳ, vừa đoản kỳ để thành công trước mọi thử thách !

Tự do tự xây

Tự do tự xây, khi đã tiếp nhận đạo lý, đón nhận đạo đức, thâu nhận luân lý, để xây lên liêm chính, để dựng lên liêm sỉ, bảo vệ nhân phẩm chống lại cường quyền, độc tài, tham nhũng. Từ đó, cụ thể hóa dự phóng đẹp, để hiện thực hóa tương lai hay, để thể hiện hóa chuyện thay đời đổi kiếp theo định hướng tốt, theo chân trời lành cho nhân sinh.

Tự do tự xây, dựa trên ngữ pháp "xây để dựng tự do", vì không ai ban bố tự do cho ta, mà tự do có được qua ý thức không chấp nhận bất công, qua nhận thức không dung túng độc tài, qua tâm thức không nhượng bộ bạo quyền. Quá trình"xây để dựng tự do" đã được các hệ thống tư tưởng của các quốc gia văn minh nhờ dân chủ, nhất là các kết quả trong nghiên cứu, điều tra, điền dã về hành động tự do trong khoa học xã hội và nhân văn làm rõ nét, rõ dạng, rõ hình, quá trình đó là :

- Tự do phải biết xây để dựng, qua không gian và thời gian của hệ cảnh (bối cảnh, thực cảnh, tâm cảnh).

- Tự do phải biết tự xây, qua thực tế và hiệu quả của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức).

- Tự do phải biết giữ cái đã xây, từ hiện tại tới tới tương lai theo hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) vừa để bảo vệ vừa để duy trì, vừa để phát huy vừa để phát triển tự do.

Tự do tự xây, đi trên lưng bất bình đẳng để dẹp nó, đi trên vai bất công để hủy nó, đi trên đầu bất tài dựa độc tài qua độc đảng phải ra đi để nhường chỗ cho nhân quyền trong nhân phẩm. Hãy nhìn sâu hơn các phong trào dân oan (Dương Nội, Đồng Tâm, Thủ Thiêm, Hải Phòng, Nha Trang, Đà Nẳng, Vũng Tàu...) là đằng sau tiếng khóc, tiếng gào, tiếng thét chống bạo quyền sinh ra bất công là định nghĩa cụ thể của tự do : "chống bạo quyền để được sống công bằng", bất công là không thể chấp nhận được ! Bạo quyền không có chổ hợp lý, hợp pháp để đứng cạnh, đứng kề với nhân phẩm, nhân đạo, nhân nghĩa. Cho nên, phong trào dân oan là một thể hiện đấu tranh tự do vì nhân quyền, nó rất văn minh nhờ hùng lực dân chủ tự sinh, tự pháp, tức là tự xây của nó. Nó sẽ được tôn trọng xứng đáng trong các hội đoàn nhân đạo vì nhân quyền, trong Liên Hiệp Quốc, trong lịch-sử-luôn-muốn-văn-minh-của-nhân-loại, một nhân loại có liêm sỉ !

-------------------

liberté03

Phần 4

Tự do tự sinh

Tự do tự sinh, có mặt ngay trong hiện tại để trong hiện sinh trong đấu tranh của kiếp người chống lại bạo quyền qua hệ thống bạo lực của nó. Cùng lúc tự do là dàn nhúng, dàn phóng gởi phương án của sự sống đúng đến trúng tương lai tốt đẹp cho nhân sinh. Hơn thế nữa, tự do biết gởi thông điệp tới tương lai, luôn nhắn tín hiệu tới mai hậu là : tự do có mặt để giúp con người thăng hoa theo hướng chân-thiện-mỹ.

Tự do tự sinh để gởi, gởi thông điệp, gởi luôn tín hiệu là tự do biết nổi giận vì đã chịu quá nhiều bức xúc tới từ bất tín, bất tài, bất trung, đã tạo ra bất công, sinh ra bất nhân, đang lũng đoạn luân lý Việt qua tham nhũng của tham quan. Chính tự do nổi giận chỉ là giòng lủ của thượng nguồn, sẽ tạo nên giòng thác của nổi loạn tại hạ lưu để chống độc tài, độc quyền, độc trị được chống lưng bởi độc đảng, để hình thành hợp lưu của bao giòng lủ, giòng thác tạo nên : nổi dậy !

Tự do tự sinh để nổi, nổi vì không chấp nhận bị chìm, biết đứng dậy vì không chấp nhận suốt đời quỳ gối rồi cúi đầu, chính tự do quyết định ngôn ngữ hình thể (quỳ gối để quỵ gục hay đứng dậy để đi tới) của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội. Chính nó vừa làm nội dung, vừa làm hình thức cho nhân cách. Các phản xạ sợ chính quyền, tránh công an, lùi bước trước bạo quyền, hạ mình trước độc tài... đều là những phản xạ phi lý, những hành vi vô lý qua tư duy độc lập của tự do !

Tự do tự sinh để phê, trước hết là phê bình các cái xấu, tồi, tục, dở đang tha hóa chúng ta ; kế tiếp là để phê phán các cái thâm, độc, ác, hiểm đang đe dọa chúng ta. Chúng ta phải "lột mặt nạ" cả hai qua phê chuẩn, để giữ thật sạch nhân phẩm của chúng ta.

Tự do tự sinh để giữ, vừa giữ sự hiện diện, vừa giữ các ước mơ của chúng ta, vì tự do có mặt trong vừa hiện tại, vừa có bước trong tương lai. Tự do có năng động tính riêng của nó, vì tự do vừa biết phòng ngự trước các cái xấu, tồi, tục, dở, vừa biết phản công chống lại các cái thâm, độc, ác, hiểm. Một thông minh khác của tự do là vừa biết khẳng định nhân phẩm của mình, vừa biết vượt thoát các lo âu, sợ hải tới từ đe dọa, tới từ bạo quyền ; cho nên tự do sống vì quá trình tự thoát để tự thắng (autodépassement). Tự do để tự thắng, là thông điệp đầy hùng lực của tự do : tự do không để bạo quyền, bạo lực, bạo hành giết sự thông minh của nó, sự sáng tạo của nó.

Tự do tự giải luận

Tự do tự giải luận, mang khả năng của tự do tự giải thích bằng kiến thức và tri thức các chuyện không thể chấp nhận được đang đe dọa nhân phẩm là : độc tài, tham nhũng, bất công, bạo động, tha hóa, đồi trụy…

Tự do tự giải luận, có năng lực của tự do tự giải trình, có chương trình hành động vì có giáo trình đạo đức của chuyện vì ta và vì người ; tại đây tính hợp lý, tính chỉnh lý của tự do được xây dựng qua hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để trao luận, trong các trao đổi giữa các đối tác, từ tin tức tới truyền thông, từ dữ kiện tới chứng từ.

Tự do tự giải luận, có năng lượng của tự do tự giải thể qua đấu tranh để chuyển đổi các định chế, để biến đổi các cơ chế, để chuyển hóa các chế độ bất tín, bất tài. Từ đó, tự do nhân lên sung lực của mình qua đa tài để đa năng, đa nguyên để đa đảng, nhờ đa năng nên đa hiệu.

Tự do tự giải luận, mang tiềm lực của tự do tự giải trừ qua quyết đoán để quyết tâm dẹp các tệ nạn xã hội, các tệ đoan của chế độ, chống lại chuyện lùi bước trước tha hóa, chống lại chuyện tự tha hóa, bởi một ý thức hệ, bởi một bạo quyền.

Tự do tự giải luận, mang cường lực của tự do tự giải quyết các khó khăn, các trở lực, các ngõ cụt, các suy thoái phẩm chất trong xã hội, trong giáo dục, trong văn hóa, để cùng nhau đi về các chân trời đáng sống, sống mà không chán sống !

Tự do tự giải luận, có mảnh lực của tự do tự giải phóng, bỏ kiếp quy phục cúi đầu, gạt phận khoan tay quỳ gối, để khẳng định cuộc đời mới thẳng lưng để thẳng đầu, thẳng chân để thẳng thân, sống không những cho lành, cho tốt, mà còn muốn sống sao cho hay, sao cho đẹp.

Tự do tự giải luận là tự do vượt lên thiên nhiên, vì tự do đã rời bản năng "đói ăn, khát uống", vì tự do từ chối kiếp "ăn tươi nuốt sống" để chọn cuộc sống : có hậu. Tự do vượt luôn qua thượng đế, vì tự do chịu nhận kiếp người để tự đổi kiếp người, để tự thăng hoa trong công bằng và bác ái qua đường đi nẻo về của tự do.

Tự do tự biện cho tự do vì hạnh phúc, đó là thông điệp của Rousseau.

Tự do tự giải cho tự do, vì công bằng đó là thông điệp của Kant.

Tự do tự luận cho tự do, vì công lý đó là thông điệp của Marx.

Tự do tự thân cho tự do, vì nhân phẩm đó là thông điệp của Nietzsche.

Tự do để tự cứu

Tự do để tự cứu trong quyết định tự chủ về số phận của mình, trong ý thức hành động vì tự do, từ cứu cánh tốt đẹp tới phương tiện minh bạch. Trong một đất nước mà tự lợi của Đảng cộng sản Việt Nam đứng trên hiến pháp, luật pháp, tư pháp, thì chuyện tự do để tự cứu là chuyện phải có, phải được hiện hữu với văn minh của con người trong thế kỷ này.

Tự do để tự cứu chống tha hóa, vì biết tự trọng đối với chính nhân phẩm của mình, trước một xã hội suy đồi từ đạo đức tới giáo dục, có thể dẫn tới sự suy vong của một dân tộc, thì chuyện tự do để tự cứu vừa vì tồn sinh của đất nước, vừa vì tiền đồ của dân tộc  là chuyện vô cùng bình thường trong phản xạ của đồng bào ta.

Tự do để tự cứu để chống diệt vong, trước mưu đồ xâm lăng của tầu tặc, vì dân tộc vì đất nước, vì các thế hệ mai sau là chuyện phải có, phải làm -phải dấn thân vì tự do để có tự do- trước một Đảng cộng sản Việt Nam được xếp loại là "hèn với giặc, ác với dân" là chuyện thật d hiểu, dễ thông, dễ thấu.

Tự do để tự cứu chống lại tham quan gây ra thảm họa qua tham nhũng, bòn rút cạn kiệt mọi tiềm lực của dân tộc, mọi tiềm năng của phát triển, mà động cơ vào đảng là để giành giật quyền lực, để tham ô, để hối lộ, để vơ vét. Tham quyền vì tham lam và trước lòng tham không đáy của các nhóm lợi ích mà thật ra là các mafia trong lãnh đạo, thì tự do để tự cứu là chuyện hiển nhiên, là chuyện đương nhiên.

Tự do để tự cứu để chống tận diệt môi trường, để bảo toàn môi sinh, như chính bảo vệ tính mạng của mình và của đồng bào, trước các cá nhân lãnh đạo giành giật quyền lực để dễ buôn dân, bán nước. Chúng đã bán biển, bán đất, bán tài nguyên, bán nhân lực lao động của đồng bào với giá thấp, giá rẻ, cùng lúc đã chuyển tiền ra ngoại quốc, để tính toán chuyện cao chạy, xa bay khi mất nước, mất đảng, thì chuyện tự do để tự cứu thật quá dễ giải thích, quá dễ giải trình.

Tự do để tự cứu trực diện để kình chống loại tự do vô nhân, vô đạo của bọn sâu dân mọc nước, khi chúng tự cho phép là chúng có quyền tự do vô biên, vô định, vô hạn để vơ vét từ tài nguyên của đất nước tới tiền tài của nhân dân. Loại tự do vô minh, vô tri này của chúng được dung dưỡng trong một chế độ độc đảng để độc quyền thâm thủng nguyên khí của quốc gia. Tệ hơn nữa, chúng không có một chút tự trọng gì vì quốc thể : tổ chức bắt cóc người (Trịnh Xuân Thanh) trên nước Đức, một quốc gia văn minh, biết tôn trọng công pháp quốc tế. Mà hiện nay tháng năm, 2018 với phiên tòa tại thủ đô Đức có tất cả chứng từ của một chính quyền rừng rú, với các tướng tá công an giở trò bắt cóc người, ngay giữa một Châu Âu văn hiến, thì chuyện tự do để tự cứu để không nhận quốc nhục là chuyện ta phải thực hiện càng sớm càng hay !

Tự do để tự cứu luôn khẳng định tự do không bao giờ rời ý thức (một ý thức của tự do biết tự giới hạn tự do loạn động) của mình trước văn minh, văn hiến của thế giới, mà còn phải luôn biết học người vì người giỏi hơn ta.

Tự do dấn thân

Tự do dấn thân là tự do mang tính hiếu động, luôn thúc đẩy hành động tới từ một động cơ kích thích sự hình thành của tự do trong thực tiển, động cơ này có thể tới tự ngoại cảnh, chúng ta thấy láng giềng cùng văn hóa tâm giáo đồng nguyên với ta : Hàn Quốc, Nhất Bản, Đài Loan... có đời sống văn minh, phát triển... đó là ngoại cảnh giúp ta dấn thân, thúc đẩy ta có hành động cụ thể vì đời sống văn minh, văn hiến như các láng giềng của ta. Chính ngoại cảnh giúp ta lấy quyết định để hành động, nhưng có kẻ dùng tự do cá nhân để nhậu nhẹt, rượu chè, nghiện ngập... thì khi họ mong muốn có văn hóa, văn minh, văn hiến như Hàn Quốc, Nhất Bản, Đài Loan, Châu Mỹ, Châu Âu... mà bản thân họ không biết "thức khuya dậy sớm", và hằng ngày không chịu được cảnh "một nắng hai sương", mà ngược lại còn thiêu hủy kinh tế gia đình qua trác tán, làm khổ vợ con, thì các phát biểu của họ về tự do đi tìm văn minh, văn hiến như Hàn Quốc, Nhất Bản, Đài Loan, Châu Mỹ, Châu Âu... chỉ là chuyện tráo lận truyền thông, dựa trên láo, xạo, dối, lừa của thói "lời nói chẳng mất tiền mua", nói mà không suy nghĩ, vì vô tri nên vô lý, nó hoàn toàn xa lạ với định nghĩa về tự do.

Tự do dấn thân mang tính năng động để được nhập cuộc trên con đường đạo lý được chon lựa bởi cá nhân, bởi tập thể, bởi cộng đồng, bởi dân tộc, bởi nhân loại. Nhưng đạo lý phải chỉnh lý và hợp lý để nhân đạo có sức mạnh của nhân lý. sáng suốt để có luận tỉnh táo, để mà đi về các chân trời hay, đẹp, tốt, lành. Chính lý luận thông minh vì lập luận thông thái của tự do, nên tự do luôn mang tính tất yếu được chọn lựa bởi nhu cầu cần thiết, bởi mong muốn bức thiết, để cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc, nhân loại được sống tốt hơn trong nhân sinh, sống đẹp hơn trong nhân thế.

Tự do dấn thân là tự do khẳng định phải được sự tham gia trong công cuộc chung đi tìm hạnh phúc, bằng thể lực, trí lực, tâm lực của chính mình, đây là định nghĩa cụ thể và minh bạch của thế nào là dấn thân vì tự do.

Tự do dấn thân là tự do được xác thực vừa bằng ý chí, vừa bằng quyết tâm, biến chí nguyện thành nội lực, biến ý nguyền thành sung lực, để nội chất tự do biết thành hành động bằng hùng lực của nhận thức, tự do đứng về phía xác định để minh định bằng can đảm của dấn thân.

Tự do cần trọng tài

Tự do cần trọng tài làm rõ ý thức của tự do, và tự do không được tự làm trọng tài cho tự do của chính mình ; chính ý thức này về tự do, được minh bạch từ lý luận tới hành động, sẽ giới hạn hay phát triển những phạm trù và những lãnh thổ của tự do. Ngay trong tự do ngôn ngữ khi phát biểu chính kiến của mình, thì chính ý thức về truyền thông quyết định tự do của mỗi cá nhân trong bối cảnh thực tế để làm nền cho mọi tuyên ngôn về tự do.

