Trong bài Vì sao các nền văn minh vĩ đại lại sụp đổ, chúng ta đã biết rằng các vấn đề thay đổi khí hậu, môi trường suy thoái, bất bình đẳng và chế độ tập trung quyền lực vào tay một số ít người, tình trạng phức tạp và quan liêu của xã hội, các tác động ngoại cảnh và vận rủi hoặc những yếu tố ngẫu nhiên khác là những yếu tố tác động lớn nhất, dẫn đến sự sụp đổ của một nền văn minh.
Ảnh minh họa
Chúng ta có thể xem xét, đánh giá các chỉ dấu cho thấy những mối nguy hiểm này, để biết liệu nền văn minh hiện nay của chúng ta sẽ phát triển hay sẽ lụi tàn.
Dưới đây là bốn trong các chỉ dấu, được tính toán dựa trên vài thập kỷ qua :
Nhiệt độ là một chỉ dấu rõ ràng về tình trạng thay đổi khí hậu, GDP thì đại diện cho sự phức tạp trong xã hội, còn dấu vết chúng ta lưu lại trong hệ sinh thái là một chỉ dấu về sự suy thoái của môi trường. Mỗi chỉ dấu này hiện đều có xu hướng tăng lên nhanh chóng.
Biểu đồ về những dấu báo hiệu những mối nguy hiểm để biết liệu nền văn minh hiện nay của chúng ta sẽ phát triển hay sẽ lụi tàn
Sự bất bình đẳng thì khó tính toán hơn. Biện pháp điển hình vốn được dùng để đo lường mức độ bất bình đẳng trong xã hội là Chỉ số Gini, hiện cho thấy tình trạng bất bình đẳng có giảm nhẹ trên toàn cầu (tuy tại một số quốc gia thì tăng).
Tuy nhiên, Chỉ số Gini có thể gây hiểu sai, bởi nó chỉ đo lường những thay đổi có liên quan tới thu nhập. Nói cách khác, nếu hai cá nhân, một người kiếm được 1 đô la và một người kiếm được 100 ngàn đô la, cùng tăng gấp đôi thu nhập, thì Chỉ số Gini sẽ không thể hiện sự thay đổi trong vấn đề bất bình đẳng. Tuy nhiên, trong ví dụ này thì khoảng cách bất bình đẳng giữa hai cá nhân đã tăng từ 99.999 đô la lên tới 199.998 đô la.
Vì lý do này mà tôi cũng đã mô tả về tình trạng phân chia thu nhập trong số 1% những người giàu nhất thế giới. Số 1% này đã tăng phần thu nhập của họ trong tổng thu nhập toàn cầu từ khoảng 16% vào năm 1980 lên tới trên 20% ngày nay.
Điều quan trọng là sự bất bình đẳng giàu nghèo thậm chí còn đang trở nên tồi tệ hơn. Tổng số tài sản mà nhóm 1% giàu nhất thế giới nắm giữ đã tăng mạnh, từ 25-30% trong thời thập niên 1980 lên khoảng 40% trong năm 2016.
Trên thực tế, con số này có thể còn lớn hơn nữa do các số liệu chính thức không bao gồm khối tài sản và các khoản thu nhập được chuyển tới các thiên đường thuế ở nước ngoài.
'Người giàu ngày càng giàu thêm' là điều đã gây ra thêm tình trạng căng thẳng xã hội trong các nền văn minh trước đây
Các nghiên cứu cho thấy EROI đối với các nguồn năng lượng hóa thạch đã giảm xuống đều đặn qua năm tháng, bởi các nguồn trữ lượng dễ tiếp cận nhất, nhiều nhất nay đã bị khai thác cạn kiệt.
Energy Return on Investment - EROI
Có một biện pháp khác giúp tăng mức độ phức tạp, được gọi là Lợi tức Năng lượng Đầu tư (Energy Return on Investment - EROI). Thuật ngữ này được dùng để chỉ tỷ lệ giữa tổng năng lượng có được từ một nguồn tài nguyên nào đó và số năng lượng cần thiết phải sử dụng để thu được tổng năng lượng đó.
