Henri Cernuschi : Từ đam mê đến bảo tồn nghệ thuật Châu Á tại Pháp
Thu Hằng, RFI, 25/11/2023
Paris có đến hai bảo tàng lớn nhất nước Pháp dành riêng cho nghệ thuật Châu Á : bảo tàng quốc gia Guimet và bảo tàng Cernuschi. Nằm ở quận 8, bảo tàng Cernuschi, trực thuộc thành phố, còn là bảo tàng lớn thứ năm dành cho nghệ thuật Trung Quốc tại Châu Âu. Quá trình hình thành bảo tàng được tái hiện qua triển lãm Retour d’Asie. Henri Cernuschi, un collectionneur au temps du japonisme (Từ Châu Á trở về. Henri Cernuschi, nhà sưu tập thời trào lưu Nhật Bản) từ ngày 06/10/2023 đến 04/02/2024.
Ông Eric Eric Lefebvre, giám đốc Bảo tàng Cernuschi giới thiệu với RFI Tiếng Việt về triển lãm Retour d’Asie. Henri Cernuschi, un collectionneur au temps du japonisme (Từ Châu Á trở về. Henri Cernuschi, nhà sưu tập thời trào lưu Nhật Bản) từ ngày 06/10/2023 đến 04/02/2024, Paris, Pháp © RFI / Thu Hằng
Từ khi mở cửa đón công chúng năm 1898, bảo tàng Cernuschi, mang tên nhà sưu tập, vị mạnh thường quân người Pháp gốc Ý, hiện có gần 15.000 đồ vật liên quan đến Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Henri Cernuschi (1821-1896) là ai ? Tại sao lại là "giai đoạn trào lưu Nhật Bản" ?
RFI tiếng Việt đặt câu hỏi với giám đốc bảo tàng Eric Lefebvre, tại lễ khai trương triển lãm ngày 05/10/2023.
"Henri Cernuschi là người có cuộc sống muôn mặt, một cuộc đời đầy phiêu lưu và sự kiện. Ông sống ở Milan (Ý) thời trẻ và trải qua một giai đoạn vô cùng quan trọng : Năm 1848, ông tham gia phong trào cách mạng để lập nền Cộng Hòa ở Milan và tham gia nhóm lãnh đạo phong trào phản đối quân đội Áo. Sau đó, Cernuschi cũng rất năng động trong thời kỳ Cộng Hòa ngắn ngủi ở Roma.
Phong trào cách mạng thất bại, ông đến Pháp bắt đầu một cuộc đời mới. Ông là nhà thầu trong rất nhiều lĩnh vực và cuối cùng giầu lên nhờ lĩnh vực tài chính. Dù vậy, ông vẫn luôn đam mê với tư tưởng chính trị, đến mức vào cuối Đế Chế 2 và khi nền Đệ Tam Cộng Hòa ra đời ở Pháp, ông nhập quốc tịch Pháp, dù sau đó, ông bị ám ảnh về những sự kiện bi thương giai đoạn Công Xã Paris. Sau Công Xã, lúc 50 tuổi, Cernuschi bắt đầu hành trình đến Châu Á.
Tại sao lại vượt Đại Tây Dương, băng qua Mỹ và Thái Bình Dương để đến Châu Á ? Cần sống lại bối cảnh thời đó. Cả một bầu không khí mới mẻ, thịnh hành lúc đó, mà người ta gọi là "trào lưu Nhật Bản". Ai cũng biết là giới nghệ sĩ, trí thức Pháp trong nửa sau thế kỷ 19 bị ảnh hưởng bởi xu hướng này. Qua đồ gốm sứ, các nghệ sĩ Pháp phát hiện ra tranh vẽ Nhật Bản nổi tiếng. Loại hình nghệ thuật này ảnh hưởng rất lớn đến các nghệ sĩ theo trường phái Ấn Tượng. Ở nửa sau thế kỷ 19, rất nhiều nhà trí thức và nghệ sĩ bắt đầu chu du đến Châu Á. Cernuschi cũng vậy. Ông đến Nhật Bản trước tiên, sau đó đến Trung Quốc, Indonesia, Sri Lanka và Ấn Độ".
Lối vào bảo tàng Cernuschi và quảng cáo Triển lãm Từ Châu Á trở về. Henri Cernuschi, nhà sưu tập thời trào lưu Nhật Bản © RFI / Geng
Cernuschi : Doanh nhân Pháp mang tâm hồn Châu Á
Ở tuổi 50, Henri Cernuschi chu du thế giới với nhà báo Théodore Duret, cũng là một người Cộng Hòa. Chuyến đi kéo dài 16 tháng, từ tháng 07/1871 đến tháng 01/1873, đưa họ đi từ Liverpool (Anh) vượt Đại Tây Dương đến New York, đi xuyên Hoa Kỳ sang bờ Tây để từ San Francisco vượt Thái Bình Dương và đến Yokohama, Nhật Bản vào tháng 10/1871. Sau gần ba tháng ở Nhật Bản (Tokyo, Kobe, Osaka, Kyoto và Nara), họ đến Hoa lục (Bắc Kinh, Nội Mông, Hàng Châu, Thiên Tân, Nam Kinh), Hồng Kông, đảo Java (Jakarta, Bandung và Yogyakarta), Sri Lanka, đến Ấn Độ (Madurai, Calcutta, Agra, Rajastan, Ellora) và từ Mumbay về Liverpool (Anh).