Tự do cần trọng tài khi tự do đi tìm đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, kế tiếp đó là được đi tự đạo lý này tới đạo lý khác, đi từ các chuyện hay, đẹp, tốt, lành này tới các chuyện các chuyện hay, đẹp, tốt, lành khác. Từ đó tự do sáng lập ra một mạng lưới, một hành trình để được tới nhiều phương trời khác nhau, trong đó tự do lưu thông, tự do di chuyển, tự do truyền thông là kết quả cụ thể của quá trình khám phá của tự do.

Tự do cần trọng tài khi tự do là đi tìm cái hay, đẹp, tốt, lành hơn cái hay, đẹp, tốt, lành đã có, chính trọng tài của đạo lý tập thể, của đạo đức cộng đồng sẽ ngăn chặn các hành vi trộm, cắp, cướp, giật tự do của người khác, đây là thảm kịch của Việt tộc hiện nay, với đám tham quan lộng quyền, ngày đêm tha hồ tham ô, tham nhũng để trục lợi. Và cũng chính trọng tài của lương tri cho phép ta học các tự do hay của người khác, các tự do đẹp của người lạ, kế đó cho phép ta được sở hữu hóa các kiến thức tốt, các tri thức lành của nhân loại, để làm cuộc sống mình khá hơn, để nâng trình độ con cháu của mình giỏi hơn, để đẩy thân thuộc của mình được thông minh hơn, đây chính là hiệu quả của hành động tự do.

Tự do cần trọng tài luôn là tự do cần kiểm định trong sự phối hợp tế nhị vì tinh tế giữa hai hệ : hệ cảm (cảm tính, cảm xúc, cảm động) và hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận), và chóng chày gì thì cảm nhân từ do sẽ dẫn tới hành động tự do. Đó là hoàn cảnh của thi sĩ Hoàng Cầm trong một chế độ không có tự do :

Ta con phù du ao trời chật chội

đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao

Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ

vừa rụng chiều nay dềnh mặt nước hương sen

Ta soi… chỉ còn ta đạp lùi tinh tú.

Trong đó "Ta con phù du ao trời chật chội" thuộc hệ cảm giữa lao tù của chế độ không có tự do trong đất trời rộng rãi, và "chỉ còn ta đạp lùi tinh tú" chính là hành động tự do đạp lùi tinh tú, đạp tan một ngôi sao trên mặt ao, tượng trưng cho một chế độ độc tài đang tận diệt tự do.

Tự do từ chối bị khuất phục. Tự do kình chống mọi ý đồ thuần hóa nhân phẩm. Tự do chống đối luôn sự hèn, cái nhục. Tự do luôn là chuyện phá rào, đập khuôn, bỏ khung, đạp tường, chặt xiềng, hủy nhà tù để thấy ánh sáng, để chọn chân trời, để khám phá rồi phát minh ra các số kiếp mới được sinh ra, được tổ chức, được quản lý bởi động cơ và hành động của tự do.

Tự do cần nhân lý

Nhân lý mở cửa cho nhân tri để chứa nhân trí, để nhân lý được đi trong nhân đạo tìm tới nhân từ, từ đó nhân lý hướng về chân trời nhân phẩm để làm sáng nhân bảnnhân văn, khi tới được các chặn đường của nhân tính, thì nhân lý nhận được tiếp nhận ít nhất ba không gian của tự do :

Không gian hành động của tự do :

- Tự do cần nhân lý tức là tự do công nhận có công lý để hợp lý hóa công bằng

- Tự do cần nhân lý tức là tự do thừa nhận có pháp lý, để hợp lý hóa pháp luật

- Tự do cần nhân lý tức là tự do đảm nhận có đạo lý, để hợp lý hóa luân lý.

Không gian hành tác của tự do :

- Tự do cần nhân lý tức là tự do chống mê tín để chống di đoan

- Tự do cần nhân lý tức là tự do chống bất công, để chống bất tài

- Tự do cần nhân lý tức là tự do chống bất công, để chống bất tài.

Không gian hành đạo của tự do :

- Tự do cần nhân lý tức là tự do cần lý tưởng để cũng cố niềm tin

- Tự do cần nhân lý tức là tự do cần chân lý để hưởng dẫn dấn thân

- Tự do cần nhân lý tức là tự do chống bất công, để chống bất tài.

-------------------

liberté04

Phần 5

Tự do để tự trọng

Tự do để tự trọng vừa chống lại cái sai, vừa tiếp nhận cái đúng ; vừa từ chối cái xấu, vừa gạt bỏ cái ác, vừa đón nhận cái lành ; vừa xóa tan cái độc vừa chào đón cái đẹp, cùng lúc cam nhận cái thử thách.

Tự do chống lại kiếp "cơm thừa, canh cặn", để chống lại :

- Thí gì nhận lấy

- Cho gì ăn nấy

- Ném gì sài nấy.

Tự do từ chối kiếp "thiên mệnh đã an bài", để từ chối :

- Chấp nhận số phận an bài trong hiện tại

- Cam chịu số kiếp an phận trong tương lai

- Hứng chịu suốt đời làm nạn nhân.

Tự do gạt bỏ kiếp "con sãi chùa thì quét lá đa" để gạt bỏ :

- Bạo quyền, cường quyền, lạm quyền

- Tham quyền, tham nhũng, tham ô

- Bất công, bất lương, bất tài.

Tự do chấp nhận :

- Dấn thân để chống lạm quyền trong lãnh đạo, tham nhũng qua quyền lực

- Bất tuân bạo quyền để xây dựng công bằng mới để chống bất công

- Nổi dậy để lật đổ độc tài, để làm cách mạng để lập ra công bằng mới.

Tự do cam nhận :

- Bị bắt bớ để bảo vệ phẩm chất của mình

- Bị tù đày để bảo toàn lý tưởng của mình

- Bị tra tấn để bảo đảm chân lý của mình.

Tự do thừa nhận :

- Phải có nhân tính trong nhân tình

- Phải có nhân đạo trong nhân sinh

- Phải có nhân nghĩa trong nhân thế.

Tự do khẳng định :

- Nhân bản trong nhân văn

- Nhân từ trong nhân tri

- Nhân trí trong nhân lý.

Tự do căng tự chủ vì tình người

Tự do căng tự chủ vì tình người biết tiếp nhận ngoại cảnh, vì yêu quý ngoại giới, kể cả trong tình yêu, nơi mà Spinoza định nghĩa như một cảm xúc, một đam mê tới từ ngoại nhân : một kẻ lạ gặp trong ngẩu nhiên giờ đã thành người yêu, mà ta sẵn sàng chia đời, sẻ kiếp. Nhưng tự do không ngừng ở tình yêu lứa đôi, mà nó mang ước vọng của nhân loại, mang hoài vọng của nhân tính, mang nguyện vọng của nhân phẩm để tìm, để gặp, để dựng tình thương.

Tự do căng tự chủ vì tình người từ bỏ buồn rầu trong ao tù của cuộc sống khổ cực để tới các chân trời rộng hơn, đẹp hơn bằng tình thương yêu đồng bào, đồng loại đang là nạn nhân của khổ đau, vì đang là nạn nhận của bạo quyền sinh ra bất công, đẻ ra tham nhũng. Ta hãy nhìn dân đen trong đói khổ, ta thấy dân oan mất đất, mất nhà lang thang như bụi đời, oan ức ngất trời như các oan hồn đang có mặt ngay trong cuộc sống của chúng ta. Họ sống và đang chán sống, chính tự do trong tư duy, chính tự chủ trong hành động vì người, mà chủ thể tự do có thể chuyển hóa chán sống qua đáng sống : không được quên đồng bào, đồng loại trong lầm than, để cùng nhau gánh đở, cõng bồng nhau, để nâng kiếp người như chính nâng kiếp của mình.

Tự do căng tự chủ vì tình người đi từ tự do chọn lựa để đi tìm cuộc sống hạnh phúc cho riêng mình đến tự do đi tìm một cuộc sống tốt cho đồng bào, đồng loại, mà theo Socrate đã dẫn luận đây chính là tự do tới từ khả năng của nhân tính muốn : "một cuộc sống tốt phải luôn cao hơn một cuộc sống hạnh phúc", vì cuộc sống tốt vừa có cuộc sống hạnh phúc, lại vừa có có thêm công lý vì công bằng. Đây chính là nhận thức của các chủ thể trong các phong trào thiện nguyện dụng tự do chia sẻ vật chất và tình thương để chế tác ra tự chủ chia phần cho nhau lấy từ thiện mà bồi đắp cho công lý, để đấu tranh cho công bằng, trong một xã hội có nhiều triệu phú, tỷ phú bằng ngoại tề phương tây, nhưng đa số chỉ là trọc phú, trong vô tri vì vô giác trước cảnh cực, nghèo, đói, khổ của đa số đồng bào của họ.

Tự do căng tự chủ vì tình người xác nhân từ do là là tôn vinh cái đúng, mong cầu cái đẹp, là trân quý cái cao, trong đó ham muốn cũng như đam mê không còn lẫn trốn trong ích kỷ, mà là động lực của đạo lý có nhân lý, động cơ của đạo đức có nhân phẩm. Một tự do muốn xác nhân từ do trong xã hội việt nam hiện nay để xác chứng rồi xác minh nguồn gốc của bất bình đẳng mang nội chất của bất công, tới từ một bạo quyền đang cai trị đồng bào, đất nước, xã hội, bằng độc tài qua độc đảng mà không hề quản trị giáo dục, văn hóa để bảo đảm đạo lý dân tộc, đạo đức cộng đồng, luân lý tập thể.

Tự do căng tự chủ vì tình người là phương trình thông minh-thông đạt-thông thái để chống lại cai trị của bạo quyền, để bảo vệ được quản trị vì nhân quyền !

Tự do song hành cùng tự chủ vì đúng !

Tự do vì tự chủ giúp hành động tự chủ từ quyết tâm qua quyết đoán để lấy quyết định đúng lúc, đó là trường hợp của đồng bào xã Đồng Tâm, đã chặn đứng và bắt giữ (tạm thời) bọn công an được chính quyền gởi tới để đàn áp họ ; trong khi họ đấu tranh rất chính đáng để bảo vệ đất của họ đã bị bọn lãnh đạo của bộ quốc phòng đã đi đêm với bọn thầu buôn Vittel, để cướp đất họ. Phương trình quyết tâm đúng-quyết đoán trúng-quyết định chắc đã được cả nước ủng hộ, và đồng bào xã Đồng Tâm đã lấy thêm một quyết định rất hay và rất đẹp trong năm nay tháng 5 năm 2018 này để kỷ niệm một năm sau sự cố này. Một biến cố tích cực để xác nhân từ do đấu tranh của phong trào dân oan.

Tự do vì tự chủ hướng tự chủ từ cả quyết qua dấn thân để đấu tranh bền bỉ, đó là trường hợp của đồng bào Dương Nội, với biểu tượng Cấn Thị Thiêu, dũng cảm nhân từ đầy, bất khuất trong lao lý của bạo quyền, với nhân phẩm chắc và vững của một hành động tự do mà thế giới đã thấy được, đã nhận ra hùng tính của Việt tộc, qua hùng khí của các bà con Dương Nội. Trên lý lịch họ đa số là nông dân, lao động bình thường, nhưng chính qua tự do đấu tranh mà họ đã là ngọn cờ đầu trong phong trào dân oan ngày càng được thế giới ủng hộ. Chính họ đại diện cho liêm sỉ Việt, chớ không phải bọn lãnh đạo ma só cướp đất họ, thông đồng với bọn ma bùn chủ thầu đất, cướp đất để xây nhà rồi bán lại với giá cắt cổ. Cả hai loại ma này, chúng không có lương tri vì không có lương tâm, khi ôm tiền bỏ chạy ra nước ngoài, chúng chỉ biết cúi đầu, lủi nhủi như âm binh thôi, vì chúng là ma mà !

Tự do vì tự chủ để dắt tự chủ từ nổi giận qua nổi dậy đưa đến nổi loạn của các đồng bào trên tây nguyên, dưới đồng bằng, vì quá phẩn nộ đã dùng vũ khí mà giết những kẻ đến cướp đất, đoạt nhà của họ, vì không tôn trọng chúng không những nơi chôn nhao cắt rốn của họ, mà quên luôn là tổ tiên của dân oan đã đổ môi hôi, nước mắt để được các mảnh đất này. Nhưng nổi giận đưa đến nổi loạn có thể giết chính nghĩa của tự do. Biết bảo vệ chính nghĩa của tự do là biết đấu tranh bền vững vì tự do, đây là sự trưởng thành sáng suốt và tỉnh táo của các phong trào dân chủ và nhân quyền của Việt Nam trong những năm qua. Chọn bất bạo động song hành cùng đấu tranh ôn hòa, chọn đối thoại để tranh luận, chọn đàm thoại để đàm phán, là nội chất thông minh của hành động tự do, vừa có chính nghĩa vừa có lý trí, vừa có trí tuệ trao luận vừa cho tuệ giác truyền luận.

Chính tự do đủ nội lực để bảo vệ dân chủ, trong hòa bình và trong hòa khí, mà độc tài và bạo quyền không sao làm được, nên triết gia Habermas đã chế tác ra chủ thuyết : đạo lý truyền thông không những để đối thoại mà còn nâng bản lỉnh của dân chủ, làm được các chuyện phi thường là tiếp nhận tất cả đạo lý vì cái tốt, tất cả lý luận vì cái đúng để cùng nhau hẹn tại một giao điểm của tất cả các chân trời, các tương lai, tên của nó là : fusion des horizons.

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết khẳng định sự thông minh của nhân loại tới từ sức mạnh của lý trí tự do, được chế tác ra từ các trải nghiệm, các kinh nghiệm, các thử thách, các thăng trầm mà lý trí đã tiếp thu được sự thực để nắm chân lý, lấy biết lẻ phải. Chính lý trí đã dắt tư duy, đã đưa suy quyết vào sung lực của tự chủ.

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết khám phá sự thật để lột mặt nạ các chiêu bài xảo trá, chẳng hạn như chuyện chống tham nhũng, được mệnh danh là chiến dịch đốt lò của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng cộng sản Việt Nam, nhưng thực chất chỉ là chuyện tranh giành quyền lực để thu tóm quyền lợi giữa các nhóm lợi ích, mà thực chất chỉ là những mafia, sống theo phản xạ đám, đàng, bầy như âm binh, chọn lãnh địa đảng để thao túng toàn xã hội, bòn rút tới cạn kiệt tài lực của quốc gia, nguyên khí của Việt tộc. Chúng cướp quyền lực trước để cướp của dân sau, thanh trừng nhau trước trong nội bộ để dễ dàng thanh toán chuyện trộm, cắp, cướp, giật tài nguyên đất nước, tiền tài dân tộc, vốn liếng xã hội sau đó.

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết trong phân tích, trong giải thích chứng minh được độc tài dựa độc đảng để có độc quyền, để tiếp tục được lạm quyền, thì không sao diệt được tham nhũng. Và, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có thể diệt tham nhũng của phe đối phương, của các đối thủ, của các nhóm thù địch chống hắn, và hắn không sao diệt được tham nhũng trong chính nhóm của hắn, đang "ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu" với hắn. Bao trường hợp Lê Thanh Hải nguyên thành ủy thành Hồ, thì Thân Đức Nam, phó chủ tịch văn phòng quốc hội, vừa tham nhũng đất đai, vừa lấy tiền của của đất nước, với nhiều dã thú khác nữa, bao giờ thì chúng bị truy tố ra pháp luật ?

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết để lột mặt nạ các thỏa thuận ngầm, các thỏa hiệp lén, các thông đồng đi đêm bất-chính-vì-bất-lương của các mafia đang chia chát quyền lực để chia phần quyền lợi, để trục lợi, để nạo ruột các công trình của chính phủ. Với chính sách cướp đất giữa ban ngày qua đạo luật quái thai : "đất là sở hữu của toàn dân", "do chính phủ quản lý" và tất nhiên là "do đảng lãnh đạo", trong đó người dân chỉ có quyền "sử dụng đất", "theo thời hạn", và đất giờ thành các miếng mồi để các dã thú với thú tính của mafia cấu kết với nhau để cướp đất của dân.

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết để vạch mặt bọn dã thú thứ nhất là các lãnh đạo dùng chiêu điểu "đổi đất lấy hạ tầng" để trao các miếng mồi đất qua tham nhũng, cho loại dã thú thứ hai là các chủ thầu trách nhiệm làm hạ tầng trong dối trá và xây dựng cao ốc trong man trá với giá nhiều hàng trăm lần so với giá đến bù cho dân.

