Nghiên cứu về Việt Nam được người Pháp chú ý ngay từ thế kỷ XVII, bắt đầu từ các nhà truyền giáo dòng tên để phục vụ công việc đến các nhà thực dân trong công cuộc xâm chiếm Việt Nam. Kể từ đầu thế kỷ XX, ngành Việt Nam học phát triển cùng với sự thành lập của trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole française d’Extrême-Orient, EFEO) nhằm mục đích nghiên cứu các nền văn minh phương Đông với các chủ đề chính là nghiên cứu văn khắc, khảo cổ học và ngôn ngữ. Ít nhiều đi theo hướng này còn phải kể đến Viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh Phương Đông (Inalco, trước là Langues’O).
Quân đội Pháp chiếm Lạng Sơn tháng 02/1885, dưới sự chỉ huy của tướng Oscar de Négrier, trong cuộc chiến biên giới Việt-Trung. /Musee de l'Armée
Sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, một xu hướng mới được hình thành tại Pháp, thiên về nghiên cứu lịch sử Việt Nam thời kỳ cận đại, với một số tác phẩm tiêu biểu như Lịch sử Việt Nam từ 1940 đến 1952 (L’histoire du Vietnam de 1940 à 1952, 1952) của Philippe Devillers, Đóng góp vào sự hiểu biết về quốc gia Việt Nam (Contribution à l’histoire de la nation vietnamienne, 1955) của Jean Chesneaux và Việt Nam, lịch sử và văn minh (Le Vietnam, histoire et civilisation, 1955) của giáo sư Lê Thành Khôi sống tại Pháp.
Trả lời RFI tiếng Việt, giáo sư Trịnh Văn Thảo, từng giảng dạy tại đại học Provence, nhận xét giai đoạn này đánh dấu thời kỳ phát triển mạnh của ngành Việt Nam học tại Pháp, với những tên tuổi như Jean Chesneaux, Pierre Brocheux, Daniel Hémery hay Georges Boudarel.
"Ba người này là học trò của một ông giáo sư sử học, chuyên về Đông Phương học, ở trường Sorbonne, đó là giáo sư Jean Chesneaux. Ông là người đóng vai trò trung gian giữa hai thế hệ. Thời trước đó, hàng ngũ những người viết lịch sử cận đại Việt Nam là rất ít. Những người viết với mục đích hoan nghênh chủ nghĩa thực dân lại còn ít hơn nữa. Chỉ bắt đầu từ Paul Mus với Chesneaux là chớm manh nở hai nhân tài viết để chống lại chủ nghĩa thực dân.
Ông Paul Mus là một trong những giám đốc đầu tiên của trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO). Ông có một quá trình đào tạo căn bản ghê lắm, ông nghiêm khắc nhưng những gì ông phân tích về Việt Nam trong cuốn Vietnam : Sociologie d’une guerre (tạm dịch : Việt Nam : Xã hội học của một cuộc chiến, 1952), cho thấy rõ ông là người có cái nhìn về bề sâu chứ không đứng trên phương diện biến cố, sự kiện lịch sử. Ông phân tích những lý do văn hóa, lịch sử tại sao có cuộc cách mạng ở Việt Nam, bắt đầu từ năm 1952.
Sau khi Paul Mus dẫn đường khai lối, ông Chesneaux là người thứ hai, bắt đầu công việc đó. Ông Chesneaux có lợi khí chuyên về sử Trung Quốc cận đại và Việt Nam cận đại, thì Chesneaux viết cuốn sách mà tôi cho là quan trọng lắm trong giai đoạn đó, tên là Đóng góp vào sự hiểu biết lịch sử Việt Nam".
Vẫn theo giáo sư Trịnh Văn Thảo, chính Chesneaux là người đào tạo ba "đệ tử" xuất sắc, được cho là đánh dấu thời kỳ vàng son của ngành Việt học tại Pháp, theo thứ tự tuổi tác là Georges Boudarel, Daniel Hémery và Pierre Brocheux. Sau này, cả ba nhà sử học đứng đầu nhóm nghiên cứu lịch sử Việt Nam cận đại tại trường đại học Paris 7 - Diderot, lúc đó mới vừa thành lập.
