Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

dimanche, 15 décembre 2019 23:50

Chủ thể 1 : Sự thật và Tự do

Chủ thể Việt

(từ lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận tới nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã)

Chủ giác ?

Có khi phải khoanh tay tủi hờn trước sự thật

Vì bao lần nhân tâm để xẩy thai chân lý !

Có khi phải cúi đầu nhìn lại nhân dạng

Vì bao lần nhân tri để đánh mất tự do !

Có khi phải quỳ gối thấp hơn nhân dạng

Vì bao lần nhân tai đã giam cầm chủ thể !

suthat1

Chủ thể Việt tộc có chân dung của nhân quyền trước bạo quyền, nhân phẩm trước tà quyền, nhân bản trước ma quyền

Triết học

Trong truyền thống triết học, từ cổ triết Hy Lạp Socrate, Platon, Aristote tới triết cận đại với Hursselle, Heidegger, Sartres cho tới tận triết hiện đại Deleuze, Derrida, Badiou... các tác giả lẳng lặng tôn trọng một quá trình lý luận có mặt vừa trong sáng tác, tác phẩm, công trình, sự nghiệp của mình ba hàm số, có lúc là hằng số, có lúc là ẩn số, đó là quy trình học thuật : sự thật, tự do, chủ thể.

Bài này, cũng xin tuân thủ theo truyền thống tốt đẹp này và đưa hiện cảnh Việt trong thảm trạng Việt trước họa thù trong giặc ngoài, có nội xâm tham nhũng đang bòn rút tận xương tủy Việt tộc, từ tài nguyên tới tiền của, có ngoại xâm cướp biển, cướp đảo trước sự ươn hèn phản chủ thể của tập đoàn độc đảng-toàn trị.

Chủ thể Việt tộc có chân dung của nhân quyền trước bạo quyền, nhân phẩm trước tà quyền, nhân bản trước ma quyền, nhân lý và nhân tính để đi tìm nhân tri và nhân trí, có nhân vị và nhân văn để tiếp nhân tâm, nhân đạo, để hiểu nhân từ, thấu nhân nghĩa…

Sử học

Bài này đi từ cổ sử tới hiện sử, các chủ thể Việt tộc xem như các vị khai quốc công thần, anh hùng dân tộc, vì dân vì nước, vì quốc vong thân… có nhiều trong sử Việt.

Sử liệu cùng sử học làm rõ sử tính, nơi mà Việt tộc đã là một minh tộc, sáng suốt trong công cuộc chống ngoại xâm để bảo vệ đất nước, đã là một dũng tộc, anh dũng trong kiên cường, dũng mãnh trong chiến đấu. Chính Việt sử sẽ tổng hợp lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận để tạo sức phản chiếu, mà thuật ngữ của thuật học phương Tây đặt tên là jeu de miroir, thuật chơi trước gương, thấy người để soi mình. Để hiểu và thấu tại sao tiền nhân Việt lại có nhiều những chủ thể lấy minh tính, dũng tính của họ để sẵn sàng hy sinh cứu quốc, rồi soi và xét tại sao lực lượng lãnh đạo độc đảng toàn trị hiện nay lại hèn với giặc, ác với dân, đặt vận mệnh dân tộc trước vực thẳm của Tàu tặc, Tàu tà, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn…

Chính trị học

Chính trị học chủ thể hoàn toàn trái ngược với chính trị học xảo thuật, vì chủ thể được định nghĩa như cá thể nhận vai trò công dân như cá nhân có cá tính, có trách nhiệm với đất nước, có nghĩa vụ với đồng bào, có bổn phận với đồng loại. Chủ thể hoàn toàn ngược lại với các loại mua chức bán quyền. Chủ thể tuyệt đối trái chiều với các loài sâu dân mọt nước, chủ thể trực tiếp đối kháng để đối đầu với phường buôn dân bán nước.Chủ thể trong tiểu luận này có nền của hệ chủ :

  • Chủ động từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định tới hành động.
  • Chủ đích từ mục đích tới mục tiêu, từ ý định tới ý lực.
  • Chủ quản từ quản lý tới quản trị, từ sáng kiến tới sáng tạo.
  • Chủ trị từ chính kiến tới chính trị, từ chính ngôn tới chính luận.
  • Chủ phận từ số phận hiện tại tới số kiếp trong tương lai.

Xã hội học

Xã hội học chủ thể là xã hội học hành động với sáng kiến của chủ thể trong quyết tâm thay đời đổi kiếp trước họa cảnh địa ngục của một quê hương, nơi mà cá nhân, tập thể, cộng động, dân tộc đang là nạn nhân của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, nhưng chúng lại nhắm mắt-cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước Tàu tặc, Tàu tà, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn…

Xã hội học chủ thể của hành động dụng sáng kiến và luôn đi thêm một bước tiên quyết nữa là : sáng tạo các phương án, các đề nghị, các áp dụng… có gốc, rễ, cội, nguồn của tự do để lập lại công bằng, để tổ chức lại bác ái trong quy luật của Cộng hòa. Chính quy định của Cộng hòa đưa sáng tạo của chủ thể tới sáng lập các định hướng vì nhân quyền qua dân chủ luôn biết dựa vào đa nguyên để có đa lực, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu. Sung lực của chủ thể là sự thật, tự do vì công bằng và bác ái, hùng lực của chủ thể là nhân quyền trong dân chủ luôn có đa nguyên.

Chủ luận & chủ thể

Bài này mở ra không gian triết học, sử học, chính trị học, xã hội học để tới các ngành khoa học xã hội và nhân văn đã có những đóng góp cụ thể về nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về ba hàm số học thuật này : sự thật, tự do, chủ thể.

Các ngành khoa học nhân văn : ngôn ngữ học, văn học… có nền tảng là văn bản, cũng như các ngành khoa học xã hội : nhân học, dân tộc học có cội rễ trong điều tra thực địa, cả hai đã cống hiến những công trình chủ đạo về ba hằng số, có lúc cũng là ba ẩn số trong sự khai phá học thuật về : sự thật, tự do, chủ thể. Như vậy, chủ thể trong tiểu luận này dựa vào lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận không riêng của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Tại đây, lý thuyết luận, mang nội hàm lấy lý thuyết để hỗ trợ cho lý thuyết ; nhận phương pháp luận, mang nội hàm nhận phương pháp để trợ lực cho phương pháp ; tiếp khoa học luận, mang nội hàm tiếp khoa học để trợ luận cho khoa học.

Tiểu luận này vừa giới thiệu hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận), vừa giới thiệu hệ cảnh (bối cảnh, hiện cảnh, thực cảnh, hoàn cảnh) mang thảm cảnh của xã hội Việt, dân tộc Việt, đất nước Việt hiện nay.

***

Sự thật : chân lý của chủ thể

(Định nghĩa, định đề, định luận)

suthat2

Sự thật không những đứng giữa ánh sáng lại còn lan tỏa để nhập nội vào nhân thế

 

Sự thật là chân trời của chân lý, từ nghiên cứu qua điều tra, từ điền dã qua kiểm tra, từ so sánh qua tổng kết, nơi mà mỗi khám phá, mỗi phát minh, mỗi kết quả đều có giá của nó, và sự thật chỉnh chu trong chân lý : "có thực mới vực được đạo", là sự thực (sự thật) của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức). Chính sự thựcgốc, rễ, cội, nguồn của khoa học, luôn chứng thực để chứng minh, và sự thựcnền, cột, trụ, móng cho chân lý được ra đời và được công nhận.

Sự thật vô điều kiện trước ánh sáng của chân lý, sự thật học để hiểu, khi ta có thiện chí để học, có công cụ của tri thức đúng để tìm ra kiến thức mới và đúng về sự thật, thì sẽ hiểu mọi điều kiện cần thiết để nhìn, để thấy, để nhận và để hiểu ra sự thật. Cụ thể là ta phải biết tách chủ thể đi tìm sự thật và đối tượng đang ẩn chứa sự thật, từ đó chủ thể có thể tái tạo từ đầu tới cuối sự hình thành của đối tượng để thấy được sự thật. Nơi sự thật của con người chỉ biết vụ lợi để bảo vệ tư lợi của mình trong xung đột về quyền lợi, nơi mà mỗi tư lợi bám vào chỗ đứng cùng lúc muốn lớn lên và đe dọa các tư lợi khác thì chính tại đây xuất hiện sự thật để chỉ rõ sự xung đột đã có và thúc đẩy các lực lượng tốt trong xã hội liên kết chống lại các lực lượng xấu chỉ biết bám vào tư lợi của mình mà "thí mạng" các lực lượng khác.

Sự thật có hành trình ngay trên lộ trình chân lý, chúng ta phải biết là lẽ phải không nằm trong ý thức hệ luôn lấy ý đồ để vo tròn bóp méo sự thật. Con người phải có đầy đủ ý thức để biết là lẽ phải tới cùng với chân lý qua sự thật của sự kiện, khi sự kiện đã trở thành sự cố với tất cả tin tức, dữ kiện, chứng từ để từ đó dựng lên chân lý. Chính sự cố làm lộ ra sự thật và không hề tùy thuộc vào nhận xét chủ quan là chuyện này không thểcó, chuyện kia không khả thi, chuyện nọ mang tính không thực tế, để làm thay đổi tình hình : tất cả đều là một loại ngụy biện trá hình trước sự bất lực. Tính ngụy biện tạo ra tính bao biện để kẻ có ý đồ tồi muốn chặn phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải, thì luôn luôn sử dụng gian lý để ngoa luận :không thể có vì không khả thi và không thực tế. Lịch sử con người thì dạy cho chúng ta rất rõ là : sự cố xuất hiện để nói rõ là sự thậtsự có ; biến cố hiện lên để nói lớn là chân lý rất khả thi, và biến động sẽ tới để nói mạnh lên lẽ phải rất thực tế !

