Phần 1
Minh vương : những bài học về chủ trị
Chủ thể của chủ trị
Chủ thể tự tư duy để có hành động, để tác động thẳng trong xã hội, ngay trong cộng đồng, thẳng lên thế giới
Chủ thể của quyết đoán để quyết chí
Chủ thể có ý chí để quyết chí làm đời sống khá hơn, làm cuộc sống đáng sống hơn, nếu lấy đạo lý và đạo đức làm nền cho luân lý, lấy khuôn quyết tâm thành quyết chí trong hành động dài lâu và bền vững trong đấu tranh vì tự do, công bằng, bác ái. Chủ thể có lý luận biết dựa trên luân lý, có hành động cụ thể bằng ý chí, khi có định nghĩa về tự do thì trí tuệ sẽ đưa chủ thể vào hành động.
Chính phương trình lý luận-luân lý-ý chí là gốc, rễ, cội, nguồn cho mọi hành động của chủ thể, được thể hiện không những trong thực tế hằng ngày mà còn là lý tưởng của chủ thể trong đấu tranh. Chủ thể có lý trí và ý thức, trong đó nhân lý phát huy kiến thức, trong đó nhân tri biết dựa vào nhân trí để có sung lực bảo vệ tính tự chủ của cá nhân, của cộng đồng, của tập thể, của dân tộc…
Tất cả quá trình này đều được nhận diện trong các phong trào đấu tranh của dân oan tới các phong trào đòi hỏi dân chủ và nhân quyền trước bạo quyền độc đảng. Chủ thể có lý trí để hiểu tình thương, hiểu từ nguồn gốc của tình thương đồng loại tới hiệu quả cùng hậu quả trong tình thương này. Chính là năng lượng của lý và thức trước các điều kiện của nhân sinh (có khổ đau và có hạnh phúc), từ đó hiểu nội chất của hai thái cực này trong nhân thế để tạo hạnh phúc và xa rời khổ đau.
Hãy cùng nhau nhận ra chân dung chủ thể của Đinh Tiên Hoàng, với tầm vóc quân sự của ngài lớn vì tầm nhìn tổ quốc của Ngài xa, có được là nhờ tầm cỡ chính trị của Ngài cao, dẹp được thập nhị sứ quân, để thống nhất đất nước - đó chính là bản lĩnh vời vợi của Ngài. Chuyện loạn lạc bởi đám sứ quân này nằm trong quy luật khủng hoảng của các triều đại phong kiến, mỗi lần có một ông vua suy đồi là cả xã hội bị suy thoái, có nội chiến vì vô chính phủ, có bạo động vì đầy bất công, cá lớn nuốt cá bé. Ngài dẹp lũ sứ quân này cho đất nước được trở lại thanh bình, ngừng hẳn mọi giết chóc của một thời cuộc mà người với người xem nhau như lang sói. Sự bất tài của một vương triều, vương triều đó phải nhận trách nhiệm như bọn sứ quân, cả hai phải chịu lỗi trước dân tộc, nếu không nói là tội !
Tội thì chắc chắn nặng hơn lỗi, không những về hậu quả nhân sinh mà về cả hậu quả nhân đức, với sự suy sụp của giáo lý. Với bối cảnh loạn lạc của các sứ quân là có mầm mống trong xã hội Việt hiện nay, với người dân luôn "ngắn cổ, bé họng" trước bạo quyền, từ xã, thôn, làng, xóm lên tới vùng, miền, thành phố, chịu cảnh "ngậm bồ hòn làm ngọt" trong một hệ thống công an trị, nơi mà tham quyền song hành cùng tham nhũng. Với các câu ngạn ngữ mới của cường quyền ác bá thời nay : "ở đâu ăn đấy", làm tướng tá thì ở biệt thự, biệt phủ giữa cái nheo nhóc của dân đen. Với các câu châm ngôn mới của quan lớn, quan bé, lạm quyền nhờ bạo quyền "ở trên ăn nhiều, ở dưới ăn ít".
Bọn "sâu dân, mọt nước" này còn nghĩ là chúng có lối thoát mà thời của Tiên Hoàng không có là : "vơ tới cùng, vét tới tận" cho đầy túi, đến khi sơn hà nguy biến thì chúng sẽ "cao chạy, xa bay" ra ngoại quốc ! Chúng lầm, những quốc gia phương Tây dân chủ mà chúng chắc bẩm là sẽ yên thân để dung thân tà kiếp của chúng là những quốc gia luôn đấu tranh cho nhân quyền. Cho nên, ông bà ta nói gọn trong ẩn số kiếp người là : "lưới trời lồng lộng", tức là "chạy đằng trời chẳng thoát" ! Vì "trời có mắt", tức là "nhân quyền có thần nhãn", sẽ mang chúng ra xử tội (tội hình sự) với công pháp quốc tế, lúc đó chúng mới hiểu rõ câu của ông bà ta : "tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa".
Chủ thể lấy tài chống hoạn vì thịnh trị
Chủ thể tự tư duy để có hành động, để tác động thẳng trong xã hội, ngay trong cộng đồng, thẳng lên thế giới, mang ý chí đúng, mang hoài bão đẹp, mang trách nhiệm cao. Trong ý chí được biến thành tự hành động, thì sự thông minh của tự do là tự do cẩn trọng, tự do làm ra cuộc sống phải được xem là đáng sống, không chạy theo các hoài bão mộng tưởng hão huyền. Chủ thể biết tự giải phóng trong thông minh của hành động, tức là không liều lĩnh chết người, vì tự do trong tàn phá, trong bạo ác chỉ là tự do của tự sát, vì nó không biết xây mà nó chỉ biết diệt. Chủ thể mang nội lực của sự cẩn trọng : từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định sáng suốt tới hành động tỉnh táo ; nên giữa tự do luôn có hai thực chất : can đảm và cẩn trọng.