"Boudarel, hồi xưa, đi cộng tác trong khuôn khổ một chương trình huấn luyện. Ông đi Việt Nam khi vừa đỗ bằng cử nhân về Việt Nam và dạy học ở trường Chasseloup-Laubat. Ông dạy được vài tháng thì đi theo kháng chiến từ nam ra bắc nên biết rõ những nhân vật lịch sử của Việt Nam. Về bên Pháp, nhờ Boudarel mà nhiều sử gia sau này rút được kinh nghiệm và biết rõ hơn những nhân vật lịch sử của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Người thứ hai là Hémery, ông chuyên về những nhân vật thuộc đệ Tứ. Ông theo dõi, phân tích một cách rất tỉ mỉ và chính xác phong trào La Lutte (Tranh Đấu) ở Việt Nam, khởi sự từ 1933 đến 1937-1938 thì rã ra. Đó là thời lịch sử giao thời, với kinh nghiệm gần như duy nhất về sự hợp tác giữa những người Cộng sản đệ Tam và đệ Tứ. Người cha tinh thần của tờ Tranh Đấu là ông Nguyễn An Ninh, một nhà lãnh tụ cấp tiến.
Đó là lần đầu tiên có một sử gia hiện đại nghiên cứu về một hiện tượng hiện đại với những tài liệu đầy đủ. Vì thế, ông đã viết cuốn sách về phong trào La Lutte xuất sắc.
Brocheux nhiều tuổi hơn Hémery một chút. Ông Brocheux dạy sử tại trường trung học Pháp Chasseloup-Laubat. Trong ba người, tôi cho rằng Daniel Hémery là người xuất sắc nhất, đứng về mặt học vị là đỗ thạc sĩ, và có cái nhìn rất sâu, tương đương với Paul Mus".
Sau khi nhà sử học Jean Chesneaux rút lui, ba học trò tiếp tục kết hợp nghiên cứu lịch sử cận đại Việt Nam với kết quả "ngoạn mục" của cặp bài trùng Brocheux và Hémery là cuốn Indochine : Une colonisation ambigue (tạm dịch : Đông Dương, nền thuộc địa mơ hồ), được đánh giá là đánh dấu cho cả một thế hệ các nhà nghiên cứu. Ngoài ra, còn phải kể đến hai giáo sư Nguyễn Thế Anh và Charles Fourniau trong môi trường nghiên cứu khoa học bên Pháp.
"Giáo sư Nguyễn Thế Anh rất có nhiều uy tín, mặc dầu ông là một công chức cao cấp của chế độ miền nam, nhưng ông có bảo đảm đứng về mặt khoa học. Nguyễn Thế Anh là người ăn học rất xuất sắc, đỗ thạc sĩ, rồi làm một luận án rất xuất sắc về thư mục Việt Nam. Bây giờ người ta vẫn xem ông là người đáng tin cậy nhất. Một người khác thiên về đảng Cộng Sản Pháp hoàn toàn là ông Charles Fourniau.
Có năm người tất cả, trong môi trường khoa học bên Pháp, những người đó có ảnh hưởng lớn. Vì lúc đó, những chuyên viên về Việt Nam rất ít mà thanh niên, trí thức bên đây "châu" vào Việt Nam thôi. Kinh nghiệm chính trị của họ là Việt Nam, thành ra, những gì các ông này viết về Việt Nam có ảnh hưởng đến họ ghê lắm. Việt Nam là xứ duy nhất đương đầu với đế quốc Mỹ, đánh bại Pháp mà không bị đè bẹp, nên họ phục ghê lắm".