Sự thật mở cửa mời lẽ phải, từ đạo lý qua đạo đức, từ luân lý qua giáo dục, từ kinh nghiệm qua trải nghiệm, nhưng kẻ đòi tự do cho lẽ phải phải trả giá cho sự liêm chính của mình. Mỗi hành vi liêm sỉ, mỗi hành động liêm minh, mỗi hành tác đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn chu đáo trong chuyện : được mắt ta ra mắt người, trong đó tư lợi cá nhân không được thủ tiêu công lợi của tập thể. Chính lẽ phải đưa công bằng vào công lý, giao pháp lý cho pháp luật. Chính phương trình công bằng-công lý-pháp lý-pháp luật là phương pháp luận hỗ trợ cho định nghĩa về tự do, để tự do này không được đập, phá, thiêu, hủy các tự do khác !

Sự thật biết đứng về phía nước mắt ! Sự thật trong mạng xã hội qua internet, trong đó các tin tức truyền thông, các sự cố ngoài vòng kiểm soát của chế độ độc đảng, của thể chế độc quyền, trước bị xem là ngoài lề, nhưng giờ đã trở thành chính thống,sự thật này ngược lại với bưng bít, với tuyên truyền, với tráo luận, với giả dối. Mạng xã hội qua internet lại còn đi xa hơn tin tức và truyền thông về sự thật của sự cố, nó còn là nơi hội tụ các đòi hỏi, các phong trào, các đấu tranh vì tự do, muốn tự do. Chính quyền độc đảng ngăn chặn internet, cấm đoán nó, truy hãm vì nó đứng chung không những phía sự thật, mà còn biết đứng về phía lẽ phải để bảo vệ các nạn nhân của bạo quyền : sự thật biết đứng về phía nước mắt !

Sự thật xuất hiện ngay trong hiện tượng, nơi mà cái thật được nhận ra qua trực quan, chính trực quan khi tổ chức lại lý trí, trao truyền cho ta một trí tuệ mới để ta tiếp cận ngày càng sát với sự thật. Sự thậtlà sự liên đới của các chủ quan để cùng công nhận là cái biết đã mở cửa cho cái thật xuất hiện, để sự thật tới như một chân lý có rễ sâu, gốc chắc mà không ai bứng được. Sự thật đã có từ lâu, đã có sẵn, đã có trước câu hỏi sự thật là gì ? Chính cái biết là chìa khóa để mở ra không gian của sự thật để cái thật được nhập nội vào cái biết. Khi chủ thể muốn tìm ra sự thật, thì chủ thể phải là chủ thể mở : mở để sống, mở để nhận, mở để biết, mở để đón sự thật, để được sống thật, sống đúng. Sự thật mang bản thể không ở trong cái giới thiệu, cái tuyên truyền, sự thật của bản thể chính là sự vận hành mà ta thấy-nhận-hiểu qua hiện tượng.

Sự thật có trong lý luận khách quan qua tổng hợp các chứng từ để xây dựng lên tri thức khách quan, đặt sự thật vào kiến thức khách quan để chân lý được khai sáng. Trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế… kiến thức khách quan không như trong khoa học chính xác (toán), không như trong khoa học thực nghiệm (lý, hóa, sinh). Kiến thức khách quan trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế… được giải thích qua ngôn ngữ bình thường hàng ngày, mà không qua công thức toán, không qua thí nghiệm làm nên kinh nghiệm cho kiến thức ; mà sự thật trong đời sống con người chỉ được giải thích bằng ngôn ngữ chính xác nhất : nói thật để nói đúng. Khi ta đi tìm sự thật thì đừng quên tính hỗ tương, như là lực bổ sung của hai loại rất khác nhau, đối diện nhau để bổ túc cho nhau trên lộ trình nhận ra sự thật.

Sự thật xuất hiện trong sự ngẫu nhiên, nhưng khi sự thật ra đời thì chính sự thật sẽ loại đi sự ngẫu nhiên, để trở thành sự thật của phổ quát, của vĩnh hằng, được chấp nhận mọi nơi, mọi hướng. Sự thật thường tới sau một sự cố, chính sự cố tạo cho sự thật xuất hiện. Sự thật cần kiến thức khách quan để xây dựng lại quá trình làm nó xuất hiện. Sự thật hiện hình như sự tái tạo lại cái thật để chúng ta kiểm chứng được tính trung thực của nó. Sự thật khi thì cần các kiến thức qua thực nghiệm của khoa học, có khi thì nó cần đạo diễn, cần kịch bản để tổ chức lớp lang thứ tự các dữ kiện, các chứng từ làm nên nó, để xã hội và truyền thông, để tòa án và pháp luận kiểm tra mọi phần tử, mọi chi tiết đã làm nên sự thật. Sự thật thường xuất hiện như là một sự cố ngoại lệ, phổ quát ngay trong tư duy của con người. Sự thật tới từ sự ngẫu nhiên nhưng là sự có thể, nó tới để xóa đi sự chủ quan tạm thời của con người, nó xuất hiện dẹp hẳn sự chủ quan để dựng lên sự khách quan. Sự thật mang thực chất đặc thù, ngược với thói quen, trái với phản xạ. Sự thật khi được công nhận sẽ trở thành phổ biến với kết quả tất nhiên của nó.

Sự thật của sự vận hành vừa ngầm vừa nhanh, nửa hữu hình nửa vô dạng của thân phận Việt hiện nay. Với Tàu tặc đã chiếm đất, đảo, biển của ta ; với Tàu họa đang ô nhiễm môi trường, đang hủy diệt môi sinh của ta ; với Tàu hoạn đang ngày ngày đầu độc dân tộc ta qua thực phẩm bẩn, hóa chất độc, đang tổ chức trên quê hương ta một mạng lưới buôn ma túy dầy đặc để truy diệt các thế hệ trẻ của Việt tộc ; với Tàu nạn đang giật dây chính trị qua lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thao túng qua kinh tế, biển lận qua thương mại, tha hóa qua giáo dục… Tất cả song hành cùng với các làn sóng di dân Tàu ào ạt vào đất Việt để định cư lâu dài, trong quỷ thuật trai Tàu lấy vợ Việt, sinh con lai Tàu theo cha, tạo ra một lực lượng lai đang lan tỏa sâu rộng ngay trong giống nòi Việt. Sự thật này đã cho ta nhìn thấy là số phận Việt đã là đang lâm vào tử lộ của diệt vong !

Sự thật khi nhận diện được thủ phạm trong bạo quyền qua độc tài, tham nhũng qua tham quan, nhận diện chân lý để chứng minh các phong trào dân oan là hậu quả của chuyện trộm, cắp, cướp, giật của bọn bạo quyền thông đồng với bọn thầu đất. Chính nạn nhân giờ đã trở thành chủ thể tự do dầy cá tính bảo vệ sự thật để bảo toàn chân lý, bảo hành lẽ phải. Phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải là rễ của đạo lý, gốc của luân lý, cội của đạo đức, giờ đã đứng về phía nạn nhân, đã đứng về phía nước mắt, đã đứng về phía nhân quyền !

Sự thật lột mặt nạ sự xảo trá, chẳng hạn như chuyện chống tham nhũng, được mệnh danh là chiến dịch đốt lò của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng cộng sản Việt Nam, nhưng thực chất chỉ là chuyện tranh giành quyền lực để thu tóm quyền lợi giữa các nhóm lợi ích, mà thực chất chỉ là những mafia, sống theo phản xạ đám, đàn, bầy như âm binh, chọn lãnh địa đảng để thao túng toàn xã hội, bòn rút tới cạn kiệt tài lực của quốc gia, nguyên khí của Việt tộc. Chúng cướp quyền lực trước để cướp của dân sau, thanh trừng nhau trước trong nội bộ để dễ dàng thanh toán chuyện trộm, cắp, cướp, giật tài nguyên đất nước, tiền tài dân tộc, vốn liếng xã hội sau đó. Sự thật có mặt trong phân tích, trong giải thích, trong chứng minh là độc tài dựa độc đảng để có độc quyền, để tiếp tục được lạm quyền, tức là còn độc trị thì không sao diệt được tham nhũng.

Sự thật vạch mặt nạ các thỏa thuận ngầm, các thỏa hiệp lén, các thông đồng đi đêm bất-chính-vì-bất-lương của các mafia đang chia chác quyền lực để chia phần quyền lợi, để trục lợi, để nạo ruột các công trình của chính phủ. Với chính sách cướp đất giữa ban ngày qua đạo luật quái thai : "đất là sở hữu của toàn dân", "do chính phủ quản lý" và tất nhiên là "do đảng lãnh đạo", trong đó người dân chỉ có quyền "sử dụng đất", "theo thời hạn", và đất giờ thành các miếng mồi để các dã thú với thú tính của mafia cấu kết với nhau để cướp của dân. Sự thật vạch mặt bọn dã thú thứ nhất là các lãnh đạo dùng chiêu đểu "đổi đất lấy hạ tầng", sau đó trao các miếng mồi đất qua tham nhũng cho loại dã thú thứ hai là các chủ thầu làm hạ tầng trong dối trá, xây dựng cao ốc trong man trá với giá gấp hàng trăm lần so với giá đền bù cho dân. Sự thật vạch mặt chỉ tên các lãnh đạo Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài nguyên và môi trường chính là các dã thú chúa : có quyền lực trong chính sách lẫn trong quy hoạch, có quyền lợi trong xóa nhà dân đen lẫn trong xóa sổ dân oan, để được giành phần rồi chia lời. Sự thật biết lột trần sự man trá.

Sự thật là nền của tri thức, chế tác ý thức trong nhân tính vì nhân phẩm, đó là tự do của kiến thức liêm chính đi tìm nhận thức đúng về cuộc sống có chọn lựa trong sạch. Nhưng quá trình minh bạch này đang bị tha hóa nặng nề về các lãnh đạo giáo dục bất tài nhưng có quyền lực qua độc tài dựa trên độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu họ sáng suốt thì họ sẽ phải hiểu : đối lập của ngu dân chính là tự do. Sự thật là gốc để xây dựng lý tưởng được lý trí quản lý, vì kiến thức khi trở thành ý thức mang giá trị của lý tưởng dùng kiến thức phục vụ nhân sinh, chính giá trị lý tưởng lấy kiến thức phục vụ đồng loại, thăng hoa nhân loại đang bị thối nát hóa đến cùng cực trong một nền giáo dục đã rơi xuống vực sâu của bóng tối tráo, lừa, lận, gian với hệ giả : học giả, thi giả, điểm giả, bằng giả.