Cũng giống như sự phức tạp của xã hội, EROI có vẻ như cũng có điểm cực thịnh rồi đi đến thoái trào.
Thật không may là hầu hết các nguồn năng lượng thay thế thuộc dạng có thể tái tạo, chẳng hạn như năng lượng mặt trời, lại có mức EROI thấp hơn một cách đáng kể, chủ yếu là do mật độ tập trung năng lượng của chúng, do chi phí cần thiết để có các kim loại đất hiếm cần có cũng như quá trình sản xuất cần thiết để biến chúng thành dạng năng lượng sử dụng được.
Điều này dẫn tới cuộc tranh luận về nguy cơ dẫn đến "bờ vực năng lượng" do EROI giảm xuống tới điểm mà các cấp độ sử dụng năng lượng trong xã hội như hiện thời sẽ không còn có thể tiếp tục duy trì được nữa.
"Bờ vực năng lượng" không nhất thiết sẽ dẫn tới giới hạn cuối cùng, nếu như các công nghệ về năng lượng tái tạo tiếp tục được cải thiện, và các biện pháp sử dụng năng lượng hiệu quả được triển khai nhanh chóng.
Các biện pháp chống đỡ, phục hồi
Có một tin dẫu sao cũng khiến ta yên tâm phần nào. Đó là khả năng phục hồi của xã hội có thể sẽ làm trì hoãn, thậm chí ngăn chặn được tình trạng sụp đổ.
Ví dụ như "sự đa dạng kinh tế" toàn cầu - là biện pháp đo lường mức đa dạng và phức tạp trong việc xuất khẩu của một quốc gia - trong thời nay là cao hơn so với hồi thập niên 1960 và 1970, theo cách tính toán của Chỉ số Mức độ Phức tạp Kinh tế (Economic Complexity Index - ECI).
Các quốc gia ngày nay nhìn chung ít dựa vào những loại hình xuất khẩu đơn lẻ hơn so với trước.
Chẳng hạn như một quốc gia đã đa dạng hóa tới mức không chỉ xuất khẩu hàng nông sản nhiều khả năng sẽ chống đỡ được tình trạng suy thoái môi trường hoặc việc mất đi các đối tác thương mại một cách dễ dàng hơn.
ECI cũng đo lường cả cường độ xuất khẩu tri thức. Những xã hội với dân số có trình độ sẽ có khả năng ứng phó tốt hơn khi xảy ra các cuộc khủng hoảng.
Tương tự, sáng chế - là yếu tố được đánh giá dựa trên các phát minh, sáng chế được đưa ra ứng dụng tính trên đầu người - cũng đang tăng lên. Về lý thuyết, một nền văn minh sẽ ít rơi vào tình trạng mong manh dẫn đến sụp đổ hơn, nếu như các công nghệ mới có thể được áp dụng để ngăn cản các áp lực như tình trạng thay đổi khí hậu.
Sự "sụp đổ" cũng có thể xảy ra mà không cần có tình trạng bạo lực nào tác động tới. Trong một số trường hợp, các nền văn minh chỉ đơn giản là nhạt nhoà dần rồi biến mất.
Năng lực của chúng ta trong lĩnh vực công nghệ có thể giúp trì hoãn sự sụp đổ của nền văn minh hiện thời
Thế nhưng khi nhìn đến tất cả những lần sụp đổ đã xảy ra và các dấu hiệu cho thấy sự phục hồi trở lại, thông điệp được đưa ra là rất rõ ràng : chúng ta không thể / không nên tự mãn.
Có một số lý do khiến ta có thể thấy lạc quan, đó là chúng ta có khả năng sáng tạo và đa dạng hóa để tránh được thảm hoạ.
Quả là thế giới vẫn đang xấu đi trong một số mảng vốn đã góp phần tạo ra sự sụp đổ của các xã hội trước đây. Khí hậu đang thay đổi, khoảng cách giàu nghèo đang tăng thêm, thế giới đang ngày càng trở nên phức tạp hơn, và những đòi hỏi của chúng ta đối với môi trường đang vượt quá khả năng đáp ứng của Trái Đất.
Cầu thang tồi
Như thế vẫn chưa phải là tất cả. Đáng lo ngại là thế giới giờ đây đang ngày càng đan xen lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn.
Trước đây, sự sụp đổ chỉ gói gọn trong các khu vực - là sự thụt lùi tạm thời, và con người thường dễ dàng quay trở lại đời sống nông nghiệp hoặc săn bắn hái lượm. Với nhiều người, điều đó thậm chí còn là sự chậm lại đáng mừng so với tình trạng phải chịu sự áp chế, kiềm toả của nhà nước thời kỳ đầu. Hơn nữa, những loại vũ khí có trong thời kỳ bất ổn xã hội cũng còn sơ sài : dao kiếm, cung tên, và thảng hoặc có súng đạn.
Ngày nay, sự sụp đổ xã hội gây tác động ở quy mô to lớn hơn thế nhiều. Vũ khí mà một quốc gia có thể có được, thậm chí là các nhóm, tổ chức nào đó có thể có được trong bối cảnh xã hội tan rã thời hiện đại gồm từ chất độc sinh hóa cho tới vũ khí hạt nhân.
Những công cụ bạo lực mới, như vũ khí giết người tự động, có thể sẽ xuất hiện trong tương lai gần. Con người đang ngày càng trở nên chuyên môn hóa hơn, trở nên xa lạ hơn với việc trồng trọt, làm ra lương thực thực phẩm và làm ra những đồ vật thiết yếu phục vụ cuộc sống căn bản. Một cú thay đổi khí hậu nghiêm trọng có thể sẽ khiến chúng ta không thể quay trở lại thực hiện những kỹ năng đơn giản của nghề nông.
Hãy nghĩ về một nền văn minh như một chiếc thang được làm rất tồi. Khi bạn leo lên, mỗi bậc bạn bước lên sẽ rớt xuống. Nếu rớt xuống từ độ cao mới chỉ là vài nấc thang ngang thì sẽ không sao. Nhưng càng trèo lên cao, độ cao rớt xuống càng lớn. Cuối cùng, một khi bạn leo lên tới một độ cao nhất định thì cú rớt xuống dứt khoát sẽ là cú ngã trí mạng gây chết người.
Với sự phổ biến vũ khí hạt nhân, chúng ta có lẽ đã đạt tới điểm "tốc lực tối đa" của nền văn minh. Bất kỳ cú sụp đổ nào - bất kỳ cú ngã nào từ chiếc thang xuống - đều có nguy cơ trở thành cú sụp đổ vĩnh viễn, không thể gượng lại.
Bản thân chiến tranh hạt nhân có thể tạo ra mối đe doạ về sự sinh tồn : loài người hoặc sẽ tuyệt chủng, hoặc sẽ thụt lùi trở lại Thời Đồ đá.
Một người phụ nữ đi qua đống đổ nát ở một thành phố của Syria sau cuộc giao tranh
Trong lúc chúng ta đang trở nên ngày càng mạnh mẽ về kinh tế và về sức bền chịu đựng, năng lực công nghệ của chúng ta cũng tạo thành những mối đe doạ không tiền khoáng hậu mà không nền văn minh nào từng có.
Chẳng hạn như những thay đổi khí hậu mà chúng ta đang phải đối diện thì có bản chất khác với lần thay đổi khí hậu lớn vốn đã xóa sổ nền văn minh Maya hay Anazasi. Chúng có tính toàn cầu, do con người gây ra, xảy ra nhanh chóng hơn, và nghiêm trọng hơn.
Những thứ hỗ trợ cho quá trình tự làm mình tàn lụi của chúng ta không phải là đến từ những vị láng giềng thù nghịch, mà từ sức mạnh công nghệ của chính chúng ta. Sự sụp đổ, trong trường hợp nền văn minh đương đại của chúng ta, có thể là một cái bẫy từ từ sập xuống.
Sự sụp đổ của nền văn minh chúng ta không phải là điều không thể tránh khỏi. Lịch sử nói rằng nó nhiều khả năng sẽ xảy ra, nhưng chúng ta có lợi thế độc đáo là khả năng học hỏi từ những đống đổ vỡ của các xã hội trước kia.
Chúng ta biết mình cần phải làm gì : giảm bớt khí thải, cân bằng tình trạng bất bình đẳng, đảo ngược lại tình trạng suy thoái môi trường, khuyến khích sáng tạo công nghệ và đa dạng hóa các nền kinh tế.
Các đề xuất chính trị đã được đưa ra, nhưng quyết tâm chính trị thì chưa có.
Chúng ta cũng có thể đầu tư vào việc phục hồi.
Đã có những ý tưởng được phát triển rất tốt về việc cải thiện khả năng các hệ thống lương thực và tri thức để chúng ta có thể hồi phục sau thảm hoạ.
Tránh tạo ra những công nghệ nguy hiểm và dễ dàng tiếp cận được cũng là điều quan trọng. Những bước đi đó sẽ làm giảm bớt nguy cơ không thể đảo ngược viễn cảnh sụp đổ trong tương lai.
Chúng ta chỉ đi đến tình trạng sụp đổ nếu như chúng ta cố tình nhắm mắt làm ngơ. Chúng ta chỉ bị đẩy đến gần ngày tận thế nếu như chúng ta không muốn lắng nghe quá khứ.
Luke Kemp
Nguồn : BBC, 17/03/2019
Luke Kemp là nhà nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu về sự sinh tồn của các xã hội, Centre for the Study of Existential Risk, tại Đại học Cambridge.
"Những nền văn minh vĩ đại không bị giết chết, mà chúng tự kết liễu mình".
Đó là kết luận mà sử gia Arnold Toynbee nêu ra trong bộ nghiên cứu lịch sử đồ sộ gồm 12 quyển của ông, A Study of History (Một nghiên cứu về Lịch sử) , một công trình tìm hiểu về sự trỗi dậy và suy tàn của 28 nền văn minh khác nhau.
Các nền văn minh thường phải chịu trách nhiệm về sự tàn lụi của chính chúng.
Ông nói đúng ở một số khía cạnh : các nền văn minh thường phải chịu trách nhiệm về sự tàn lụi của chính chúng. Tuy nhiên, việc các nền văn minh rơi vào tình trạng tự phá hủy thường được hỗ trợ bởi những yếu tố khác nữa.
Chẳng hạn như Đế chế La Mã là nạn nhân của nhiều vận hạn, trong đó gồm việc mở rộng lãnh thổ quá mức, tình trạng thay đổi khí hậu, môi trường suy thoái và sự lãnh đạo yếu kém. Sự tan rã một phần nữa là do hậu quả của việc thành Rome bị người Visigoth cướp phá vào năm 310, và rồi đến lượt người Vandal, vào năm 455.
Sự sụp đổ thường xảy ra nhanh chóng và một nền văn minh dù vĩ đại đến đâu cũng không thể miễn nhiễm.
Đế chế La Mã trải rộng trên 4,4 triệu cây số vuông vào năm 390. Năm năm sau, diện tích bị thu lại chỉ còn 2 triệu cây số vuông. Tới năm 476, đế chế này trở thành zero.
Trong quá trình nghiên cứu tại Đại học Cambridge, tôi muốn tìm hiểu xem vì sao sự sụp đổ lại diễn ra, thông qua việc thử làm một cuộc giảo nghiệm lịch sử.