Hành trình của Cernuschi được thể hiện một cách sinh động, kết hợp âm thanh, hình ảnh, đồ vật trưng bày, cùng với lời bình của một hướng dẫn viên trong vòng một tiếng rưỡi để khách tham quan không bị nhàm chán. Giám đốc Eric Lefebvre cho biết tiếp :
"Chúng tôi kỉ niệm một sự kiện quan trọng. Tròn 150 năm Henri Cernuschi kết thúc chuyến chu du Châu Á, cho nên đây là dịp để tái hiện lại chuyến đi và để hiểu thêm về bộ sưu tập đặc biệt. Chỉ trong tầm16 tháng, ông sưu tập khoảng 5.000 đồ vật, sau đó chia sẻ với công chúng Pháp trên đại lộ Champs-Elysée vào năm sau và cuối cùng là xây tòa nhà này chỉ để dành trưng bày bộ sưu tập. Đó là điều rất đặc biệt mà chúng tôi kỉ niệm ở bảo tàng".
Nhật Bản được Henri Cernuschi chọn làm điểm khởi đầu chuyến chu du bởi quần đảo mở cửa giao thương với thế giới ngay từ năm 1854, xã hội chuyển mình mạnh mẽ nhờ những biện pháp cải cách dưới thời Minh Trị (Meiji). Henri Cernuschi còn đi trước thời đại khi ông sưu tập đồ đồng sau khi khám phá ra quy mô và trình độ đúc đồng của các nghệ nhân Nhật Bản trong khi giới nghệ sĩ Châu Âu vẫn đang say sưa với sơn mài và gốm sứ.
Trong bộ sưu tập của ông có bức tượng Phật Amida cao lớn, sau này trở thành một trong những vật chủ đạo hình thành bảo tàng và hiện được trưng bày ở tầng hai. Bức tượng phản ánh kĩ năng điêu luyện của các nhà đúc đồng Nhật Bản, cũng như sự quan tâm của Cernuschi đến nghệ thuật Phật giáo. Rất nhiều đồ vật, tranh, sách liên quan đến Phật giáo được ông bổ sung trong bộ sưu tập sau này.
Khi đến Bắc Kinh, tiếp xúc với những người buôn đồ cổ ở phố Lưu Li Xưởng (Liulichang), Cernuschi quan tâm đến quá trình phát triển nghệ thuật đúc đồng của Trung Quốc. Không có đủ hiện vật để bắt đầu từ nguồn cội, dù ông có một đồ vật có từ thế kỷ II-TCN, nhà sưu tập Pháp nhấn mạnh đến cách sưu tập của người Trung Quốc, những ký tự được khắc trên đồ đồng hoặc tài liệu liên quan đến đồ đồng cổ dù ông không hiểu chữ Hoa.
Một bức tượng đồng Nhật Bản được Henri Cernuschi mang về từ chuyến chu du Châu Á năm 1871, được trưng bày tại Triển lãm Từ Châu Á trở về. Henri Cernuschi, nhà sưu tập thời trào lưu Nhật Bản, Bảo tàng Cernuschi, Paris, Pháp. © RFI / Thu Hằng
1.800 đồ vật trong Bộ sưu tập Việt Nam
Bốn gian phòng triển lãm mới chỉ trưng bày được một phần rất nhỏ hiện vật được lưu trong kho của bảo tàng. Henri Cernuschi không đến Việt Nam nhưng bộ sưu tập Việt Nam trong bảo tàng có đến 1.800 đồ vật, chiếm 10% số đồ vật của bảo tàng, trải dài 2500 năm, từ thế kỷ V-TCN. Theo giám đốc Eric Lefebvre, bộ sưu tập Việt Nam không ngừng được mở rộng.
"Henri Cernuschi không thăm được hết các nước Châu Á. Bộ sưu tập của ông chủ yếu liên quan đến Nhật Bản và Trung Quốc. Sau khi ông qua đời, bảo tàng tiếp tục hoạt động và mở rộng các bộ sưu tập. Đặc biệt là trong những năm 1920-1930, bộ sưu tập Việt Nam được hình thành, chủ yếu liên quan đến Việt Nam cổ đại nhờ những công trình khảo cổ được tiến hành ở Việt Nam trong giai đoạn đó.
Trước hết là những tác phẩm có từ thời văn minh Đông Sơn, cho thấy sự xuất hiện thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam và những tác phẩm giai đoạn này. Tiếp theo chúng tôi cũng có những tác phẩm thời Giao Chỉ. Cuối cùng, công việc trong những năm gần đây của chúng tôi là kết nối giữa cổ đạivới hiện đại. Chúng tôi thắt chặt quan hệ với đồng nghiệp Việt Nam, các bảo tàng ở Việt Nam cũng như các nghệ sĩ Việt".
Theo trang web của bảo tàng, khoảng 100 đồ vật đầu tiên bằng đá, đồng và gốm liên quan đến Việt Nam được mua ngay năm 1927 từ doanh nhân Victor Demange ở Hà Nội và đam mê khảo cổ. Đến năm 1933, bảo tàng nhận được khoảng 50 đồ vật có niên đại thế kỷ X đến thể kỷ XV từ bộ sưu tập của doanh nhân Bỉ Clément Huet. Đến năm 1955, một chiếc vạc ba chân trong bộ sưu tập của Albert Pouyanne, thanh tra công chính Đông Dương trong thập niên 1920, được đưa vào bảo tàng.