Sự thật giáo dục tính tự chủ để nhận kiến thức, đưa đạo lý kiến thức tầm sư học đạo tới đạo đức tôn sư trọng đạo mà Việt tộc đã đúc kết thành luân lý bền vững : công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy cũng đang sa vào bùn lầy. Các tệ nạn giáo dục : trò uy hiếp, bạo hành thầy cô, thầy cô cũng tra tấn học sinh, tất cả chỉ vì giáo dục bị lãnh đạo bởi một đảng rất sợ, rất ngại một nền giáo dục chân chính có gốc, rễ, cội, nguồn từ : sự thực của nhân tính, chân lý của nhân phẩm, lẽ phải của nhân đạo, không ngu dân được qua tuyên truyền sống sượng của tuyên giáo man trá. Tất cả cái giả tạo, phản sự thật sẽ tạo ra một nền cảnh giáo dục quái thai : vừa tha hóa kiến thức, vừa đồi trụy hóa tri thức, mà tội lỗi tới từ các lãnh đạo giáo dục độc tài nhưng bất tài nên bất tín, sẵn sàng bất chính ngay trong trách nhiệm trao truyền kiến thức trong sứ mạng giáo dục vì sự thật.

Sự thật được sống và lao động bằng kiến thứctri thức của mình, được làm trí thức qua ý thức của chủ thể có trách nhiệm với giáo dục, có bổn phận với các thế hệ của mai sau, trong nhận thức của giáo dục là chỉ có sự thật mới là kiến thức chân chính. Bọn quen thói tiền gian bạc lận qua học giả, thi giả, điểm giả, bằng giả không bao giờ có chỗ đứng để đối diện rồi trực diện với sự thật, vì sự thật là khoa học của học lực, tức là phải học thật để có học vị thật, học hàm thật. Sự thật đến để vạch mặt chỉ tên bọn gian lận mua bằng bán cấp, để làm chuyện mua chức bán quyền qua bằng cấp giả, có học vị lẫn học hàm mà không có học lực !

Sự thật chống kiểm duyệt của bạo quyền, bằng lòng quả cảm của mình chống lại hành vi tự kiểm duyệt do nỗi lo sợ bị trừng phạt bởi tà quyền. Chống đối để bảo vệ sự thật, đề kháng để bảo trì chân lý, đấu tranh để bảo quản lẽ phải, tự do thông tin trong tự do truyền thông không sợ kiểm duyệt, kiểm tra. Sự thật có cùng một giòng sinh mệnh với đạo lý truyền thông : đối thoại cho sự thật, đối lý vì chân lý, đối luận vì lẽ phải. Sự thật đòi hỏi minh bạch trong đối thoại về dữ kiện, minh chứng trong điều tra, minh luận trong chứng từ. Sự thật trong truyền thông chống lại quy trình truyền lệnh-tuân lệnh-hành lệnh của bồi bút, của văn nô, vì chúng xum xoe chống sự thật để cúi đầu nhận bổng lộc của bạo quyền, nhai nuốt đặc lợi để ngấu nghiến đặc ân vung vãi của tà quyền.

Từ vong thân tới vong nghiệp, bọn ký nô, văn nô viết để tha hóa thông tin, để gian lận tin tức, để đánh tráo chứng từ ; trong bọn chúng có kẻ còn dùng nghề làm báo, nghề viết lách của mình để đâm thuê chém mướn qua bôi nhọ, chụp mũ, vu khống những ai lương thiện khi chúng nhận được nhiều tiền của các kẻ bất lương. Làm tay sai vì tư lợi, đi ngược lại lương tâm nhà báo khi chúng lội ngược giòng của sự thật thì chúng chỉ là loại phản phúc chống lại chân lý. Bọn này đã đánh mất đi một nghiệp vụ học quý nhất là : tự do trao tin vì sự thật, truyền tin vì chân lý, đưa tin vì lẽ phải ! Vì chúng đã rơi vào tà lộ của điếm nghiệp.

Sự thật sẽ làm nền sự sống, giúp sử học viết đúng, viết trúng, tức là viết thật. Viết thật hay nói thật có khi bị trù dập, bị vu cáo, bị hãm hại, bị ám sát, bị tử hình… nhưng sự thật là sự thật phải được nói tới nơi, tới chốn. Nếu con người sống thật bằng sự thật thì cũng biết chấp nhận cái chết vì sự thật, sự thật là gốc của lòng tin biết dựa vào sự thật để nhận ra chân lý, vận dụng sự thật để làm nền cho lẽ phải. Lương tâm của trí thức là đây, lương tri của khoa học là đây, cả hai là hùng lực lương thiện của kẻ đi tìm sự thật.

Sự thật dạy ta sự khiêm tốn, Socrate khuyên con người khi đi tìm sự thật, phải đi tìm với chính nhân phẩm của mình, đi tìm là đi học, khiếm tốn để khiêm nhường với tâm thức : "Tôi biết là tôi không biết gì cả !". Khiêm tốn rồi khiêm nhường để có thái độ khiêm cẩn trước con đường tìm đến sự thật, sẽ có chướng ngại vật vì sẽ có rào cản, sẽ có thử thách rồi sẽ có thăng trầm ; có quá trình của "lửa thử vàng, gian nan thử sức".

Sự thật là sự định hình của chân lý, rồi nó trở thành bất di bất dịch, nó sẽ không thay đổi, sẽ không chuyển hóa, để được mọi người nhận như một giá trị vừa hiển nhiên, vừa vĩnh hằng. Có hai chỉ báo để "đánh dấu" trên sự thật : sự thật là tri thức, tới từ kiến thức của con người về một chuyện thật, mà chuyện thật này đã tách rời khỏi sự tưởng tượng, tức là đã ra khỏi ý tưởng tới từ cảm xúc chủ quan của cá nhân ; sự thật hiện hữu bằng logos : sự thông đạt của lý.

Sự thật có quan hệ với lòng tin, cái thứ nhất thì mang lại chân lý, cái thứ hai có khi dẫn con người tới cuồng đạo, vào mê lộ của mê tín lại lấy sự mù quáng để nhấn chìm sự thật. Ta có nội chất sau đây để ta nhận ra sự thật : sự thật xuất hiện như sự vén màn bóng tối của sự giả dối đang che lấp sự thật. Khi sự thật tới như ánh sáng vừa lan tỏa, vừa xóa đi bóng tối, thì sự thật vén màn tới đâu là nhân gian khám phá cái thật tới đó, tại đây có quá trình của vén-lật-nhìn-thấy-hiểu, các động từ này chính là các chỉ báo khách quan để định nghĩa thế nào là khám phá sự thật.

Sự thật không những đứng giữa ánh sáng lại còn lan tỏa để nhập nội vào nhân thế, để đổi nhân sinh quan của nhân tình, mà còn đổi luôn thế giới quan của nhân loại, dẫn con người tới nguyên nhân của sự thật. Nguyên nhân có khi nằm trong động cơ của kẻ nuôi dưỡng chuyện phản sự thật. Sự thật tới có thể làm chúng ta sững sờ khi nó xuất hiện, nhưng khi sự thật đã tới như chân lý hiển nhiên, thì sự thật trao cho chúng ta những chìa khóa để mở cửa mọi nhà tù đang giam hãm ta, để giúp ta khám phá ra sự thật này.

Sự thật xuất hiện để tách người ra khỏi sự mê tín không có cơ sở vì không được kiểm chứng qua một quy trình khách quan của tri thức ; như vậy sự kiểm chứng là cặp mắt của sự thật, làm nên quy luật vô trương bất tín (không thấy thì không tin). Và xa hơn nữa là khi ta thấy rồi, tin rồi, thì phải để kẻ khác kiểm chứng để chuyện thấy và tin, để sự thật trở thành chuyện không chối cãi được. Sự thật không đến thản nhiên rồi ra đi trong hồn nhiên, sự thật không chỉ bay lướt trên mặt đất mà nó yêu cầu ta phải đào thật sâu, bới thật rộng, cào thật xa để biết tại sao gốc, rễ, cội, nguồn của sự thật lại bị che lấp, và nó thường bị che lấp với các ý đồ của lòng tham không đáy. Sự thật đưa ra phân tích sâu và rộng để giải thích cao và xa, nên sự thật không bị giới hạn bằng biên giới của không gian, không bị định hạn bởi thời gian, cụ thể là nó không sợ hãi và không tuân thủ bất cứ vùng cấm nào cả. Sự thật khách quan yêu cầu ta tiếp tục điều tra, khảo sát, nghiên cứu chỉ như vậy sự thật mới là sự thật trọn vẹn, nhất định không phải là loại sự thật chột, què, ngọng, điếc đã bị tà quyền vo tròn bóp méo.

Sự thật đến như một sự kiện của sự cố để giải thích các biến cố đã, đang, sẽ xẩy ra khi sự thật xuất hiện với nguyên vẹn hình hài của nó. Và khi chủ thể khám phá ra sự thật nguyên vẹn này, thì chính chủ thể thường có nhận định là mình đã đi sau tới trễ đối với sự thật. Chính cảm nhận này sẽ hướng dẫn chủ thể thực hiện thêm hai việc : kiểm nghiệm lại mọi quá trình thực nghiệm (thật sự của sự thật) và đi thêm một bước hay nhiều bước nữa để được tiếp nhận sự thật đầy đủ mà không bị thiếu sót, để tiếp nhận sự thật được toàn diện, không bị phiến diện như là một sự thật tật nguyền.

Sự thật được khai sáng nhờ kiến thức, nhưng trước đó sự thật có thể bị vô thức của người trần mắt thịt vì đã quá cả tin vào chế độ đang quản lý sự thật, vào chính quyền đang quản trị sự thật ; tệ hơn nữa sự thật còn có thể bị vùi lấp bởi mê thức, tới từ hậu quả của tuyên truyền, từ hậu nạn của kiểu lưỡi gỗ chỉ biết nghĩ, biết nói một chiều làm ra đêm giữa ngày, để ma quyền dễ gạt đi mọi phản biện. Khi vô thức song hành cùng mê thức thì sự thật bị coi như một hiểm họa vì sự thật có thể đặt lại toàn bộ vấn đề về tổ chức xã hội, trong đó có tư lợi của chính kẻ đang là nạn nhân của vô thức hoặc mê thức. Cụ thể là quan hệ xung đột giữa kiến thức với vô thứcmê thức là quan hệ trong đó quyền lợi đặt chủ thể của nhận thức vào sự tỉnh thức trước sự thật ; hoặc ngược lại loại bỏ ý thức tới từ kiến thức để bảo vệ tư lợi trong vô ý thức.