Sự trỗi dậy và sụp đổ của các nền văn minh trong lịch sử có thể nói cho chúng ta biết những gì ? Những thế lực nào thúc đẩy hoặc trì hoãn sự sụp đổ ? Và chúng ta có nhìn thấy những khuôn mẫu tương tự xảy ra vào thời nay hay không ?
Cách đầu tiên để nhìn vào các nền văn minh trong quá khứ là so sánh thời gian tồn tại ngắn, dài của chúng. Đây là việc khó, bởi không có một định nghĩa chặt chẽ thế nào là một nền văn minh, cũng như không có cơ sở dữ liệu hoàn thiện nào cho ta biết về sự ra đời và kết thúc của chúng.
Trong hình minh họa dưới đây, tôi so sánh thời gian tồn tại của một số nền văn minh khác nhau, mà tôi định nghĩa đó là các xã hội nông nghiệp có nhiều thành thị, một xã hội mà quân sự đóng vai trò nổi bật trong khuôn khổ khu vực địa lý của nó, và có cấu trúc chính trị tồn tại liên tục, tiếp nối.
Dựa theo định nghĩa này, mọi đế chế đều là nền văn minh, nhưng không phải nền văn minh nào cũng là đế chế.
Dữ liệu được lấy ra từ hai công trình nghiên cứu về sự tăng trưởng và suy tàn của các đế chế (cho các giai đoạn 3000-600 trước Công nguyên, và 600 trước Công nguyên - 600), và một khảo sát không chính thức, tập hợp từ việc kêu gọi mọi người đóng góp thông tin, về các nền văn minh cổ đại (mà tôi có chỉnh sửa).
Như mô tả trong hình dưới đây, thời gian tồn tại trung bình của một nền văn minh cổ đại là 336 năm.
Thời gian tồn tại của các nền văn minh cổ đại
Sự sụp đổ có thể được định nghĩa là tình trạng mất dân, mất bản sắc, và mất đi độ phức tạp xã hội-kinh tế một cách nhanh chóng và kéo dài. Các dịch vụ công trở nên bê bết, tình trạng mất kỷ cương khiến chính phủ mất quyền kiểm soát trước tình trạng bạo lực.
Toàn bộ các nền văn minh trước đây đều đối diện với số phận này.
Một số gượng lại được hoặc chuyển đổi thành dạng khác, chẳng hạn như ở Trung Quốc và Ai Cập. Một số khác sụp đổ vĩnh viễn, như trường hợp Đảo Phục sinh.
Một số khác sụp đổ vĩnh viễn, như trường hợp Đảo Phục sinh.
Có những lúc các thành phố nằm ở tâm điểm của sự sụp đổ lại hồi sinh, như trường hợp thành Rome.
Trong những trường hợp khác, chẳng hạn như đống phế tích của người Maya, thì chúng bị lãng quên, trở thành tàn tích cho du khách sau này tới thăm.
Những phế tích của người Maya trở thành tàn tích cho du khách sau này tới thăm
Điều gì có thể nói cho chúng ta biết về tương lai của nền văn minh hiện đại toàn cầu ? Những bài học về các nền văn minh nông nghiệp có áp dụng được cho giai đoạn chủ nghĩa tư bản công nghiệp từ sau Thế kỷ 18 của chúng ta không?
Tôi cho là có. Các xã hội trước kia và hiện nay chỉ là những hệ thống phức tạp gồm con người và công nghệ.
Thuyết "tai nạn bình thường" nói rằng những hệ thống công nghệ phức tạp thường mở đường dẫn tới thất bại. Cho nên sự sụp đổ có lẽ là hiện tượng bình thường cho các nền văn minh, bất kể chúng có kích cỡ, quy mô ra sao.
Chúng ta vào lúc này đang tiến bộ hơn các nền văn minh khác về mặt công nghệ. Thế nhưng điều này không khiến ta tin rằng chúng ta miễn dịch với các mối đe dọa vốn từng hủy hoại tổ tiên chúng ta. Khả năng công nghệ mà chúng ta mới khám phá ra thậm chí còn đem lại những thách thức mới, chưa từng xảy ra.