Vại gốm thời Trần, thế kỷ XII-XIV, quà tặng từ mạnh thường quân ẩn danh cho Bảo tàng Cernuschi năm 2017, Paris, Pháp © RFI / Thu Hằng
Sau đó, bộ sưu tập Việt Nam của bảo tàng Cernuschi được bổ sung từ ba chương trình khảo cổ trong những năm 1934-1939 của nhà khảo cổ Thụy Điển Olov Janse (1892-1985) kết hợp với Trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO). Hai chương trình đầu tiên (từ tháng 10/1934 - 05/1935 và từ tháng 10/1936 - 01/1938) do Hiệp hội Các Bảo tàng của thành phố Paris, các bảo tàng quốc gia và bộ Giáo Dục Pháp đồng tài trợ. Đồ vật tìm được được chia chủ yếu cho các Bảo tàng Cernuschi và Bảo tàng Guimet ở Pháp, Bảo tàng Louis Finot ở Hà Nội (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam).
Đồ đồng và gốm sứ là hai lĩnh vực chủ đạo trong bộ sưu tập Việt Nam. Tuy nhiên, những năm gần đây, bảo tàng Cernuschi hướng đến nhiều lĩnh vực khác, theo giải thích của giám đốc Eric Lefebvre :
"Hiện giờ chúng tôi quan tâm đến nghệ thuật Việt Nam trong nhiều lĩnh vực. Dĩ nhiên chúng tôi vẫn quan tâm đến nghệ thuật cổ của Việt Nam nhưng tập trung nhiều hơn vào nghệ thuật hiện đại, đặc biệt là đến những nghệ sĩ đã sống giữa Việt Nam và Pháp.
Chúng tôi cũng được trao tặng rất nhiều. Món quà đặc biệt gần đây nhất là từ gia đình họa sĩ Mai Thứ, đã giúp mảng hội họa hiện đại của bảo tàng phong phú hơn. Đó là những tác phẩm được vẽ trên lụa, những bản thảo trên giấy mới được tặng lại cho bảo tàng.
Để giới thiệu những bộ sưu tập này tới công chúng, chúng tôi thường tổ chức các buổi treo tranh bởi vì những tác phẩm này thường rất dễ hỏng nếu liên tục trưng bày. Ví dụ vào tháng 12/2023, chúng tôi sẽ triển lãm về phụ nữ Việt Nam trong nghệ thuật hiện đại. Sẽ có rất nhiều tranh của Nguyễn Phan Chánh, vì nghệ sĩ là gương mặt chính của đợt treo tranh kéo dài từ cuối năm 2023 đến những tuần đầu năm 2024.
Năm 2024, chúng tôi sẽ tổ chức một triển lãm lớn dành riêng cho ba họa sĩ Việt Nam là Lê Phổ, Mai Thứ và Vũ Cao Đàm".
Thu Hằng
Nguồn : RFI, 24/11/2023
***************************
Hội họa Việt Nam tại bảo tàng Nghệ thuật Châu Á Cernuschi, Paris
Thu Hằng, RFI, 27/07/2018
Một đám trẻ bụ bẫm đang tắm trong tác phẩm tranh lụa "Tắm ao" (Baignade, 1962) của Mai Thứ (1906-1980), một thiếu nữ e dè rửa chân bên rặng chuối, một cụ bà gầy gò còng lưng gỡ lưới cá… là một số những tác phẩm mới được đưa vào bảo tàng Cernuschi, chuyên về nghệ thuật Châu Á tại Paris, và được triển lãm đến hết ngày 04/11/2018.
Bộ sưu tập hội họa Việt Nam được tặng cho bảo tàng Nghệ thuật Châu Á Cernuschi, Paris, tháng 07/2018. RFI tiếng Việt
Năm 2017, Bộ sưu tập Việt Nam của bảo tàng Cernuschi thêm phong phú hơn nhờ một loạt những tác phẩm quan trọng được tặng hoặc mua lại. Loạt tranh đầu tiên gồm 13 tác phẩm của nhiều họa sĩ trường Mỹ Thuật Nam Kỳ trong giai đoạn 1930-1940, do ông Marcel Schneyder, con trai của ông bà Thérèse và René Schneyder, công chức cao cấp Pháp ở Đông Dương (1924-1951), trao tặng để công chúng có thể thưởng lãm. Ngoài ra, bảo tàng còn nhận được bốn chiếc bình cổ, gây ấn tượng vì kích thước, chất lượng và sự độc đáo trong họa tiết trang trí.
Cuối cùng phải kể đến nhiều tác phẩm của họa sĩ Mai Thứ, được người con gái là bà Mai Lan Phương, tặng cho bảo tàng. Khi trả lời RFI tiếng Việt, bà Anne Fort, quản thủ Di sản, phụ trách bộ sưu tập Việt Nam của bảo tàng Cernuschi, đánh giá những tác phẩm của họa sĩ Mai Thứ mang ý nghĩa rất lớn đối với bảo tàng :
"Năm ngoái (2017), chúng tôi may mắn được con gái của họa sĩ Mai Thứ tặng rất nhiều tranh. Họa sĩ Mai Thứ sống ở Pháp từ những năm 1940, ông sống bằng nghệ thuật và rất nổi tiếng, nhưng lại không có bất kỳ tác phẩm nào của ông được xếp là tài sản của công chúng. Vì thế, chúng tôi rất vui vì năm nay (2018) có thể giới thiệu cho công chúng tác phẩm "Tắm ao" (Baignade) của Mai Thứ. Đây cũng là tác phẩm đầu tiên của họa sĩ nổi tiếng này được xếp là tài sản của công chúng.