Sự thật đưa kiến thức ra ánh sáng, mà ngay trong kiến thức cũng có loại kiến thức bị giấu giếm, để chỉ được chia sẻ kín đáo trong cùng bè đảng như trường hợp của ba lực lượng độc hại cho số phận Việt tộc hiện nay : bạo quyền lãnh đạo trong độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, tất cả đều tham tiền. Chính chúng là giặc nội xâm, trực tiếp hay gián tiếp mở cửa cho ngoại xâm Tàu tặc, chúng sống bất lương để làm giàu bất chính, loại này luôn "mất ăn, mất ngủ" vì sự thật sẽ tới để lột mặt nạ của chúng. Vì vậy sự thật không bao giờ được chính thức hóa qua hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn). Sự thật xuất hiện trong xã hội không đơn thuần như sự chứng minh một định đề toán, không thuần chất như giải nghiệm qua thí nghiệm của các ngành khoa học thực nghiệm hóa, lý, sinh… Sự thật xã hội là một mạng lưới có dây mơ rễ má trong sinh hoạt xã hội, có gốc, rễ, cội, nguồn trong đời sống xã hội, nơi mà quan hệ xã hội bị thao túng bởi những tư lợi ; người ta giấu một sự thật vì người ta có quyền lợi trong sự che giấu đó, là nền cho sự dối trá của kẻ muốn bảo vệ tư lợi của mình.

Sự thật đối nghịch với sự mù lòa, khi người ta thấy một con voi to lớn giữa nhà,nhưng người ta giả vờ như không thấy nó, thì đó là kết quả của vô thức đã cộng nghiệp cùng mê thức để sinh ra hậu quả của vô ý thức, tức là không tỉnh thức trước kiến thức. Tại đây, tri thức của khoa học xã hội và nhân văn sẽ làm nên được ý thức để giúp quần chúng có được nhận thức về chính số phận của mình : chỉ có sự thật Việt mới nói rõ được số phận Việt, không có một mê tín, mê lộ, mê cung, mê chấp nào thay thế được sự thật. Sự thật được tìm ra bởi thiện ý như là một ý chí muốn nhập nội vào sự thật để hiểu tới nơi tới chốn sự thật. Tại đây, khi ý chí dựa vào thiện ý đã trở thành ý lực thì ý lực này chính là thể lực của niềm tin, cái tin này cũng là bước đầu của trí tuệ, giúp ta khởi hành trên lộ trình đi tìm ra cái lý để hiểu cái thật. Cả cái tin, cái lý sẽ tìm ra cái thật, nơi mà cái tin chọn cái lý để tạo nền tảngđón cái thật được tới.

Sự thật có thượng nguồn là chỉnh lý, để đi tìm cái đang ẩn sâu trong cái lý, khi xem sự thật khi được tung ra như một loại ánh sáng có sức mạnh vô song tới để khai phá ý chí của con người muốn biết tận gốc rễ của cái thật. Chính độ sáng mãnh liệt này làm ngời cái thật được hiện hữu tròn đầy rồi hiện hình trọn vẹn giữa nhân sinh. Nó có lực tập hợp rất lớn đưa cá nhân tới tập thể, đưa các cộng đồng riêng rẽ tới chung một số phận của một dân tộc sống để bảo vệ sự thật sáng rực này. Ánh sáng sự thật càng lớn thì nó tạo ra được sự thỏa thuận, làm nên sự đồng lòng của mọi người thì sức vận hành của nó trong xã hội con người rất mạnh. Sự thật xuất hiện để xóa đi sự ngờ vực, sự thật đứng vững với chân lý của nó, vừa bằng lý thuyết luận, vừa bằng phương pháp luận của nó, làm nên khoa học luận về sự thật, sẽ mang một giá trị tuyệt đối.

Sự thật được phân tích như một nghệ thuật sống mà con người biết tự thuyết phục mình trước cái hiển nhiên vì nó rõ ràng trong tuyệt đối, đó chính là sự thật. Mà muốn tới sự thật này thì phải biết yêu cái thật để thấu cái thật. Plaon chắc chắn một điều là cái yêu đi tìm cái thật làm nên cái biết, cái hiểu về cái thật. Nhưng sự thật đi giữa tri thức quyền lực, sự thật luôn bị chi phối bởi hai cực này, ông tin là sự thật không vô tư và không vô điều kiện, vì cả hai tri thức và quyền lực đều không vô điều kiện. Platon chống lại quá trình của niềm tin khi nó đi tìm sự thật, ông giải thích là khi sự thật nằm giữa kiến thức và lòng tin, thì kẻ có lòng cả tin luôn có ảo tưởng đã là người nắm trọn được sự thật, nhưng thật ra là người đó đang nhốt sự thật vào lồng của niềm tin.

Sự thật tuân thủ các nguyên tắc khách quan thì niềm tin phải theo sự thật, chứ không phải ngược lại là sự thật phải theo niềm tin. Có ít nhất ba yếu tố cấu tạo ra sự thật : cơ cấu lý lẽ của sự kiện tại sao nó xuất hiện trong cuộc sống ; sau đó là tính biến đổi của nó qua thời gian - đây chính là sử tính của nó ; và cuối cùng là sự sống còn của nó qua các không gian khác nhau của xã hội con người. Trong sinh hoạt xã hội, quyền lực luôn tìm cách chi phối các tổ chức xã hội. Trong khi đi tìm sự thật Việt để hiểu số phận Việt, thì ai cũng biết là gần ngàn cơ quan truyền thông, dưới độc quyền của tuyên giáo qua độc tài trong độc trị của Đảng cộng sản Việt Nam, thì có chục ngàn bút nô, ký nô, văn nô được trả lương tháng để phục vụ cho một hệ thống truyền thông được tồn tại chỉ để viết những chuyện phản sự thật. Cái phản sự thật độc hại do độc đảng gây ra, từ nghèo nàn trong lạc hậu của xã hội Việt, tới các cuộc đấu tranh vì nhân quyền trong nhân phẩm qua dân chủ, thì đều bị vu cáo, vu khống, vu họa. Bọn bút nô, ký nô, văn nô hùa sủa với sự hỗ trợ vô điều kiện của bộ máy đồ sộ của tuyên giáo vang danh nhờ man trá.

Sự thật có cội là vốn liếng của gia đình đó trong quan hệ xã hội. Vốn kinh tế tạo nên vốn quen biết, rồi lấy vốn quan hệ xã hội để lợi dụng trên vốn chung của xã hội, lợi dụng rồi lạm dụng là động cơ chính để bảo vệ tư lợi ; cụ thể là tìm quyền để có quyền, và khi có quyền thì lạm quyền. Nên nguồn cội là quyền lợi qua tiền tệ-hậu duệ-quan hệ của một nhóm có thể làm giàu cá nhân đó, là con ông cháu cha dễ thành đại gia ; và ngược lại thì chuyện dân chúng lại nghèo đi, chật vật trong nheo nhóc, dễ thành dân đen, và chỉ một sớm một chiều bị cướp đất, cướp nhà làthành dân oan.

Sự thật của xã hội Việt Nam hiện nay có thể nhìn qua các nạn nhân của quyền lực qua đàn áp do công an trị được trợ lực bằng bạo động qua các hệ thống truyền thông, báo chí phục vụ ý đồ của tuyên giáo. Ta lại càng không quên : bạo động truyền thông với giọng điệu của chính quyền bắt buộc dân tộc phải nghe sự dối trá như là chân lý ; để từ đó chôn vùi thực chất của sự thật, tạo nền tảng để chính quyền này dễ vu khống để vu cáo, dễ điêu ngoa để chụp mũ sự xuất hiện của mọi lẽ phải. Sự dối trá bằng phản xạ điêu ngoa luôn vùng vẫy trong bùn nhơ phản sự thật.

Sự thật mở cửa cho lương tri, vì chủ thể có lương tâm trong hành động, làm nên tính lương thiện trong lý luận đưa chủ thể đó về hướng : phải nói thật để phải thật khi nói, mặc dù có thể bị xử tử bởi bạo quyền lãnh đạo, bị ám hại bởi tà quyền tham quan, bị trừng phạt bởi ma quyền tham tiền. Khi nói thật để bảo vệ sự thật như chân lý để đi tìm lẽ phải, thì sự thật chính là tiền đề của đạo lý biết sống bằng hay, đẹp, tốt, lành trong mọi sinh hoạt xã hội, của luân lý làm nên điều hay lẽ phải trong trách nhiệm và bổn phận của một công dân đối với xã hội mà mình đang sống. Sự thật của xã hội được sự xếp hạng thứ tự trong những giá trị mà xã hội đó tôn vinh, chính sự xếp hạng này cho phép hoặc không cho phép một sự thật xuất hiện, tại đây có khen thưởng hoặc có trừng phạt. Sự thật chỉ được thuyết phục bởi cái lý, nhưng chính Platon cũng khuyên ta hãy cẩn trọng khi sự thật bị chính cái lý thông thường, phổ quát mà thực chất là phản sự thật, đang có sẵn trong tín ngưỡng vây bủa, bóp chết sự thật ngay trong trứng nước bằng cái lý độc tôn có trong độc quyền để chống lại sự thật đó.

Sự thật tác động vào lòng tin, nơi mà lòng tin có kiến thức riêng của nó, có cái lý riêng để định vị, cụ thể là con người không muốn tin những sự thật mới tới để rồi lật đổ các niềm tin đã có trong con người. Sự thật có thể nằm im lìm trong quên lãng, trong những gì mà người ta không muốn hiểu, những gì mà người ta không muốn biết. Khi sự thật đụng chạm tới tư lợi, đây là chuyện thường tình của nhân gian, nên trong khoa học cũng có chuyện tranh giành quyền lực như trong chính trị, trong tôn giáo cũng có chuyện tranh giành quyền lợi như trong kinh tế… Nếu ta muốn bảo vệ sự thật khách quan, tới với chân lý của sự việc, chúng ta không bảo vệ sự thật một cách chung chung, mà trước hết là bảo vệ lý trí của sự thật làm nên chân lý cho lẽ phải.