Chân dung chủ thể theo có tiêu chí này có trong cuộc đời và sự nghiệp của Lý Thái Tổ. Năm 1009, Ngài lên ngôi hoàng đế, lập kỷ nguyên mới, một triều đại trị vì trên dưới 200 năm. Từ lập triều tới lập quốc, Ngài có minh sư Vạn Hạnh đưa đường dẫn lối, sử Việt luôn nhớ Ngài phát triển không những nông nghiệp mà cả kinh tế đồng bằng, dân trí mở mang, trường học xây lên cùng đền chùa, đất nước có giáo dục ổn định, dân tộc có đời sống tâm linh cao. Năm 1076, Lý Thái Tổ cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu, được xem như là trường đại học đầu tiên của nước Việt. Ngài sáng suốt, nhìn xa trông rộng, đưa binh lính về làm ruộng trong thời bình, Ngài cho lập các bản đồ biển đảo, định hình đất nước qua địa lý chính thống. Cả nước ghi nhớ công của Ngài dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, vì Hoa Lư là địa thế của phòng ngự quân sự, không thể là thủ đô để phát triển kinh tế. Hoa Lư chật hẹp luôn bị lũ lụt, khó là nơi định vị của một thủ đô muốn phát triển toàn bộ. Ngài là minh quân vì Ngài có chủ trương với các ưu tiên chiến lược từ đó mới có thịnh trị. Triều Lý của Ngài lấy việc chỉnh đốn triều chính, lấy tài để chống hoạn, chống lãng phí, trừ bọn tham quan, tạo hùng lực mới cho đất nước.
Không như lãnh đạo hiện nay, không những nhân dân không thấy phương hướng đối ngoại của họ trước họa Tàu tặc, mà còn dở khóc, dở cười trước trò thanh trừng lẫn nhau giữa bọn họ qua các khẩu lệnh chống tham nhũng, trong khi thống kê thế giới vẫn tiếp tục xếp Việt Nam hiện nay là quốc gia tham nhũng loại thậm tệ nhất. Đây là cái độc tôn vô cùng trầm trọng của lực lượng độc quyền vì tham quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, độc đảng trong độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không hề biết quản trị, lại không có bản lĩnh kinh tế, không có nội công lập ưu tiên phát triển đất nước, nên không thể nào có thịnh trị, là nguồn cơn của dân Việt nay bỏ xứ ra đi, có kẻ phải làm lao nô, phụ nữ thì gia nô, dân tộc ngày càng nheo nhóc !
Chủ thể biết biến khổ đau thành hùng lực
Chủ thể đưa lý trí lên hàng đầu, vào hạng ưu tiên để chọn lựa, để quyết định, để hành động, chủ thể chống lại sự vô cảm, chủ thể dẫm lên sự hèn nhát, vì chủ thể biết chống vô nhân. Chủ thể đạp lên sự thối nát, không chấp nhận một lực lượng công an, cảnh sát, xã hội đen giữa ngày thao túng dân lành. Chính quyền qua hệ thống công an lại thông đồng, giao kết và giựt dây xã hội đen để khủng bố dân oan, dân đen, dân lành. Chủ thể biết bảo vệ cá nhân, gia đình, dân tộc, nhân loại qua công bằng, công lý, công pháp, chính đây sự thông minh của chủ thể biết thăng hoa trong các phong trào xã hội đi tìm và sẵn sàng đấu tranh vì tự do.
Chủ thể hiện diện trong các phong trào đấu tranh vì công bằng và công lý của dân oan ngày càng được dân tộc hóa và cả nước đều biết. Chia sẻ, đồng cảm, song song với đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền của các phong trào ngày càng được thế giới hóa được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức nhân đạo quốc tế, Liên Hợp Quốc, và các châu lục đã có tự do. Chủ thể hành động bằng tự do trong đấu tranh vì nhân phẩm của dân tộc, nên dân tộc không bao giờ bị coi rẻ, xem thường, bỏ rơi, bỏ quên họ. Các chủ thể luôn được dân tộc tôn vinh, và càng được tôn vinh hóa trong bối cảnh trước thảm phận của Việt tộc với họa ngoại xâm của Tàu tặc, trong họa nội xâm của bạo quyền tham quyền, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền.
