Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Sự suy tàn của hai biểu tượng một thời rực rỡ.

noibuon1

Rạp cải lương Hưng Đạo trên đường Nguyễn Cư Trinh, Sài Gòn năm 1965. Ảnh : Frank O’Rear.

"Trong các vở cải lương, khán giả chỉ muốn nghe phần hát, vọng cổ. Nhiều nghệ sĩ phô trương độ dài của hơi thở bằng cách hát hàng trăm từ trong một hơi, nhưng không thể hiện được nội dung gì. 

Hành vi, cử chỉ của người diễn thường sáo rỗng hoặc theo thói quen, họ thậm chí còn không cố gắng thể hiện cảm xúc nhân vật hay bối cảnh thực tế.

Mặt khác, họ trưng bày sự xa hoa sặc sỡ của các bộ quần áo mới của đoàn hát, họ phô trương vẻ trẻ đẹp của dàn diễn viên, nhưng khi diễn thì không làm gì hơn là để lộ vài phần cơ thể để chọc cười rẻ tiền […]".

Hoàng Như Mai, một học giả nhà nước có tiếng, bình luận như vậy trong bài viết "Sân khấu các tỉnh phía Nam trong mười năm qua", thuộc quyển "Mười năm xây dựng nền văn hóa mới, con người mới tại miền Nam (1975-1985)" (*). Đây là một dạng báo cáo tổng kết quen thuộc trong mọi lĩnh vực để đánh giá liệu con người của vùng đất mới bị chinh phạt đã có những "tiến bộ" gì để bắt kịp với văn hóa chủ nghĩa xã hội hay chưa.

Trớ trêu hơn, Hoàng Như Mai vẫn thường được tụng xưng  là "người thầy giáo", "người đóng góp lớn" cho sự "phát triển" của cải lương miền Nam.

Góc nhìn của ông cho thấy phần nào góc nhìn của nhà nước Việt Nam nói chung đối với cải lương, cũng như cách tiếp cận của họ với bộ môn nghệ thuật này.

Cải lương vẫn thường bị các trí thức cộng sản phê phán là một hình thức sân khấu lai căng, thừa mứa và ủy mị. Nhưng mặt khác, họ cũng nhận thấy ở cải lương khả năng thao túng cảm tình đám đông để xây dựng tính cách xã hội chủ nghĩa.

Sự lo ngại của Đảng Cộng sản trước năng lực tạo nên bản sắc danh tính riêng ngoài danh tính xã hội chủ nghĩa và tính trung hòa lịch sử của cải lương trước các lực lượng ngoại bang từ Trung Quốc, Pháp đến Hoa Kỳ lý giải phần nào mong muốn kiềm chế và "cải tổ" cải lương ngay sau 1975.

noibuon2

noibuon3

Rạp Hưng Đạo, nơi từng được xem là "thánh địa" của cải lương ở Sài Gòn trước 1975, nay trở thành Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang, một công trình xây lỗi. Ảnh : Tom Robinson (trên), Báo Người Lao Động, Báo Pháp Luật (dưới).

Khác với hình ảnh huy hoàng, danh giá ; khác với tiếng tăm và khả năng làm giàu của các đoàn cải lương trong thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa, cải lương đương đại đã đi đến thời khắc cuối cùng của nó. Cải lương giờ đây chỉ có thể sống lang bạt ở các viện bảo tàng và các chương trình bảo tồn di sản, thay vì đóng góp tích cực vào việc định hình danh tính, tâm tư và ý chí riêng của một cộng đồng dân cư như nó đã từng.

Cái kết của cải lương và Việt Nam Cộng Hòa, dù khác thời điểm, nhưng cùng chung đâu đó đều là câu chuyện về sự suy tàn của một cộng đồng từng phát triển rực rỡ.

Cải lương và Việt Nam Cộng Hòa : kết tinh riêng độc đáo của miền Nam Việt Nam

Khái niệm "cải lương " trong tiếng Việt khó hiểu hơn là thuật ngữ tiếng Anh tương đương của nó. Trong tiếng Anh, cải lương được gọi là "reformed opera" hoặc "renovated theatre", chỉ một hình thức hát kịch sân khấu cải cách. Nhưng cải cách từ đâu ?

Có ba nguồn ảnh hưởng chính của cải lương.

Trước tiên, dễ nhận thấy và dễ hiểu, là từ hát bội của Trung Quốc.

Hát bội được cho là phát triển tại Việt Nam từ sau khi Trần Hưng Đạo đánh bại lực lượng quân Nguyên giai đoạn 1228 – 1330. Trong số các tù binh nhà Trần bắt được, có một nghệ sĩ người Hoa theo hình thức hát bội (zaju) tên là Lý Nguyên Cát được giữ lại để dạy và phát triển hình thức nghệ thuật này tại Việt Nam.