Hiện nay chúng ta đang đạt quy mô toàn cầu, nhưng việc sụp đổ có vẻ như sẽ xảy ra ở cả các đế chế rộng lớn lẫn các vương quốc còn non nớt. Không có cơ sở gì để tin rằng việc chúng ta phát triển tới quy mô to lớn sẽ giúp tạo ra bộ khiên giáp chống lại tình trạng xã hội tan rã.
Hệ thống kinh tế toàn cầu hóa vốn gắn bó như hình với bóng với xã hội đó, sẽ càng làm cho cuộc khủng hoảng lan rộng.
Tình hình khí hậu ngày càng trở nên tồi tệ
Nếu như số phận của các nền văn minh trước đây có thể là lộ trình cho tương lai của chúng ta, thì chuyện đó nói lên điều gì?
Ta có thể dùng một biện pháp là xem xét các xu hướng sụp đổ từng xảy ra trong lịch sử và quan sát xem chúng đang dần diễn ra như thế nào trong thời đại này.
Tuy không có bất kỳ một học thuyết đơn lẻ nào được chấp nhận về việc vì sao một nền văn minh lại đi đến sụp đổ, nhưng các sử gia, các nhà nhân chủng học và những người khác đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau, trong đó có:
Thay đổi khí hậu
Khi tình trạng khí hậu không còn ổn định mà bị thay đổi thì nó sẽ gây ra những kết quả vô cùng tai hại, như mùa màng thất bát, nạn đói và sa mạc hóa.
Sự sụp đổ của Anasazi, nền văn minh Tiwanaku, đế quốc Akkad, người Maya, Đế chế La Mã, và nhiều nền văn minh khác, đều xảy ra cùng lúc với sự thay đổi khí hậu đột ngột, mà thường là nạn hạn hán.
Môi trường suy thoái
Sự sụp đổ có thể xuất hiện khi nhu cầu của xã hội vượt quá khả năng chịu đựng của môi trường tương ứng. Thuyết sụp đổ về sinh thái này, vốn là chủ đề trong các quyển sách ăn khách, chỉ ra rằng tình trạng khai thác rừng quá mức, ô nhiễm nước, đất bạc màu và việc mất đi sự đa dạng sinh học là các nguyên nhân chủ chốt.
Bất bình đẳng và chế độ quyền lực tập trung
Sự bất bình đẳng về tài sản và chính trị là những động lực trung tâm gây ra tình trạng xã hội tan rã, cũng như việc trung ương hóa, tập trung quyền lực vào tay một số nhà lãnh đạo. Việc này không chỉ gây ra những căng thẳng trong xã hội, mà còn trói buộc, cản trở năng lực của xã hội trong việc ứng phó với các vấn đề sinh thái, xã hội và kinh tế.
Lĩnh vực lịch sử - động lực (cliedymamics) phác ra việc các yếu tố, chẳng hạn như sự liên quan giữa sự bình đẳng và vị trí địa lý với tình trạng bạo lực chính trị.
Việc phân tích số liệu thống kê về các xã hội trước đây cho thấy điều này xuất hiện theo chu kỳ.
Khi dân số tăng lên, nguồn lao động cũng tăng lên, dẫn tới cung vượt cầu. Khi đó, nhân công trở nên rẻ hơn và xã hội trở nên quá nặng nề ở phần thượng tầng. Sự bất bình đẳng này làm xói mòn tâm lý đoàn kết chung, từ đó dẫn tới tình trạng bất ổn chính trị.
Sự phức tạp
Chuyên gia nghiên cứu về sự sụp đổ của các nền văn minh, sử gia Joseph Tainter đưa ra ý kiến rằng các xã hội rốt cuộc sụp đổ bởi chính sức nặng của mình, được tích tụ lại thành sự phức tạp và tình trạng quan liêu.