Hãy tìm về với Trần Thái Tông để nhận ra chân dung của chủ thể biết biến khổ đau thành hùng lực. Ngài là vị Minh Vương mang nhiều bi kịch : Thái sư Trần Thủ Độ (là chú ruột) với âm mưu để cho nhà Trần có người nối ngôi đã ép Ngài phế bỏ Lý Chiêu Hoàng là người vợ thân yêu đồng thời cũng là người đã trao cho Ngài ngôi vua (từ nhà Lý sang nhà Trần) để lập Thuận Thiên (chị ruột của Lý Chiêu Hoàng) làm Hoàng hậu khi bà này đã có thai 3 tháng với anh của mình là Trần Liễu. Ngài đã từ bỏ ngai vàng để đi tu vì không chịu nổi cảnh loạn luân của nội hôn này. Trước cảnh sơn hà nguy biến khi bọn Nguyên Mông đến xâm lăng, Ngài trở về ngai vua chỉ để nhận trách nhiệm bảo vệ nước nhà. Ngài làm vua trọn vẹn khi bước vào cuộc chiến chống quân Nguyên Mông hung hãn, kẻ đã xâm lược qua tới Châu Âu, làm cả thế giới khiếp sợ. Với những lời quyết thắng quân Nguyên Mông năm 1228, nhân dân công nhận Ngài là đấng Minh quân của nhà Trần. Ngài còn là một tác giả lớn với tác phẩm Khóa Hư Lục được nhân dân truyền tụng mến yêu. Ngài vừa làm vua, vừa tu tại gia, mỗi sáng Ngài dậy sớm tu trong thiền tập, niệm Phật bằng tâm. Ngài để những án văn, án kệ xuất sắc cho hậu thế. Thảm cảnh nội hôn không làm tâm cảnh của Ngài hỗn loạn. Qua bài kệ Tâm hương, thấy rõ Tâm Ngài sáng, trí Ngài thông, tuệ giác Ngài tinh khiết, sự trong sạch của tâm hồn làm nên sự trong sáng cho trí tuệ, tạo nên sự sáng suốt tăng tầm vóc thông minh, thật hiếm có trong Việt sử.
Bạo quyền tham quyền, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền đang lúc nhúc như ký sinh trùng quanh tập đoàn lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chúng nghĩ sao khi :
- Đất nước đang lâm nạn xâm lược của Tàu tặc, mà mình ăn sung mặc sướng vì tham quan bằng tham ô để tham nhũng. Sống trong biệt phủ, biệt thự trước thảm cảnh của hằng triệu dân oan màn trời chiếu đất, đầu đường xó chợ ?
- Đồng bào đang nhận đại nạn của ô nhiễm từ công nghiệp bẩn, hóa chất độc, thực phẩm bẩn, với các làng ung thư mọc lên nhan nhản đã và đang đe dọa giống nòi Việt ?
- Việt tộc đang ngày đêm nhận, chịu bao thảm họa tới từ Tàu tặc ngoài biển khơi, Tàu nạn từ các nhà máy nhiệt điện, Tàu họa từ bọn côn đồ, du đãng tới từ đất nước Tàu hoạn của chúng, Tàu tà không những buôn con dân Việt để làm lao nô, nô tỳ cho chúng mà chúng còn sẵn sàng giết người để trộm, cắp, cướp, giật nội tạng ?
Chủ thể của trọn vẹn nhân tâm
Chủ thể của hệ đạo, nơi mà đạo lý và đạo đức làm nền cho luân lý qua trách nhiệm và bổn phận với đồng loại, với tha nhân ; luôn để cá nhân được quyền chọn lựa. Từ đây, nền luân lý và quyền chọn lựa được hội tụ, không hề rời nhau, vì nếu không có quyền chọn lựa thì sẽ không có luân lý. Chủ thể luôn mang hệ lý, có lý luận để chỉnh lý, có lập luận để hợp lý, có giải luận để diễn luận từ gốc tới ngọn, từ nguyên nhân tới hậu quả. Chủ thể giải quyết để giải phóng kiếp nạn nhân, phải xác minh luôn phương tiện của chủ thể qua các công cụ có chính nghĩa vì có nhân đạo. Cách nói "cứu cánh biện minh cho phương tiện" chỉ là cách nói của kẻ nếu không muốn tự sát thì chóng chầy cũng trở thành sát nhân. Chủ thể nuôi tự chủ bằng chủ lực của nhân nghĩa, biết rời bản năng ăn tươi nuốt sống tức là giết để ăn, để nuôi thân, để được tới bản thể ăn ở có hậu, có ngày mai được chung sống qua công bằng với đồng loại, như cá thể có thông minh tôn trọng nhân loại, trong hùng lực của chủ thể có trách nhiệm với cộng đồng, có bổn phận với đồng bào, đồng loại.
Chủ thể nhận rõ lịch sử của nhân loại, và sắc nhọn nhất là triết học cho ra đời phạm trù của tự do chính là thông minh của lý trí, tạo nên trí tuệ. Thí dụ điển hình là ngay trên cổ sử và cổ triết của Hy Lạp là một xã hội có nô lệ và đã bóc lột nô lệ, nhưng thông minh của chủ thể đã biết chế tác ra tư duy tự chủ để làm nên các lý luận về tự do, mà còn sáng tạo ra cả một tư tưởng về Dân chủ. Chủ thể làm tự do trở nên sắc nhọn ngay trong sinh hoạt chính trị, trong các thể chế độc tài, trong các chế độ toàn trị mà không một ý đồ chính trị nào có thể giới hạn tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc trên con đường đi tìm nhân phẩm.
Trần Nhân Tông bằng trọn vẹn nhân tâm, đầy đủ tuệ giác, bản lĩnh tỉnh táo của nhân từ đã xây dựng được khối đoàn kết cho dân tộc trước họa xâm lược của Nguyên Mông. Chính nội công sáng suốt của nhân từ đã làm được kỳ công điều binh, khiển tướng của Ngài trong bối cảnh chỉ mành treo chuông của Việt tộc trước bọn ngoại xâm đầy tàn bạo, nhưng vẫn thua trận vì chúng không có nhân từ. Câu chuyện nhân từ trong cuộc đời minh quân của Ngài không phải là câu chuyện lòng trắc ẩn của Mạnh Tử, cũng không phải là lòng thương hại trong các đạo giáo ; mà nó là câu chuyện lấy nhân để cứu nhân. Đây là sự thông minh ở trên cao, trùm phủ xuống mọi định nghĩa về sự thông minh, đây là trí khôn của nhân lý và lý trí của nhân tri biết tìm về nhân nghĩa mỗi lần nhân thế xa nhân đạo. Và chỉ có Ngài mới có tầm vóc này để lập nên phái Trúc Lâm Yên Tử lấy Phật tại tâm để chế tác ra tâm tại thế !
Thiếu nhân từ, vắng nhân nghĩa, trống nhân bản, rỗng nhân văn vừa là hằng số cũng vừa là ẩn số của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đảng cho tới ngày hôm nay. Họ đã và đang đưa Việt tộc tới cõi suy đồi từ đạo lý tới linh hồn. Đây là thật bại lớn của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, giữa các thất bại lớn khác về kinh tế, xã hội, dân chủ, nhân quyền... vì họ thành lập đảng, xây dựng đảng, chỉnh đốn đảng, bảo vệ đảng trên hành vi bạo ngược, với hành động bạo quyền, lấy bạo động để diệt nhân từ, lấy bạo hành đẩy nhân dân ngày càng xa, càng biệt nhân từ. Không có nhân từ, nên các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam trở nên nhố nhăng, kệch cỡm, trơ tráo...
Thí dụ điển hình là tuần này với lòng nhân từ, các Phật tử vào mùa phóng sinh với lòng thành từ bi, yêu muôn loài như yêu chính mình. Phóng sinh để trả lại cuộc sống cho cuộc sống, trả lại tự do cho tự do ! Vậy mà các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam cũng xen vào để "thả chim, thả cá", họ nhố nhăng, kệch cỡm, trơ tráo... vì là giả, dối, láo, xạo, không có lòng thành nhân từ thì phóng sinh chỉ là một màn kịch xấu, tồi, tục, dở.
Muốn có lòng thành nhân từ rất dễ, các vị này hãy thả ngay ! Hãy "phóng thích" ngay ! Hãy trả tự do ngay cho các tù nhân lương tâm, đấu tranh vì nhân quyền, dân chủ, công bằng, tức là vì nhân từ cho toàn xã hội. Thật dễ không hề khó, nhất là đối với các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam có quyền "sinh sát" với dân đen, dân oan, dân chúng... Thật quá dễ khi các vị chỉ để ra vài phút trong ngày, vài giờ trong tuần, vài buổi trong tháng, để đọc, để hiểu, để thấu những gì mà Phật hoàng Trân Nhân Tông đã nói, đã viết, đã tâm sự tự tâm !
Chủ thể có lý trí của công minh
Chủ thể không bao giờ rời quá trình hoàn thiện hóa cuộc sống, không hề xa quá trình cải thiện hóa nhân sinh, không hề bỏ quá trình nhâm phẩm hóa nhân loại. Chủ thể đứng về phía đối kháng chống bất công, là đứng về phía của kẻ yếm thế trước bạo quyền, là đứng về phía của nạn nhân của độc tài, là đứng về phía nước mắt nạn nhân của tham nhũng. Chủ thể đặt quyền lực vào đúng chỗ nó để nó dùng công lý mà xử bất công, giúp công dân có tự do trong tư duy để có tự do vận não với các hiểu biết về điều kiện sinh tử của nhân sinh, có thể bị hủy bất cứ lúc nào bởi bạo quyền, bạo lực, bạo chúa…
Chủ thể chống lại bạo quyền bằng tự chủ của lý chí, bằng quyết tâm với các lý luận nhân lý : tự do trong công bằng và bác ái, từ đó đấu tranh để xã hội công nhận đạo lý tự do-công bằng-bác ái vừa như nguyên tắc, vừa như khuôn mẫu cho mọi hành động xã hội, từ chính quyền tới cá nhân, từ tập thể tới cộng đồng… luôn biết lấy tự do làm động lực cho văn minh của dân tộc. Chủ thể chống lại bạo quyền bằng tự do đến từ nhân lý, có ngay trong nhân tính, xuất hiện từ nhận thức về nhân phẩm, ở ngoài các quy luật nhân quả của hoàn cảnh, vì tự do đến từ tư duy của con người dựa trên nhân luận được hỗ trợ bởi đạo lý, đạo đức, của nhân đạo, tức là không phải chờ mình phải là nạn nhân của bạo quyền rồi mới đấu tranh cho tự do của mình.
Lê Thánh Tôn có mang sự sáng suốt của chân dung chủ thể với các tiêu chí được nêu trên, với triều Lê mang nhiều tai tiếng, nhất là qua chuyện hãm hại các công thần : Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn. Ngài là vị vua được xem như anh minh, tài giỏi, có văn hóa, thiết tha canh tân đất nước, chăm lo cho dân tộc.
Từ triều đại của Ngài mới có câu : nhân tài là nguyên khí của quốc gia, quyết tâm sử dụng nhân tài qua thi cử, không để lan tràn chuyện "con ông cháu cha" như trong chế độ độc đảng hiện nay, Ngài ngăn chặn chuyện "con quan thì được làm quan", như hiện nay với hiện tượng "thái tử đảng", đảng đây là Đảng cộng sản Việt Nam. Dưới triều của Ngài, thì nước mạnh nhờ nhân tài, thời đó xã hội có vẻ còn công bằng hơn xã hội của "tiền tệ-hậu duệ-quan hệ" ngày nay, nơi mà Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang đưa Việt tộc lùi vào vực thẳm tối mù trước toàn cầu hóa của tri thức truyền thông. Ngài dùng quyền lực của mình để đề cao chủ quyền của đất Việt, để thẳng lưng bảo vệ quê hương, đây là một bài học khác -rất quý- mà lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam phải cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối để học Ngài.
Chưa hết, Ngài luôn củng cố quốc phòng, điêu luyện hóa quân sự, ban hành các chính sách cải tiến vũ khí cho quân đội, Ngài phát triển kinh tế không những qua nông nghiệp, mà còn qua thủ công, thương mại... Hay nhất là các cải tổ về văn hóa, xuất sắc hơn nữa là bộ luật Hồng Đức dưới sự chỉ đạo của Ngài, được xem là một bộ luật hoàn chỉnh trong lịch sử Việt, với tính pháp quyền cao. Nhân bất thập toàn, Ngài cũng mang những tai tiếng của một cá thể không vượt qua được các gọng kềm phong kiến trong các quy luật tranh giành quyền lực.
***
Phần 2
Minh tướng : những bài học về chủ đạo
Chủ thể của chủ đạo
Chủ thể tự tin để đấu tranh, tự tin để tự giải phóng mình, vì mình và tha nhân, vì đồng loại.
Chủ thể của ý thức hiện hữu
Chủ thể của nhân cách luôn mang cùng lúc ba nội hàm, gầy dựng nên nội chất, đúc kết ra nội dung của chủ thể :
- Ý thức hiện hữu : có mặt trong cuộc sống, lấy tự do để định hướng nhân sinh quan.
- Ý thức chủ thể : có mặt giữa cuộc đời, lấy tự do để định vị thế giới quan ;
- Ý thức lý tưởng : có mặt trong thế sự với lý tưởng của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành cho mình, cho mọi người, cho chuyện sống chung trong xã hội là chuyện mong muốn, chứ không phải là chuyện cam chịu.
Chủ thể mang ý lực của tự do, được thực hiện cụ thể bởi hai tư duy :
- Tự do biến ước nguyền thành hiện hữu, hiện diện, hiện tại ngay trong phương án xây dựng cuộc sống ;
- Tự do biến dự phóng trở thành : dự đoán, dự tính, dự phòng ngay trong sinh hoạt thay đời, đổi kiếp vì mình, cho mình.
Chủ thể có cá tính, không những qua phẩm chất của cá nhân, đòi hỏi sống bằng chính nhân phẩm của mình, mà tự do còn chủ động cụ thể qua sáng kiến trong cải cách, sáng lập ra các hội đoàn, sáng tạo ra các phương án phù hợp với mong muốn, với chờ đợi, với tâm nguyện : thay đời đổi kiếp, cho mình, cho thân quyến, cho đồng bào, cho đồng loại. Cá tính là kết quả, hậu quả, hiệu quả của tư duy, của hành vi trong hành tác cá nhân, giờ đã có nội lực của kiến thức, sung lực của ý thức, hùng lực của nhận thức để đòi hỏi, để đấu tranh. Có cá tính để đề kháng, có cá tính để đối kháng chống bất công, chống bạo quyền, đây là định nghĩa của cá tính, vừa là thượng nguồn, vừa là hạ nguồn của các định luận về chủ thể.
Hãy nhìn chân dung chủ thể sáng rực của Ngô Quyền. Muôn dân khâm phục và quý trọng Ngài qua ba biểu tượng tiêu biểu cho tinh thần bất khuất Việt : Ngài chấm dứt chớp nhoáng một sớm một chiều hàng ngàn năm đô hộ của Tầu tặc phương Bắc. Ngài xử lý gọn gàng hai mặt trận "thù trong, giặc ngoài", loại tên bán nước Kiều Công Tiễn, tống giặc Nam Hán ra khỏi bờ cõi Việt. Ngài cùng Kiều Công Hãn, Dương Thục Phi, Phạm Đức Dũng, Nguyễn Tất Tố... là những chiến lược gia xuất sắc đầu tiên đã phạm trù hóa chiến thuật thủy triều mà chiến tích trên sông Bạch Đằng thành mô hình quân sự cho thông minh Việt, được sử dụng nhiều lần bởi các minh tướng sau này.
Chấm dứt ngàn năm đô hộ Bắc thuộc phải biết thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc, có bản lĩnh của chủ thể làm chuyện đại cuộc và Ngài đã làm được. Xử lý trọn bọn buôn dân, bán nước loại Kiều Công Tiễn, xóa mối hận phản chúa cho chủ tướng Dương Đình Nghệ, giải tỏa luôn nỗi căm tức của nhân dân thời đó là trừ bọn nội phản để gây lại niềm tin cho Việt tộc là một làm việc rất lớn. Trong điều binh, khiển tướng, Ngài biết nghe, biết tiếp thu các sáng kiến tài, các sáng tạo hay của Kiều Công Hãn, Dương Thục Phi, Phạm Đức Dũng, Nguyễn Tất Tố... Ngài là gương của tất cả những ai muốn lãnh đạo đất nước Việt hiện nay, trước họa Tàu tặc, trước họa bán nước của bọn "sâu dân, mọt nước".
Tình hình hiện nay, Tàu tặc cướp biển, cướp đảo... của một đất nước có cả ngàn vị có chức tướng, mà không vị tướng nào có một tuyên bố liêm sỉ về toàn vẹn lãnh thổ của Việt tộc, không vị tướng nào có sáng kiến về các phương cách ngăn chặn giặc trên Biển Đông, không vị tướng nào có sáng tạo về chiến thuật quân sự trong tình hình mới. Sơn hà đang nguy biến, tại sao Bộ Quốc phòng cùng các tướng lĩnh suốt ngày đi buôn bất động sản, lòn lách trong các hệ thống ngân hàng... với bao mạng lưới tham nhũng qua hối lộ do chính các tướng chủ trì, lại thêm các tướng công an tổ chức đánh bạc trên mạng liên quốc gia để thâu tiền kiểu đầu nậu ! Họ là tướng hay họ đang vô tình "nối giáo" cho giặc ?
Trong chính sử, Việt tộc chỉ thấy và thờ tướng tài, tướng giỏi, tướng hay, nhân dân thấy "lợm giọng" trước các tướng hèn, vì các tướng hèn chỉ có chỗ trong tà sử, ma sử, tục sử, họ không có đứng trong Việt sử. Chủ thể của mãnh lực Ngô Quyền có nhận ra chân tướng của các tướng mà Đảng cộng sản Việt Nam trao chức không ? Tại sao trong hơn 600 tướng trong Bộ Quốc phòng và Bộ Công an mà lại bị nhân dân qua mạng xã hội đặt tên là hèn tướng, tướng Nguyễn Công Thưởng lại được thêm chức "tướng bưng bô", thuộc loài "té nước theo mưa". Không phong cách tướng, không tư cách lãnh đạo, thì làm sao có nhân cách trước ngoại xâm ! Hỡi phường sâu mọt !
Chủ thể biết thẳng lưng, ngẩng đầu trước địch
Chủ thể mang tính năng động để được nhập cuộc trên con đường đạo lý được chọn lựa bởi cá nhân, bởi tập thể, bởi cộng đồng, bởi dân tộc, bởi nhân loại. Nhưng đạo lý phải chỉnh lý và hợp lý để nhân đạo có sức mạnh của nhân lý. Có lý sáng suốt để có luận tỉnh táo, để mà đi về các chân trời hay, đẹp, tốt, lành. Chính lý luận thông minh vì lập luận thông thái của chủ thể mang tính tất yếu được chọn lựa bởi nhu cầu cần thiết, bởi mong muốn bức thiết, để cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc, nhân loại được sống tốt hơn trong nhân sinh, sống đẹp hơn trong nhân thế.
Chủ thể dụng tự do để khẳng định quyền tham gia vào công cuộc chung đi tìm hạnh phúc, bằng thể lực, trí lực, tâm lực của chủ thể, đây là định nghĩa cụ thể và minh bạch của thế nào là chủ thể. Và, chủ thể luôn được xác thực vừa bằng ý chí, vừa bằng quyết tâm, biến chí nguyện đã thành nội lực, thành ý nguyền, thành sung lực, để hành động bằng hùng lực của nhận thức, chủ thể xác định để minh định bằng can đảm của dấn thân.
Các tiêu chí nêu trên để định vị chân dung có đầy đủ trong nhân trí và nhân tâm của Lê Đại Hành, thập đạo tướng quân, và Việt tộc biết Ngài qua ít nhất là ba phẩm cách, thứ nhất là võ tướng bẩm sinh, thứ hai là sáng danh phận trai thời loạn, thứ ba là công tướng trí dũng. Nhưng phải thống hợp cả ba để lấy ra hằng loạt bài học cho hậu thế, cho hiện tại, có trong phương pháp luận sử học so sánh cổ-kim của phương Tây. Vì Ngài là nhân vật tiêu biểu mà các nước văn minh có sử luận uyên thâm được mang tên chủ thể cổ sử dẫn dắt hiện sử ; cụ thể là các bài học cổ Ngài để lại cho mai sau thì rất hiện đại giữa thời buổi hiện nay.
Ngài để lại vài bài học cho hậu sinh mà hậu thế không những phải ngẫm mà phải làm : Mưu lược quân sự của Ngài để chống nhà Tống có một không hai. Khi chúng thấy oai dũng của Ngài thì tìm cách viết thư chiêu dụ, chúng đã lầm từ đó, vì Ngài không phải loại người sống để "đầu hàng", mà mưu lược của ngài đi trên vai, trên lưng chúng ! Trận Bạch Đằng của Ngài được xếp là thứ hai trong sử liệu, sau trận của mãnh tướng Ngô Quyền, trước trận của dũng tướng Trần Hưng Đạo, ở đây xin gọi Ngài là minh tướng. Vì giữa trận mạc, Ngài "giả hàng" để tiếp cận sát với địch, mà chủ đích giết được tướng của địch là Hồ Nhân Bảo, ngay trên chiến thuyền của hắn. Giả cầm cựu trong thế yếu, giả hàng để sát kề thân địch, để diệt địch, và cứ thế mỗi trận một cách, trận Tây Kết thì bọn xâm lăng kinh hồn bạt vía !
Hơn 600 tướng lĩnh từ Bộ Quốc phòng tới Bộ Công an hiện nay phải học kỹ các bài học quân sự của Ngài. Tài lược ngoại giao của Ngài đã cướp hồn sứ giả nhà Tống, cho nên các lãnh đạo của Bộ Ngoại giao hiện nay phải học thật kỹ để luôn thẳng lưng, ngẩng đầu trước địch. Khi gặp sứ giả nhà Tống, Ngài không làm theo ý chúng là xuống ngựa và quỳ lạy, mà Ngài vẫn ngồi trên yên ngựa để đối thoại với chúng. Ngài luôn làm tăng vị thế ngoại giao của đất nước Việt, khai thị cho bọn sứ giả nhà Tống để chúng phải nể trọng Việt tộc.