Pháp có 70 luận án tiến sĩ về Việt Nam trong vòng 20 năm
Trong gần hai thập kỷ (1991-2008), có ít nhất 70 luận văn tiến sĩ chuyên về Việt Nam (hoặc về xứ Đông Dương thuộc địa) được bảo vệ tại Pháp, trong đó có 16 luận văn được bảo vệ tại trường Paris 7 - Diderot (theo tạp chí khoa học Mousson, số 13-14 (2009) dành riêng về Việt Nam : Lịch sử và triển vọng đương đại (Vietnam : Histoire et perspectives contemporaines).
Nghiên cứu và giảng dạy về Việt Nam tiếp tục được triển khai tại một số trường đại học Paris 1 Sorbonne-Panthéon, ở miền Nam phải kể đến đại học Provence (Aix-Marseille I), đại học Lyon 2, cũng như ở nhiều vùng trên khắp nước Pháp : đại học Montpellier III, Nantes, Reims, Toulouse II, Perpignan, Littoral…
Theo đánh giá của giáo sư Trịnh Văn Thảo, các nhà nghiên cứu về Việt Nam tại Pháp hiện nay rất xuất sắc, nhưng họ vẫn thiếu kinh nghiệm về những biến cố lịch sử mà thế hệ trước đã trải qua.
"Bởi vì, những nhà sử học trên có kinh nghiệm. Họ hiểu sự việc từ trong hiểu ra. Còn những người thuộc lớp trẻ về sau như David Mas hay Philippes Papin, họ cũng hiểu sự kiện nhưng hiểu từ ngoài vào trong. Vì vậy, họ vừa đóng vai trò sử gia, vừa đóng vai trò diễn viên.
Chỉ có mấy người trẻ bên Pháp, như Andrew Hardy, như tôi đã nói, lại không có kinh nghiệm bản thân. Họ nghiên cứu Việt Nam như một đối tượng khoa học. Còn lớp Hémery, Brocheux, họ đóng vai trò tiền phong để tố cáo những xứ đã đè bẹp Việt Nam bằng bom đạn".
Về nghiên cứu sinh Việt Nam tại Pháp, giáo sư Trịnh Văn Thảo nhận xét :
"Cái khổ là thế hệ sau này kém. Kém là vì, thật ra, mình cứ chờ đợi những cán bộ, sử gia của Việt Nam gởi qua, họ còn có ý chí để đi xa hơn nữa. Nhưng cái khổ là sử gia mình kém quá, nhất là dưới chế độ cộng sản miền bắc. Sử Việt Nam chỉ khởi sự từ năm 1925 khi Bác Hồ lập ra Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Chứ về trước đó, họ không biết gì cả : thời nhà Nguyễn không biết, thời Pháp thuộc không biết, không cần biết, chỉ biết giai đoạn sau thôi. Thành thử, sinh viên qua bên đây, người nào giỏi về ngôn ngữ thì lại "thất" về phần sử học. Còn người có kiến thức sử học thì sử học lại bị méo mó".
Vẫn theo giáo sư Trịnh Văn Thảo, cần hình thành được một đội ngũ cán bộ trẻ có nhiệt huyết, tin vào sử học và tin vào khoa học để ngành Việt Nam học có thể phát triển. Thế hệ sử gia tương lai của Việt Nam "cần phải được đào tạo lại hoặc phải cho họ ra xứ ngoài, chạm trán với những trường phái, nhờ thế họ mới tiến được".
Một lưu ý khác là cần phải lựa chọn kỹ giáo sư Pháp hướng dẫn làm luận văn tiến sĩ vì có một số người thiếu kiến thức lịch sử Việt Nam : "Họ tử tế lắm, dễ thương lắm, họ sẵn sàng giúp đỡ học sinh Việt Nam để ngành sử học Việt Nam tiến bộ nhưng mình phải có sự phối hợp nhiều tiêu chuẩn mà căn bản nhất là tiêu chuẩn khoa học sử".
Điểm cuối cùng mà nghiên cứu sinh Việt Nam tại Pháp chưa thực hiện được là nắm chắc ngôn ngữ để có thể đào sâu vấn đề, đọc được sách và truy cứu tư liệu một cách cẩn thận.
Thu Hằng
Nguồn : RFI, 26/06/2017