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết để có độc lập trong suy nghĩ là các lãnh đạo bộ công an, bộ quốc phòng, bộ tài nguyên và môi trường chính là các dã thú chúa : có quyền lực trong chính sách ln trong quy hoạch, có quyền lợi trong xóa nhà dân đen ln trong xóa sổ dân oan, để được giành phần rồi chia lời.

Lý trí của tự do luôn biết lột trần sự thật.

Tự do giúp tự tin cõng dân chủ

Tự do cõng tự chủ mang sự sáng suốt là nếu muốn thay đổi thế giới, trước hết phải biết thay đổi mình, rời bỏ ích kỷ để tiếp nhận nhân từ, rời bỏ cái tôi tự cung tự cấp để đón nhận cái chung trong chuyện lợi ích chung, biết chia sẻ công bằng để sống chung trong công lý.

Tự do cõng tự chủ đưa sự tỉnh táo phải rời cái tôi của ao nhà, nếu cần rời luôn cái ta của ao làng, để thấy được đại dương, cùng lúc hiểu được các quan hệ giứa các châu lục, để thấu sự vận hành của trái đất, của thế giới. Xa hơn nữa, là sự vận hành của vũ trụ, đó là tự do biết : đẩy cổng để ra đi, rời nhà để đi xa, xa làng để gặp các làng, các quốc gia, các châu lục khác, xa, lạ, để khai thị rồi khai minh cho chính mình bằng cách học tự do của thiên hạ để phát huy tự do cho chính mình.

Tự do cõng tự chủ chứng thực khi nhân loại sáng tạo ra phạm trù tự do là để bó buộc các sinh hoạt chính trị phải được đúng hơn, tức là được đạo đức hóa hơn, để lãnh đạo chính trị phải làm việc trong luân lý của trách nhiệm và bổn phận và sống trong đạo lý đạo đức hay, đẹp, tốt, lành cùng với đồng bào mình. Từ đó quyền lực phải nhận trọng trách là phát huy tự do cho mọi công dân, nếu quyền lực không làm được chuyện này thì nó chỉ là tà quyền.

Tự do cõng tự chủ nhận rõ lịch sử của nhân loại, và sắc nhọn nhất là triết học cho ra đời phạm trù của tự do chính là thông minh của lý trí, tạo nên trí tuệ, thí dụ điển hình là ngay trên cổ sử và cổ triết của Hy Lạp là một xã hội có nô lệ và đã bóc lột nô lệ, nhưng thông minh của lý trí đã biết chế tác ra tư duy tự chủ để làm nên các lý luận về tự do, mà còn sáng tạo ra cả một tư tưởng về dân chủ.

Tự do cõng tự chủ thấy để rõ trong hiện sử trong bây giờ và ở đây trong sinh hoạt chính trị với chuyện lạ là tự do trở nên sắc nhọn ngay trong các thể chế độc tài, ngay trong các chế độ toàn trị, mà không một ý đồ chính trị nào có thể giới hạn tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc trên con đường đi tìm nhân phẩm.

Tự do cõng tự chủ hiểu rõ trong mạng xã hội qua internet, trong đó các tin tức, các truyền thông, các sự cố ngoài vòng kiểm soát của chế độ độc đảng, của thể chế độc quyền, trước bị xem là ngoài lề, nhưng giờ đã trở thành chính thống, vì nó không bưng bích, không tuyên truyền, không tráo luận, không giả dối. Trên mạng xã hội qua internet, lại còn đi xa hơn tin tức và truyền thông về sự thật của sự cố, mà nó còn là nơi hội tụ các đòi hỏi, các phong trào, các đấu tranh vì tự do, muốn tự do. Chính quyền độc đảng ngăn chặn nó, cấm đoán nó, truy hảm internet vì nó đứng chung không những phía sự thật, mà còn biết đúng về phía lẽ phải để bảo vệ các nạn nhân của bạo quyền : nó biết đứng về phía nước mắt !

-------------------

liberté05

 Phần 6

Tự do khung tự chủ bằng tất yếu

Tự do khung tự chủ vì tự do vô cùng thận trọng để song hành dài lâu với sự sống, với nhân phẩm, với môi sinh ; chính tự do của lý trí là khung đã thành khuôn cho mọi quyền hạn và giới hạn, để tự chủ được chấp đôi, chấp lứa với tự do, không những vì nhân sinh và còn vì nhân tính nữa, nên ta phải làm rõ các hệ luận sau đây :

Tự do không tất yếu, như giết người không phải là tự do, khi nó hủy tự do được sống của người khác ; nên tự do có khung là công lý, mang nội lực của pháp lý, giúp pháp luật được quyền ngăn chặn các tự do không tất yếu đe dọa sự sống.

Tự do không bó buộc, như dùng bạo quyền để áp dụng bạo lực với đồng loại, bạo hành với đồng bào, để đàn áp cá nhân, tập thể, cộng đồng, xã hội, khi họ sử dụng quyền phát biểu, quyền tuyên bố, quyền biểu tình, quyền phản kháng, quyền bất tuân… để chống lại tà quyền đang đe dọa sự sống và đang chà đạp tự do.

Tự do không ràng buộc, như độc đảng dùng độc quyền qua độc trị trong độc tài để đàn áp, để bắt bớ, để bỏ tù, để tuyên án, để tra tấn, để hủy diệt các nhà hoạt động vì dân chủ, vì nhân quyền, để tiêu diệt quyền sử dụng tự do của họ.

Tự do không bắt buộc, như chính quyền đã áp đặt chế độ công an trị trên toàn xã hội dân sự, để mặc công an tra tấn, giết người ngay trong đồn công an. Mà chính lực lượng công an này có kẻ, có nhóm, có đàng, có bầy, có đám, có đảng… đã liên kết với các tầng lớp tội phạm của xã hội đen để đàn áp dân oan, thao túng dân đen, trấn áp dân chúng. Chúng cùng lúc thông đồng với các lực lượng côn đồ, du đảng, cướp bóc để buôn lậu, trực tiếp hay gián tiếp tha hóa, đồi trụy toàn bộ xã hội. Có cả các tướng công an tổ chức đánh bạc lận qua mạng truyền thông, với các ván bạc lên hàng ngàn tỷ, mà bộ phận kỹ thuật đầu não nằm ngay trong bộ công an.

Chính tự do khi muốn bảo vệ tự chủ thì phải đứng lên, để nhìn rõ, để nổi dậy chống các loại tự do bừa bãi đầy độc tố của bọn âm binh ẩn nấp trong quyền lực đang ung thư hóa xã hội, đang đưa vi trùng độc để gây trọng bịnh trong ngay đạo đức của Việt tộc, đang tìm cách xiết cổ các hành vi chân chính, các hành động liêm chính của tự do.

Tự do thuộc tự chủ trong chính lý

Tự do thuộc tự chủ của hệ đạo, nơi mà đạo lý và đạo đức làm nền cho luân lý qua trách nhiệm và bổn phận với đồng loại, với tha nhân ; luôn để cá nhân được quyền chọn lựa. Từ đây, nền luân lýquyền chọn lựa được hội tụ, không hề rời nhau, vì nếu không có quyền chọn lựa thì sẽ không có luân lý.

Tự do thuộc tự chủ của hệ lý, có lý luận để chỉnh lý, có lập luận để hợp lý, có giải luận để diễn luận từ gốc tới nhọn, từ nguyên nhân tới hậu quả. Có lý của tự do, thì phải xác nhận luôn cứu cánh của tự do là giải quyết để giải phóng kiếp nạn nhân, phải xác minh luôn phương tiện của tự do qua các công cụ có chính nghĩa vì có nhân đạo. Cách nói "cứu cánh biện minh cho phương tiện" chỉ là cách nói của kẻ nếu không muốn tự sát thì chóng chầy cũng trở thành sát nhân.

Tự do thuộc tự chủ của hệ chí (ý chí, quyết chí) để làm đời sống khá hơn, làm cuộc sống đáng sống hơn, nếu đạo lý và đạo đức làm nền cho luân lýkhuôn, mà có lý luận để chỉnh lý, có lập luận để hợp lý, có giải luận là khung, thì chính ý chí, biến quyết tâm thành quyết chí trong hành động dài lâu và bền vững trong đấu tranh vì tự do.

Tự do thuộc tự chủ luận phải dựa trên luân lý, có hành động cụ thể qua ý chí, đây chính là cơ sở lý luận của triết phân tích (philosophie analytique) khi mà đạo lý được chỉnh lý trong lý trí thì định nghĩa về tự do sẽ làm trí tuệ cho hành động của tự do. Chính phương trình luận-luân lý-ý chígốc, rễ, cội, nguồn cho mọi hành động của tự do, được thể hiện không những trong thực tế còn là lý tưởng của tự do trong đấu tranh.

Tự do đúng lúc, tự chủ kịp thời

Tự do đúng lúc, tự chủ kịp thời biết dựa trên ngẫu nhiên tạo ra đột nhiên có sự hiện diện một ẩn số lạ, một hàm số ngầm, sinh ra một hằng số mới. Chính sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật quá nhanh, quá chớp nhoáng, làm đảo lộn quá trình bình thường và chậm chạm từ nguyên nhân tới hậu quả của mọi thói quen và phản xạ. Để vào hẳn hiện đại hóa, đó là trường hợp của Nam Hàn, đã lấy kinh nghiệm của Nhật Bản, để thành công trong các công nghiệp hiện đại sắc xảo nhất. Một chính quyền sáng suốt có tự do, được quyền ngừng khai thác công nghiệp thép diệt môi trường, mà càng ngày giá lại càng thấp, không chịu đựng được chuyện cạnh tranh quốc tế về chất lượng thép, thì chính quyền này phải biết nhập cuộc vào quy trình mới, cùng lúc bỏ hẳn quá trình đi từng bước (quá) chậm, có ảo tưởng là từng bước vững chắc nhưng thật ra là đã quá lỗi thời. Đây là sai lầm kiểu thui chột của tổng bí thư Lê Duẩn, từ Đại hội 4, năm 1976, mà hệ lụy còn kéo dài tới nay với các lãnh đạo không biết khai thác tích cực ngẫu nhiên, không biết khai sáng đột nhiên để đột phá, để thay đời đổi kiếp số phận dân tộc bằng tri thức của hiện đại hóa mà các lãnh đạo Trung Quốc đã hiểu rất rõ từ Đặng Tiểu Bình tới nay.

Khai thị phương trình đột nhiên để đột phá là sự thông minh của tự do ! Vì tự do như mọi chuyện khác trên đời này, đều là chuyện : mức độtrình độ, mà khi hiểu tự do một cách thấp và cạn thì chỉ có tự do đi làm công, làm lao nô cho láng giềng. Khi hiểu tự do một cách xấu và tục thì chỉ biết tham quyền để tham nhũng, đưa đẩy đất nước xuống vực, xô đẩy dân tộc vào cõi diệt vong. Ngược lại, khi hiểu tự do một cách cao và đẹp là sử dụng văn minh của nhân loại để cũng cố quyền tự do giải phóng số kiếp tồi và dở của mình, thì sẽ chiến thắng trong tự do !

Chuyện thích ứng hóa với các tiến hóa của nhân loại để sở hữu hóa các tiến bộ của khoa học và kỹ thuật -đúng thời, đúng lúc- là một thông minh rất nhạy bén của tự do : tự do học hỏi để có tự do hiểu biết, dùng tự do kiến thức để dựng tự do ý thức, từ đó đi tới tự do đầu tư, tự do sản xuất, tự do thương mại, tự do kinh doanh

Nội công của tự do luôn là giải phóng để đổi đời, luôn là tiến bộ để pháp triển, lấy văn minh để phục vụ nhân văn, lấy nhân trí để phụng sự cho nhân lý !

Tự do xa ân huệ, tự chủ tránh ân xá

Tự do xa ân huệ, tự chủ tránh ân xá, vì tự do tránh nhận sự ban bố bởi một đấng tối thượng, bởi một chính quyền, trong đó cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc chỉ biết chịu đựng để rồi chờ được tha thứ, đó không phải là hành động của tự do !

Khi đấu tranh vì tự do, kẻ yêu tự do không cần được tha thứ hay tha tội, vì kẻ đó có làm tội gì đâu mà tha ! Chính độc tài, bạo quyền, tham nhũng… mới cần được dân chủ, nhân quyền, pháp lý tha thứ. Chuyện ân huệ hay ân xá hoàn toàn xa lạ với ý muốn tự do, với ý định tự trọng, với ý lực tự chủ, với ý chí tư tin, vì thế nên tự do luôn đi trên lưng loại pháp luật đã bị thao túng bởi độc tài ; hơn thế nữa tự do còn đi trên vai của bạo quyền đã dùng tòa án để lao lý hóa tự do một cách bất chính ; thậm chí tự do còn đi trên đầu các bầy lãnh đạo âm binh dùng tuyên truyền để ngu dân hóa để chụp mũ, để vu khống các lý tưởng vì tự do.

Đừng đánh lận con đen bằng ân huệ hay ân xá ! Vì kẻ đấu tranh vì tự do biết cái giá phải trả qua can đảm của dấn thân, chấp nhận cả chuyện thiệt thân, thậm chí còn biết xả thân trước tà quyền buôn thần bán thánh, trước bạo quyền buôn dân bán nước, trước độc quyền sâu dân mọt nước.

Ân huệ hay ân xá ! Khoan hồng giảm tội ! Đây là các loại ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp rất "buồn cười" trước các lý tưởng của tự do, và rất "nực cười" trước các trách nhiệm vì tự do. Không hề có hệ quả hay hệ lụy gì giữa chuyện đấu tranh vì tự do và chuyện tha thứ vì đã phạm lỗi hay phạm tội khi kẻ đấu tranh cho tự do, khi đã sử dụng quyền tự do của chính mình để giải phóng mình ! Các lời lẽ ân huệ hay ân xá, khoan hồng giảm tội... tà ngữ của một pháp luật trá hình, giả mạo để gian trá ngay trong thuật ngữ : ântội, tại sao ? Vì chỉ có chính nghĩa của tự do mới được quyền giảm tội hay tha tội cho bạo quyền !

Tự do xa ân huệ, tự chủ tránh ân xá chỉ vì trong thực tế xã hội chỉ có : du đãng, côn đồ, trộm cướp… và nhất là đám tham quan đã tham nhũng, đã biển thủ của công, đang làm hao mòn sinh lực dân tộc, chúng mới cần xin xỏ được ân huệ hay ân xá, bởi vì tất cả đám người này thuộc diện hình sự. Họ chỉ muốn hưởng lạc tức khắc, và sẵn sàng đe dọa người để lấy tiền của, để được sa đọa trong trụy lạc, thậm chí họ có thể làm chuyện giết người, diệt cuộc sống. Khi bạo quyền bắt bớ, bỏ tù, giam hảm các nhà hoạt động dân chủ, các nhà đấu tranh vì nhân quyền cùng với nhóm người thuộc diện hình sự, thì chính bạo quyền này đang gây ra một tội ác ! Và, tội ác này thì công pháp quốc tế sẽ không bỏ qua, vì quyền đấu tranh cho tự do là một giá trị thiêng liêng, nó thiêng liêng ngang với tất cả các giá trị (tinh thần hoặc tâm linh) được coi là thiêng liêng nhất !

Phản diện của tự do : vô cảm

Tự do sinh tự chủ để giữ nhân bản, chính nhân bản quyết định chất lượng cuộc sống mỗi cá nhân khi nhận sống chung với gia đình, với thân tộc, với tập thể, với cộng đồng, với dân tộc, với đồng loại là sống để xây, để dựng, chớ không phải để phá để hủy. Đây là chuyện hằng ngày của Việt tộc, có kẻ dùng tự do của mình một cách vô tri để vào con đường nghiện ngập, dắt tới trộm cướp, có khi đưa tới chuyện giết người.