Năm ngoái, ngoài tác phẩm của họa sĩ Mai Thứ được tặng cho bảo tàng, chúng tôi còn có một bộ sưu tập gồm rất nhiều tranh vẽ, hai sản phẩm gốm và một tác phẩm sơn mài, của ông Marcel Schneyder. Ông là con trai của René Schneyder, một công chức cao cấp Pháp làm việc ở Nam Kỳ. Vì tính chất công việc, ông René Schneyder đã làm quen với nhiều nghệ sĩ và hay thăm trường nghệ thuật ứng dụng Nam Kỳ. Nhờ đó mà ông đã hình thành được bộ sưu tập của mình".
Giới thiệu tác phẩm của học sinh trường Nghệ thuật Gia Định
Cho đến nay, tác phẩm của học sinh các trường nghệ thuật ứng dụng Nam Kỳ hoàn toàn vắng bóng trong các bộ sưu tập của bảo tàng Pháp. Những tác phẩm được ông Marcel Schneyder tặng bảo tàng Cernuschi giúp công chúng hình dung ra được quá trình đào tạo nghệ thuật tranh sơn mài tại trường Thủ Dầu Một (thành lập năm 1901), những tác phẩm gốm sứ của trường Biên Hòa (thành lập năm 1903) và nghệ thuật khắc, vẽ của trường Gia Định (thành lập năm 1913). Bà Anne Fort giới thiệu về bộ sưu tập mới nhận :
"Ở đây chúng tôi trưng bày một chiếc bình lớn của trường Biên Hòa. Đây là trường nghệ thuật ứng dụng, được thành lập năm 1903, dưới sự bảo trợ của Pháp, với mục đích khuyến khích nghệ thuật dân gian tinh túy vì người Pháp nhận thấy là các nghệ nhân Việt Nam có tay nghề rất cao, đồng thời phía Pháp cũng muốn đổi mới hình dạng mà vẫn giữ được nguyên chất lượng. Vì thế, họ sáng tạo ra một phong cách mới.
Ở đây, ta có thể thấy phong cách lai giữa hình dạng một chiếc bình lớn, có thể là để đựng gậy hoặc dù, có nghĩa là hoàn toàn nhằm mục đích sử dụng hàng ngày theo kiểu phương Tây, còn cách trang trí lại là hàng loạt các con sư tử xung quanh cổ chiếc bình, làm người ta liên tưởng đến Trung Quốc đời nhà Hán hoặc nhà Đường, từ thế kỷ II đến thế kỷ VII hoặc VIII. Phần còn lại ở bề ngoài chiếc bình, ở phía dưới, là những họa tiết trang trí nổi, theo kiểu cổ của Trung Quốc, khoảng thế kỷ I trước Công nguyên.
Có thể nói, tác phẩm tổng hợp hình dạng của chiếc bình Việt, được Tây hóa, kỹ thuật và vật liệu đất là của Việt Nam, nhưng họa tiết trang trí lại được pha trộn giữa hai thời kỳ khác nhau của Trung Quốc".
Vẫn theo bà Anne Fort, quản thủ di sản, phụ trách bộ sưu tập Việt Nam, một điều thú vị là hầu hết các nghiên cứu khoa học thường tập trung vào trường Mỹ Thuật Đông Dương ở Hà Nội, còn trường Gia Định, một cơ sở đào tạo quan trọng ở miền Nam, lại không được biết đến. Từ một trường đào tạo nghệ thuật ứng dụng để làm việc trong ngành địa bạ, vẽ bản đồ hoặc văn phòng kiến trúc sư, trường Gia Định đã thay đổi trong những năm 1926-1927 để trở thành một trường đào tạo thực thụ các nghệ sĩ, dù không nhiều bằng trường Mỹ Thuật ở Hà Nội.
"Chúng tôi muốn triển lãm tranh của họa sĩ Trần Duy Liêm. Chúng tôi biết là ông đã tiếp tục sự nghiệp họa sĩ. Ông tốt nghiệp trường Gia Định, ông tiếp tục giảng dạy và tham gia nhiều triển lãm quốc tế ở Sài Gòn.
Một đặc điểm của học sinh trường Gia Định là họ ký tên lên tác phẩm của mình. Thế nhưng, chúng tôi lại có rất ít thông tin, thậm chí là không có chút thông tin nào về những họa sĩ này. Chúng tôi nhận được món quà gần 540 bản chuyên khảo về Đông Dương. Và qua những tác phẩm này, người ta có thể thấy được phong cảnh, hoạt động của con người có giá trị hình họa rất quan trọng, như cảnh hái trầu, hái thuốc lá, cách đánh cá, vận chuyển nước mắm như thế nào.."..
1.800 đồ vật của nghệ thuật Việt Nam tại bảo tàng Cernuschi
Những món quà nhận được trong năm 2017 đã làm phong phú thêm bộ sưu tập Việt Nam của bảo tàng Cernuschi, hiện có hơn 1.800 tác phẩm, chiếm gần 10% số tác phẩm của bảo tàng :
"Năm ngoái, khi chúng tôi nhận được những bức tranh do một số họa sĩ trường Gia Định vẽ, tình trạng của những tác phẩm này rất xấu vì chúng chỉ được bảo quản trong một chiếc túi bảo vệ rất bình thường. Chắc là trước đây, chúng được treo trên tường, sau đó bị mối mọt gặm nhấm và bị nắng nóng tác động. Vì thế, tất cả mép của những bức tranh này bị thiếu, một số tranh bị thủng, có thể là do mối mọt ăn mất giấy.