Sự thật trước quyền lực và quyền lợi, nơi mà sinh hoạt xã hội được tạo ra từ hai loại người kẻ thống trịkẻ bị trị. Kẻ thống trị nắm không những quyền lực, mà còn thao túng luôn cả tri thức. Bằng thủ đoạn của mình, qua chính quyền thuộc về mình, với mục đích kéo dài chế độ thống trị, nơi mà sân chơi, trò chơi, luật chơi được tổ chức rồi giật dây để khống chế rồi áp bức kẻ bị trị. Tại đây, kẻ ăn trên ngồi trốc làm giàu qua sự bóc lột những người cày sâu cuốc bẫm ; kẻ thống trị thì ngồi mát ăn bát vàng sống trên lưng những người lưng đội trời, mặt áp đất ; kẻ thống trị này đi trên vai những người một nắng hai sương bằng thói ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau ; kẻ thống trị này lại tự cho phép mình nằm chờ sung rụng lại còn dẫm lên đầu những người thức khuya dậy sớm qua sưu cao thuế nặng - đây chính là họa nạn của Việt tộc hiện nay. Sự thật của xã hội Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa lạm dụng mọi sinh khí xã hội, vừa bóc lột tới tận cùng xương tủy kẻ bị trị.

Sự thật vạch mặt chỉ tên bạo quyền, nơi mà đời sống Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa bòn rút, vừa trấn lột kẻ bị trị. Kẻ thống trị quây quần với nhau để lập ra những tập đoàn quyền lực, tạo ra bất công tuyệt đối kẻ ăn ốc, người đổ vỏ như ta thấy qua thảm kịch của dân đen hiện nay bị lợi tức tàn mạt, ngày ngày sống với lạm pháp phi mã. Lực lượng thống trị chung quanh Đảng cộng sản Việt Nam sống bằng bạo quyền độc tài trung ương, bằng tà quyền tham quan địa phương, ma quyền chung quanh các nhóm lợi ích, có sân sau, có ô dù, được chống lưng, hít vào bằng biển thủ, thở ra bằng gian lận… tồn tại như các ký sinh trùng bòn rút tài nguyên của đất nước, tiền tài của dân tộc. Các ký sinh trùng này được "tẩm bổ" để trở thành một tập đoàn tội phạm trong hệ độc : độc đảng để độc tài, độc trị để độc quyền, độc tôn để độc quyết, bất chấp mọi độc hại tới với đồng bào, đất nước.

Sự thật có ngay trong sự bất bình đẳng của xã hội ; có ngay trong sự bất công xã hội đó ; có ngay trong sự bất nhân xã hội đó, có ngay trong sự vô luân của kẻ thống trị bấp chấp đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của tổ tiên đã làm nên luân lý của cộng đồng Việt biết sống có trách nhiệm với đất nước, làm nên đạo đức của dân tộc Việt biết sống có bổn phận với đồng bào. Sự thật là vũ khí để chống độc tài luôn tìm cách che lấp sự thật. Sự thật cũng là vũ khí chống mỵ dân của độc tài, chống đạo đức giả của độc đảng. Sự thật tới để lật mặt nạ của bạo quyền trong bất bình đẳng, của tà quyền trong bất công, sự thật giải thích dựa trên các công cụ phân tích về số kiếp của kẻ bị trị, để kẻ này thấy rõ số phận mình qua các bẫy của kẻ thống trị, khi kẻ thống trị xem kẻ bị trị như công cụ để lợi dụng rồi bóc lột.

Sự thật có mặt trong sự bất công, chính cái bất tín làm nên sự bất công, là cái phản sự thật đang xiết cổ sự thật, bất công được tồn tại để bất nhân được che giấu. Con người sẽ tìm ra sự thật của số phận mình ngay trong sự nổi dậy chống bất công, đây là một mệnh đề mới của học thuật đương đại, vì sự nổi dậy để lật đổ độc tài chính là gốc, rễ, cội, nguồn của bất công, và bất nhân đưa ta tới con đường của sự thật. Sự nổi dậy luôn dùng tự do của mình để tái tạo lại công bằngbác ái làm nên nội chất của Cộng hòa, tạo ra thực chất của dân chủ, đây chính là chân trời của sự thật. Không phải chỗ nào có bất công là chỗ đó có nổi dậy, nhưng chỗ nào nổi dậy rồi chỗ đó chắc chắn có bất công ! Đây cũng là thử thách để kiểm chứng Việt tộc có phải là một minh tộc hay không trước cuộc sống hiện tại của chính mình ? Đây chính là thử nghiệm để xác chứng Việt tộc có phải là một dũng tộc hay không trước tiền đồ của tổ tiên, trước vận mạng của đất nước, trước tương lai của giống nòi ?

Sự thật thường xuyên bị ngăn chặn bởi bạo quyền vừa là tà quyền thì nó đổi trắng thay đen sự thật bằng phản xạ điêu ngoa của nó. Chưa hết, qua bộ máy tuyên truyền nhập nội cùng hệ thống công an trị của nó, nó còn dựng lên mọi ý đồ để chặn ngăn sự thật không được phát triển thành sự cố. Khi chặn được sự cố rồi, chúng còn chặn luôn sự kiện hiển nhiên để sự kiện không vào được quỹ đạo của biến cố để thành sự thật. Từ đây, bạo quyền độc đảng luôn ngăn sự phát triển của chủ thể là dùng tự do của mình để khám phá sự thật, tà quyền ngăn luôn kiến thức đi tìm sự thật, để kiến thức được trở thành tri thức, là nơi bảo vệ và giữ gìn sự thật qua thời gian.

Sự thật có mặt trong nạn nhân oan để giải thích hiện tượng bạo động, đó là kiểu giết người của bạo quyền giữa thanh thiện bạch nhật, buộc tội oan một người, một tập thể nhỏ, một cộng đồng yếu để quy chụp những tội mà họ không gây ra. Hoặc biến một lỗi nhỏ của một cá nhân, một nhóm thành tội đồ với tội trạng được phình to ra để hành quyết các nạn nhân oan, như để làm vật tế thần trong một xã hội đang mất niềm tin, đang bị tha hóa. Nhưng chính các nạn nhân oan, không đáng tội chết nhưng bị xử oan để phải chết oan, sẽ giải tỏa sự tù hãm của một tập thể, của một cộng đồng, của một xã hội đang mất phương hướng. Một vài côn đồ, du đãng được công an sử dụng, được bọn ma quyền buôn đất trả tiền, có thể bắt cóc và tra tấn cho tới chết một dân oan đang bảo vệ mảnh đất của mình, một xã hội cho phép đòn thù để tra tấn cho tới chết, mà lại được một độc đảng bạo quyền che lấp tội ác, che giấu tội phạm là một xã hội đang bị nạn nhân hóa.

Sự thật có mặt trong thi thể của nạn nhân, trong sự thật Việt làm nên số phận Việt hiện nay đang diễn ra hằng ngày là một vài công an có thể đưa người vô tội vào đồn công an và đánh đòn thù cho tới chết, để hôm sau báo với gia đình của nạn nhân này là nạn nhân đã tự tử ! Nhưng không một tên công an sát nhân nào bị điều tra để sau đó được phân xử công minh trước tòa án. Gia đình của nạn nhân oan này không dựa được vào pháp luật, vì tư pháp hiện nay không hề liêm chính, vì bọn xã hội đen này lại được công an bảo kê, được bọn ma đất trả lương. Đây chính là độc lộ của dân chúng trong xã hội ngập bất công mà một công dân có thể bị ép vào tử lộ để đi thẳng từ dân oan tới nạn nhân oan, vô tội đã trở thành tử tội. Một nhóm lợi ích tham nhũng đang lũng đoạn xã hội, đang bị điều tra có thể thủ tiêu một đàn em có vài triệu chứng phản bội chúng, để vừa trả thù, vừa để trút giận vào kẻ sẽ là chứng nhân đang tính chuyện bỏ bè rời đảng trong một tập đoàn tội phạm. Bè đảng này có thể thủ tiêu chứng nhân này, để trút xả mọi cuồng bạo của nó mà bất chấp pháp luật hiện hành, một xã hội có mức độ bạo động cao, có cường độ bạo động thường trực như xã hội Việt hiện nay, thì chuyện "thí mạng" nạn nhân oan là một chỉ báo để nói lên sự thật : khi bạo quyền trở thành tà quyền mà sẵn sàng giết người, thì nó rất dễ dàng giết luôn đạo lý lẫn luân lý, diệt luôn giáo dục lẫn văn hóa.

Sự thật có trong bạo lực của bạo quyền, có trong định nghĩa sự bạo động, thì đường đi nẻo về của nó là sự giết hại từ tính mạng tới nhân phẩm của nạn nhân của nó. Khi ta nhìn về sự bạo động, ta thường nghĩ là ta không phải là thủ phạm, mà kẻ khác mới là thủ phạm, nhưng trên đạo lý làm ra đạo đức khi ta nhắm mắt để bỏ qua các tội phạm, thì ta đã đồng lõa với tội ác, và cứ để tội ác tiếp diễn và lan tràn, thì luân lý học gọi tên nó là : đồng phạm ! Hãy xem xét chuyện đi tìm sự thật bằng hành động của mỗi cá nhân thiết tha sống vì sự thật, kết tụ với những hiểu biết khác nhau lại để cùng chung sức dựng lại hay dựng lên một sự thật đang bị vùi lấp. Sự kết hợp các quan điểm qua các tri thức khác nhau, các kinh nghiệm khác nhau, nhưng khi nhập lại làm một tổng hợp đủ lực tạo ra một viễn ảnh ngày càng sáng, một chân trời ngày càng tỏ, giúp chúng ta cùng nhau đi tới mà nhận diện ra sự thật đó thì Platon gọi là hành động truyền thông liên kếtlực kết hợp

Sự thật trao quyền sống đúng, không ai là nạn nhân của bất công. Trong một xã hội mà bóc lột là vô nhân, mà tham nhũng là vô luân, trên nguyên tắc của nhân quyền, con người được quyền sống trong một xã hội đáng sống, không ai là dân đen, dân oan của ai cả ; và khi con người nhận ra sự thật này tức là con người đã biến nhận thức thành tỉnh thức.