Loại tự do vô tri này giết người hai hại người đưa tới vô nhân, nó hoàn toàn ngược lại với tự do có ý thức, lại còn biết dấn thân, chấp nhận hiến thân, nếu cần trong hiểm nghèo phải xả thân, đó là trường hợp của các chủ thể tự do, mà đồng bào ta gọi là các : hiệp sĩ, cứu các nạn nhân ngay trên đường phố trước các tệ nạn xã hội hiện nay bắt kẻ trộm, chặn bọn cướp. Trong khi công an, cảnh sát chỉ biết hối lộ trên đường phố, tham nhũng trong xóm làng, cùng lúc mù quáng làm công cụ cho bạo quyền để đàn áp dân oan, để trấn áp dân đen, để đe dọa dân chúng, mà cả dân tộc đang lãnh chịu đầy dẫy bất công trong xã hội. Nhưng công an, cảnh sát lại vắng bóng ngay trong xã hội để bắt kẻ trộm, chặn bọn cướp, có khi còn thông đồng, ăn chia với bọn xã hội đen để kiếm chác, chia lời trong các hành vi bất chính.

Trong một xã hội đầy bất công, có đầy bạo lực, mà đa số cá nhân đã chọn vô cảm, mà chưa chọn hành động tự do để tự giải cứu mình ra khỏi các tệ nạn, cùng lúc giải phóng mình ra khỏi bạo quyền. Vô cảm tới từ vô tri, trở thành vô trí trong vô minh trước con đường tiến hóa của nhân loạinhân bản, của nhân trinhân đạo, của nhân trínhân phẩm. Chính nó là phản diện của tự do, vì nó cúi đầu để làm ngơ trước thảm họa của đồng loại, vì nó khoan tay để câm nín trước các bất công, vì nó đã quỳ gối trong nghẹn họng trước bạo quyền.

Tự do trong tự chủ vì chánh tuệ

Tự do sinh tự chủ để giữ nhân lý trước sự thật, chính tự do tư duy trong tự chủ để suy nghĩ giúp chúng ta nhận thức được sự suy thoái đạo lý trong phật lý của phật giáo hiện nay trên toàn lãnh thổ Việt nam. Không còn dũng khí đấu tranh vì tự do của phật pháp, mà chỉ xây chùa để buôn thần bán thánh, lại còn cổ súy luôn cho các phong trào mê tín dị đoan để làm tiền, trong phong trào làm chùa để làm giầu.

Từ thượng tọa tới hòa thượng mà không nói nổi được điều cứu nhân độ thế, bằng tâm từ bi, để xóa đi nỗi khổ niềm đau của chúng sinh, mà chúng sinh trước mắt họ là : dân oan, dân đen. Họ sừng sững đó, gào than trong khổ ải khi bị cướp đất, phá nhà, mà các sư "giả vờ" như không thấy, không có. Nhìn mà không thấy, thì làm sao có chính kiến để có chính ngữ, thì làm sao có chánh định để có chánh tuệ, thì làm sao có chính tâm để có chánh niệm.

Chúng ta không đòi hỏi các sư phải "tự thiêu"sự thật, vì chân lý, vì lẽ phải, vì phật pháp như ta đã thấy qua các phong trào phật giáo, từ Thích Quảng Đức tới Nhất Chi Mai. Nhưng chúng ta có tự do để yêu cầu họ phải giữ phật cách để bảo vệ chính nhân cách của chính họ : đừng tìm tiền bất chính để làm giầu qua cửa phật, để truy hoan lén lúc qua dục vọng, từ nghiện ngập rượu bia dẫn tới tham ô trong dục loạn.

Sư hổ mang hay sư công an, sư kinh doanh hay sư thương mại nếu họ muốn có chánh tuệ thì bất cứ lúc nào họ cũng có năng lượng của tự do để liêm chính hóa hành vi tồi tục của họ, nếu họ muốn muốn có chánh kiến thì bất cứ lúc nào cũng có tự do liêm sỉ hóa hành động tư lợi của họ, để tiếp nhận phật cách trong nhân cách làm sư, trong giá trị tinh thần trước giá trị tâm linh chính thống của phật đạo. Nếu mất chánh tuệ họ chỉ là : âm binh ẩn nấp bóng chùa ! Và trong xã hội Việt hiện nay, họ thua xa (vì quá thấp kém) trước cách hành đạo của các phong trào công giáo (thiên chúa giáo), từ cha tới con chiên, dùng tự do để chống lại ô nhiễm môi trường do Formosa và nhiều công nghiệp khác của tàu tặc đang hủy diệt môi sinh của Việt tộc.

Chính phong trào công giáo hiện nay mới đứng về phía phật pháp, mang tuệ giác của phương trình phật tính-phật tâm-phật pháp, để làm vơi đi nỗi khổ niềm đau của các đồng bào sau thảm họa Formosa. Xa hơn nữa phong trào công giáo biết đấu tranh cho nhân quyềndân chủ, chớ không phải phật giáo ! Các lãnh đạo của phật giáo hiện nay đang giả đò làm ngơ trong vô cảm trước địa ngục hiện tiền của dân đen, của dân oan, của Việt tộc.

-------------------

liberté06

Phần 7

Tự do giáo dục tự chủ nhận kiến thức

Tự do giáo dục tự chủ nhận kiến thức để gầy dựng tri thức, chế tác ý thức trong nhân tính vì nhân phẩm, đó là tự do của kiến thức liêm chính đi tìm nhận thức đúng về cuộc sống có chọn lựa trong sạch. Nhưng quá trình minh bạch này đang bị tha hóa nặng nệ về các lãnh đạo giáo dục bất tài có quyền lực qua độc tài dựa trên độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu họ sáng suốt thì họ sẽ phải hiểu : phản biện của ngu dân chính là tự do.

Tự do giáo dục tự chủ nhận kiến thức luôn được tự do qua của lý tưởng được lý trí quản lý, vì kiến thức khi trở thành ý thức mang giá trị của lý tưởng dùng kiến thức phục vụ nhân sinh, chính giá trị lý tưởng lấy kiến thức phục vụ động loại, thăng hoa nhân loại đang bị thối nát hó đến cùng cực trong một nên giáo dực đã rơi xuống vực sâu của bóng tối tráo, lừa, lận, gian với hệ giả : học giả, thi giả, bằng giả.

Tự do giáo dục tự chủ nhận kiến thức đưa đạo lý kiến thức tầm sư học đạo tới đạo đức tôn sư trọng đạo mà Việt tộc đã đúc kết thành luân lý bền vững : công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy cũng đang xa vào bùn lầy. Với bao tệ nạn giáo dục : trò uy hiếp, bạo hành thầy cô, và thầy cô cũng tra tấn học sinh (chửi, dọa, đánh…), bắt uống nước giẻ lau bảng, bắt phạt tiền, còn bắt học thêm để tạo thu nhập riêng cho mình mới có điểm cao trong lớp. Tất cả chỉ vì giáo dục bị lãnh đạo bởi một đảng rất sợ, rất ngại một nền giáo dục với tự do chân chính của nó dựa trên thế kiền ba chân : sự thực của nhân tính, chân lý của nhân phẩm, lẻ phải của nhân đạo mà không ngu dân được qua tuyền truyền sống sượng. Tất cả cái giả tạo sẽ tạo ra một nền cảnh giáo dục quái thai : vừa tha hóa kiến thức, vừa đồi trụy hóa tri thức, mà lỗi lẫn tội tới từ các lãnh đạo giáo dục từ bất tài nên bất tín và sẵn sàng bất chính ngay trong trách nhiệm trao truyền kiến thức từ sứ mạng giáo dục của chính mình.

Tự do giáo dục tự chủ nhận kiến thức chính là tự do được sống và lao động bằng kiến thứctri thức của mình, được làm trí thức qua ý thức của chủ thể có trách nhiệm với giáo dục, có bổn phận với các thế hệ của mai sau, trong nhận thức mỗi cá nhân giáo dục là cá thể có kiến thức chân chính. Đây lại là một cạm bẫy khác trong địa ngục giáo dục không giáo dưỡng nhân tính, cũng chẳng giáo hóa nhân sinh. Tại sao lại có các tiến sĩ tự xưng là chuyên gia trong một chuyên nghành với một chuyên môn qua một chuyên khoa mà không có công trình nghiên cứu, lại còn lẫn tránh các hội thảo, hội luận, hội nghị về chính chuyên đề của mình ; vì bọn quen thói tiền gian bạc lận không bao giờ có chỗ đứng đàng hoàn, tử tế trong giáo dục, trong khoa học. Sự thật là nền giáo dục việt nam hiện nay đã để cho bọn gian lận mua bằng bán cấp lọt vào để làm chuyện mua chức bán quyền qua bằng cấp, có học vị lẫn học hàm mà thật là quái thai là : không có học lực !

Tự do dâng tự chủ trong truyền thông

Tự do dâng tự chủ trong truyền thông vừa giữ nhân lý của kẻ đưa tin, vừa giữ nhân cách cho kẻ nhận tin, đây là chính là nghĩa vụ học của nghành báo chí có lương tri làm báo, vì có lương tâm bảo vệ tự do được thông tin đúng sự thật. Và báo chí việt nam hiện nay không có tự do trao truyền sự thật qua truyền thông ! Mà mỗi ngày mỗi ký giả phải nhận lệnh tới từ chủ nhiệm, và chính chủ nhiệm cũng nhận lệnh ngay thượng nguồn qua một "tổng biên tập chung"Ban tuyên giáo với quyền độc đoán : vừa truyền lịnh vừa đe dọa, vừa định hướng vừa kiểm duyệt, vừa thao túng tin tức vừa đổi trắng thay đen ngay trên sự thật của dữ kiện, của chứng từ trong thông tin. Quá trình kiểm định để kiểm duyệt này tác động trực tiếp lên tới nghiệp phận làm báo của các ký giả, phóng sự viên... Vai trò quái thai "tổng biên tập chung" là Ban tuyên giáo của trên dưới một ngàn cơ quan thông tin, báo chí, truyền hình... được bảo kê bởi Đảng cộng sản Việt Nam, dùng độc đảng để độc quyền thao túng truyền thông, sẵn sàng đóng vai trò cường quyền trong truyền thông và bạo quyền trong tin tức. Nó dùng bắt bớ, bỏ tù, khảo tra, lao lý hóa với tất cả đối tượng tự do chỉ muốn thông tin vì sự thật, trong một xã hội việt nam hiện nay mà từ kẻ viết báo tới kẻ đọc báo hoàn toàn không có tự do.

Tự do dâng tự chủ trong truyền thông chống lại không những hành vi kiểm duyệt của bạo quyền, bằng lòng quả cảm của mình chống lại hành vi tự kiểm duyệt do nổi lo sợ bị trừng phạt bởi tà quyền. Chống đối để bảo vệ sự thật, đề kháng để bảo trì chân lý, đấu tranh để bảo quản lẻ phải, chính là nghĩa vụ học của tự do, tự do thông tin trong tự do truyền thông không sợ kiểm duyệt, kiểm tra, trong cái trò "kiểm thảo" của cường quyền không dám trực diện để áp dụng đạo lý truyền thông là 3Đ : đối thoại cho sự thật, đối lý vì chân lý, đối luận vì lẽ phải. Tự do đòi hỏi minh bạch trong đối thoại về dữ kiện, minh chứng trong điều tra, minh luận trong chứng từ.

Tự do dâng tự chủ trong truyền thông chống lại quy trình truyền lệnh-tuân lệnh-hành lệnh của bồi bút, của văn nô, vì chúng vừa cười nhộn vừa cúi đầu để nhận bổng lộc ; vừa vui vẻ vừa khoan tay tuân thủ bạo quyền để nhai nuốt đặc lợi ; vừa làm ngơ vừa quỳ gối để sấp mặt thâu tóm tư lợi. Từ vong thân tới vong nghiệp, tự tha hóa qua gian lận tin tức, vì có kẻ còn dùng nghề làm báo của mình để đâm thuê chém mướn qua bôi nhọ, chụp mũ, vu khống những ai lương thiện khi chúng nhận được nhiều tiền của các kẻ bất lương. Tự do làm tay sai vì tự lợi, đi ngược lại lương tâm nhà báo ; đây là loại phản phúc chống lại tự do truyền thông vì nhân phẩm, vì bọn này đã đánh mất đi một tự do cao quý nhất trong các tự do là : tự do trao tin vì sự thật, truyền tin vì chân lý và đưa tin vì lẽ phải !

Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức

Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức, trong đó nhân lý phát huy kiến thức, trong đó nhân tri biết dựa vào nhân trí để có sung lực bảo vệ tính tự chủ của cá nhân, của cộng đồng, của tập thể, của dân tộc… Tất cả quá trình này đều được nhận diện trong các phong trào đấu tranh của dân oan tới các phong trào đòi hỏi dân chủ và nhân quyền trước bạo quyền độc đảng.

Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức khi lý trí hiểu tình thương, hiểu từ nguồn gốc của tình thương đồng loại tới hiệu quả cùng hậu quả trong tình thương này, chính là năng lượng của lý và thức trước các điều kiện của nhân sinh (có khổ đau và có hạnh phúc), từ đó hiểu nội chất của hai thái cực này trong nhân thế để tạo hạnh phúc và xa rời khổ đau. Ta thấy rất rõ quá trình này trong các phong trào thiện nguyện cho tới các phong trào bảo vệ các nạn nhân của trộm cướp trên đường phố do các hiệp sĩ thật sự liêm chính, những phong trào tự phát từ lương tri của các chủ thể tự do trước sự bất tín và bất tài của chính quyền độc đảng.

Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức đưa lý trí lên hàng đầu, hạng ưu tiên để chọn lựa, để quyết định, để hành động, tự do này chống vô cảm để dẵm lên sự hèn nhát, vì trước hết nó chống vô nhân để đạp lên sự thối nát, không chấp nhận một lực lượng công an, cảnh sát, lên hàng triệu người, mà xã hội đen giữa ngày thao túng dân lành, mà chính chính quyền qua hệ thống công an lại thông đồng, giao kết, và giựt dây xã hội đen để khủng bố dân oan, dân đen, dân lành

Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức để cụ thể bảo vệ cá nhân, gia đình, dân tộc, nhân loại qua công bằng, công lý, công pháp, chính đây sự thông minh qua lý và trí để thăng hoa các phong trào xã hội đi tìm và sẵn sàng đấu tranh vì tự do. Các phong trào dân oan ngày càng được dân tộc hóa và cả nước đều biết, chia sẻ, đồng cảm, song song với đấu tranh vì dân chủ của nhiều phong trào vì nhân quyền ngày càng được thế giới hóa được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức nhân đạo quốc tế, ngay cả Liên Hợp Quốc, các châu lục đã có tự do. Điều phải nhận định về chính trị học và xã hội học là hành động tự do đấu tranh vì nhân quyền không bao giờ bị cỏi rẻ, xem thường, bỏ rơi, bỏ quên mà nó luôn được tôn vinh, và nó ngày càng được tôn vinh hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong cũng để chống diệt chũng, trước họa xâm (xâm lấn, xâm lăng, xâm lược) mà trong bối cảnh lịch sử lâu đời của Việt tộc và đang tiếp tục diễn ra trong hoàn cảnh hiện nay của Việt tộc thì đó là tầu họa, với ý đồ của tầu tặc, bằng thâm ý của tầu man. Mà man tính trong man rợ có từ tính toán tới hành động, cướp trắng trợn đảo biển việt cùng lúc gây ô nhiễm qua công nghiệp đầy độc chất của chúng đang đầu tư và khai thác ồ ạt ngay trên lãnh thổ việt, với sự thông đồng của các lãnh đạo đã bán nước để trục lợi.

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong trước mắt là chống lại chuyện man tính trong man hoạt của tầu tặc có ngay trong mọi sinh hoạt đang gây ung thư hóa xã hội việt : đầu độc dân ta qua thực phẩm, thao túng hàng ngày từ sản xuất tới tiêu thụ, từ kinh tế tới thương mại, tiêu diệt nông phẩm việt để diệt nông dân việt đang có trách nhiệm nuôi cả dân tộc.

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong cụ thể là chống lại chuyện tiêu hủy công nhân việt bằng bóc lột trực tiếp từ đồng lương tới điều kiện lao động nghiệt ngã ngay trong các xí nghiệp mà người tầu được đóng vai chủ để bòn rút tài nguyên việt qua sức lao động việt. Tự do qua tự chủ chống diệt vong, với các bước đầu tiên là chống kiếp nô lệ qua hệ thống biến con người Việt thành lao nô, nô tỳ trong quá trình ô nhục của chính sách xuất khẩu lao động.