Cả mùa xuân 2018, chúng tôi đã phục hồi, trùng tu những tác phẩm này nhờ tay nghề của những người thợ phục hồi giấy đầy kinh nghiệm. Chúng tôi đã lót thêm phần bị thiếu, sau đó là đóng khung. Nhờ công việc này, tình trạng cho các bức tranh đã được khôi phục".
Bà Anne Fort cho rằng Bộ sưu tập Việt Nam của bảo tàng Cernuschi không có quy mô lớn nhưng khá hiếm vì rất ít cơ sở ở Pháp quan tâm thật sự đến Việt Nam, đặc biệt là Việt Nam ở thế kỷ XX. Dĩ nhiên phải nhắc đến bộ sưu tập khảo cổ rất lớn của bảo tàng Guimet, nhưng bảo tàng Cernuschi cũng có những tác phẩm thú vị về Việt Nam.
"Ở Paris nói riêng và ở Pháp nói chung, một điều may mắn là còn có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật được bảo quản ở nhà dân. Vì thường những người này có cha mẹ hoặc ông bà từng sống ở Đông Dương. Sau khi kết thúc nhiệm kỳ hoặc nghỉ hưu, họ trở về Pháp và trong hành lý trở về thường có những tác phẩm hội họa, tranh vẽ, đồ gốm, đồ đồng, sơn mài... Hiện vẫn còn rất rất nhiều đồ vật được mang ra bán đấu giá. Những kho báu này thường được người Châu Á mua lại.
Đối với các cơ quan Pháp, điều quan trọng là phải giữ được dấu tích mọi trao đổi giữa Pháp và Việt Nam vì đây là cách duy nhất để bảo vệ mối liên hệ này, dù từng rất đau xót, vì phần lớn các trường nghệ thuật ngày nay ở Việt Nam được thành lập trong quá khứ theo mong muốn của phía Pháp. Dù sao người Pháp cũng muốn phát triển nghệ thuật và khả năng tiếp cận nghệ thuật hiện đại, mới mẻ, tạo ra được những tác phẩm lý thú kết hợp giữa nghệ thuật phương Tây và phương Đông".
Những tác phẩm hội họa Việt Nam mới được đưa vào bảo tàng Cernuschi còn được giới thiệu đến công chúng ngày 04/11/2018, song song với một số buổi giới thiệu và thảo luận.
Bà Anne Fort không che dấu sự ngạc nhiên về số lượng "like" trên mạng xã hội khi bảo tàng Cernuschi thông báo tổ chức triển lãm những tác phẩm Việt Nam, như kiểu một sự kiện được trông đợi từ lâu. Dù đó là những người gốc Việt hoặc không phải gốc Việt, nhưng họ đã từng sống ở Việt Nam, hoặc có người thân sống ở Việt Nam. Sự kiện này đã tác động đến họ và thôi thúc họ đến xem những tác phẩm mới này.
Thu Hằng
Nguồn : RFI, 27/07/2018
*******************************
Cernuschi triển lãm hội họa Việt Nam : Từ Sông Hồng đến Cửu Long
Tuấn Thảo, RFI, 21/09/2012
Từ Sông Hồng đến Cửu Long - Những tầm nhìn về Việt Nam (Du Fleuve Rouge au Mékong – Visions du Vietnam ). Đó là tựa đề cuộc triển lãm tại viện bảo tàng Cernuschi. Nếu như vài năm trước, các bảo tàng ở Paris từng trưng bày cổ vật và nghệ thuật của Việt Nam, thì lần này, Cernuschi đã tập hợp được khá nhiều tác phẩm hội họa và mỹ nghệ đầy giá trị.
Thiếu nữ uống trà, bức tranh lụa được họa sĩ Vũ Cao Đàm vẽ vào khoảng 1935 (Bộ sưu tập tư nhân) DR
Sơn dầu, tranh lụa, sơn mài, màu nước, tượng đồng hay đất nung, khoảng 70 tác phẩm của các nghệ sĩ người Pháp cũng như của người Việt đưa người xem triển lãm ngược dòng thời gian, tìm lại phong cảnh và dáng vẻ con người Việt Nam từ hậu bán thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.
Cuộc triển lãm, khai mạc từ chiều hôm qua, chính thức mở cửa tiếp đón công chúng kể từ hôm nay (thứ Sáu 21/09/2012) cho đến 27/01/2013. Ngoài việc trưng bày các bức tranh của các họa sĩ Pháp từng đến hay từng sống ở Việt Nam, viện bảo tàng Cernuschi còn giới thiệu nhiều tác phẩm của danh họa Việt Nam, đa số xuất thân từ trường Mỹ thuật Đông Dương, cho thấy là từ sự tiếp cận và cọ sát với kỹ thuật Tây phương, đã nảy sinh rồi phát triển các trường mỹ thuật tại Việt Nam.
Trong số các họa sĩ Pháp, có nhiều người từng được trao giải thưởng Đông Dương như Henri Dabadie, Charles Fouqueray, François de Marliave, Jonchère Évariste, Lucien Lièvre, Louis Bâte.... Về phía Việt Nam, có rất nhiều tên tuổi đã để lại dấu ấn sâu đậm trong làng hội họa như Lê Phổ, Lê Văn Đệ, Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Vũ Cao Đàm, Tô Ngọc Vân, Vũ Tiến Chức, Nguyễn Gia Trí, Lương Xuân Nhị, Lưu Văn Sìn, Tôn Thất Đào... Giao lưu Pháp - Việt sẽ là chủ đề trong chương trình văn hóa kỳ tới.