Để giải quyết được các vấn đề mới, các xã hội đã phải phát triển lên mức độ phức tạp, tinh tế. Thế nhưng mức độ phức tạp đến một lúc nào đó sẽ đạt mức cực thịnh rồi dần đi xuống. Từ đó trở đi sẽ tới lúc sụp đổ.
Có một biện pháp khác giúp tăng mức độ phức tạp, được gọi là Lợi tức Năng lượng Đầu tư (Energy Return on Investment - EROI). Thuật ngữ này được dùng để chỉ tỷ lệ giữa tổng năng lượng có được từ một nguồn tài nguyên nào đó và số năng lượng cần thiết phải sử dụng để thu lại tổng năng lượng đó.
Cũng giống như sự phức tạp, EROI có vẻ như cũng có điểm cực thịnh rồi đi đến thoái trào.
Trong cuốn The Upside of Down (Mặt trái của sự sụp đổ) của mình, khoa học gia Thomas Homer-Dixon quan sát thấy sự xuống cấp của môi trường trong suốt thời kỳ tồn tại của Đế chế La Mã đã dẫn tới sự đi xuống nhanh chóng của EROI trong nguồn cung ứng lương thực thực phẩm : các vụ mùa lúa mạch và cỏ linh lăng (alfalfa - chuyên để nuôi gia súc). Đế chế La Mã đi xuống cùng với EROI của nó.
Tainter cũng cho rằng đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ, trong đó gồm cả sự sụp đổ của nền văn minh Maya.
Những cú sốc từ bên ngoài
Nói cách khác, đó là "tứ kỵ mã", gồm chiến tranh, thiên tai, nạn đói và bệnh dịch.
Ví dụ như Đế chế Aztec bị xóa sổ do những kẻ xâm lược Tây Ban Nha. Hầu hết các nhà nước nông nghiệp tàn lụi là do những trận dịch bệnh chết người.
Việc con người và gia súc sống quần tụ trong những khu định cư có tường rào vây quanh với điều kiện vệ sinh tồi tệ khiến các trận bùng phát dịch bệnh là điều không thể tránh khỏi.
Có đội khi các thảm họa khác nhau xảy ra cùng lúc, như trong trường hợp người Tây Ban Nha mang bệnh đường ruột tới châu Mỹ.
Những yếu tố tình cờ/xui xẻo
Phân tích số liệu thống kê về các đế chế cho thấy sự sụp đổ xảy ra ngẫu nhiên và không liên quan gì tới thời gian đã tồn tại của đế chế.
Nhà sinh học chuyên về tiến hóa và khoa học gia chuyên về phân tích dữ liệu Indre Zliobaite cùng các đồng nghiệp của bà đã quan sát thấy có mô hình tương tự trong hồ sơ tiến hóa của các loài.
Có một sự giải thích chung cho sự ngẫu nhiên này, đó là "Hiệu ứng Nữ hoàng Đỏ" : nếu các loài liên tục đấu tranh sinh tồn trong một môi trường thay đổi với các đối thủ cạnh tranh, thì sự tuyệt chủng sẽ rồi sẽ đến với một số loài,
Tuy đã có khá nhiều các cuốn sách, các bài báo viết về chủ đề này, nhưng chúng ta vẫn không có một lời giải thích rõ ràng về lý do khiến các nền văn minh sụp đổ.
Điều mà chúng ta đã biết đó là các yếu tố được nêu trên đây đều có thể góp phần dẫn tới sự sụp đổ đó.
Sự sụp đổ chỉ là hiện tượng bên trên, còn các yếu tố bên dưới, kết hợp lại với nhau, chính là thứ tàn phá, tác động tới khả năng thích ứng của xã hội.
Luke Kemp
Nguồn : BBC, 10/03/2019
Luke Kemp là nhà nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu về sự sinh tồn của các xã hội, Centre for the Study of Existential Risk, tại Đại học Cambridge, Vương quốc Anh.