Sự thật dặn dò ta phải cẩn trọng ngay trong tin tức, dữ kiện, chứng từ, vì sự thật luôn bị đánh tráo, đổi trắng thay đen, bị biến dạng trong khi ta đi tìm sự thật. Bạo quyền không thể chụp mũ, vu cáo một kiến thức toán trong một định đề toán, tà quyền không thể chính trị hóa toán học được nhưng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng có thể vu khống một sự thật của khoa học xã hội nhân văn, bằng cách chính trị hóa để lũng đoạn hóa các tri thức của khoa học xã hội nhân văn. Và khi khoa học xã hội nhân văn không bị bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng khai thác, thì nó lại bị các ma quyền truyền thông này giật dây, vu cáo, chụp mũ... Nên từ đây, xã hội học hiện đại đã là một kiến thức biết tự phòng vệ để chống lại bạo ngôn của bạo quyền lãnh đạo, xảo ngôn của tà quyền tuyên giáo, lộng ngôn của ma quyền truyền thông. Một sự thật muốn vững trong không gian để bền với thời gian là một sự thật biết tự phòng vệ !

Sự thật về nhân phẩm nơi mà con người là một cá nhân với đời sống xã hội của nó, là thực hành xã hội của cá nhân này trước quyền lợi của nó trong tổ chức xã hội nơi mà cá nhân đó đang sống. Từ đây, ta thấy được những mâu thuẫn, rồi những xung đột hoặc hợp tác của cá nhân đó trong sự vận hành của các cơ cấu xã hội. Khi cá nhân có quyền lực vừa lãnh đạo cả xã hội, vừa chủ mưu tạo ra đặc quyền, đặc lợi làm nên đặc khu cho riêng quyền lực thì chính tư lợi đã ngăn chặn không cho các cá nhân khác và tập thể thấy hết được sự thật. Chính sự đấu tranh ngay trong xã hội đó sẽ làm sáng ra sự thật, để mọi người thấy rõ bạo quyền dính tới tham nhũng, tà quyền tham quan dính tới ma quyền trọc phú, tất cả bọn này đều là buôn gian bán lận trong không gian âm binh của chúng, và chúng biết lách luật để né luật, thậm chí tráo luật để xé luật, để thủ tiêu sự thật ngay trên thượng nguồn của nó.

***

Tự do : chủ lực của chủ thể

(Định nghĩa, định đề, định luận)

 

suthat3

Chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối nhân quyền, trong đó có tự do để tự chọn cho mình một tương lai

 

Tự do có trong nhân tính có từ khi con người phải tự gầy dựng cho mình một chương trình, một dự phóng, một tương lai nếu con người không dựa vào được thượng đế, thần linh hay tôn giáo hoặc dị đoan để trực tiếp gánh số kiếp của mình. Tự do hiện diện trong chất sống của một cá thể, luôn được cũng cố bởi các phương án của cá thể đó trong suốt quá trình sinh tồn của mình : tự thân trong tự chọn để tự chủ trong tự tin, là chỉ có mình mới nuôi, mới sống cho mình, nghĩa là chỉ có mình mới tự cứu mình được mà thôi.

Tự do của nhân vị, khi được định vị, định hình, định dạng qua ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp : tự do là tự do, thì tự do không còn cần tới cách giải quyết siêu hình (học) là con người sinh ra và số phận của nó thuộc về hoặc nằm trong tay đấng tối cao là thượng đế. Bản chất của tự do là vô thần, vì nội chất của tự do là vô thánh, nhưng tự do không vô đạo, nếu định nghĩa đạo là con đường, thì chính tự do là con đường để nhân sinh đi đúng vào hướng của nhân tính

Tự do là quyền phán đoán, phán đoán lịch sử để hiểu sử tính, để thấu sử luận để không lặp lại sai lầm về sử quan trong tương lai, phán đoán các chính quyền độc đảng làm chỗ dựa cho độc tài, độc trị, độc tôn, để chọn lựa và quyết định cuộc sống theo hướng đa tài dựa trên đa trí,đa năng, đa hiệu, có cơ sở trong đa nguyên để bảo đảm dân chủ vì nhân quyền của chúng ta. Tự do là quyền hành động, hành động để nhân cách của chúng ta được tôn trọng trong nhân phẩm của một nhân tính trọng nhân quyền, quý nhân tri, yêu nhân trí để nhân thế được tự do chọn lựa nhân nghĩa, nhân tự, nhân đạo, tức là nhân bản.

Tự do đi tìm sự thật từ chính trị qua kinh tế, từ tâm linh qua tôn giáo, từ dấn thân qua cách mạng, nhưng kẻ đòi tự do cho sự thật phải trả giá cho sự chọn lựa của mình và tự do chân chính luôn đòi hỏi chuyện : đúng giá ! Tự do luôn có tri thức sống động để chống lại chuyện : quá giá phá giá ! Vì tự do luôn mang lý trí sinh động chống lại tham ô, tham nhũng của bọn tham quan, tham quyền sống nhờ quá giá phá giá, mà nội chất của bọn này là : cờ gian, bạc lận.

Tự do cận kề nhân phẩm, khi nó nhận ra chính nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành sẽ cứu nhân thế còn nhiều điều xấu, tồi, tục, dở, khi chính tự do dùng nhân phẩm để xem, xét, khảo, tra nhân loại còn lắm chuyện thâm, độc, ác hiểm, trong đó nhân sinh vẫn còn là nạn nhân của nhân tình, khi nó đã mất nhân tính.

Tự do song hành cùng nhân đạo, khi nó chọn đạo lý để giữ khoan dung, đạo đức để nắm rộng lượng, luân lý để nâng vị tha. Khi cái bạo (bạo lực, bạo động, bạo hành) còn đang tung hoành bởi cái độc (độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) qua độc đảng, đang ngày ngày làm kiệt quỵ sinh lực của hệ hiệu (hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả) vì cái độc này đã giết ngay trên thượng nguồn hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) thì định nghĩa năng động nhất của tự do là : tự do sáng tạo !

Tự do luôn là tự do có điều kiện, điều kiện nhân phẩm dùng nhân lý, nhân tri, nhân trí để củng cố, để thăng hoa nhân nghĩa, nhân từ, nhân đạo, để đưa nhân tình, nhân thế, nhân loại vào đúng quỹ đạo của nhân quyền : sống chung vì đáng sống. Nếu tự do không có điều kiện sẽ là tự do trong tự sát, vì nó biến cuộc sống thành địa ngục, cuộc đời thành âm phủ. Tự do luôn là tự do có điều kiện vì nó muốn lánh địa ngục, xa âm phủ, vì nội chất của nó là sống hay, sống đẹp, sống tốt, sống lành, chớ không phải sống tồi, sống tục, sống dở, sống nhục.

Tự do là trụ cột của cá nhân, là cá thể có cá tính, tại đây tự do nâng hệ tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, lao động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân có đạo đức với xã hội. Chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội văn minh, dân chủ, nhân quyền hiện nay.

Tự do dẫn dắt dân chủ, chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối nhân quyền, trong đó có tự do để tự chọn cho mình một tương lai, một chân trời không có tham quan bất tài, không có tham nhũng vô nhân, làm quỵ kiệt mọi tiềm năng phát triển của Việt tộc, đó là tự do diệt bọn "sâu dân, mọt nước".

Tự do là lực để chống ngoại xâm, tức là chống hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm chiếm) của bọn lãnh đạo Bắc Kinh, không có nhân cách mà ta có thể gọi chúng là : Tàu tặc, với ý đồ muôn thủa xâm lăng để đồng hóa Việt tộc. Chỉ có tự do bảo trì chủ quyền, tự do bảo đảm độc lập, tự do bảo quản đất nước của toàn dân, ta mới đi trên lưng bọn bán nước cho Tàu tặc đang lẩn lách trong giới lãnh đạo hiện nay. Chỉ có tự do của chính ta, ta mới đi trên vai bọn lãnh đạo "hèn với giặc, ác với dân", vì chúng đã vong thân và đang chờ vong quốc.

Tự do là rễ của tự trọng, hệ tự (tự tin, tự lập, tự chủ) không có tự do sẽ không có nhân quyền và dân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằng và bác ái để có tam quyền phân lập : lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh. Tự do là gốc của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bóp, xiết, ngăn, chặn bởi ích kỷ, tư lợi luôn là mối đe dọa trong đời sống cộng đồng, trong sinh hoạt tập thể.

Tự do là cội của nhận thức, của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, tâm thức, làm nội lực cho thăng hoa cá nhân, cho thăng tiến tập thể, cho thăng chất cộng đồng. Không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.

Tự do là nguồn của sáng tạo, của hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là giàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhún cho tự do cộng đồng để đưa xã hội vào quỹ đạo trong đó cá nhân làm động cơ cho dân tộc, là động lực cho đất nước.

Tự do là nền của nhân văn, của hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến) trong đó có tự do sáng kiến của tập thể, có tự do sáng lập của cộng đồng, có tự do sáng tạo của cá nhân kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của một dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng, cùng nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại.

Tự do là trụ của nhân bản, của hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) được tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân tính, trong đó nhân quyền hỗ trợ cho nhân nghĩa có chỗ đứng xứng đáng trong nhân cách của mỗi cá nhân qua tự do. Tức là tự do làm người một cách liêm sỉ nhất, tự do làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất.

Tự do đón nhân tri như tự do đón nhận kinh nghiệm tới từ cuộc sống, biến kinh nghiệm thành kiến thức, rồi đưa đạo lý vào tri thức để có ý thức về cuộc đời, có nhận thức giữa sự sống và cái chết, từ đó chọn sự sống trong cái sống đúng rồi biến nó thành cái sống cho đáng. Tự do đón nhân tri như tự do chấp nhận thăng trầm, chấp nhận nghèo khổ nhưng luôn phấn đấu để vươn lên, cam chịu tiết kiệm để lập vốn, cáng đáng cần lao để phát triển, phát minh để làm cho bằng được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên.