Cuộc triển lãm Từ Sông Hồng đến Cửu Long có giá trị ít nhất là trên ba điểm. Thứ nhất, hầu hết các tác phẩm đều là chính gốc, nguyên tác có ghi rõ xuất xứ hoặc chứng nhận sở hữu. Thứ nhì là giá trị lịch sử, bởi vì một số tác phẩm đã bị thất lạc bặt tin từ hàng chục năm qua, người xem chỉ được thấy qua ảnh chụp, sách báo minh họa hay bản sao chép, nay các tác phẩm này xuất hiện trở lại.
Thứ ba là giá trị tình cảm : nhiều bức tranh đến từ các bộ sưu tập gia đình, ít khi nào đem ra phổ biến cho công chúng, trường hợp tiêu biểu của họa sư Nam Sơn, người đồng sáng lập Trường Mỹ thuật Đông Dương (tiền thân của Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, nằm tại đường Yết Kiêu - Hà Nội) vào năm 1924 với họa sĩ Victor Tardieu. Gia đình của cụ Nam Sơn đã cho viện bảo tàng mượn hai bức tranh để triển lãm. Bên cạnh đó, đằng sau một số tác phẩm còn ẩn chứa nhiều giai thoại thú vị, nói lên tâm tình, hoàn cảnh của chính tác giả, trường hợp của họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh và Nguyễn Gia Trí.
Song song với triển lãm, viện bảo tàng Cernuschi còn tổ chức nhiều buổi thuyết trình bổ sung và chiếu phim tài liệu nói về việc trùng tu các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh. Trong số những chuyên gia tham gia thuyết trình có giáo sư Đinh Trọng Hiếu, chuyên ngành dân tộc học, từng giảng dạy bộ môn Văn minh Việt Nam tại đại học Paris VII. RFI đã mời giáo sư Đinh Trọng Hiếu nói về tầm vóc và ý nghĩa của cuộc triển lãm Từ Sông Hồng đến Cửu Long. Sau đây là nguyên văn phát biểu của giáo sư :
"Đầu thu năm nay Bảo tàng Cernuschi tổ chức một cuộc triển lãm tôi cho là quan trọng. Bảo tàng này là một trong những Bảo tàng xưa nhất ở Paris, chuyên lưu trữ và chưng bày hiện vật và tác phẩm mỹ thuật về Châu Á. Lần này cuộc triển lãm xoay quanh đề tài "Từ sông Hồng đến Cửu Long, những cách nhìn về Việt Nam". Triển lãm bao gồm những tác phẩm hội họa, điêu khắc của những nghệ sĩ Pháp, phần lớn đã được "Giải thưởng Đông Dương", ghi lại phong cảnh và con người ở đất nước ta. Có lẽ cũng có vài bức đẹp, nhất là của ông Imguimberty và của bà Alix Aymé, cả hai đều giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Đông Dương tại Hà Nội, từ 1924 trở đi. Nhưng tôi muốn nói nhiều hơn đến những tác phẩm của các họa sĩ Việt Nam, phần lớn là những họa sĩ tên tuổi, nổi danh từ những năm 1930, trong đấy phải kể đến : Nam Sơn, vừa là họa sĩ vừa là họa sư, Lê Phổ, Mai Thứ, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Vũ Cao Đàm, v.v…
Phải nhấn mạnh đến một điểm : đây là cuộc triển lãm hiếm hoi, có thể nói là duy nhất từ mấy chục năm qua, trong ấy tranh tượng đều là "đồ zin", nói như bây giờ thường nói, toàn đồ thật, không có đồ rởm, đồ giả, nhiều bức tranh ghi rõ lai lịch, xuất xứ. Đấy là nhờ công sức của nhà sưu tập từ hàng chục năm nay, bỏ công bỏ của ra để gìn giữ, trân trọng di sản văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam. Tôi không muốn nói nhiều, như có vẻ "quảng cáo".
Tính chất "thật" của các tác phẩm khiến giới chuyên môn chú ý : sẽ có một phái đoàn năm chuyên gia sưu tập người Nhật đến thăm triển lãm, và ngắm nghía một bức tranh, bức tranh lụa "Lên Đồng" do Nguyễn Phan Chánh vẽ năm 1931. Bức này được kỹ sư điện Pierre Massé mua ngay với họa sĩ, tại Hà Nội, để làm quà cưới cho phu nhân. Sau đấy, không ai nhắc đến nữa, chỉ còn hình do báo ảnh Illustration và người chủ là Roger Baschet in lại và lưu truyền cho tới nay. Dựa vào ảnh này, người ta đã vẽ lại, vẽ rất khéo, một bức "Lên Đồng" khác hiện có mặt trong Bảo tàng (xin miễn nói ở đâu) cho nên giới hâm mộ nghệ thuật của Nguyễn Phan Chánh, nhất là bên Nhật, đâm ra thắc mắc. Cho nên họ sang tận nơi, ở Paris này, để xem một bức tranh thật quý giá và nổi tiếng mà hơn 70 năm ít người được thấy. Bức này đã được mua lại và có giấy chứng nhận của gia đình ông bà Massé.
Một bức tranh lụa khác, thật đẹp, cũng của Nguyễn Phan Chánh, nhan đề là "Thiếu nữ chải tóc", cũng được trưng ra trong cuộc triển lãm này : nó thuộc sở hữu của Bảo tàng Cernuschi. Lê Phổ, Tô Ngọc Vân cũng có mặt với những bức tranh lụa từ thập niên 30, trong sưu tập cũ của giáo sư Pierre Huard. Ai trong chúng ta cũng biết rằng giáo sư Huard đã cùng bác sĩ Đỗ Xuân Hợp góp phần giảng dạy môn giải phẫu không những ở Đại học Y khoa Hà Nội, mà còn chính tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật nữa, cho nên cách chọn tranh rất là tinh tế.