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong là sáng suốt bảo vệ toàn vẹn thân thể của đồng bào ta, trong đó ta ngăn chặn ngay các tổ chức tầu hoạn mang tất cả hệ quả của tầu tặc, tầu man để gây ra tầu họa, tầu nạn. Đó là chuyện tổ chức bắt các trẻ em việt để cướp nội tạng, buôn bán phụ nữ việt qua con đường mãi dâm ngay trên lãnh thổ tàu để thỏa mãn man tín của một xã hội tật nguyền ngay trong tư duy bất công trọng nam khinh nữ.

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong tới từ tầu nạn tức là càng sớm càng hay vạch mặt chỉ tên để lột mặt nạ các kẻ lãnh đạo đang buôn dân bán nước cho tầu tặc : chúng ta có tự do được biết mặt mũi của chúng, chúng ta có tự chủ để dùng đạo đức tổ tiên, đạo lý dân tộc, kể cả công lý của toàn dân để loại chúng, khử chúng đang ung thư hóa tâm lực, trí lực, thể lực của Việt tộc.

Tự do gốc tự chủ tìm minh

Tự do gốc tự chủ tìm minh, được tri thức luận nhận diện trong các quá trình sau đây :

- Ý thức đi tìm lý trí khi đã từng là nạn nhân của vô minh.

- Tâm thức đi tìm nhân tri khi đã từng gánh chịu vô tri.

- Nhận thức đi tìm công bằng khi đã từng cam chịu bất công.

Tự do gốc tự chủ tìm minh, được triết học chính trị nhận diện trong các quá trình sau đây :

- Vượt thoát hệ bạo (bạo quyền, bạo động, bạo hành).

- Vượt khỏi hệ độc (độc tài, độc quyền, độc đảng).

- Vượt thắng hệ tham (tham quyền, tham nhũng, tham ô).

Tự do gốc tự chủ tìm minh, được xã hội học đàm phán nhận diện trong các quá trình sau đây :

- Khả năng thay đổi trực quan khi chuyển hóa trực giác trước bạo quyền.

- Tiềm năng thay đổi hiện tại khi chuyển hóa tương lai.

- Kỷ năng biết thắng cả 3 hệ bạo, độc, thamnhân phẩm.

Tự do gốc tự chủ tìm minh, được nhân học nhận thức nhận xét rất sâu sắc trong các quá trình sau đây :

- Thông minh nắm bắt được cái duyên của các chuyện hay, đẹp, tốt, lành, biến sơ ngộ thành hạnh ngộ, để tao ngộ với năng lực tái tạo lại điều kiện thuận lợi cho việc tái ngộ, bằng tiềm năng của hệ thức (kiến thức, trí thức, ý thức, nhận thức) đưa nhân tính về hướng nhân trí của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo)

- Thông minh để minh chứng được là hành động tự do tạo được khoái cảm trong hạnh phúc, khoái lạc vì có công bằng, và nếu xóa đi các khoái cảm, các khoái lạc này tức là đang xóa đi một phần lớn các động lực tự do làm cho động cơ tự chủ thành hành động cụ thể.

- Thông minh vì ý nguyện bên trong của nhân tính luôn mong muốn thay đổi kiếp người xấu của chính mình bằng ý muốn bên ngoài ngay trong quan hệ xã hội để có một xã hội đúng hơn, một cộng đồng tốt hơn, một tập thể hay hơn, một dân tộc giỏi hơn.

Tựu chung là tri thức luận, triết học chính trị, xã hội học đàm phán, nhân học nhân thức, cùng nhau phân tích để làm rõ một mện đề : ý thức ham muốn được hưởng những chuyện đáng hưởng để có được một cuộc sống đáng sống vì được hưởng.

Tự do nuôi tự chủ bằng lực

Tự do nuôi tự chủ bằng lực trong quá trình khai thác hệ tưởng để minh bạch hóa :

- Ý tưởng biến tự do bên trong thành hành động bên ngoài.

- Ý thức đi tìm hạnh phúc khi đã từng chịu đựng khổ đau.

- Ý muốn sống trong công bằng vì đã là nận nhân của bất công.

- Ý định biến hiện tại xấu thành tương lai tốt.

- Ý lực đưa hành động tự do của mình vào ngay đời sống xã hội.

Tự do nuôi tự chủ bằng lực trong quá trình tự sáng tạo để tự hành động :

- Chống lại bạo quyền đang đe dọa, khống chế, đàn áp tự do qua bạo lực có mặt trong cuộc sống, bằng chính tri thức của tự do không nhất thiết phải dùng bạo động để giành tự do, mà có thể xua đuổi, xóa bỏ các bạo lực chống lại tự do qua phương trình thông minh của đối thoại-đối chất-đối luận.

- Chống lại bạo quyền phi nhân tính vừa tha hóa, vừa đồi trụy, lại vừa vô luân, vô nhân bằng bằng hành động tự do qua hành tác tự chủ bằng tiếng nói, bằng trần tình, bằng biểu tình, bằng đề đạt, bằng đàm phán… để xác nhận nhân quyền, quyền làm người với nhân tính, với nhân đạo.

- Chống lại bạo quyền bằng lý thuần chất của nhân phẩm vừa dựa trên nhân lý, vừa dựa trên nhân trí, làm nên phương trình hợp lý-chỉnh lý-thuần lý để tự do sánh đôi với công bằng, như tự do song hành đạo đức bảo đảm nhân tính.Một nhân tính không chấp nhận tà quyền, độc quyền, tham quyền

- Chống lại bạo quyền bằng tự chủ của lý chí, bằng quyết tâm với các lý luận nhân lý : tự do trong công bằng và bác ái, từ đó đấu tranh để xã hội công nhận đạo lý tự do-công bằng-bác ái vừa như nguyên tắc, vừa như khuôn mẫu cho mọi hành động xã hội, từ chính quyền tới cá nhân, từ tập thể tới cộng đồng… luôn biết lấy tự do làm động lực cho văn minh của dân tôc..

- Chống lại bạo quyền bằng tự do đến từ nhân lý, có ngay trong nhân tính, xuất hiện từ nhận thức về nhân phẩm, ở ngoài các quy luật nhân quả của hoàn cảnh, vì tự do đến từ tư duy của con người dựa trên nhân luận được hổ trợ bởi đạo lý, đạo đức, của nhân đạo, tức là không phải chờ mình phải là nạn nhân của bạo quyền rồi mới đấu tranh cho tự do của mình.

Chính tự do nuôi tự chủ bằng lực của nhân nghĩa, biết rời bản năng ăn tươi nuốt sống tức là giết để ăn, để nuôi thân, để được tới bản thể ăn ở có hậu, có ngày mai được chung sống qua công bằng với đồng loại, như cá thể có thông minh tôn trọng nhân loại, trong hùng lực của chủ thể có trách nhiệm với cộng đồng, có bổn phận với đồng bào, đồng loại.

-------------------

liberté07

Phần 8

Tự do cùng tự chủ nuôi đức

Tự do cùng tự chủ nuôi đức trong một không gian đức của chung sống trong công bằngbác ái trong đó tự do biết :

- Nội lực của luân lý : ý thức về trách nhiệm và bổn phận.

- Sung lực của đạo lý : ý thức về chuyện hay, đep, tốt, lành.

- Hùng lực của đạo đức : ý thức về nhân phẩm đê giữ nhân tính.

Tự do cùng tự chủ nuôi đức trong một không gian đức của phương trình thấy-hiểu-thấu-nhận :

- Tự do cùng tự chủ của phải hiểu cái tốt để phải làm ra cái tốt cho mình và cho đồng bào, động loại.

- Tự do cùng tự chủ phải thấu cái đức để tiếp nhận cái luận (lý luận, lập luận, diển luận, giải luận).

- Tự do cùng tự chủ phải tiếp thâu cái để đón tiếp cái thức (kiến thức, tri thức, ý thức).

Tự do cùng tự chủ nuôi đức trong một không gian đức của chủ quyết (từ quyết tâm qua quyết đoán) vì công lý của công bằng :

- Tự do cùng tự chủ đề nghị cái lý phải đúng, đúng tự định nghĩa tới diển đạt, cái đức phải tốt, tốt từ định đề tới áp dụng trong giáo dục, cái luật phải minh, trong nghĩa công minh cho toàn xã hội.

- Tự do cùng tự chủ có thể được cảm nhận bằng cảm xúc, nhưng được tồn tại bằng lý luận, được lâu dài bằng công pháp, nơi mà pháp luật phải công nhân từ do để xóa bất công, để trừ bạo động, để loại độc tài.

- Tự do cùng tự chủ công nhận công lý phải được phổ quát qua phong trào, qua đấu tranh, qua hội đoàn... Tự do là năng lực định nghĩa lại trách nhiệm để trách nhiệm có những công lý mới đúng hơn, trúng hơn trong không gian quyền hạn của trách nhiệm, trong đó trách nhiệm lãnh đạo phải liêm chính vì nó rộng hơn, nặng hơn trách nhiệm của công dân.

Tự do không tự có để tự tồn, tự do có được trong tính tất yếu phải có câu trả lời, qua hành động thích hợp với luân lý của công bằng, với đạo lý của sự tôn trọng lẫn nhau.

Tự do biết tự trình vì phẩm

Tự do biết tự trình vì phẩm, để tôn vinh ý thức về phẩm chất con người : nhân phẩm, nên tự do chính là tự do đấu tranh vì phẩm chất đó.

Tự do biết tự trình vì phẩm, dựa vào giáo dục vừa để giáo dưỡng cá nhân, vừa để trao tuyền các nhân thứcnhân tri qua các thế hệ.

Tự do biết tự trình vì phẩm để tự do thể hiện nguyện vọng sống trong hạnh phúc, với ý nguyền được sống chung với đồng bào, đồng loại trong liêm sỉ.

Tự do biết tự trình vì phẩm để chuyển hóa hoài bão tới phương án cụ thể để hoàn hảo hóa nhân lý cho thật chỉnh lý, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho hành động vì tự do.

Tự do biết tự trình vì phẩm vì tự do tôn trọng tự chọn, vì định nghĩa của tự do trước hết là tự do chọn lựa, tự do từ chối áp đặt, tự do phản đối áp chế, vì đó là bản chất của bạo quyền.

Tự do biết tự trình vì phẩm chính vì tự do tôn trọng độc lập suy nghĩ, chống lại bạo quyền đã tướt quyền tự do nhân luận, để độc quyền tư duy trong độc đoán của độc đảng.

Tự do biết tự trình vì phẩm để thấu hiểu sự vận hành của nhân trí, trong đó hậu quả (hay hiệu quả) của sự cố (hay biến cố) tạo ra tư duy của nhân lý dùng tự do để vượt thoát thử thách, vượt thắng thăng trầm qua đấu tranh vì tự do ; có ý thức về tính khả thi, đi từ năng lượng của cá nhân tới năng lực của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc khi quyết đoán để quyết định thực tế hóa quyền tự do.

Tự do biết tự trình vì phẩm thấu hiểu hệ dự (dự tính, dự báo, dự đoán), để lý trí phan tích được tinh hình cụ thể, để trí tuệ lập ra các cứu cánh mới và đúng, cùng lúc triển khai các phương tiện hợp nhân lý để giành tự do công khai đấu tranh vì hệ công (công bằng, công lý, công pháp) cho một công quyền có bản lĩnh nhân lý, có tầm vóc nhân tri, có nội công nhân trí, để cuộc sống được tốt hơn, lành hơn, đẹp hơn, cao hơn.

Tự do biết tự trình vì phẩm trong hệ công (công bằng, công lý, công pháp) vì tự do biết và có :

- công bố một cách minh bạch nhất, vì thế nên tự do luôn ngược chiều với tà quyền ;

- công phu kỷ lưởng trong chuẩn bị, kỷ càng trong thực hiện, không ăn sổi ở thìăn ở có hậu, vì thế nên tự do luôn là phản biện của bạo quyền ;

- công trình trong phát triển bền vững vì nhân phẩm dựa trên nhân nghĩa, xây dựng một tự do dầy nhân thức.

Phương trình công bố-công phu-công trình làm nên sự nghiệp của thông minh vì tự do.

Tự do trong tự chủ của trí

Aristote không lầm khi phân tích là tự do luôn là quá trình từ lý luận của tư duy tới lập luận cho hành động vì công lý :

- Tự do trong tự chủ của trí, dùng lý trí tự kiểm soát hành vi, tự kiểm định hành động của mình qua trí tuệ và đạo lý, qua trí lực và luân lý.

- Tự do trong tự chủ của trí có trong khả năng tự điều chế đam mê, cảm xúc, xúc động dẫn tới vô tri, thượng nguồn của vô trách nhiệm.

- Tự do trong tự chủ của trí của tự cân bằng các sinh hoạt xã hội, cộng đồng, tập thể theo quy luật công bằng, dựa trên công lý, được hổ trở bởi công tâm.

- Tự do trong tự chủ của trí của tự giáo dục, qua kiến thức, qua tri thức để có ý thức biết tự giáo dưỡng đạo lý, đạo đức, luân lý cho mình và cho người khác.

- Tự do trong tự chủ của trí của quyền tự bảo vệ mình trước bạo quyền, bạo động, bạo lực, làm nguồn gốc của khổ đau, là nguyên nhân của nghào đói.

- Tự do trong tự chủ của trí với quyền bảo vệ đồng bàođồng loại trước độc tài, độc quyền, độc đảng, là gốc, rể, cội nguồn của bất tín, bất tài, bất lương.

- Tự do trong tự chủ của trí với quyền tự đa năng hóa trong các sinh hoạt chính trị và xã hội, dựa trên đa tài, đa hiệu, đa năng của tha nhân, dựa trên đa nguyên, đa lý, đa đảng của nhân quyền và dân chủ.

- Tự do trong tự chủ của trí biết bảo vệ môi sinh, trong đó có quyền bảo toàn môi trường sống, như chính bảo quản để cuộc sống, chống ô nhiểm môi trường và chống ngay trên thượng nguồn các tà quyền, các công nghiệp ngày ngày gây thảm họa môi sinh, đe dọa cả nguồn sống lẫn sự sống của bao thế hệ, với hậu quả khủng khiếp của tập đoàn âm binh Formosa, với sự cấu kết với bọn lãnh đạo âm tướng từ trung ương đến địa phương của Đảng cộng sản Việt Nam.

Tự do vốn của tự chủ

Tự do vốn tự chủ chọn cả quyết để vượt thử thách.

Tự do vốn tự chủ chọn can đảm để thoát ao tù.

Tự do vốn tự chủ chọn trách nhiệm thắng tha hóa.

Tự do vốn tự chủ chọn ý thức thắng để độc tài.

Tự do vốn tự chủ chọn tâm thức thắng bạo quyền.

Tự do vốn tự chủ chọn lý trí thắng tham nhũng.

Tự do vốn tự chủ chọn công bằng vượt bất công,

Tự do vốn tự chủ chọn lý tưởng vượt vô nhân,

Tự do vốn tự chủ chọn lý luận vượt cuồng tín.

Tự do cẩn trọng, tự tin cẩn thận

Văn sĩ Mai Thảo, trong truyện ngắn đầu tay Đêm giã từ Hà Nội đã bắt đầu : "Hàng phượng đỏ ở trên, Hà Nội ở dưới..." đánh dấu phong trào di cư vào Nam năm 1954, đây cũng chính là mật ngữ của tín hiệu phải lấy tri thức để bảo vệ tự do, trong đó "phượng vĩ đỏ" chính là bạo quyền nấp dưới chiêu bài giải phóng đất nước, nhưng nội chất của nó là độc tài vì bản chất của nó là chuyên chính, ẩn nấp trong thâm chất của nó là độc quyền cai trị mọi số phận của đồng bào. Và, "Hà Nội ở dưới" là thủ đô chính trị mà cũng là nơi cai quản hành chính mọi số kiếp do bạo quyền, độc tài, chuyên chính chỉ đạo để cai trị. Đây là thượng nguồn của mọi tư duy vì tự do : tự do bắt đầu bằng sự cẩn trọng trước bạo quyền dùng bạo lực cướp tự do, cho nên tự tin cũng phải cẩn thận trước mọi mưu đồ của chuyên chính, tự cho mình có độc quyền sinh sát.