Ngài thăng hoa dân tộc trong nước về nông nghiệp, kinh tế, rồi biến thành sách lược ngoại giao làm cho địch phải mở mắt là ta cũng thông minh, cũng giỏi, hay, tài, dũng như chúng. Để khi sứ giả nhà Tống trở về quê chúng phải viết lời công nhận : "Ngoài mặt trời xứ Tống, cũng có một mặt trời khác" (Đại Cồ Việt). Hành động lãnh đạo, của Ngài vừa thực, vừa sáng : Ngài cày với dân, làm ruộng vì biết đất Việt phải mạnh về nghề nông để Việt tộc mới vững về kinh tế. Ngài kinh bang tế thế, với xây công trình thủy lợi, từ Ninh Bình tới Nghệ An. Hậu sinh biết cúi đầu khâm tạ Ngài, trước nhiều bài học về phục hưng văn hóa, gầy dựng lại lễ hội, nhất là lễ hội đua thuyền...
Tóm lại muốn học Ngài, thì nên bắt đầu bằng ngôn ngữ của Ngài : "Biết chọn chân chính mà đem tài phò giúp, Biết tìm đường chính mà đi trong các nẻo rối ren của thế sự".
Chủ thể của quốc đạo
Chủ thể thấu hiểu sự vận hành của nhân trí, trong đó hậu quả (hay hiệu quả) của sự cố (hay biến cố) tạo ra tư duy của nhân lý dùng tự do để vượt thoát thử thách, vượt thắng thăng trầm qua đấu tranh vì tự do ; có ý thức về tính khả thi, đi từ năng lượng của cá nhân tới năng lực của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc khi quyết đoán để quyết định thực tế hóa quyền tự do.
Chủ thể hiểu hệ dự (dự tính, dự báo, dự đoán), để lý trí phân tích được tình hình cụ thể, để trí tuệ lập ra các cứu cánh mới và đúng, cùng lúc triển khai các phương tiện hợp nhân lý để giành tự do, công khai đấu tranh vì hệ công (công bằng, công lý, công pháp) cho một công quyền có bản lĩnh của nhân lý, có tầm vóc nhân tri, có nội công nhân trí, để cuộc sống được tốt hơn, lành hơn, đẹp hơn, cao hơn.
Chủ thể có hệ công (công bằng, công lý, công pháp) vì biết và có : công bố một cách minh bạch nhất, vì thế nên tự do luôn ngược chiều với tà quyền ; công phu kỹ lưỡng trong chuẩn bị, kỹ càng trong thực hiện, không ăn sổi ở thì mà ăn ở có hậu, vì thế nên tự do luôn là phản biện của bạo quyền ; công trình trong phát triển bền vững vì nhân phẩm dựa trên nhân nghĩa, xây dựng một tự do dầy nhân thức. Phương trình công bố-công phu-công trình làm nên sự nghiệp của chủ thể.
Trần Hưng Đạo, có đầy đủ, trọn vẹn chân dung chủ thể của quyết đoán với tất cả định đề đã được nêu trên. Việt tộc kính trọng, thờ phụng tôn vinh Ngài là Đức Thành Trần giữa các khai quốc công thần dựng nước và giữ nước. Câu chuyện này có lý do của nó, mà lý của nó thì rất hay, đẹp, tốt, lành, vì phẩm chất của Ngài thật cao, sâu, xa, rộng để hậu thế học, tu, dưỡng, hành cả đời. Ngài cao đẹp vì là người lãnh đạo vì nước quên thù nhà, trước bi kịch của cha là Trần Cảnh, trong thảm kịch nội hôn, mà chính gia đình Ngài chịu cảnh tan nát. Khi cha hấp hối, Ngài lại còn phải nghe lời cha dặn là : phải trả thù nhà ! Trả hận cho cha ! Ngài đã không làm chuyện đó, Ngài chọn hướng cứu nước, Ngài đứng về phía cứu dân, đạo lý này Ngài đã giữ làm lẽ sống cho mình suốt kiếp, và chuyện này thì tất cả các vua, các tướng, các quan, cả nước ai cũng biết, cũng trọng, cũng khâm phục ngài. Ngài có thông minh quân sự trọn vẹn của một lý trí luôn sáng suốt, có dũng cảm lãnh đạo tràn đầy của một nhân cách tỉnh táo, phương pháp phân tích của Ngài rất thuyết phục vua mỗi lần cả nước thề một phen sống mái với Nguyên Mông. Sức thuyết phục của ngài trao truyền lan rộng tới tướng sĩ, binh sĩ, muốn biết mãnh lực của nó, thì hãy đọc Hịch Tướng Sĩ của Ngài. Trong Hịch Tướng Sĩ, Việt tộc được tiếp nhận trước lòng yêu nước của Ngài : "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…".
Quân tử được tạo từ chính nhân, riêng Ngài đã đi xa hơn bao chính nhân, Ngài còn dìu dắt bao chính nhân trong thời đại của Ngài đi theo chính đạo mà chính đạo thời đó, trước đe dọa của Nguyên Mông, chính là quốc đạo (vì nước quên thân), quên luôn cả thù nhà, chỉ vì không được quên nước. Lòng kính phục của hậu thế trước đạo lý của Ngài có cớ sở vững : lấy sung lực lương tâm yêu nước để tạo nên lương tri lãnh đạo trong việc cứu nước-cứu dân, dụng lương tri lãnh đạo để làm sáng lên liêm sỉ vì dân trong nhân cách lãnh đạo.