Trong triển lãm, ta còn thấy một bức tranh lụa khác mà tôi cho là đẹp, đấy là bức vẽ hai mẹ con đang ngồi thêu, ký tên Nguyễn Văn Thịnh. Họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh tốt nghiệp Khóa IV Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Hà Nội (1928-1933), cùng khóa với những họa sĩ khác lừng danh : Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường (nổi tiếng vì kiểu áo dài Le Mur). (Nguyễn Gia Trí theo học Khóa IV, song bỏ học, sau tốt nghiệp Khóa VII, để trau dồi kỹ thuật sơn mài, chứ chẳng cần vội vàng tốt nghiệp). Trở lại họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh : đây là bức họa "ra Trường" của một "thủ khoa". Sau này ít nghe thấy nhắc đến tên tuổi Nguyễn Văn Thịnh, nếu không có bức họa này họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh sẽ… mai danh !
Tầm quan trọng của cuộc triển lãm này là như thế, ngoài việc thưởng lãm những tranh tượng đẹp, ta còn có thể theo dõi chuyển biến nghệ thuật của những họa sĩ danh tiếng như Mai Thứ (từ tranh sơn dầu đến tranh lụa), Lê Phổ (từ cái nhìn thực đến hư cấu), Vũ Cao Đàm (từ điêu khắc đến cách điệu sơn dầu). Xin mở dấu ngoặc nhỏ : tôi cũng có một bức tượng đất nung, của Vũ Cao Đàm, nhưng có lẽ không đẹp bằng bức trưng ở Cernuschi. Đấy là chưa kể đến những tác phẩm khác có mặt trong phòng tranh : của Nam Sơn (hai bức), của Lương Xuân Nhị (hai bức). Nguyễn Gia Trí lần này, ở đây, chỉ có một tấm sơn mài nhỏ, thật đáng tiếc, vì ở Pháp, tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí được công chúng hâm mộ, có bức "bình phong" dài hơn bốn thước… Tuy vậy bức sơn mài nhỏ này chứa đựng tâm tư của nhà nghệ sĩ giữa thời cuộc : khoảng những năm cuối thập niên 40, đầu thập niên 50, họa sĩ bị nhà đương cuộc Pháp làm khó dễ, bắt bớ. May, nhờ người bạn là kỹ sư điện khí Nguyễn Duy Thanh có chân trong Hội đồng Liên hiệp Pháp can thiệp, nên được thả ra. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí đã tặng kỹ sư Nguyễn Duy Thanh bức tranh này, vẽ cảnh "Cá chậu chim lồng", để tri ân.
Cạnh cuộc triển lãm, mà tôi vừa nhắc qua đến tầm quan trọng, Bảo tàng Cernuschi muốn thêm phần hiểu biết về Việt Nam hơn, nên cho tổ chức một số thuyết trình, bổ sung cho triển lãm. Có thuyết trình của những nhà nghiên cứu khác, về hội họa, về kiến trúc, về âm nhạc, như phần của anh Trần Quang Hải về Hát Bội và Hát Chèo, về nghệ thuật Chàm, về truyền thuyết, vân vân… Phần tôi, sẽ thuyết trình ngày thứ năm 25 tháng 10 về đóng góp của "Trường Mỹ thuật Gia Định", mà ta thường gọi một cách thân mật là "Trường Vẽ Gia Định". Như quý bạn đều biết, năm tới, ngày 14 tháng 10 năm 2013, sẽ kỷ niệm long trọng một trăm năm thành lập Trường này, cho nên đóng góp của tôi, tuy nhỏ nhoi, cũng có đôi chút ý nghĩa.
Tôi sẽ trình bày về Bộ Chuyên khảo bằng tranh vẽ về Đông Dương (Monographie dessinée de l’Indochine), Bộ Chuyên khảo này ít người biết tới, năm 2008 đã đoạt giải "Sách Vàng", và đến năm 2011 được triển lãm tại Lễ hội đường sách Xuân Tân Mão năm 2011. Đây là bộ tranh đồ sộ gồm 520 bức vẽ, in li-tô, phần lớn đều tô màu, mô tả phong cảnh, cách sinh sống của dân nước ta vào khoảng 1935. Chính xác thì có 4 bộ về xứ Bắc, 1 bộ về miền Trung, 6 bộ về miền Nam, 2 bộ về Căm-pu-chia và nước Lào. Tranh vẽ đặt dưới sự chỉ đạo của ông Jules Gustave Besson, thanh tra các Trường Mỹ thuật và Mỹ nghệ ở miền Nam, và cũng là Hiệu trưởng của Trường Mỹ thuật Gia Định đến hơn 10 năm. Học sinh Gia Định tham gia đông đảo để thực hiện cuốn sách này, và tụ họp lại thành "Hiệp hội các Nghề Trang trí và Hợp tác xã Gia Định". Sách do Nhà xuất bản Paul Geuthner in theo các bản vẽ (1935-1938-1943).