Tự do cẩn trọng, tự tin cẩn thận, yêu cầu mọi kẻ đấu tranh vì tự do phải rõ ràng :

- Tự do bắt đầu bằng sự cẩn trọng dựa trên phương tiện tốt và tránh được các hậu quả xấu, cùng lúc biết bảo vệ mọi giá trị của nhân tính.

- Tự do được chọn lựa cứu cánh tốt với phương tiện tốt cùng lúc biết bảo vệ mọi giá trị của nhân phẩm.

- Tự do cẩn trọng với các giá trị tới đạo đức, tránh giết chóc, thảm sát, chiến tranh cùng lúc biết bảo vệ mọi giá trị của nhân đạo.

Tự do cẩn trọng, tự tin cẩn thận, yêu cầu mọi kẻ đấu tranh vì tự do phải minh bạch :

- Tự do cẩn trọng vì tha nhân, vì cộng đồng, vì xã hội, vì đồng bào, vì đồng loại, chớ không phải cẩn trọng chỉ vì cá nhân mình.

- Tự do chống vô cảm, nếu vô cảm là thờ ơ, lãnh đạm, tức là câm, mù, điếc trước các khổ đau, đánh mất đi mọi cảm xúc, thì chính vô cảm đã phản lại các giá trị đạo đức và phản lại cả sự thông minh của ý thức là nơi tiếp nhận kiến thức.

- Tự do trong cẩn trọng để tự tin chính là tự do trước khi chọn lựa, phải biết phân sử trước khi hành động, phải biết đánh giá các phuong tiện và các hậu quả của nó.

Tự do cẩn trọng, tự tin cẩn thận là phải lường trước được các hậu quả, vì :

- Tự do là đặt chủ thể trước tính khả thi, để cân, đo, đong, đếm các hậu quả.

- Tự do là đặt chủ thể trước trách nhiệm với tha nhân, trước khi hành động.

- Tự do đặt chủ thể trước đạo lý để luôn luôn phải bảo vệ lẽ phải.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán

Thanh Tâm Tuyền, thi sĩ thuở nào đã thấy từng ngày chiến tranh đang tàn phá quê hương, với bạo quyền chuyên chính đang ẩn nấp trong chiêu bài giành độc lập dân tộc, nhưng thực chất là dùng độc đảng để tiêu diệt tự do. Thi sĩ căm giận khi mất tự do "lửa đỏ con ngươi", nhưng không bao giờ rời ý thức bảo vệ tự do : "Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão". Hãy tìm lại lịch sử cận đại và hiện đại của Việt tộc :

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, để thấy các trí thức theo Việt Minh, 1945-1954 trong kháng chiến, và chính các trí thức này sau lại quyết định "về thành" khi thấy độc tài trong lãnh đạo đã thành bạo quyền ngay trong kháng chiến.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, trong đợt di cư năm 1954 của hàng triệu đồng bào bỏ miền Bắc vào Nam, sau khi các đồng bào này thấy bản chất thật của bạo quyền sẽ độc quyền trong lãnh đạo, độc đoán trong chính trị, sẽ thủ tiêu tự do.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, trong những năm dài sau ngày thống nhất, đất nước được đặt tên là "giải phóng" mà ta chứng kiến ngay sau đó là sự ra đi của hàng triệu người, bất chấp mọi hiểm nguy để vượt biển, mà thế giới đặt tên là "thuyền nhân" sau 1975, đi tìm tự do, với bất cứ giá nào, khi họ biết mọi bạo quyền đều là tà quyền.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, trong cao trào "chảy máu chất xám" ngay cuối thế kỷ qua cho tới thế kỷ mới này, tiếp tục diẽn ra hằng ngày với bao trí thức phải rời đất nước để có tự do nghề nghiệp, vị họ hiểu một chế độ độc đảng bảo kê cho tham nhũng, chỉ biết quy luật tiền tệ và hậu duệ, thì mọi chân tài sẽ bị bóp chết.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, ngay trong chọn lựa nhiều tủi nhục hơn vinh quang qua các chiêu bài "xuất khẩu lao động", với đồng lương tồi, với điều kiện lao động xấu, nhưng ở nước ngoài, nhưng các công nhân việt dù là nạn nhân của một chính sách xuất khẩu vô tri, nhưng họ vẫn bảo vệ được tự do cá nhân của riêng họ ở nước ngoài.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, ngay trong tủi hờn của các phụ nữ Việt phải lập gia đinh với các đàn ông ngoại quốc, dù biết là sẽ chịu chịu cảnh "làm ma quê chồng", nhưng họ vẫn đi tìm tự do bằng cách mạo hiểm nhất, vì họ chắc bẩm là ở lại với một chế độ bạo quyền vì tham quyền thì chính họ sẽ không có tương lai.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, khẳng định có tự do dự đoán, chính thi sĩ Thanh Tâm Tuyền là người Việt Nam sau cùng vào những ngày cuối của phong trào di cư 1954, đã trở lại Hà Nội để khuyên những bạn bè, thân quyến còn ở lại miền Bắc phải ra đi, phải tự cứu mình trước bạo quyền. Thượng nguồn của tự do là khả năng tỉnh táo trong sáng suốt để tiên đoán, ông thường đọc cho bạn bè nghe một bài thơ của một thi sĩ theo kháng chiến, đã thấy ngay trong kháng chiến với Việt Minh một màu đen của vô tri trùm phủ lên nhân tri, vì nó đang trùm phủ lên tự do của Việt tộc : "đã thấy bên sông màu thuyền thợ…".

Tự do đúng, tự tin trúng

Thích Nhất Hạnh, thiền sư với tầm vóc toàn cầu hóa, trong những năm chiến tranh huynh đệ tương tàn, 1954-1975, dưới gọng kềm của các cường quốc thí nghiệm thú tính của chúng ngay trên số phận của Việt tộc, đã tự chất vấn về tự do của chính mình : "Tôi vn sống, tôi vn thở, nhưng biết bao giờ tôi mới nói được những điều tôi ước mơ ?… ". Đây là câu hỏi mà cũng là bước đi đầu tiên gởi hoài bảo vào con đường đi tìm tự do cho mình và cho dân tộc, không bó tay than thân trách phận, mà phải đi tìm tự do nếu tự do đó đúng, phải tự tin nếu tự tin đó trúng, cả không gian lẫn thời gian :

Tự do đúng, tự tin trúng, được tức khắc thực hiện với các phong trào thiện nguyện đưa đạo vào đời của thiền sư, và vào đời để xóa đi các nỗi khổ niềm đau của chúng sinh, một phong trào dấn thân vì đời. Một phong trào cao thượng, khác hẳn với phong trào mượn cửa phật, làm chùa để làm tiền hiện nay của các sư giả-chùa giả-đạo giả, cứ ngồi ở chùa mà vơ vét tiền cúng đường, mội kiểu ngồi mát ăn bát vàng, thật thô bỉ.

Tự do đúng, tự tin trúng, bắt đầu cuộc hành trình đi vận động hòa bình cho đất nước qua nhiều quốc gia, qua nhiều châu lục, giúp thế giới biết và hiểu chiến tranh đang thiêu hủy dân tộc Việt, thủ phạm là bạo quyền gây nên bạo lực, chính nó là nội chất của vô minh.

Tự do đúng, tự tin trúng, tiếp theo là đồng hành cùng mục sư King, chống lại chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, làm rõ thông điệp ngắn gọn của nhạc sĩ Phạm Duy : "tôi tự chối giết người, nếu giết hết người rồi tôi sống với ai ?", để mang tuệ giác bất bạo động chống lại cái vô minh của bạo động.

Tự do đúng, tự tin trúng, kế đó là ra biển khơi cứu các thuyền nhân, vượt biển trong xả thân để tìm tự do ; đạo phật là đây : cứu ngay chúng sinh trong địa ngục trần thế, trong thập tử nhất sinh trên đường đi tìm tự do, như đi tìm chánh kiến của tự do.

Tự do đúng, tự tin trúng, của đồng bào mà không quên đồng loại, thiền sư đã gầy dựng một phong trào thiền có tầm vóc thế giới hóa, đưa chánh niệm vào thiền học, dùng thiền học làm sáng chánh tuệ trong thế giới hiện nay biết hưởng thụ nhưng chưa chắc là biết sống, tức là biết sống trọn vẹn ngay trong bây giờở đây, theo phật lý "hiện pháp lạc trú".

Con đường đi tìm tự do càng xa, càng rộng, càng sâu, càng cao thì bản lỉnh của tự do càng lớn, tầm vóc của tự do càng đẹp, nội công của tự do càng bền.

-------------------

liberté08

Phần 9

Tự do tức khắc, tự tin tức thời

Tô Thùy Yên, thi sĩ của bao nguồn nước ngầm nghẹn ngào của Việt tộc, đã kể rất rõ những chặn đường đi tìm tự do với tất cả nhân phẩm bị thử thách qua nhân tình đang trầm luân trong nhân thế, thi ca cua rông mang nhân tri trước các thăng trầm của lịch sữ mà Việt tộc cứ phải gánh chịu. Thể loại thi ca này không phải là một anh hùng ca, mà cũng chẳng phải là bi oán khúc, nó chỉ soi sáng con đường đi tìm nhân lý luôn bị lừa đảo bởi bạo lý của kẻ mạnh, bởi tà ý của kẻ gian, nó bắt mọi người Việt phải xác nhận :

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Cuộc sống báo động từng giờ" vì chiến tranh thửa nọ đang giết đồng bào hằng giờ, vì tha hóa xã hội hiện nay đang thú tính hóa nhân cách việt tộc cũng hằng giờ.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Trên dốc thời gian hòn đá tuột, lăn dài kinh động cả hư vô", hư vô sẽ xuất hiện để xóa đi nhân tính, để vùi sâu nhân nghĩa, hư vô chính là sự thất bại của nhân đạo, cũng là thảm bại của tự do bảo vệ nhân tính đó.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Con chim bói cá trong tàn tối, soi vỉnh hằng xanh rợ mặt hồ", cái tàn tối chính là cái bóng tối áp đặt bởi bạo quyền, hoàng hôn của nhân lý trong tà dương của nhân cách, không đủ sáng để soi nhân phẩm, chuyện vỉnh hằng thật đáng lo và đáng sợ trong một vũ trụ vô nhân.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Con đường duổi sáng như dao bén, chém đứt hồn đêm chẳng kịp la", con đường chính là lộ trình đi tìm tự do, phải mài con đường như mài dao : thật bén ! thật sắc, để chém đứt hồn đêm tựơng trưng cho bóng đêm của tà quyền, bóng đen của bạo quyền, bóng tối của chuyên quyền.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Ta về khai phá bùa thiêng yểm, thức dậy đi nào gỗ đá ơi !", chính sức mạnh của tự do sẽ xóa tan các tà lực đang trù yếm nhân quyền, xua đuổi đi các bạo lực đang vùi dập nhân lý, xé toan các ma quyền đang xiết cổ nhân sinh.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Ta uống giếng thiêng ăn trái lạ, lòng ta rồi sẽ mới tinh khôi", chính tự do lấy quyền sống và quyền làm người để được ăn trái ngon vật lạ, kể cả chuyện hằng ngày được uống, được hưởng các giá trị tâm linh, rất linh thiêng do đạo đức tổ tiên để lại, để tiếp tục đi trên con đường tinh khôi của tự do, nó làm nhân tri khôn ra, nhân trí thông minh hơn.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Trở trời ngồi lại cời than. Nhen bùng ngọn lửa chưa tàn ba sinh", để khi tổng kết kiếp nhân sinh, ta không hổ thẹn vì nhân cách của chúng ta qua ba sinh (quá khứ-hiện tại-tương lai) ; vì nhân phẩm của ta không bị tan biến mất, chỉ vì ta biết đấu tranh vì tự do cho nhân thế.

Tự do kết hợp, tự tin kết tinh

Tự do kết hợp tất cả nội lực của nhân phẩm để chế tác ra tự tin kết tinh vì mọi tiềm lực của nhân lý. Tự do kết hợp tất cả sung lực của nhân tri để chế tác ra tự tin kết tinh mọi hùng lực lực của nhân trí, đó là chặn đường tiến hóa của nhân tính :

Hoche phân tích nếu ta muốn dùng tự do để ngăn chặn bạo quyền, tà quyền, cướp tự do của chúng ta, thì chúng ta phải bắt đầu bằng cách giới hạn cách sống, cách nói, cách làm của bạo quyền, tà quyền. Nếu không thì chính bạo quyền, tà quyền sẽ giới hạn tự do của chính chúng ta bằng cách : gây sợ hải qua khủng bố, gây lo âu áp chế, gây tự kiểm duyệt, tự kiểm tra qua ý thức hệ của bạo quyền, tà quyền.

Spinoza đi sâu thêm khi tìm nội chất của hành động tự do qua sự hợp tác vừa công bằng, vừa liêm chính qua tất cả thỏa thuận trong xã hội, trong đó khi quyền lợi được tôn trọng ngay trong hợp tác giữa các bên : cá nhân, chính quyền, pháp luật, xã hội, và mọi công dân đều biết tuân thủ sự hợp tác này, thì đây chính là căn bản của tự do.

Rousseau làm rõ hơn bằng định nghĩa tự do qua hợp đồng xã hội để bảo vệ dân chủ trực tiếp, trong đó mọi người được tự chọn, để tự quyết định cho chính mình, nơi mà bạo quyền, tà quyền không có mặt vì không có chổ đứng, lẫn chỗ để ngồi.

Tự do kết hợp, tự tin kết tinh qua hợp tác và hợp đồng dụa trên công lý của công bằng chính là tự do trong tự tin để tự chọn trong đa phương, đa hướng trong đa nguyên dựa trên dân chủ, nó ngược lại độc tài, bạo quyền chỉ biết đi một chiều.

Tự do kết hợp, tự tin kết tinh là có cách nhìn, cách thấy, cách hiểu, cách nhận, cách xử lý tới từ tự tin dựa lên lòng tin về khả năng của tự do biết chống lại sự ngăn cấm, đàn áp, khống chế, khủng bố của bạo quyền, tà quyền.

Tự do kết hợp, tự tin kết tinh luôn đi xa hơn tư lợi, đi ngoài tư lợi, được thử thách trong đấu tranh vì tha nhân, vì đồng bào, đồng loại đang đau khổ trong bất công và bạo lực.

Tự do kết hợp, tự tin kết tinh trong quyết đoán là tự do đại diện cho đấu tranh vì công bằng nên nó tốt, nó lành và chính tự tin trong tự do xác chứng rằng công bằng là chuyện vừa đẹp, vừa hay.

Tự do của hoài bảo, tự tin của trách nhiệm

Weber phân tích tự do :

- đi t ý muốn vì tự do để tới tự do thực hiện hoài bảo,

- đi từ đạo lý vì hoài bảo tới đạo lý vì trách nhiệm.

Chính tự do với nhận thức đôi (hoài bảo-trách nhiệm) này là quá trình hoàn thiện hóa xã hội, đạo đức hóa cộng đồng, luân lý hóa cá nhân, vì tự do có quyền hành động để hoàn thiện hóa thế giới, để chỉnh chu hóa thế gian.

Ông đề nghị trong đồ hình nghiên cứu về cứu cánh của nhân sinh phải thấy bốn loại cứu cánh :

- cứu cánh vì quyền lợi, trong đó có tư lợi và có công lợi,

- cứu cánh vì giá trị, trong đó giá trị tâm linh mang nội chất thiêng liêng,

- cứu cánh vì truyền thống của tổ tiên, vừa là trí tuệ, vừa là lý trí,

- cứu cánh vì tình cảm, trong đó cảm xúc có cái lý của tâm giao, đắc khí.

Tự do chính là tự tư duy để có hành động, để tác động thẳng trong xã hội, ngay trong cộng đồng, thẳng lên thế giới, mang ý chí đúng, mang hoài bảo đẹp, mang trách nhiệm cao.

Trong ý chí được được biến thành tự hành động, thì sự thông minh của tự do là tự do cẩn trọng, tự do làm ra cuộc sống phải được xem là đáng sống, chớ tự do không phải chạy theo các hoài bảo mộng tưởng cho một cuộc sống hảo huyền.

Tự do trong cẩn trọng là nghệ thuật biết tự giải phóng trong thông minh của hành động, tức là không liều lỉnh chết người, vì tự do trong tàn phá, trong bạo ác chỉ là tự do của tự sát, vì nó không biết xây mà nó chỉ biết diệt.

Tự do mang nội lực của sự cẩn trọng : từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định sáng suốt tới hành động tỉnh táo ; nên tự do giữa luôn có hai thực chất : can đảm và cẩn trọng.

Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim

Kant là triết gia đưa được ra hai phạm trù vừa sâu rộng, vừa chính sát để hiểu, để định nghĩa tự do :

- Tự do là trách nhiệm của ý thức.

- Tự do vừa là cơn gió chắn đường chim bay, nhưng vừa là lực giúp chim bay.

Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim mang ý thức không chấp nhận bất công, bằng chính ý thức của mình khi thấy trước mắt mình bạo quyền đẻ ra bất bình đẳng, và tà quyền làm tăng bất công hằng này qua bạo lực và qua tham nhũng.

Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim có được vì chính bất công, bạo quyền, độc tài làm sáng vừa làm sáng định nghĩa, vừa làm sáng ý chí của tự do, chính tà quyền vô tình tạo điều kiện cho tự do ra giữa ánh sáng của nhân sinh, để phản diện rồi phản đề và cuối cùng là phản kháng chống bất công.

Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim luôn mang 3 hành tác :

- tự do bên trong qua lý luận của tư duy,

- tự do thể hiện hành động ra bên ngoài,

- tự do bảo vệ tha nhân, như chính bảo vệ nhân tính của mình.

Và khi tự do bị hiểu sai, rồi lạc hướng, khi tự do biến thành thảm họa cho mình và cho người khác, thì tự do phải luôn trở về với ba định hướng, dưới dạng ba câu hỏi :

- Tự do muốn gì ?

- Tự do làm gì ?

- Tự do về chuyện gì, trong xã hội nào, trong bổi cảnh nào ?

Từ đây, tự do luôn có ba thực chất để thể hiện mình :

- chủ thể,

- mong muốn,

- hành động.

Khi cả ba vế này được minh bạch thì tự do phải :

- vượt thực tế, thực tại, thực cảnh,

- vượt trở lực, khó khăn, thử thách,

- vượt độc tài, bạo quyền, tham nhũng.

Cùng lúc, tự do đủ ý thức để xa tà đạo, theo lời khuyên của cụ Tiên Điền (Nguyễn Du) phải tránh chuyện :

"Ma đưa lối quỷ dẫn đường

Cứ tìm những lối đoạn trường mà đi".

Tự do đứng lên, tự tin đứng cạnh

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các nạn nhân của bất công, của độc tài, của tham nhũng... đứng về phía đồng bào và đồng loại đang khổ đau trong một chế độ lấy bạo quyền, dùng bạo lực để hằng ngày bạo hành đồng bào mình.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các phụ lão, các trẻ thơ, các người tàn tật, các phụ nữ… hằng ngày là nạn nhân của một chế độ bỏ quên không những an sinh xã hội mà cả an toàn xã hội để bảo vệ kẻ yếu thế, kẻ mang tàn tật…

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các phong trào đấu tranh liêm chính vì dân chủ, vì nhân quyền để bảo vệ cá nhân, gia đình, tập thể, cộng đồng, dân tộc, ít nhất là bắt buộc bạo quyền phải tôn trọng các quyền được ghi trong hiến pháp.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh các tù nhân lương tâm hoàn toàn vô tội đang trong vòng lao lý vừa vô nhân đạo, vừa vô nhân tính của bạo quyền vừa đang vùi dập nhân cách bất khuất của dân tộc, đang tha hóa phẩm chất của Việt tộc.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả dân đendân oan trong cảnh màn trời chiếu đất, mất đất, mất nhà nạn nhân của các lãnh đạo ma đất đã cấu kết với bạn các nhà thầu ma xây cất, đang khổ nhục hóa các nạn nhân này ngay trên mảnh đất của họ.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh các phong trào yêu nước đang đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thỗ, từ biển đảo tới đất liền, từ môi trường tới môi sinh, đang bị tiêu hủy hằng ngày bởi tầu họa, thông đồng với các lãnh đạo đang bán nước.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh cho đa nguyên mở cửa cho đa tài, đa năng, đa hiệu, để chống độc tài, độc trị, độc quyền qua độc đảng, từ đó tạo dựng lên khối đại đòa kết trong đa dạng tư duy, đa thể lý luận, có đa lực tiếp nhận văn minh của nhân loại.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh quyết tâm giải phóng chính mình qua hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) cùng lúc giải phóng gia đình, thân tộc, tập thể, cộng đồng, dân tộc mình ra khỏi nhà tù ngu dân của độc đảng.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh quyết chí đẩy cửa, đạp tường, phá rào, đạp nhà tan nhà tù của một chế độ sống nhờ công an trị, đã cai trị vô cùng tàn nhẩn lương tri của Việt tộc chỉ muốn sống với lương tâm của một dân tộc tốt.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh với quyết đoán trong hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) từ tư duy tới hành động, từ lao động qua nghề nghiệp tới mọi sinh hoạt trong xã hội, để khẳng định thông minh Việt đủ lực, đủ tầm, đủ sáng lòng, sáng dạ, sáng trí để được sống tự do trong văn minh như bất cứ dân tộc văn minh nào trên hành tinh này !

Tự do ý thức, tự tin nhận thức

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chúng ta đứng cùng dân oan, và chứng kiến các lực lượng bạo quyền là công an, cảnh sát, hợp cùng các lực lượng tà quyền là côn đồ, du đảng của xã hội đen đánh đập, trấn án, bạo hành với dân oan là mỗi lần chúng ta thấy Nhân phẩm của chính chúng ta bị xúc phạm.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chúng ta đứng cùng với các nạn nhân của cưỡng hiếp, của bạo dâm, có cả ấu dâm và chứng kiến thủ phạm được che đậy từ hành pháp tới tư pháp là mỗi lần chúng ta thấy Nhân tính của chính chúng ta bị chà đạp.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chúng ta chứng kiến trong hệ thống giáo dục : học trò bạo động với thầy cô, thầy cô bạo hành với học sinh, trong bối cảnh vô giáo dục ngay trong giáo dục là mỗi lần chúng ta thấy Nhân đạo của chính chúng ta bị dẫm nát.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến cảnh xã hội bị mù lòa vì tiền bạc, vật chất trong thực cảnh : con cái ruồng rẩy cha mẹ, anh chị em giết hại nhau là chúng ta thấy Nhân nghĩa của chính chúng ta bị thủ tiêu.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến các lãnh đạo tổ chức buôn thần bán thánh, các nhà sư giả tín để giả mạo qua cửa phật để làm tiền, để trục lợi là chúng ta thấy nhân từ của chính chúng ta bị bóp chết.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến độc đảng khai thác độc tài để có độc quyền trong độc tribất tín sánh đôi cùng bất tài là chúng ta thấy Nhân lý của chính chúng ta bị vùi dập.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến thực tế của mua bằng, bán cấp qua học giả-thi giả-bằng giả để sau đó là mua chức bán quyền là chúng ta thấy Nhân tri của chính chúng ta bị trừ diệt.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến thực cảnh của các kẻ có thực tài của dân tộc phải bỏ nước ra đi, nguyên khí của quốc gia bị tráo lận qua quốc nạn tiền tệ-hậu duệ là chúng ta thấy Nhân trí của chính chúng ta bị thắt cổ.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến thực trạng của độc đảng sinh ra độc quyền, để tham quyền đẻ ra tham nhũng trong toàn bộ lãnh đạo chối từ đối thoại để đối luận với trí thức là chúng ta thấy Nhân luận của chính chúng ta bị thiêu hủy.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến bi kịch của cả dân tộc đang bị bần cùng hóa, cả một xã hội đang bị đồi trụy hóa, cả một đất nước đang bị đe dọa xâm lược bởi tàu tặc là chúng ta thấy Nhân sinh của chính chúng ta bị bức tử.

-------------------

liberté11

Phần 10

Tự do hiện tại, tự tin hiện hữu

Sartre trong quá trình xây dựng chủ thuyết hiện sinh, đã vượt qua hai trở lực có mặt trong hệ thống tự tưởng của phương tây : cuộc sống có từ nội chất của nhân sinh (essence), và có từ sự tồn tại (existence) của nhân sinh, mà cả hai thường được giải thích bằng sự có mặt của một đấng tối cao là thượng đế, đã sáng tạo ra nội chất và sự tồn tại của nhân thế.

Chủ thuyết hiện sinh thì khẳng định ngược lại : nội chất của sự sống có thể tới từ ngẩu nhiên và sự tồn tại của nhân sinh là do con người quyết định, và chính con người hoàn toàn tự do để tìm đường đi nẻo về của nhân đạo. Chủ thuyết này thoát khỏi mọi định đề được định vị bởi một đấng tối cao, qua hiện hữu của niềm tin trong tôn giáo, tác động lên các hệ thống siêu hình học (linh hồn, tâm linh, thiên đường, địa ngục…) và ít nhiều đã làm nền cho tư tưởng và cho cả gốc của triết học châu âu.

Trong tam giáo đồng nguyên (Khổng, Lão, Phật) gần gũi với văn hóa và văn minh của Việt tộc, thì không có một đấng tối cao sinh ra muôn loài, cũng không có tôn giáo cổ súy cho đấng thiêng liêng này đã tạo ra vạn vật. Cho nên, cũng chính con người phải vì nhân phẩm trước bạo quyền, độc tài, tham nhũng phải bảo vệ tự do của mình như bảo vệ con ngươi của mình để nhìn cho ra nhân tính :

- Tự do là sự phối hợp giữa tự tin của tư duy và độc lập lý luận, không thờ ơ trước bất công, mà chọn lựa hành động để thay đổi thực tế không được chính nghĩa của tự do chấp nhận nữa.

- Tự do trong tư tin là thử thách chống lại sự thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, có thể tới tự thái độ biếng lời của tư duy, chưa được trang bị ý chí làm thay đổi tình hình do bạo quyền làm ra.

- Tự do vừa là quyền hạn, vừa là khả năng của ta, để ảnh hưởng thẳng tới cuộc sống, nên tự do chỉ tùy thuộc ta ngay trong tính khả thi muốn thay đổi cuộc sống theo hướng thiện.

- Tự do đi theo cái đúng, để làm nên cái tốt, đó là khả năng của tự do chế tác ra các quy định mới thuận lợi cho công bằng và bác ái trong không gian chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục...

- Tự do trong không gian của đạo lý và luân lý, có khung đạo đức của xã hội, trong lòng tin trước pháp lý của pháp luật vì công lý của công bằng.

Tự do chỉ của một người, một nhóm, một bè, một phái, một đảng là loại tự do sớm nở tối tàn trước nhân lý, chỉ là loại tự do sống nay chết mai trước nhân phẩm.

Tự do hoàn thiện, tự tin hoàn tất

Tự do hoàn thiện, tự tin hoàn tất, xuất hiện trong phân tích của Descartes : "Tôi biết thế giới chưa hoàn thiện, bản thân tôi cũng chưa hoàn thiện, nhưng tôi có tự do trong cuộc sống này để hoàn thiện thế giới, để hoàn thiện bản thân tôi ". Phạm trù tự do không bao giờ rời quá trình hoàn thiện hóa cuộc sống, không hề xa quá trình cải thiện hóa nhân sinh, không hề bỏ quá trình nhâm phẩm hóa nhân loại.

Tự do hoàn thiện, tự tin hoàn tất, có trong khẳng định Balzac"Tôi có tự đo đứng về phía đối kháng chống bất công, tôi tự đặt tên cho nó là cuộc đời",đứng về phía đối kháng là đứng về phía của kẻ yếu thế trước bạo quyền ; là đứng về phía của nạn nhân của độc tài, là đứng về phía nước mắt nạn nhân của tham nhũng.

Tự do hoàn thiện, tự tin hoàn tất, có trong luận điểm của Arendt :" Tự do đặt quyền lực vào đúng chđể nó dùng công lý mà xử bất công". Chính tự do giúp công dân phải nghĩ xa hơn các tự lợi ngắn hạn của chính trị. Cũng chính tự do giúp công dân tự do trong tư duy để có tự do vận nảo các với hiểu biết về điều kiện sinh tử của nhân sinh, có thể bị hủy bất cứ lúc nào bởi bạo quyền, bạo lực, bạo chúa.

Từ 3 phân tích, 3 giải thích, 3 lập luận trên, ta sẽ thấy được sức tổng kết, lực tổng hợp để làm nên tổng thể của tự do :

- Tự do có mặt trong trường kỳ trong một xã hội có nhân quyền và dân chủ, để đi ngược lại các sinh hoạt chính trị luôn là đoản kỳ trong nhiệm kỳ.

- Tự do có mặt trong trường kỳ trong một xã hội không có nhân quyền và không có dân chủ, để đi ngược lại các ý định của bạo quyền, ý muốn của độc tài, ý đồ của tham nhũng.

- Tự do sống trong di động để chủ động, chống lại bị động vì thụ động của cúi đầu, khoan tay, quỳ gối trong khuất phục, trong tủi nhục, trong cam chịu ; vì tự do trước hết là tự do đi lại ; đi lại để được sống trong dòng chảy của nhân tính, trong trào lưu của nhân phẩm, trong phong trào của nhân đạo.

Tự do vượt khó khăn trong cuộc sống như vượt thắng chính mình, từ đó tự tin của tư duy làm sáng ra 3 quá trình của tự do là phải trực diện để đấu tranh vì tự do :

- Tự do cần tự tin để đấu tranh, nhưng tự do cũng giúp tự tin phải tự giải phóng mình trước khi hành động vì tha nhân, vì đồng loại.

- Tự do đưa hiểu biết lịch sử vào tận điều kiện làm người hiện nay để trả lời câu hỏi là : ta đang có hay ta không có tự do ?

- Tự do lột mặt nạ độc tài để thấy rõ bản chất toàn trị của bạo quyền luôn muốn có độc quyền sinh sát trên tự do, bằng độc trị rất vô nhân vì rất vô lý.

Tự do cùng tự tin từ không đến có

Camus trong tác phẩm Kẻ nổi loạn (L’homme révolté) đưa lên tiếng hét lên : Không ! Tức là nói không trước mọi bạo quyền, bất công, mà ông muốn người đọc phải hiểu thêm sau chữ không là chữ có ! một tự do tức khắc ngay sau đó là đi tìm nhân quyền để chống bạo quyền, đi tìm công bằng qua công lý để chống bất công bằng tự do của chính mình. Đi từ "không chấp nhận bạo quyền, bất công" đến "muốn có đấu tranh vì công bằng và công lý", đây chính là lộ trình liêm chính của tự do !

Tự do cùng tự tin từ không đến có, trên con đường chọn lựa nhân phẩm cho chính mình, đây là cuộc đấu tranh hiện nay của các bộ đội đã về hưu tại Đồng Đăng, mà thuở nào sau đợt xâm lược của tàu tặc năm 1979, họ đã tình nguyện ở lại cận kề gần biên giới, có mặt tại chỗ để bảo vệ tổ quốc. Họ đã được chính phủ cấp đất, giờ thì đất và nhà của họ bị cưỡng chế trong mưu đồ của chính quyền địa phương cấu kết với bọn thầu đất tính chuyện cướp đất của họ. Họ đấu tranh vì nhân phẩm để lột mặt nạ bọn vong ân là chính quyền địa phương, họ lột luôn mặt nạ của bọn bội tín là chính quyền trung ương, đã nhắm mắt và thông đồng với các ma lực ngay trên các mảnh đất của họ. Họ đấu tranh bằng nhân phẩm yêu nước của họ.

Tự do cùng tự tin từ không đến có, chính là chấp nhận một chân lý của nạn nhân cùng đồng hội, đồng thuyền trong đấu tranh. Chính các bộ đội đã về hưu tại Đồng Đăng đang là nạn nhân trong mưu đồ của chính quyền địa phương cấu kết với bọn thầu đất để cướp đất của họ. Và, họ tiếp nhận chân lý của nạn nhân vì bây giờ họ đã trở thành dân oan, như bao dân oan trên cả nước, bao triệu người trên cả ba miền. Chính chân lý của nạn nhân là nền cho khối đoàn kết dân oan trong đấu tranh hiện nay.