Trong nhiều thế kỷ sau đó, hát bội tiếp tục phát triển tại Việt Nam với sự nhập khẩu của nghệ thuật hát bội từ Trung Quốc. Hình thức nghệ thuật này tương tác với văn hóa Chăm (vốn trở thành một phần của Việt Nam vào thế kỷ 15) và tạo nên một số biến thể địa phương mới như "hát nam".

Cải lương vay mượn phong cách sân khấu, sự khoa trương thậm xưng của diễn xuất, cảm xúc, và sự nhấn mạnh vào hình thể của hát bội để tạo nên diện mạo của mình.

noibuon4

Sân khấu cải lương đoàn Thanh Minh Thanh Nga theo phương châm "thực và đẹp, khác hẳn với hát bội". Trong hình là tuồng "Tình sử Dương Quý Phi". Ảnh : Huỳnh Công Minh/Màn Ảnh Sân Khấu.

Về âm nhạc, cải lương sử dụng nguồn âm nhạc và ngôn ngữ thuần túy Nam Bộ.

Được biết đến với tên gọi "nhạc tài tử", hoặc trước đó là "ca ra bộ", âm nhạc trong cải lương có gốc là kiểu hát kịch có cử chỉ – một cách kể chuyện với âm nhạc. Ca ra bộ được người Pháp ghi nhận đã xuất hiện trong nhiều buổi gây quỹ địa phương hoặc trong các chương trình tạp kỹ tại Nam Kỳ từ đầu những năm 1900.

Cuối cùng, lối dẫn chuyện và phong cách kịch nói thì rõ ràng là chịu ảnh hưởng của chính kịch Pháp, từ kinh nghiệm dàn dựng sân khấu (hậu đài lẫn tiền đài), cách trang điểm, bối cảnh và kỹ thuật dẫn chuyện.

noibuon5

Một phân đoạn trong vở cải lương "Con gái chị Hằng" năm 1961. Bối cảnh và sân khấu đặc biệt mang phong cách Pháp. Ảnh : Huỳnh Công Minh/ Màn Ảnh Sân Khấu.

Cùng lúc đó, các sản phẩm âm nhạc cải lương là sự kết hợp liên hồi của ngôn ngữ, nhạc cụ và bối cảnh Tây – Hoa – Ta.

Ta thử lấy ví dụ về bài vọng cổ Dạ Cổ Hoài Lang  của Cao Văn Lầu, tác phẩm được sáng tác vào năm 1918. Ngôn ngữ trong tiêu đề và lời ca vừa đậm tính Hoa, vừa đậm tính Việt. Trong khi đó, nhạc cụ được sử dụng thì vô cùng đa dạng, với sáo, tiêu, đàn tranh, đàn bầu cho đến guitar và violin.

Theo cách nói của Vương Hồng Sển trong quyển "Hồi ký 50 năm mê hát", cải lương là cách con người Nam Bộ chôn giấu niềm yêu nước trong những năm tháng thuộc địa, nhưng cũng đồng thời là cách để thỏa hiệp và tìm niềm vui trong xã hội mới.

Đâu đó, chúng ta cũng thấy trong Việt Nam Cộng Hòa sự pha trộn, thỏa hiệp cũ – mới của cải lương.

Chúng ta thường được nghe rao giảng rằng chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới có tính chính danh lịch sử sau Đệ nhị thế chiến, nhưng thực tế thì không hề đơn giản như vậy.

Hiệp định Sơ bộ Pháp – Việt (Franco – Vietnam Agreement 1946, hay Ho – Sainteny Agreement) xác định  rõ Pháp thừa nhận chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc (VNDCCH) có tư cách là một nền cộng hòa độc lập thuộc Liên bang Đông Dương (Indochinese Federation), một thành viên không thể tách rời của Liên Hiệp Pháp (French Union). Tuy nhiên, hiệp định này cũng chỉ giới hạn chủ quyền của VNDCCH tại Bắc kỳ (Tonkin) ; phần còn lại gồm Trung kỳ (Annam) và đặc biệt là Nam kỳ (CochinChina) thì vẫn còn danh nghĩa thuộc địa của Pháp.

Ai vi phạm Hiệp định Sơ bộ là một câu chuyện mà cả hai phía đều cáo buộc nhau, nhưng rõ ràng đến cuối cùng, VNDCCH vẫn thừa nhận mình chỉ có thẩm quyền khu vực phía Bắc, và từ bỏ nỗ lực đại diện cho một Việt Nam thống nhất, ít nhất là trên phương diện công pháp quốc tế.

Trung Kỳ và Nam Kỳ, vì vậy, vẫn còn mang danh nghĩa thuộc địa của Pháp.