Tôi đã dùng nhiều hình ảnh trong bộ tranh này từ năm 1991 để minh họa cho cuộc sống của dân ta, trước đây, và ngày nay, để so sánh một số khác biệt Bắc Nam (nhất là về quy mô sản xuất lúa gạo) và cũng để minh họa cho nhiều biên khảo nằm trong việc giảng dạy môn «Văn minh văn hóa Việt Nam" tại Đại học Paris 7, từ năm 1975 cho đến khi nghỉ hưu năm 2002. Điều này nói lên sự chính xác của hình vẽ, phần lớn là vẽ bút chì, thêm tô màu công phu, của học sinh Trường Vẽ Gia Định. Về mặt này những bức vẽ đã giúp ta có một cái nhìn thực tế của đất nước và con người Việt Nam, khác hẳn cách nhìn thật mỹ miều nhưng không "đẫm mồ hôi" của các nhà họa sĩ. Nói vậy không có nghĩa là bắt họa sĩ chỉ được "tả chân" và buộc nghệ thuật phải có tầm mức "tư liệu".
Không ! Nghệ thuật là sáng tạo, nhưng tôi vẫn muốn hỏi : tại sao một họa sĩ Nhật, như Hokusai, như Hiroshige lại có thể cho ta, vừa thưởng thức thiên nhiên Phù Tang, vừa yêu cái nên thơ của bức họa, vừa thấy được đời sống thường nhật của đại đa số quần chúng ? Đấy chỉ là một câu hỏi. Theo tôi, thì ở bên Pháp cũng thế : nếu được đào tạo theo cách nhìn của một Puvis de Chavanne thì sẽ vẽ "thoát tục" như Puvis de Chavanne, còn có cái nhìn sắc sảo, châm biếm như Honoré Daumier thì sẽ vẽ thể hiện cuộc sống một cách thật táo bạo, châm biếm, phê phán, nếu không gọi là đấu tranh… Tôi làm buổi thuyết trình này cũng có ý lập lại cán cân thăng bằng, không những chỉ về cái nhìn về đất nước ta, cho thấy một cách nhìn đầy thực tiễn mà cũng vẫn rất đẹp, đầy tính chất sáng tạo, nhưng còn muốn lập lại cái cân bằng cho những họa sĩ Trường Mỹ thuật Gia Định, vắng mặt trong cuộc triển lãm.
Buổi thuyết trình của tôi nhằm tránh cái "vênh" ấy : đã bảo rằng "Từ sông Hồng đến Cửu Long" mà ít thấy bóng dáng cây dừa, sông rạch… Không ổn. Đành rằng có mặt một Lê Văn Đệ, một Diệp Minh Châu, nhưng cả hai đều được đào tạo ở Hà Nội. Có bức tranh sơn mài của Thành Lễ, nhưng nếu nhìn kỹ thì có suối, có núi, có rừng, có cầu, có người gồng gánh, kẻ cưỡi ngựa, tổng hợp lại cả Bắc Trung Nam,nhiều thời đại… Cũng hay ! Song, nếu xem cảnh một góc chợ dưới bàn tay, con mắt của học sinh Gia Định, sẽ thấy đâu là cái đặc thù của buổi họp chợ ở miền Nam. Ngoài ra, còn cảnh sản xuất, quy mô lớn, cung cách miền Nam (giã gạo 3 người, xay gạo, xay bột nhiều người), còn những ngành nghề mà, tuy có mặt ở miền Bắc, cũng không bao giờ được thấy mô tả, như cảnh sản xuất hàng trăm ngàn chiếc guốc, cảnh ngồi đóng cối xay gạo… Thật là chính xác, thật là phong phú, phải xem xét, so sánh, chứ nói trống không trên Đài khó quá !
Chuyên môn của tôi là ngành Dân tộc học, tôi làm việc ở Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học (CNRS, Pháp). Tôi thán phục tài thể hiện sống động những gì học sinh Gia Định thấy trong đời sống thường ngày ở miền Nam. Họ không là "nhà Dân tộc học" mà sao lại thành công thế nhỉ ? Tôi chỉ khung lại miền Nam thôi, vì đấy là bí quyết thành công. Ông giám đốc Jules Gustave Besson cũng là họa sĩ, nhưng tranh của ông tầm thường, chú ý đến cách thể hiện ánh nắng, bóng râm rất khéo, tuy không khéo bằng Monet hay Seurat. Ông chẳng làm gì để tôi đặc biệt chú ý cả. Tuy nhiên, ông rất giỏi về điều động : vị tướng tài không phải là vị tướng phải bắn súng giỏi, mà là vị tướng chỉ huy giỏi.
Ông Besson đã gửi học sinh miền Trung về miền Trung vẽ, những bức vẽ của một Duy Liêm mà sinh quán ở Phan Thiết, vẽ về Phan Thiết, thì nhất rồi. Vì thế, người miền Nam ra Bắc vẽ, khó lòng mà vẽ đạt về đời sống thường ngày ở miền Bắc ; ở Căm-pu-chia, ở nước Lào, cũng thế. Nhưng vẽ về miền Nam, thì đúng là họ vẽ "số dách", khó ai sánh bằng. Phải chăng tôi thiên vị ? Ông Louis Malleret, Giám đốc Trường Viễn Đông Bác cổ (E.F.E.O.) viết bài tựa dài 11 trang, có ý phê bình những họa sĩ đi dạo qua một xứ sở nào đó, cưỡi ngựa xem hoa, hỡi ôi. Về những tác phẩm của học sinh Trường Mỹ thuật Gia Định, ông viết một câu rất thâm thúy : qua tranh họ vẽ, tôi thấy họ yêu quê hương của họ.
Dưới ngòi bút của một trí thức người Pháp, thời Pháp thuộc, đấy là một lời khen rất đáng tự hào, và đáng để chúng ta suy ngẫm".
Tuấn Thảo
Nguồn : RFI, 21/09/2012