Tự do cùng tự tin từ không đến có, chính là tiếp nhận một chân lý của đấu tranh của tất cả nạn nhân cùng đồng cam, cộng khổ trước bạo quyền, vì chính bạo quyền là tác giả của mọi bất công qua tham nhũng, vừa đe dọa tài sản, vừa đe dọa nhân phẩm Việt của các nạn nhân không có quyền lực của tiền bạc, không có quyền lực của chính trị để tự bảo vệ mình, mà chỉ có quyền lực của tự do là phải đấu tranh vì công bằng và công lý.

Tự do cùng tự tin từ không đến có, chính là tiếp nhận một chân lý bình đẳng qua quan niệm về bình đẳng với mọi người, để có công bằng trong xã hội, để yêu cầu công lý dùng pháp lý để bảo vệ quyền bình đẳng bằng pháp luật vừa công minh, vừa liêm chính. Tự do trực diện đấu tranh với mọi bạo quyền, mọi tà quyền, mọi cường quyền bằng chính liêm sỉ của mình, đây là đinh nghĩa nguồn của nhân cách.

Tự do đạo lý, tự tin đạo đức

Ricœur trong hệ thống triết học luân lý của mình đã đề nghị không nên hiểu tự do qua các định nghĩa khô cứng, mà phải thấy các đoạn đường của nó từ ý thức tự do tới hành động tự do, từ ý nghĩa của tự do tới kết quả đấu tranh vì tự do :

- Tự do có ý thức chống lại cuộc sống bị vô nghĩa hóa bởi bạo quyền.

- Tự do đi tìm ý nghĩa cuộc sống bị khủng hoảng hóa bởi bất công.

- Tự do bảo vệ niềm tin của nhân phẩm bị suy đồi hóa bởi tham nhũng.

Tự do có đạo lý, tự tin có đạo đức, tôn trọng chọn lựa của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc, nếu chọn lựa đó có đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành, có luân lý của trách nhiệm, và bổn phận trong hiện tại và trước tương lai, như vậy tự do luôn mang ba quá trình :

- Tự do yêu cầu công bằng phải vừa là đạo đức, vừa là định chế.

- Tự do biết nói đầy đủ sự thật để tìm cách giải quyết các bất công .

- Tự do là tự chọn lựa lịch sử cho chính mình trước áp lục của bạo quyền.

Tự do có đạo lý, tự tin có đạo đức, nếu tới từ phương trình công bằng-sự thật-lịch sử tạo dựng ra phương trình của tự do là ý thức-ý nghĩa-ý muốn, thì tự do không hề vô trật tự, không hề bừa bãi trong ngôn ngữ, không hề hỗn loạn trong hành động, nó có nhận thức rất minh bạch, vì nó có tâm thức của trách nhiệm trong hai chiều :

- Tự do có hàng dọc có đạo lý, luân lý làm nền đạo đức cho xã hội.

- Tự do có hàng ngang vừa có ta, vừa có tha nhân sống chung cùng cơ chế.

Tự do có đạo lý, tự tin có đạo đức, có đạo đức cho xã hội, biết sống chung cùng cơ chế, mà cơ chế dựa trên định chế có công lý biết trừ bạo quyền, biết diệt bất công, biết loại tham nhũng, từ đó chủ thể của tự do sẽ rất chuẩn mực để trả lời ba câu hỏi :

- Tự do tự hỏi : Tôi là ai ? Trước trách nhiệm gì ? Trước hành động gì ?

- Tự do biết đánh giá : cái này tốt hơn cái kia ! cái này cao hơn cái kia !

- Tự do hiểu phương trình tuyên bố-trách nhiệm-hành động bằng nhân cách biết tự tôn trọng mình bằng nhân phẩm biết tự bảo vệ mình.

Tự do sáng tạo, tự tin sáng kiến

Jonas, đi từ triết học tới xã hội học, đã đưa ra chủ thuyết tính sáng tạo của hành động để hiểu thực chất và thực hành của tự do trong đời sống, quan hệ, sinh hoạt của xã hội, vì con người không chỉ có sáng tạo trong loại hình nghệ thuật, mà ta còn có tính sáng tạo ngay trong hành động của mình :

- Sáng tạo ra hành động mới để vượt khó khăn.

- Sáng tạo ra hành động mới để tìm ra cách giải quyết mới.

- Sáng tạo ra hành động mới để tìm ra các kết quả mới.

Tự do sáng tạo, tự tin sáng kiến qua sáng tạo ra các hành động mới chính là tính chủ động của chủ thể tự do đi ra ngoài và đi trên cao các trở lực chống lại tự do :

- Sáng tạo ra hành động mới để thoát và thắng bạo quyền.

- Sáng tạo ra hành động mới để thoát và thắng độc tài.

- Sáng tạo ra hành động mới để thoát và thắng tham nhũng.

Tự do sáng tạo, tự tin sáng kiến tôn trọng 3 nguyên tắc để bảo vệ mình, mà cũng để bảo vệ tha nhân, bảo vệ cộng đồng, bảo vệ xã hội, trong đó tự do không rời 3 trách nhiệm :

- trách nhiệm về hành động của chính mình trong xã hội,

- trách nhiệm vai trò của mình trước tập thể, trước cộng đồng,

- trách nhiệm về các chuyện bảo vệ kẻ yếu, dưới quyền chăm sóc của mình.

Tự do sáng tạo, tự tin sáng kiến làm sáng rõ nguyên lý -cao và rộng- của trách nhiệm về các chuyện bảo vệ kẻ yếu, dưới quyền chăm sóc của mình, qua hành động của chủ thể đấu tranh vì tự do, từ đây tự do được hiểu qua công lợi và qua công sự :

- Tự do ước mơ được sống trong các cơ chế tốt của một xã hội tốt.

- Tự do chống bất công để bảo vệ hoài bảo vì công bằng.

- Tự do lập phương trình công bằng-công lý-công pháp để thi hành quyền tự do.

Tự do là chuyển hóa phương trình công bằng-công lý-công pháp thành phương án của thi hành-thực hành để đồng hành với ý nghĩa của tự do, giờ đã thành ý lực, sẵn sàng trở thành các sáng tạo ra hành động mới vì nhân phẩm.

-------------------

liberté00

Phần 11

Tự do diển trình, tự tin diển đạt

Lich sử đấu tranh của tự do chống bạo quyền, độc tài, tham nhũng được kiểm chứng qua các quá trình sau đây, nơi mà mỗi chuyên nghành của khoa học xã hội và nhân văn phân tích và giải thích được :

- Tự do biết hét lên : Không đúng ! Không chấp nhận được ! để chống bạo quyền, độc tài, tham nhũng… để đi tới tìm cái đúng, tìm cái chấp nhận được qua công bằng của công lý ; triết học luân lý và chính trị học gọi là lẻ phải của tự do.

- Tự do nổi lên trong nổi dậy giữa xã hội, cộng đồng, dân tộc khi nhân phẩm bị xúc phạm, tự do này đi từ nhân lý tới nhân trí ; tri thức luận và xã hội học chính trị đặt tên nó là : nhân tính của tự do.

- Tự do vượt khoảng cách, đã gây ra ngăn cách giữa người với người, dùng tự do để lập lại cầu nối, tạo ra phong trào, tái lập lại quan hệ xã hội để tìm sự chia sẻ, sự đồng cảm, từ đó chế tác ra đòan kết và tương trợ giữa các nạn nhân của bạo quyền ; tâm lý học tri thức và sử học chính trị nêu tên nó là : lực bảo vệ quan hệ của nhân loại.

- Tự do gạn đục khơi trong, loại bỏ bạo động có thể hủy diệt quan hệ xã hội, từ đó tạo nên một trật tự mới có đạo lý cạnh lý trí, có công lý cùng công bằng để bạo vệ sự trường tồn của tự do, mà triết học phân tích và xã hội học giáo dục tặng nó tên : trí tuệ của nhân lý.

- Tự do đúng đưa công lý đúng với công bằng đúng tới đúng nơi để bảo vệ công dân trước bạo quyền, đưa pháp lý đúng tới pháp luật đúng, biết bảo vệ lẻ phải để bảo vệ nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng, mà luật học cùng giáo dục học gọi nó là : kiến thức của tự do.

- Tự do đúng đưa vào thảo luận để tìm ra cách giải quyết có đạo lý trước các khổ nạn của nhân sinh, chính đây là phẩm chất của đối thoại, chống phân biết đối xử, chống chuyện loại trừ tha nhân bằng chủ quan của định kiến, và xã hội học đạo lý cùng chính trị đàm phán trao nó tên : dân chủ của truyền thông.

Tổng kết của các quá trình này, giúp các chủ thể đấu tranh vì tự do nhận thức được là : tự do đúng giúp chọn lựa đúng, giải thích đúng để phán xét đúng, qua phán xử đúng trong đạo lý hay, đẹp, tốt ,lành của nhân tính.

Tự do chặt xiềng, tự tin phá nhà tù

Cả Platon lẫn Aristote đều công nhân từ do mang lý lẽ của nhân lý, nhưng nó rất tự nhiên vì nó có ngay trong nhân tính, với thói quen của nhân sinh biết đấu tranh vì nhân quyền, theo nghĩa nhân có quyền (định đoạt-chọn lựa-quyết định-hành động) vì các định hướng mà nhân sinh thấy đúng cho công lý của nhân lý.

Tự do dám đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù có ngay trong tư duy của mỗi cá nhân, nhưng chính ý thức của tự do gầy dựng nên từ ý nghĩa của tự do này, sẽ chế tác ra dàn phóng cho chính nghĩa của tự do. Và tự do có ngay trong nảo bộ của cá nhân để dẫn tới hành động cụ thể vì công lý, ngay trong xã hội mà quần chúng đang bị lao lý hóa bằng bạo quyền, độc tài, tham nhũng.

Tự do chặt xiềng, tự tin phá nhà tù, nhiều khi tới từ lý luận về nhân quả (nhân nào quả nấy, tức nước thì vở bờ), bạo quyền mà bạo ngược quá thì sẽ bị lật đổ, chính dân là kẻ đóng thuyền nhưng cũng chính họ là kẻ lật thuyền, để dìm tà quyền, ma quyền xuống đáy sông. Tại đây thì tự do cũng đủ nội lực, đủ nội công để khẳng định quyền sống như xác nhận chính bản lĩnh của lý trí biết tự tư duy để đấu tranh vì tự do, mà không cần phải là nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng.

Tự do chặt xiềng, tự tin phá nhà tù, có mặt trong quyền công dân của một xã hội có công lý vì công bằng, lấy pháp lý để hỗ trợ pháp luật. Nhưng trong một chế độ mà bạo quyền, độc tài, tham nhũng không những đã áp đặt công an trị để đàn áp quần chúng, mà còn thao túng hiến pháp qua độc đảng, giật dây tư pháp qua độc trị ; thì tự do chủ quan bên trong của lý trí trong mỗi cá nhân phải được hình thành qua tự tin đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù trong xã hội bên ngoài. Tự do hành động trong phương trình của lý trí-trí tuệ-ý chí để xử lý các trở lực đang che chắn cho bạo quyền, độc tài, tham nhũng.

Tự do trong đấu tranh có thành công và có thất bại, nhưng ngay trong thảm bại, tự do không tuyệt vọng, vì chính nghĩa của tự do sẽ làm nội lực cho chính khí của tự do, cụ thể là không cúi đầu mà ngẩng đầu, không khoan tay mà thẳng lưng, không quỳ gồi mà thẳng bước đi về phía chân, thiện, mỹ. Phải đứng dậy với sung lực của đi tới, có hùng lực để leo dốc, có mảnh lực để nhảy vọt thẳng tới nhân phẩm, khi bạo quyền đang đe dọa nhân tính !

Tự do đã đi, tự tin đã tới

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân phẩm mỗi lần Nhân phẩm bị bạo quyền vùi dập, đày đọa.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân tính mỗi lần Nhân tính bị bất công biến thủ, gian lận.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân đạo mỗi lần Nhân đạo bị độc tài cướp đường đi, nẻo về.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân nghĩa mỗi lần Nhân nghĩa bị tham nhũng lủng đoạn, tha hóa.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ nhân từ mỗi lần nhân từ bị bạo lực đàn áp, bóp nghẹt.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân lý mỗi lần Nhân lý bị ý thức hệ thao túng, vu khống.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân tri mỗi lần Nhân tri bị bất tài ruồng rẩy, đào thải.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân trí mỗi lần Nhân trí bị ngu dân trùm phủ, nhiễm ô.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân luận mỗi lần Nhân luận bị toàn trị che lấp, xóa trắng.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân loại mỗi lần Nhân loại bị lãnh đạo bị ám bởi ma quyền, quỷ lực !

Tự do sử luận, tự tin sử tính

Mọi chủ thể đấu tranh vì tự do của Việt tộc xin nghiêm kính cúi đầu trước :

Ngô Quyền của dũng lực việt đuổi bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi, chấm dứt một ngàn năm Bắc thuộc.

Lê Đại Hành của hùng lực việt khẳng định non sông, chặn cho bằng được xâm lược phương Bắc.

Lý Thường Kiệt của minh lực việt, minh định đất nước Việt, tống ra khỏi biên cương bọn vô nhân đi cướp nước người.

Trần Hưng Đạo của trí lực việt, với thông minh việt giữ trọn tiền đồ của tổ tiên Việt tộc.

Trần Nhân Tông của nhân từ việt, dẹp bạo tàn để Việt tộc để được sống yên trong đạo pháp của nhân phẩm.

Nguyễn Trãi của thông thái việt, đuổi quân xâm lược bằng nhân nghĩa với trí nhân đi trên đầu giặc.

Quang Trung của sung lực việt, thần tốc tống giặc ra khỏi quê hương Việt, với khí thế vô song của bản lĩnh việt.

Ngày ngày tự do

Tác giả của tiểu luận này vẫn ngày ngày đi tìm tự do trong mọi sinh hoạt xã hội, học thuật, tri thức, trong tình người, tình đồng bào… xin cúi đầu trước :

Tất cả con dân Việt đã đấu tranh và đã hy sinh vì tự do của đồng bào, sinh tồn của dân tộc, bảo vệ quê hương như bảo vệ liêm sỉ của tự do.

Tất cả oan hồn, nạn nhân của bất công, đã chết tức tưởi vì vừa bị cướp đi nhân phẩm, vừa bị cướp mất tự do, luôn vẫn là máu nóng cho đấu tranh tự do trong cuộc sống hiện nay.

Tất cả dân oan, nạn nhân của tham nhũng, bị cướp đất, cướp nhà vẫn hằng ngày gào thét cho tự do có được một mái ấm, nhất là không để bị cướp đi nhân phẩm.

Tất cả dân đen, nạn nhân của bạo quyền, tủi nhục trong nghèo khổ, trong một chế độ với tham ô ngất trời, với các lãnh đạo túi tham không đáy, đã quên đi chính đồng bào của họ.

Tất cả các tù nhân lương tâm, nạn nhân của bạo quyền, đang trong vòng lao lý của tà quyền, nhân từ đày để bảo vệ tương lai Việt, không còn độc tài, vì phẩm chất Việt.

Tất cả các chủ thể đấu tranh vì nhân quyền, vì dân chủ, đang ngày ngày bị đe dọa, vu khống, xuyên tạc, khủng bố, bạo hành… nhưng luôn lấy nhân lý để giữ nhân đạo, nhân trí để nâng nhân tri.

Tất cả các chủ thể yêu nước, thầm lặng hay trực diện với tà quyền để chống lại tầu tặc trong hậu nạn của tầu họa bằng xâm lược, thôn tính với bao hậu quả của tầu hoạn, đang đe dọa nhân phẩm việt trong tàu họa.

Tự do

Tự do không được vất bừa bãi, vì nó không nhận nhiễm ô

Tự do bảo vệ sự yên lặng, lời nói, tình yêu

Tự do khi bị sám rồi nó lại tự tươi sáng lên

Tự do không buộc tội tôi, nó đẩy tôi nổi dậy để làm sáng mỗi bình minh

Tự do phải biết nói sự thật với sự cẩn trọng kinh khủng

Tự do đã có mặt trên con đường mà mọi chuyện đời sẽ tự được tìm thấy.

René CHAR

Lê Hữu Khóa

(19/12/2019)

-------------

suthat4  Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie,Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam ÁCố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc,Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sưLê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa. 

Published in Tư liệu