Hậu thế ngày nay đang mong chờ lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam biết : "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…" để đừng sa đọa trong lạm quyền mà lộng quyền, và đừng suy đồi trong tham quyền mà tham nhũng. Vì tình hình đất nước hiện nay đã lâm nguy, đừng để tiền đồ của Hưng Đạo Vương phải chịu cảnh : lâm chung !
Đức Thành Trần nghĩ sao trong thảm nạn quốc phòng hiện nay của Việt tộc :
- Các tướng hiện nay không hề có kinh nghiệm tác chiến.
- Các tướng hiện nay chỉ biết quy hoạch đất đai để cướp đất của dân.
- Các tướng hiện nay chỉ tham tiền và thích tham nhũng, làm giầu bất chính.
- Các tướng hiện nay chỉ khôn nhà dại chợ, hiếp đáp dân lành biến họ thành dân oan.
Thái sư Trần Thủ Độ nghĩ sao trong thảm họa tướng không có tướng cách hiện nay của Việt tộc :
- Hèn thì có làm tướng được không ?
- Nhát thì có làm tướng được không ?
- Tham thì có làm tướng được không ?
- Tục thì có làm tướng được không ?
Và chắc chắn là hèn, nhát, tham, tục thì chắc chắn không bao giờ thành chủ thể !
Hãy cùng nhau nhìn lại chân dung chủ thể của Nguyễn Huệ, trước khi Ngài trở thành Quang Trung Hoàng Đế. Ngài đã là dũng tướng với bao dũng lực vì thời điểm Ngài làm chuyện bình Nam, dẹp Bắc là vô cùng phức tạp, là thời đại không có lối ra. Nguyễn Huệ một thân, một chính nghĩa đã phải đối phó với sáu mặt trận khẩn trương :
- Mặt trận thứ nhất là Trịnh-Nguyễn phân tranh, một cuộc huynh đệ tương tàn bị xem như là không thể dứt, nếu không có Ngài.
- Mặt trận thứ hai dai dẳng với Nguyễn Ánh mà hận thù đã lên ngất trời được xếp loại là không đội trời chung.
- Mặt trận thứ ba là sự ngấp nghé của thực dân qua con đường truyền đạo, mà ít nhiều Nguyễn Ánh đã rơi vào bẫy, khi khai thác triệt để Bá Đa Lộc.
- Mặt trận thứ tư là Thái Lan, thời đó là láng giềng cơ hội, thừa nước đục thả câu, cũng được Nguyễn Ánh không ngừng sử dụng.
- Mặt trận thứ năm chính là ông anh cả của Ngài : Nguyễn Nhạc, tâm địa lắc léo vì ham quyền cố vị.
- Mặt trận thứ sáu kinh khủng nhất chính là quân Thanh đang xâm chiếm đất nước Việt, chúng vào Thăng Long với tư cách vô cùng thô bỉ của bọn cướp nước Việt và khinh người Việt.
Khinh thường người khác trong chiến tranh thì dễ sinh ra khinh địch, cho nên quân Thanh đã bị quét ra, quét hẳn, quét hết, quét trọn, quét sạch qua chiến dịch thần tốc năm mươi ngày của Ngài. Chúng phải chui, phải chạy và cuối cùng là phải xin được giữ thân để về lại được quê cha đất tổ của chúng. Mặt trận quân sự phải giữ yên bờ cõi để giữ trọn tiền đồ tổ tiên, tức là hằng ngày phải quyết tâm-quyết chí-quyết chiến chống lại ý muốn-ý định-ý đồ của Tầu tặc là xâm lấn-xâm lược-xâm lăng đất nước Việt. Quang Trung Hoàng Đế nghĩ sao về hành vi của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam ? đã được dân chúng hiện nay gắn bảng hiệu hèn với giặc, ác với dân :
- Hèn với giặc, khi chỉ biết cúi đầu khi Tàu tặc đang cướp biển, cướp đảo của Việt tộc ; ngược lại thì ác với dân khi bắt bớ, tra tấn, áp đặt những bản án độc ác lên các nhà hoạt động vì dân chủ và nhân quyền.
- Hèn với giặc, khi chỉ biết khoanh tay để tham nhũng khi Tàu họa đưa ào ạt các công nghiệp bẩn thỉu và độc hại trên cả đất nước ; ngược lại thì ác với dân để mặc nhân dân sống với bao hoạn bịnh ung thư từ ô nhiễm môi trường tới đến quỵ gục môi sinh.
- Hèn với giặc, khi chỉ biết quỳ gối khi Tàu hoạn cho thâm nhập tự thực phẩm bẩn tới hóa chất độc để hủy diệt dần mòn giống nòi Việt tộc ; ngược lại thì ác với dân khi vây bủa đời sống của nhân dân bằng bao thứ thuế má, ngày ngày nheo nhóc hóa dân tộc trong nghịch cảnh giầu sang bất chính của bọn tà quyền tham quan để vơ vét được "chống lưng" bọn ma quyền tham tiền "sân sau".
Quang Trung Hoàng Đế nghĩ sao về một phường ký sinh trùng lúc nhúc trong bóng tối như âm binh sống để bòn rút sinh lực của đồng bào, tài nguyên của quốc gia, cơ nghiệp của tiên tổ ?
Lê Hữu Khóa
(14/12/2019)
-------------
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie,Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á, Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc,Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.
Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sưLê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.