Tự do là vốn để chống độc quyền, của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) đang truy diệt nội công Việt tộc, đang vùi lấp nội lực trí thức, đang thủ tiêu sung lực thanh niên, đang bóp nghẹt mãnh lực của toàn dân trên con đường phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật... Một hệ độc đang giết lần, giết mòn mọi sinh lực xã hội, biến thanh niên là nguyên khí của quốc gia thành kẻ làm thuê, làm công với điều kiện lương bổng tồi, với bảo hiểm lao động tục.

Tự do để giải phóng tư tưởng, tự do không trừu tượng, tự do có hai thế thăng bằng : thân thể và tư tưởng, trong thân thể có thể xác của cá nhânbản thể là sự trao truyền sự sống tới từ cha mẹ và tổ tiên, trong tư tưởng có tư duytư lợi, tư duy theo phương hướng của tri thức tạo nên ý thức, tư lợi theo định hướng phòng thân, thủ thân, lập thân. Tự do không mơ hồ, không tự sát, không ai chống một cá nhân được quyền tự sát, nhưng tự do của nhân sinh là để bảo vệ thân thể và tư tưởng, như bảo vệ hai thế thăng bằng khác : sự sốngsự tồn tại, chính cái quyền được sống là định nghĩa đầu tiên của tự do, chính cái quyền được tồn tại là định nghĩa thứ nhì của tự do. Cả hai định nghĩa này làm nên tính duy lý, hợp lý và chỉnh lý trong động cơ của tự do : hành động của tự do.

Tự do qua hành động theo quá trình : hiểu biết-chọn lựa-quyết định để hành động vì tự do, tự do được sống, tự do được tồn tại trong cuộc sống, và vận dụng cuộc đời, xã hội, cộng đồng, tập thể, gia đình... để ngày ngày thực hiện tự do cao hơn, rộng hơn, sâu hơn, xa hơn. Tự do là lãnh thổ của nhân tính, luôn muốn nới rộng biên giới, cùng lúc nó muốn phá luôn các ngục tù ý thức hệ, các mô hình bảo thủ, các mô thức lỗi thời, để nhân tri nêu cao nhân loại, để nhân trí đào sâu nhân tình.

Tự do có ý thức, không hề là loại tự do thụ động, "ba phải", "nửa vời", "lúc thế này, khi thế khác". Chính ý thức của tự do sản sinh ra ý định thực hiện dự phóng, ý muốn tổ chức chương trình, để hình thành ý đồ phải thành công qua chiến lược lâu dài, chiến thuật ngắn hạn, kể cả sách lược được dựng lên qua mưu lược, tất cả tạo nên ý lực cho hệ quyết (quyết định, quyết đoán, quyết tâm). Tự do có ý thức, có dự phóng, có chương trình qua phương trình ý thức-ý định-ý muốn-ý đồ-ý lực là điều kiện, là tiền đề, là thượng lưu của tự do muốn thay đời đổi kiếp của Việt tộc. Vì có ý thức nên chúng ta thấy cái bất công của xã hội do lãnh đạo bất tàidựa độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam với sự xuất hiện của dân đen, dân oan. Chính phương trình ý thức-ý định-ý muốn-ý đồ-ý lực này sẽ giúp Việt tộc đón nhận nhân tri để có nhân trí mà chống đối, mà đấu tranh, mà phấn đấu cho tương lai của đất nước !

Tự do giáo dưỡng dân chủ ngay trong đấu tranh cho công bằng xã hội, chống lại chuyện "con vua thì được làm vua", với bi hài kịch "thái tử đảng" sinh ra như những quái thai vô tài bất tướng nhưng được lãnh đạo theo kiểu cha truyền con nối của thể loại "con quan thì được làm quan", gây một thảm kịch cho cả dân tộc : "cả họ làm quan" qua gia đình, hậu duệ, thân tộc, họ hàng... với một cơ chế quái vật ma hình quỷ tướng làm trò hề cho các quốc gia dân chủ văn minh. Tự do giáo dưỡng dân chủ được chứng minh ngay trong lịch sử của Việt tộc là chuyện "con vua thì được làm vua, con sãi chùa thì quét lá đa" là vừa sai trái vừa vô minh, vì vừa bất công vừa vô nhân. Hãy nhớ lại trường hợp của Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là con "sãi chùa" mà cũng là minh sư Vạn Hạnh, đã lập ra triều Lý, sáng ngời trong Việt sử, một triều với các khai quốc công thần dụng nội lực văn hóa Việt để chế tác ra sung lực cho văn minh Việt, để gầy dựng nên hùng lực cho văn hiến Việt.

Tự do phải biết tự xây, khi đã tiếp nhận đạo lý, đón nhận đạo đức, thâu nhận luân lý, để xây lên liêm chính, để dựng lên liêm sỉ, bảo vệ nhân phẩm chống lại cường quyền, độc tài, tham nhũng. Từ đó, cụ thể hóa dự phóng đẹp, để hiện thực hóa tương lai hay, để thể hiện hóa chuyện thay đời đổi kiếp theo định hướng tốt, theo chân trời lành cho nhân sinh. Tự do tự xây, dựa trên ngữ pháp "xây để dựng tự do", vì không ai ban bố tự do cho ta, mà tự do có được qua ý thức không chấp nhận bất công, qua nhận thức không dung túng độc tài, qua tâm thức không nhượng bộ bạo quyền.

Tự do phải biết tự sinh, có mặt ngay trong hiện tại để trong hiện sinh trong đấu tranh của kiếp người chống lại bạo quyền qua hệ thống bạo lực của nó. Cùng lúc tự do là dàn nhún, dàn phóng gửi phương án của sự sống đúng đến trúng tương lai tốt đẹp cho nhân sinh. Hơn thế nữa, tự do biết gửi thông điệp tới tương lai, luôn nhắn tín hiệu tới mai hậu là : tự do có mặt để giúp con người thăng hoa theo hướng chân-thiện-mỹ. Tự do tự sinh để gửi thông điệp, tín hiệu là tự do biết nổi giận vì đã chịu quá nhiều bức xúc tới từ bất tín, bất tài, bất trung, đã tạo ra bất công, sinh ra bất nhân, đang lũng đoạn luân lý Việt qua tham nhũng của tham quan. Chính tự do nổi giận chỉ là giòng lũ của thượng nguồn, sẽ tạo nên giòng thác của nổi loạn tại hạ lưu để chống độc tài, độc quyền, độc trị được chống lưng bởi độc đảng, để hình thành hợp lưu của bao giòng lũ, giòng thác tạo nên : nổi dậy !

Tự do của năng động tính, đây là nội công riêng của tự do, vừa biết phòng ngự trước các cái xấu, tồi, tục, dở, vừa biết phản công chống lại các cái thâm, độc, ác, hiểm. Một thông minh khác của tự do là vừa biết khẳng định nhân phẩm của mình, vừa biết vượt thoát các lo âu, sợ hãi tới từ đe dọa, tới từ bạo quyền ; cho nên tự do sống vì quá trình tự thoát để tự thắng. Tự do để tự thắng, là thông điệp đầy hùng lực của tự do : tự do không để bạo quyền, bạo lực, bạo hành giết sự thông minh của nó, sự sáng tạo của nó.

Tự do để tự cứu để chống tận diệt môi trường, để bảo toàn môi sinh, như chính bảo vệ tính mạng của mình và của đồng bào, trước các cá nhân lãnh đạo giành giật quyền lực để dễ buôn dân, bán nước. Tự do để tự cứu trực diện để kình chống loại tự do vô nhân, vô đạo của bọn sâu dân mọt nước, khi chúng tự cho phép là chúng có quyền tự do vô biên, vô định, vô hạn để vơ vét từ tài nguyên của đất nước tới tiền tài của nhân dân. Loại tự do vô minh, vô tri này của chúng được dung dưỡng trong một chế độ độc đảng để độc quyền thâm thủng nguyên khí của quốc gia.

Tự do của tự chủ, biết nuôi nhân đứctrong một không gian đức của chung sống trong công bằngbác ái trong đó tự do biết : nội lực của luân lý có ý thức về trách nhiệm và bổn phận, sung lực của đạo lý có ý thức về chuyện hay, đẹp, tốt, lành ; hùnglực của đạo đức : ý thức về nhân phẩm để giữ nhân tính. Tự do trong một không gian đức của phương trình thấy-hiểu-thấu-nhận : tự do cùng tự chủ của phải hiểu cái tốt để phải làm ra cái tốt cho mình và cho đồng bào, động loại. Tự do cùng tự chủ phải thấu cái đức để tiếp nhận cái luận (lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận) ; tự do cùng tự chủ phải tiếp thâu cái để đón tiếp cái thức (kiến thức, tri thức, ý thức).

Tự do vì công lý của công bằng, tự do cùng tự chủ đề nghị cái lý phải đúng, đúng từ định nghĩa tới diễn đạt, cái đức phải tốt, tốt từ định đề tới áp dụng trong giáo dục, cái luật phải minh, trong nghĩa công minh cho toàn xã hội. Tự do cảm nhận bằng cảm xúc, nhưng được tồn tại bằng lý luận, được lâu dài bằng công pháp, nơi mà pháp luật phải công nhận tự do để xóa bất công, để trừ bạo động, để loại độc tài. Tự do cùng tự chủ công nhận công lý phải được phổ quát qua phong trào, qua đấu tranh, qua hội đoàn... Tự do là năng lực định nghĩa lại trách nhiệm để trách nhiệm có những công lý mới đúng hơn, trúng hơn trong không gian quyền hạn của trách nhiệm, trong đó trách nhiệm lãnh đạo phải liêm chính vì nó rộng hơn, nặng hơn trách nhiệm của công dân. Tự do không tự có để tự tồn, tự do có được trong tính tất yếu phải có câu trả lời, qua hành động thích hợp với luân lý của công bằng, với đạo lý của sự tôn trọng lẫn nhau.