Vì thế khó này, ở Nam Kỳ, con đường đấu tranh đòi độc lập chủ yếu phải thông qua con đường chính trị và thỏa hiệp. Trong đó, không thể xem nhẹ những nỗ lực của các gương mặt như Nguyễn Văn Xuân hay cựu hoàng Bảo Đại.

noibuon6

Cựu hoàng Bảo Đại rời Điện Elysée, Pháp, tháng 2/1948 sau một cuộc họp. Ảnh : Getty Images.

Kết tinh của quá trình này là Hiệp định Elysee (Elysee Accords) năm 1949. Đây là tập hợp  của nhiều thư trao đổi giữa Bảo Đại và Tổng thống Pháp Vincent Auriol.

Hiệp định thừa nhận một số điểm cơ bản như : 

(i) danh nghĩa thuộc địa của Nam Kỳ sẽ phải bị xóa bỏ (và đã được Quốc hội Pháp trầy trật thông qua sau đó) ;

(ii) lần đầu tiên Pháp đồng ý thống nhất cả ba kỳ với tên gọi chung là Việt Nam ;

(iii) chấp thuận trao lại chủ quyền (như dân sự, kinh tế, tư pháp, hành chính…) cho một chính phủ thống nhất đại diện cả ba miền. Tuy nhiên, các vấn đề về tài chính và quân sự vẫn còn phụ thuộc vào Pháp, lý giải bằng mối quan hệ với Liên hiệp Pháp.

Từ đó, Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam) cũng có tính chính danh hình thức không kém cạnh so với VNDCCH, đặc biệt theo góc nhìn công pháp quốc tế.

Cải lương và Việt Nam Cộng Hòa : "Bật tận gốc, trốc tận rễ"

Cái chết của Việt Nam Cộng Hòa là hệ quả lộn xộn của địa chính trị quốc tế khó lường trước, nhưng cái chết của cải lương là một kết quả có thể dự báo.

Nhiều người cho rằng cải lương tự thân nó đã lỗi thời, không còn hấp dẫn, không thể cạnh tranh thì tự nhiên phải chết.

Nhưng nếu vậy thì điều gì xảy ra trước 1975, lúc cải lương vẫn có dư đất sống giữa thời điểm nhạc Âu – Mỹ đã rất phổ biến tại miền Nam, và hàng loạt thể loại nhạc Việt và các tác giả Tây hóa cũng đã được công chúng đón nhận ? Nếu phải chết, tại sao cải lương không chết dần từ lúc đó ?

noibuon7

Rạp Nguyễn Văn Hảo giới thiệu chương trình của đoàn cải lương Thanh Minh Thanh Nga, Sài Gòn, đầu xuân 1961. Ảnh tư liệu của Ngành Mai/Người Việt.

Văn hóa, đến cuối cùng, tồn tại dựa vào cộng đồng gầy dựng và nuôi dưỡng nó.

Từ công cuộc "cải cách văn hóa" nhằm "tái xây dựng" miền Nam với việc cấm nhạc vàng, cấm tác phẩm văn chương và sách vở nổi tiếng trong giai đoạn Việt Nam Cộng Hòa, đẩy hàng triệu cư dân thành thị về các khu kinh tế mới và trại cải tạo, rồi kế đó là cuộc trốn chạy lịch sử của hàng trăm ngàn cư dân miền Nam Việt Nam, nền tảng văn hóa và cộng đồng văn hóa của vùng đất khốn khổ này hoàn toàn đứt gãy.

Trong bối cảnh đó, sự thù ghét của các nhà văn hóa cộng sản dành cho cải lương còn rõ hơn ban ngày.

Các tác giả như Trần Hữu Tá, Trà Linh, Hòa Lục Bình khá đồng thanh trong việc phê phán và chê bai cải lương trong một loạt các tác phẩm đả kích, mà khét tiếng nhất phải kể đếnVăn hóa – Văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy.

Từ việc gọi cải lương là công cụ để "đồi trụy hóa" con người cho đến việc cáo buộc cải lương là chỉ dấu của một nền văn hóa thực dân lai căng dị bản, các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa xã hội chủ nghĩa từ lâu đã xem cải lương là tội đồ.

Một lần nữa, theo cách nói của Hoàng Như Mai, cải lương là điển hình mô tả những gì "rẻ tiền, dơ bẩn và tội lỗi" của xã hội tư sản mại bản, là một sản phẩm văn hóa "giả nhái", "vô giá trị".

Sau năm 1975, với cộng đồng thưởng thức đã tan rã, và với những người "làm văn hóa" thù hận cải lương đến cực đỉnh, cải lương mất đi cả nền tảng văn hóa lẫn cơ hội chính sách để sống một cách đúng nghĩa.

*** 

Đây có thể là một nhận định khiến người nghe cải lương gần bốn thập niên trở lại đây phật lòng, nhưng cải lương sau 1975 không còn chút sức sống tự thân nào.

Tinh thần không còn. Con người không còn.

Tác giả không còn. Khán giả không còn.

Với công cuộc quốc hữu hóa cải lương và các đoàn diễn, sự áp đặt của những danh hiệu như "nghệ sĩ ưu tú", "nghệ sĩ nhân dân", cùng với sự thù ghét cải lương sẵn có của các nhà hoạch định văn hóa, hình thức kịch nghệ độc đáo một thời đã bị thao túng và trở thành công cụ để nhà cầm quyền sử dụng, cho đến khi nào hết dùng được thì thôi.

Riêng cái hạn dùng, có lẽ đã đến từ vài thập niên trước.

Võ Văn Quản

Nguồn : Luật Khoa, 20/04/2021

(*) Nhận định của Hoàng Như Mai được dịch lại từ tiếng Anh sang tiếng Việt, theo trích dẫn trong nghiên cứu A Personal Sorrow : "Cải Lương" and the Politics of North and South Vietnam  của tác giả Khai Thu Nguyen, đăng trên tạp chí Asian Theatre Journal năm 2012. Người viết không tìm được bản gốc của tác phẩm tiếng Việt được trích dẫn.

Additional Info

  • Author Võ Văn Quản
Published in Văn hóa
mercredi, 09 octobre 2019 10:14

Cải Lương : Vì sao em chết ?

100 năm trước, từ một loại hình sân khấu mới sơ khai ở Miền Tây, Cải Lương đã vượt sông Hậu. Sông Tiền lên Sài Gòn ngự trị tại Nhà Hát Tây sang trọng, chính thức khai sinh một loại hình nghệ thuật mới đặc thù của Nam Kỳ, của Việt Nam. Từ Sài Gòn, cải lương chinh phục Hà Nội, Nam Vang và cả đến kinh đô ánh sáng Paris.

cailuong1

Quảng cáo đăng trên tuần báo Xuân Phụ Nữ Ngày Mai năm năm 1966 : Đoàn Thanh Minh Thanh Nga hát Tết tại rạp Quốc Thanh

Sài Gòn xưa, thánh địa của Cải Lương

Vào thời hoàng kim, Sài Gòn thường xuyên có trên dưới chục đoàn, gánh hát cải lương hoạt động. Mỗi đêm có hàng chục rạp cải lương sáng đèn với lượng khán giả đông nghẹt. Có những đại bang như Thanh Minh - Thanh Nga, Kim Chung đã thuê dài hạn các rạp hát lớn nhất hiện đại nhất thành rạp cơ hữu của mình. Nghệ sĩ sân khấu thời xưa như Út Trà Ôn, Thành Được, Hữu Phước thu nhập cao ngất ngưỡng, chuyên chơi xe hơi đời mới nhất, thương hiệu sang trọng nhất không thua kém ngôi sao màn bạc Hollywood. Báo chí cũng ăn theo cải lương với chuyên trang kịch trường giống như chuyên trang thể thao bóng đá bây giờ.

Sức sống của Cải Lương mãnh liệt đến mức ở thập kỹ 1960-1970, dù trong hoàn cảnh chiên tranh, Sài Gòn bị giới nghiêm vào ban đêm, phim quyền cước Hồng Kông với Vương Vũ, Khương Đại Vệ, Lý Tiểu Long tràn ngập thì Cải Lương vẫn sống khỏe. Các rạp Nguyễn Văn Hảo, Quốc Thanh, Minh Phung… đêm đêm vẫn sáng rực ánh đèn. Các đại bang Dạ Lý Hương, Kim Chưởng vẫn đóng đô tại Sài Gòn.

Sau 1975, Cải Lương bị quốc doanh, tập thể hóa trước cả các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đội ngũ nghệ sĩ tan đàn xẻ nghé, nhiều người vượt biên không thoát đành ở lại cộng tác trong các đoàn quốc doanh, tập thể hóa.

Bị quốc doanh rồi chết dần

Vào thập kỷ 1970-1980 với một số đoàn tập thể mang tên Sài Gòn 1,2,3… và đoàn quốc doanh Trần Hữu Trang, cải lương như con bệnh vào lúc hồi dương sáng lóe lên những tia sáng cuối cùng nhờ đội ngũ diễn viên cũ còn sót lại và yếu tố khách quan là bị cấm vận, từ trong lẫn bên ngoài nên người dân không có sự lưa chọn, phương thức giài trí nào khác. Những tuồng tích sặc mùi tuyên truyền chính trị như Người Ven Đô, Khách Sạn Hào Hoa, Tiếng Hò Sông Hậu… được xen kẽ với các tuồng tích cũ như Tô Ánh Nguyệt, Đời Cô Lựu, Ngao Sò Ốc Hến giống như bữa ăn độn cơm trộn khoai lang hoặc cao lương. Khán giả vẫn đến rạp vì không có lựa chọn nào khác. Giới báo chí tuyên truyền cho rằng đây là giai đoạn vàng son của cải lương cách mạng.

Đến thập niền 1990, khi máy và phim video nhập vào Việt Nam, những làn sóng văn hóa, giải trí từ bên ngoài tràn vào, Cải Lương quốc doanh tụt dốc không phanh vào cái hố lụi tàn. Những động thái kêu cứu, những chương trình tiếp sức "gìn vàng giữ ngọc" đều vô hiệu trước căn bệnh trầm kha thiếu tuồng hay, không có diễn viên giỏi, khán giả không đến rạp.

Hơn 20 năm nay, các đoàn cải lương hầu như chỉ dựng vỡ mới để đi thi, dự hội diễn liên hoan sân khấu chứ hiếm khi biểu diễn phục vụ công chúng vì số vé bán không bao nhiêu. Thỉnh thoảng trong lễ lạt, đảng nhà nước vung tiền đầu tư những tuồng cải lương hàng chục tỉ đồng nhưng cũng chỉ diễn vài đêm.

Vài năm một lần ánh hồi quang của Cải Lương được hắt lên với những chương trình liveshow của những nghệ sĩ lão thành với những trích đoạn của các tuồng cải lương "kinh điển" thu hút người hâm mộ nhưng số chương trình ấy cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay và ngày càng ít hơn do nguồn nghệ sĩ trước 1975 giờ đã cạn.

Cứu bằng cách giết nhanh hơn

Năm 2018, kỷ niệm 100 năm nghệ thuật cải lương, tuyên giáo Sài Gòn tổ chức nhiều hoạt động rôm rả, tốn kém. Trong đó có Hội thảo khoa học về nghệ thuật cải lương và công diễn vở mới 'Thầy Ba Đợi' do ông Nguyễn Thế Kỷ, Phó ban Tuyên giáo trung ương viết kịch bản và những nghệ sĩ ưu tú nghệ sĩ nhân dân dàn dựng (1).

Thật ra có lẽ đây là mượn cái cớ Cải Lương để lấy tiền ngân sách đút túi ông Kỹ trước khi về hưu. Một quan chức tuyên giáo thuần túy, người quê gốc Nghệ An, một nửa câu ca cổ còn không biết, đến cuối đời tư nhiên soạn kịch bản cải lương là chuyện nực cười.

 Từ hội thảo đến tuồng Cải Lương đều diễn ra trong không gian, trong thế giới quan chức của đảng mà không vọng được chút nào đến công chúng. Dù có phát hết công suất guồng máy tuyên truyền thì người thưởng ngoạn cũng không thể nào nếm trải đước những câu ca đắng chát sặc mùi chính trị của cải lương tuyên giáo được đánh giá là "khắc họa một giai đoạn lịch sử bi hùng của dân tộc, nhân vật chính là Thầy Ba Đợi (tên thường gọi của Nhạc quan, Nhạc sư Nguyễn Quang Đại), người có công rất lớn đối với quá trình hình thành, phát triển buổi đầu của nghệ thuật Cải lương".

Hội thảo về cải lương, diễn cải lương do những người không biết, không yêu thương gì với cải lương càng là cách làm cải lương chết nhanh hơn.

Cũng trong năm này, Cải Lương quốc doanh đươc nhà nước đầu tư tiền tỉ dàn dựng để hát dạo miễn phí trên phố đi bộ Nguyễn Huệ như đánh dấu cho cái chết lâm sàng.

Đầu năm 2019, soạn giả Hoàng Song Việt và một số nghệ sĩ tâm huyết đã lập sân khấu Đại Việt như mô hình sân khấu cải lương tư nhân duy nhất của Sài Gòn biểu diễn nhưng cũng ở mức độ thoi thóp. Cuối tháng 9 vừa qua, đoàn quốc doanh Trần Hữu Trang đươc nhà nước đầu tư hàng trăm triệu để tổ chức diễn miễn phí mỗi tháng hai lần trong sự "la ó" phê phán của cả công chúng và nghệ sĩ (2).

Được đầu tư hàng trăm triệu cho các suất diễn miễn phí, Cải Lương quốc doanh như tự đóng thêm đinh vào cổ quan tài khi nó hoạt động theo nguồn sữa của nhà nước mà bất cần khán giả. Cú đầu tư diễn miễn phí này còn là liều thuốc độc bức tử những cố gắng tuyệt vọng của các nhóm sân khấu cải lương tư nhân ít ỏi ở Sài Gòn như nhóm của soạn giả Hoàng Song Việt, nghệ sĩ Kim Ngân đang thu hút chút ít khán giả cải lương còn sót lại.

Chính trị hóa, bóp chết sáng tạo

Để trả lời câu hỏi Cải Lương vì sao em chết, cách đơn giản và chính xác nhất hảy nhìn lại yếu tô thành công của cải lương Sài Gòn trước 1975 và so sánh với cách quản lý, đầu tư của đảng sau 1975.

Courtesy of Cải Lương Xưa : Tiếng Trống Mê Linh - Thanh Nga - Thanh Sang - San Khau

Sức hấp dẫn của Cải Lương gồm các yếu tố : tuồng tích hay, diễn viên thanh sắc, dàn dựng diễn xuất hấp dẫn. Thời hoàng kim của Cải Lương, Sài Gòn có đội ngũ đông đảo soạn giả tài năng, chuyên nghiệp, yêu nghề hoạt động chuyên nghiệp như Mộc Linh, Hoảng Khâm, Loan Thảo… Riêng đoàn Thanh Minh Thanh Nga đã sở hữu nhiều soạn giả nổi tiếng : Kiên Giang, Nguyễn Phương, Hà Triều, Hoa Phương, Viễn Châu… với lương cô định theo hợp đồng hàng tháng và cộng thêm mức ăn chia theo tỉ lệ bán vé của từng suất diễn.

Soạn giả sáng tác tự do theo cảm hứng và có sự tương tác với nhau như Hà Triều với Hoa Phượng, Kiên Giang với Quy Sắc… tạo ra vỡ diễn kinh điển như Người vợ không bao giờ cưới, Tuyệt tình ca, Nữa đời hương phấn…

Kịch bản đươc đoàn dàn dựng và khán giả thẩm định mà không bị lãnh đạo gò ép qua những lần sơ khảo, phúc khảo, diễn báo cáo trước khi ra công diễn.

 Cái hay của kịch bản cải lương không chỉ ở tình tiết éo le mùi mẫn mà ở chất liệu văn học khắc hoa tính cách của nhân vật sát thật với đời sống. Nhiều vở tuồng có tựa rất hay đã được khán giả đổi tên thành tên nhân vật như Người vợ không bao giờ cưới thành Sơn Nữ Phà Ca, Tuyệt tình ca thành Ông Cò quận 9…

Hơn 50 năm trong chế độ cộng sản, qua biết bao cuộc thi sáng tác, liên hoan cải lương, bao nhiêu kịch bản đươc thưởng huy chương nhưng không một vở tuồng nào, không một nhân vật nào đi vào lòng khán giả như Sơn nữ Phà Ca hay ông Cò quận 9. Ngay soạn giả tài hoa Hà Triều, từng tham gia kháng Pháp, sau 1975 không viết đươc một tuồng nào.

Không có môi trường hình thành nghệ sĩ

Yếu tố thứ hai tạo nên sức hút cho cải lương là thanh sắc và tài năng ca diễn của nghệ sĩ. Phương châm cải lương Thật và Đẹp của nghệ sĩ Năm Châu và cách tuyển chọn tài năng để trao giải thương Thanh Tâm một cách khách quan của nhà báo Trần Tấn Quốc đã tác động tạo ra một thế hệ vàng những nghệ sĩ tài sắc đa dạng và độc đáo về tính cách. Muốn tồn tại, muốn trở thành sao, nghệ sĩ phải tạo ra dấu ấn riêng từ giọng ca, đến phong cách diễn. Nhắc đến nghệ sĩ ngôi sao người ta nhắc đến vai diễn thành công. Hữu Phước đã tạo ra cậu Tư Kiên trong Con gái chị Hằng, Thành Được là Tô Điền Sơn trong Đường gươm Nguyên Bá…

Theo nguyên lý độc đáo đo ni đóng giày của Cải Lương, đôi lúc khi viết tuồng, viết bài ca, soạn giả đã nhắm đến tính cách, giọng ca của diễn viên nào đó nên tạo ra sự đồng cảm, cộng hưởng trong nghệ thuật. Theo soạn giả Kiên Giang, vai Phà Ca và vai Trưng Trắc, các soạn giả đã được bà bầu Thơ đặt hàng viết cho nghệ sĩ Thanh Nga.

Cũng cùng một nhân vật, một kịch bản nhưng với tài năng của diễn viên, họ lại tạo ra cho nhân vật tính cách khác nhau thật độc đáo. Những ông Hội Đồng của Hoàng Giang thì độc ác lộ liễu nhưng ông Hôi Diệp Lang lại thâm hiểm.

Dưới sự lãnh đạo của tuyên giáo, tất cả đều phải lệ thuôc vào chính trị ngay cả việc phân vai diễn. Khi phân vai Thái Hậu Dương Vân Nga cho Thanh Nga diễn, nhiều ý kiến phản đối cho rằng Thanh Nga là vợ ngụy. Đến nổi ông Vỏ Văn Kiệt lúc ấy là Bí thư Thành ủy phải tuyên bố "Nếu đòi tiêu chuẩn chính trị tốt thì mời chị Bảy Thư (Trương Mỹ Hoa, lúc đó là Bí thư Tân Bình) đóng".

Chính vì vậy, dù về hình thức nhà nước cộng sản tỏ ra ưu đãi, lập nhà hát cải lương, trường sân khấu đào tạo chính quy. Tổ chức thi sáng tác, biểu diễn, liên hoan sân khấu hàng năm… nhưng hàng chục năm qua vẫn không xuất hiện tài năng nghệ thuật thật sự.

Những cuộc thi, những đợt tuyển chọn danh hiệu giải thưởng Trần Hữu Trang của sân khấu quốc doanh đã sản sinh ra những đàn cừu Dolly trong cải lương. Nghệ sĩ lớp sau cứ bắt chước, cứ làm bản sao của nghệ sĩ đi trước ngay từ nghệ danh, giọng ca, cách diễn. Giữa những rừng giải thưởng, huy chương khán giả khó phân biệt những cái tên trùng lắp Linh…, Tâm…, Ngân… và không tìm được một tính cách nào độc đáo.

Yếu tố quan trọng thứ ba của sân khấu cải lương là bầu, người quản lý. Đây là nghề đặc biệt, đòi hỏi tố chất đặc biệt, tài năng, uy tín đặc biệt về quản lý vì họ phải quản lý đối tượng đặc biệt là nghệ sĩ và hoạt động trong lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Trong sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường, khó có thể đếm nổi bao nhiêu gánh hát đã thành lập và tan rã nhanh chóng trước 1975. Phần lớn những nghệ sĩ tên tuổi từ Phùng Há, Năm Châu, Năm Phỉ, Bảy Nam đến thế hệ Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Hùng Minh… đều từng lập gánh làm bầu và đa số đều thất bại.

Thường những người bầu thành công là nhà quản lý chuyên nghiệp không phải là nghệ sĩ nhưng phải yêu cải lương nồng nhiệt, máu thịt như bà bầu Thơ đoàn Thanh Minh Thanh Nga, ông bầu Phước Cương (ba nghệ sĩ Kim Cương), bầu Long đoàn Kim Chung, bầu Xuân đoàn Dạ Lý Hương.

Quản lý như cơ quan hành chánh

Chính những nhà quản lý chuyên nghiệp này đã đưa ra những quyết sách đúng đắn để cải lương phát triển, nghệ sĩ phát huy tài năng. Bà bầu Thơ nghiêm khắc phạt tiền ngay cả con ruột Thanh Nga nếu phạm kỷ luật nhưng ưu ái chiều chuộng nghệ sĩ Út Trà Ôn từ tiền hợp đồng đến chế độ ăn ở. Ông bầu Ba Bản phải đứt ruột mua xe hơi đời mới cho Hữu Phước để gia hạn hợp đồng… tất cả đều phải quyết định thật nhạy cảm, chính xác từ nguồn tiền túi của mình.

Với các đoàn quốc doanh, quản lý là cán bộ do đảng bổ nhiệm, bất cần có nghề, yêu nghề hay không. Tiêu chuẩn hàng đầu là đảng viên, trung thành với đảng. Việc quản lý cứ làng nhàng, lời lổ là thuộc về nhà nước, nghệ sĩ cũng là một thứ nhân viên với mức lương bình quân hành chính Với cung cách ấy, không ai cần phải lao tâm sáng tạo, rèn nghề. Không thể có chuyện hàng tháng trời ròng rã đi ra lò heo Chánh Hưng quan sát tính cách của các lái heo để tạo ra tính cách Cậu Tư Kiên như Hữu Phước từng làm.

Không có đội ngũ sáng tác tài năng, không có tự do sáng tạo. Thiếu người quản lý tài năng và bị bó trong cơ chế quản lý hành chánh vô trách nhiệm, diễn viên bị định hướng sai lệch trong rèn luyện, thiếu môi trường, không gian nghệ thuật đúng đắn nên tài năng chưa nở đã tàn. Cải lương không thể không chết trong sự lãnh đạo độc tài và thô bạo của cộng sản. Mà đâu chỉ có cải lương, nhiều loại hình nghệ thuật khác cũng đang thoi thóp.

Gió Bấc

Nguồn : RFA, 09/10/2019 

(1) https://baotintuc.vn/van-hoa/hoi-thao-khoa-hoc-ve-nghe-thuat-cai-luong-v...

(2) https://tuoitre.vn/cai-luong-mien-phi-nghe-si-rau-ri-tuc-gian-20191001215654354.htm

*******************

Đoàn Thanh Minh Thanh Nga hát Tết tại rạp Quốc Thanh Sài Gòn

Ngành Mai, Văn Nghệ, 11/02/2019

Rạp Quốc Thanh ở đường Nguyễn Trải Sài Gòn là rạp hát cải lương lớn, chỉ các đoàn hạng A đại ban mới dám về đây hát. Đây là rạp mới, kiến trúc tân kỳ, có nhiều ghế ngồi, vé bán lại cao giá, đoàn hát mới có lời. Ngày thường gánh hát về đây đã có khó khăn rồi, huống chi ngày Tết lại khó hơn gấp bội.

cailuong2

Rạp Quốc Thanh giờ là nhà hàng tiệc cưới Quốc Thanh.

Thế mà cái Tết 1966 đoàn Thanh Minh Thanh Nga coi như dư điều kiện hát Tết tại rạp lớn này. Dĩ nhiên là hốt bạc, bởi vì ba ngày Tết, mỗi ngày diễn ba suất sáng, chiều, tối.

Thời kỳ cải lương thịnh hành này, đoàn Thanh Minh Thanh Nga thực lực hùng hậu, với thành phần nghệ sĩ tên tuổi gạo cội, nên dù người coi hát có khó tính kén chọn thế mấy cũng chấp nhận mua vé vào xem thôi.

Theo như tờ quảng cáo đăng trên tuần báo Xuân Phụ Nữ Ngày Mai của năm ấy, người ta thấy rõ ngoài chim đầu đàn Thanh Nga, còn các nghệ sĩ tên tuổi khác như Thành Được, đương nhiên nghệ sĩ có tiếng "chơi xe hơi" này sẽ thủ vai chánh đóng cặp với Thanh Nga.

Trước đó vài tháng đoàn Út Bạch Lan-Thành Được rã gánh và rã luôn cuộc tình. Út Bạch Lan về đầu quân đoàn Kim Chung, chỉ một Út Bạch Lan về cộng tác, ông bầu Long đem một số đào kép đang ở các đoàn Kim Chung khác về là đủ đào kép thành lập đoàn Kim Chung 4.

Riêng Thành Được thì về đoàn Thanh Minh Thanh Nga, kéo theo một số nghệ sĩ tên tuổi từng cộng tác với mình như Thanh Thanh Hoa, Nam Hùng. Lúc bấy giờ người ta tưởng đâu bà bầu Thơ sẽ thành lập đoàn 2 : Đoàn Thanh Minh Bảo Quốc theo ý nguyện của cố nghệ sĩ Năm Nghĩa. Lúc ấy người trong giới đồn đãi rằng, bà bầu Thơ thành lập đoàn 2 để Hữu Phước có vai trò kép chánh, chớ Thành Được về thì coi như Hữu Phước bị "xuống cấp" rồi, hai con cọp không thể ở chung một rừng.

Đoàn 1 đã có kép độc Hoàng Giang, thì Nam Hùng sẽ là kép độc đoàn 2, và Thanh Thanh Hoa sẽ đảm trách vai đào chánh. Như vậy Bảo Quốc sẽ lãnh vai trò gì ? Chẳng lẽ đoàn hát mang tên mình, mà đóng vai phụ, kép nhì, kép ba… nhiều người đã thắc mắc như thế.

Thế nhưng dự tính lập đoàn 2 đã không thành với nhiều lý do, và lúc đó người ta nghe nói do người cho vay tiền tiên đoán tình hình thời cuộc sao đó, nên đã không ra tiền, thành ra đoàn Thanh Minh Bảo Quốc chết từ trong trứng nước.

Không thành lập được đoàn 2, thì bầu gánh phải "nuôi" luôn các nghệ sĩ gạo cội (theo như cam kết với Thành Được) như Thanh Thanh Hoa (huy chương vàng Giải Thanh Tâm 1961) từng là đào chánh của đoàn Thủ Đô ; Ngọc Giàu (huy chương vàng Giải Thanh Tâm 1960) với giọng ca ăn khách của hãng dĩa và sân khấu ; Phương Ánh, nữ nghệ sĩ xuất thân trường Quốc Gia Âm Nhạc, từng đóng vai gái bán ba trong tuồng "Gái Bán Bar".

Còn Bảo Quốc thì lúc này chưa làm hề mà làm kép mùi ca vọng cổ, vai trò dũng sĩ da đỏ trong tuồng đường rừng Mỹ Quốc.

Thời vàng son của cải lương, mấy ngày Tết hát ba suất, không riêng gì bầu gánh nặng hầu bao, mà đào kép ai nấy cũng tiền vô đầy túi.

Ngành Mai

Nguồn : Văn Nghệ, 11/02/2019

Published in Văn hóa