Tự do của quá trình từ lý luận, nơi mà tư duy từ lập luận tới hành động vì công lý, dùng lý trí tự kiểm soát hành vi, tự kiểm định hành động của mình qua trí tuệ và đạo lý, qua trí lực và luân lý.Tự docó trong khả năng tự điều chế đam mê, cảm xúc, xúc động dẫn tới vô tri, thượng nguồn của vô trách nhiệm, có lý trí của tự cân bằng các sinh hoạt xã hội, cộng đồng, tập thể theo quy luật công bằng, dựa trên công lý, được trợ lực bởi công tâm.Tự do biết tự giáo dục, qua kiến thức, qua tri thức để có ý thức biết tự giáo dưỡng đạo lý, đạo đức, luân lý cho mình và cho người khác.Tự do biết quyền tự bảo vệ mình trước bạo quyền, bạo động, bạo lực, làm nguồn gốc của khổ đau, là nguyên nhân của nghèo đói.

Tự do của quyền tự bảo vệ đồng bào và đồng loại trước độc tài, độc quyền, độc đảng, là gốc, rễ, cội nguồn của bất tín, bất tài, bất lương. Tự do có quyền tự đa năng hóa trong các sinh hoạt chính trị và xã hội, dựa trên đa tài, đa hiệu, đa năng của tha nhân, dựa trên đa nguyên, đa lý, đa đảng của nhân quyền và dân chủ. Tự dobiết bảo vệ môi sinh, trong đó có quyền bảo toàn môi trường sống, như chính bảo quản để cuộc sống, chống ô nhiễm môi trường và chống ngay trên thượng nguồn các tà quyền, các công nghiệp ngày ngày gây thảm họa môi sinh, đe dọa cả nguồn sống lẫn sự sống của bao thế hệ.

Tự do là trách nhiệm của ý thức, tự do vừa là cơn gió chắn đường chim bay, nhưng vừa là lực giúp chim bay, luôn mang ý thức không chấp nhận bất công, bằng chính ý thức của mình khi thấy trước mắt mình bạo quyền đẻ ra bất bình đẳng, và tà quyền làm tăng bất công hằng này qua bạo lực và qua tham nhũng. Tự do có được vì chính bất công, bạo quyền, độc tài làm sáng định nghĩa, vừa làm sáng ý chí của tự do, chính tà quyền vô tình tạo điều kiện cho tự do ra giữa ánh sáng của nhân sinh, để phản diện rồi phản đề và cuối cùng là phản kháng chống bất công.

Tự do của hành tác, tự do bên trong qua lý luận của tư duy, tự do thể hiện hành động ra bên ngoài, tự do bảo vệ tha nhân, như chính bảo vệ nhân tính của mình. Và khi tự do bị hiểu sai, rồi lạc hướng, khi tự do biến thành thảm họa cho mình và cho người khác, thì tự do phải luôn trở về với ba định hướng, dưới dạng ba câu hỏi : tự do muốn gì ? Tự do làm gì ? Tự do về chuyện gì, trong xã hội nào, trong bối cảnh nào ? Từ đây, tự do luôn có ba thực chất để thể hiện mình : chủ thể, mong cầu và hành động. Khi cả ba vế này được minh bạch thì tự do phải : vượt thực tế, thực tại, thực cảnh ; vượt trở lực, khó khăn, thử thách ; vượt độc tài, bạo quyền, tham nhũng.

Tự do nội chất của sự sống, nơi mà con người quyết định, và chính con người hoàn toàn tự do để tìm đường đi nẻo về của nhân đạo, cũng chính con người phải vì nhân phẩm trước bạo quyền, độc tài, tham nhũng phải bảo vệ tự do của mình như bảo vệ con ngươi của mình để nhìn cho ra nhân tính. Tự do là sự phối hợp giữa tự tin của tư duy và độc lập lý luận, không thờ ơ trước bất công, mà chọn lựa hành động để thay đổi thực tế không được chính nghĩa của tự do chấp nhận nữa. Tự do trong tự tin là thử thách chống lại sự thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, có thể tới tự thái độ biếng lời của tư duy, chưa được trang bị ý chí làm thay đổi tình hình do bạo quyền làm ra. Tự do vừa là quyền hạn, vừa là khả năng của ta, để ảnh hưởng thẳng tới cuộc sống, nên tự do chỉ tùy thuộc ta ngay trong tính khả thi muốn thay đổi cuộc sống theo hướng thiện.

Tự do đi theo cái đúng, để làm nên cái tốt, đó là khả năng của tự do chế tác ra các quy định mới thuận lợi cho công bằng và bác ái trong không gian chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục... Tự do trong không gian của đạo lý và luân lý, có khung đạo đức của xã hội, trong lòng tin trước pháp lý của pháp luật vì công lý của công bằng. Tự do chỉ của một người, một nhóm, một bè, một phái, một đảng là loại tự do sớm nở tối tàn trước nhân lý, chỉ là loại tự do sống nay chết mai trước nhân phẩm.

Tự do chống bạo quyền, độc tài, tham nhũng được kiểm chứng qua các quá trình sau đây, nơi mà mỗi chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn phân tích và giải thích được : tự do biết hét lên : không đúng ! Không chấp nhận được ! để chống bạo quyền, độc tài, tham nhũng… để đi tới tìm cái đúng, tìm cái chấp nhận được qua công bằng của công lý ; triết học luân lý và chính trị học gọi là lẽ phải của tự do. Tự do nổi lên trong nổi dậy giữa xã hội, cộng đồng, dân tộc khi nhân phẩm bị xúc phạm, tự do này đi từ nhân lý tới nhân trí ; tri thức luận và xã hội học chính trị đặt tên nó là : nhân tính của tự do. Tự do vượt khoảng cách, đã gây ra ngăn cách giữa người với người, dùng tự do để lập lại cầu nối, tạo ra phong trào, tái lập lại quan hệ xã hội để tìm sự chia sẻ, sự đồng cảm, từ đó chế tác ra đòan kết và tương trợ giữa các nạn nhân của bạo quyền ; tâm lý học tri thức và sử học chính trị nêu tên nó là : lực bảo vệ quan hệ của nhân loại.

Tự do gạn đục khơi trong, loại bỏ bạo động có thể hủy diệt quan hệ xã hội, từ đó tạo nên một trật tự mới có đạo lý cạnh lý trí, có công lý cùng công bằng để bạo vệ sự trường tồn của tự do, mà triết học phân tích và xã hội học giáo dục tặng nó tên : trí tuệ của nhân lý. Tự do đúng đưa công lý đúng với công bằng đúng tới nơi để bảo vệ công dân trước bạo quyền, đưa pháp lý đúng tới pháp luật đúng, biết bảo vệ lẽ phải để bảo vệ nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng, mà luật học cùng giáo dục học gọi nó là : kiến thức của tự do. Tự do đúng đưa vào thảo luận để tìm ra cách giải quyết có đạo lý trước các khổ nạn của nhân sinh, chính đây là phẩm chất của đối thoại, chống phân biết đối xử, chống chuyện loại trừ tha nhân bằng chủ quan của định kiến, và xã hội học đạo lý cùng chính trị đàm phán trao nó tên : dân chủ của truyền thông.

Tự do của quả cảm đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù có ngay trong tư duy của mỗi cá nhân, nhưng chính ý thức của tự do gầy dựng nên từ ý nghĩa của tự do này, sẽ chế tác ra dàn phóng cho chính nghĩa của tự do. Tự do có ngay trong não bộ của cá nhân để dẫn tới hành động cụ thể vì công lý, ngay trong xã hội mà quần chúng đang bị lao lý hóa bằng bạo quyền, độc tài, tham nhũng. Tự do chặt xiềng, tự tin phá nhà tù, nhiều khi tới từ lý luận về nhân quả (nhân nào quả nấy, tức nước thì vỡ bờ), bạo quyền mà bạo ngược quá thì sẽ bị lật đổ, chính dân là kẻ đóng thuyền nhưng cũng chính họ là kẻ lật thuyền, để dìm tà quyền, ma quyền xuống đáy sông. Tại đây thì tự do cũng đủ nội lực, đủ nội công để khẳng định quyền sống như xác nhận chính bản lĩnhcủa lý trí biết tự tư duy để đấu tranh vì tự do, mà không cần phải là nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng.

Tự do của quyền công dân, muốn xây dựng một xã hội có công lý vì công bằng, lấy pháp lý để hỗ trợ pháp luật. Nhưng trong một chế độ mà bạo quyền, độc tài, tham nhũng không những đã áp đặt công an trị để đàn áp quần chúng, mà còn thao túng hiến pháp qua độc đảng, giật dây tư pháp qua độc trị ; thì tự do chủ quan bên trong của lý trí trong mỗi cá nhân phải được hình thành qua tự tin đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù ra xã hội bên ngoài. Tự do hành động trong phương trình của lý trí-trí tuệ-ý chí để xử lý các trở lực đang che chắn cho bạo quyền, độc tài, tham nhũng. Tự do trong đấu tranh có thành công và có thất bại, nhưng ngay trong thảm bại, tự do không tuyệt vọng, vì chính nghĩa của tự do sẽ làm nội lực cho chính khí của tự do, cụ thể là không cúi đầu mà ngẩng đầu, không khoanh tay mà thẳng lưng, không quỳ gồi mà thẳng bước đi về phía chân, thiện, mỹ. Phải đứng dậy với sung lực của đi tới, có hùng lực để leo dốc, có mãnh lực để thẳng tới nhân phẩm, khi bạo quyền đang đe dọa nhân tính !

Chân dung chủ thể Việt :

Sự thật mãi mãi-tự do mãi mãi-chủ thể mãi mãi

Cúi sâu xuống bóng đêm quật lên sự thật

Vì mấy lần chân lý đã quỵ chân

Nằm sát đất nén hơi thở tự do vào ngực lửa

Vì bao bận công lý buông nhân dạng !

Xiết chặt tay ôm đầy nguồn nước mắt

Vì vạn lần chủ thể đã biệt tăm !

Lê Hữu Khóa

(13/12/2019)

***

suthat4  Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie, Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á, Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc, Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa. 

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa