Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

samedi, 19 février 2022 21:08

Quê hương là gì hở mẹ ?

Quê hương giữa đôi bờ nước mắt

Tsering Woeser19/02/2022

Lời người dịch:Tsering Woeser là nhà văn và là nhà hoạt động người Tây Tạng.

taytang1

Nhà văn Tsering Woeser 

Câu chuyện có thực dưới đây là một chương trong tác phẩm tựa đề Tây Tạng Bút ký của bà Tsering Woeser được xuất bản vào năm 2003 ở Trung Quốc. Tác phẩm này sau đó đã bị cấm và bà bị mất việc, mất nhà, bị "cải tạo" và bị cấm xuất cảnh. Bà hiện sống ở Bắc Kinh.

Trần Quốc Việt

------------------------

Hôm ấy vào một ngày hè nóng nực năm 1999. Như thường lệ, chùa Tsuglakhang rất đông khách thập phương và người hành hương đến viếng. Và như thường lệ, Nyima Tsering đứng ở lối vào để bán vé và sẵn sàng làm hướng dẫn viên du lịch thuyết minh bằng tiếng Anh và tiếng Trung Quốc cho khách từ xa đến vãng cảnh chùa. Không giống với những lạt ma khác, trên báo chí và đài truyền hình họ gọi ông là "lạt ma hướng dẫn viên du lịch". Tuy nhiên ông không chỉ là hướng dẫn viên du lịch, mà còn là người giữ nhiều chức vụ, đặc biệt nhất là Ủy viên Thường trực Hội đồng Nhân dân ở Lhasa. Cho nên, chúng ta thường thấy trên các bản tin của đài truyền hình Tây Tạng và đài truyền hình Lhasa một nhà sư trẻ mặc áo dài choàng màu đỏ nâu sậm ngồi giữa các viên chức trông nghiêm nghị mặc áo quần của người thế tục. Ông lúc nào trông cũng điềm đạm, chín chắn, và tự tin.

taytang2

Chùa Tsuglakhang rất đông khách thập phương và người hành hương đến viếng.Ảnh minh họa

Vào ngày ấy, ai đấy bảo Nyima Tsering nộp hai tấm hình cho bộ liên quan để làm hộ chiếu. Họ cho ông biết vài ngày sau ông sẽ bay đến Bắc Kinh để gia nhập với các viên chức khác thuộc nhiều bộ của chính phủ. Tất cả họ đều sẽ tham dự hội nghị nhân quyền quốc tế ở Na Uy. Na Uy ? Chẳng phải là quốc gia nơi đức Đạt lai Lạt ma nhận giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 1989 sao ? Nyima Tsering cảm thấy sung sướng tuy hơi lo lắng. Khi ông đi nộp hình, một người ở đấy thấy vẻ mặt lạ lùng của ông liền nói, "Ông đừng lo lắng, những người đi cùng với ông đều là cấp cao cả đấy. Họ chẳng giống như các viên chức Lhasa chẳng biết gì".

Chẳng bao lâu Nyima Tsering đáp máy bay một mình đến Bắc Kinh. Tất nhiên ở cuối mỗi chuyến bay đều có người lo cho ông. Ông không thể nhớ rõ ràng ông đã gặp ai hay đã nói gì. Hai ngày sau ông lại đáp máy bay, lần này với mười đến hai mươi đại biểu đến Na Uy, tuy nhiên, ông hầu như chẳng nhớ bất kỳ điều gì trên đường đi. Lẽ ra ông nên nhớ rất rõ ràng những trải nghiệm của mình. Tuy nhiên, so với những từ "nhân quyền", những vấn đề khác đối với ông chẳng quan trọng bằng. Ngoài hội nghị ra còn có điều gì khác có thể khiến ông rất quan tâm đến ? Dù sao, ông là người Tây Tạng duy nhất đến từ Tây Tạng và là lạt ma duy nhất trong chiếc áo tu sĩ.

Nhưng những người đi trong đoàn này quả thực khác hẳn. Họ lớn tuổi hơn ông, và khác với các viên chức Lhasa, họ có vẻ học cao hiểu rộng, cư xử lịch sự, và không ồn ào hay ra vẻ kẻ cả. Đến ngày hôm nay, Nyima Tsering vẫn còn nhớ lúc ông cảm thấy ngượng ngùng khi ông không thể cầm được nước mắt, và viên chức từ Ban Dân tộc Thiểu số và Tôn giáo được phái đi theo ông hỏi thầm, "Chắc thầy không được khỏe ?". Rồi im lặng. Khi Nyima Tsering cuối cùng bật khóc, không ai yêu cầu ông phải giải thích ; ông rất biết ơn sự im lặng gần như thông cảm ấy.

taytang3

Lạt ma Nyima Tsering– Ảnh minh họa

Những ngày nay khi nhắc đến cuộc hội nghị, Nyima Tsering thường tránh nói về những chi tiết như diễn biến, người tham dự, nội dung, hoàn cảnh, địa điểm, không khí hay gặp gỡ, thảo luận, tham quan, vân vân của sự kiện. Thật sự hai chuyện ông kể lại tưởng như xảy đến thình lình. Và hoàn toàn bất ngờ - như thể chúng bị kìm nén trong lòng ông quá lâu đến nỗi ông giờ không thể nào đè nén được nữa. Ông đột ngột cắt ngang cuộc trò chuyện, để từ miệng ông bật ra lời kể về những chuyện này.

Chuyện đầu tiên xảy ra khi phiên họp vào buổi sáng ngày đầu tiên kết thúc. Ông và những đại biểu khác đang trên đường đến dự bữa tiệc trưa ở tòa đại sứ - tất nhiên tòa đại sứ Trung Quốc. Bao mối lo lắng suốt thời gian qua đã tan biến dần vì chẳng ai làm phiền ông hay hỏi ông những câu hỏi khó trả lời. Ông thích thú ngắm nhìn cảnh phố xá Bắc Âu thanh lịch khi xe họ chạy chậm qua các đường phố, và ông bắt đầu trò chuyện với những người nước ngoài ngồi kế bên. Dần dần, ông dường như đã trở lại con người tự tin ngày trước khi ông thường đưa những người nước ngoài đi tham quan chùa Tsuglakhang. Vì vậy, khi xe bất ngờ dừng lại và cửa xe mở ra, tiếng người - ôi chao, tiếng người ấy, tiếng của rất nhiều người ấy - tưởng như sấm sét nổ vang trên đầu ông. Ông cảm thấy như ông đã bị trúng thương và đang chịu dư chấn của một vụ nổ lớn. Ông gần như bất tỉnh và hầu như không bước đi nổi.

Tàu khựa... Lạt ma Tàu khựa... Lạt ma cộng sản.

Bên ngoài tòa đại sứ, hàng chục khuôn mặt tức giận có nét mặt không thể nào thân thuộc hơn đối với Nyima Tsering ; hàng chục cái miệng đang thét lên bằng tiếng nói không kém phần thân thuộc hơn. Những người nam nữ này cũng trạc tuổi ông và cũng cùng chung dòng máu. Khác biệt duy nhất là họ là những người Tây Tạng lưu vong ; còn ông và chỉ một mình ông là "người Tây Tạng được giải phóng" từ Tây Tạng đến. Họ mang những biểu ngữ họ đã viết trên đấy "Người Trung Quốc, hãy trả lại quê hương cho chúng tôi" bằng tiếng Anh, tiếng Tây Tạng, và tiếng Trung Quốc. Vào lúc ấy, trong thành phố nơi Đạt lai Lạt ma đã nhận giải thưởng Nobel Hòa bình, đồng bào của Nyima Tsering hoàn toàn bị ngăn cách với ông.

Mọi người khác đều ra khỏi xe và bước đi thẳng mà chẳng để ý đến cảnh tượng trước mắt ấy. Nhưng ông không thể như thế được. Làm sao ông có thể làm như thế được? Sau này, cho dù cố gắng cách mấy chăng nữa, ông cũng không thể nào nhớ lại làm sao ông đã vượt qua được khoảng cách ngắn từ chiếc xe đến tòa nhà. Lúc đó khoảng cách ấy tưởng như là con đường dài nhất và gian khổ nhất ông đã đi qua trong suốt ba mươi hai năm cuộc đời. Chiếc áo tu sĩ Tây Tạng giống như ngọn lửa cháy rực, và những cái nhìn ghê tởm của những người biểu tình tựa như những giọt dầu nóng hay bơ sôi văng tung tóe. Những giọt này bắn lên đầu cúi gục xuống, lưng còng, và đôi chân lê bước nặng nề của ông và càng làm cho ngọn lửa cháy mạnh hơn.

Nhớ lại trải nghiệm này, Nyima Tsering nói giọng chát chúa hơn bình thường, "Tôi biết làm gì, tôi biết làm gì ? Tôi đang mặc cái này…". Kéo mạnh chiếc áo dài choàng màu đỏ đậm, ông khẽ lặp lại lời ấy như thể tự nói với mình.

"Từ đó trở đi", ông nói, "Tôi không bao giờ còn có thể cảm thấy vui vẻ và vô tư lự ở hội nghị. Suốt trong bốn ngày tôi bắt đầu thấm hiểu nghĩa của câu nói con kiến trong cái chảo nóng".

Đến lúc cuối cùng ông đi qua được con đường ngắn nhưng đầy gian nan ấy, lòng ông đã bị tổn thương nặng nề. Ông cảm thấy như thể ông đã bị sắt nung đóng dấu vào người. Ông muốn khóc, nhưng không có nước mắt để khóc. Những người ở tòa đại sứ giả vờ như chẳng có gì xảy ra, hay ta có thể nói, họ thường nhìn mà không thấy. Không ai nhắc đến sự cố bất ngờ này. Họ đều nói về những chuyện khác. Trong lúc mọi người khác ăn uống và trò chuyện lịch sự, Nyima Tsering chẳng nuốt nổi được miếng nào, cảm giác như bị mắc xương trong cổ. Đây là lần đầu tiên ông thấy rất nhiều người Tây Tạng ở nước ngoài - hay nói chính xác, rất nhiều người Tây Tạng lưu vong. Mặc dù họ chỉ cách có mấy bước, nhưng bao dãy núi đã ngăn cách họ với ông.

Nhiều người chắc hẳn đã nói với ông về nhiều chuyện. Nhưng chẳng chuyện nào quan trọng hay quan hệ gì. Ông lắng nghe nhưng không thật sự chú ý, lắng nghe, quên. Vì lòng ông đã bị tổn thương, ông đã mất tinh thần. Song ông vẫn nhớ - ngoài những cái liếc mắt thông cảm từ những người nước ngoài đã đi cùng xe với ông - viên chức từ Bắc Kinh được phái theo ông hỏi thầm, "Chắc thầy không được khỏe ?". Nyima Tsering gần như gật đầu. Ông ta trông hiền lành và lịch sự ; và dù sao, với tư cách là người phát ngôn cho vụ Dân tộc thiểu số và Tôn giáo của Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, dù muốn hay không, ông cũng là tâm điểm của sự chú ý của mọi người.

Bao mối lo lắng đã theo Nyima Tsering suốt mấy ngày qua vừa mới tan biến đi thì chúng lại xuất hiện. Những mối âu lo mà càng trĩu nặng thêm trong lòng kể từ khi ông rời Lhasa thật khó mà vơi đi, thế mà bây giờ lại thêm bao nỗi lo lắng mới. "Nếu mình bước ra ngoài cửa và gặp lại họ thì sao ? Chắc họ sẽ khinh bỉ mình, chế giễu mình, hay cảm thấy thương hại mình ? Chắc không, bây giờ trong đầu họ mình là lạt ma Tàu khựa, lạt ma cộng sản". Ông mỉm cười cay đắng.

Dù trong lòng vẫn còn hơi lo lắng, ông đánh bạo bước ra ngoài tòa đại sứ. Ông thở dài nhẹ nhỏm, rồi bất ngờ cảm thấy lạc lõng. Những người Tây Tạng hô hào hồi nãy đã biến mất, và chỗ ấy giờ trống vắng. Họ đã đi về đâu ?

Ngày thứ hai trôi qua êm ả.

Vào ngày thứ ba, Nyima Tsering phát biểu, đây chính là lý do thật sự mà chính quyền đưa ông đi dự hội nghị. Vì trong các cuộc hội nghị trước không có tiếng nói của người Tây Tạng nên những tuyên bố của Trung Quốc về tình trạng nhân quyền ở Tây Tạng luôn luôn yếu ớt và không thuyết phục. Họ hy vọng sự hiện diện và chứng thực của Nyima Tsering sẽ chứng minh điều khẳng định người Tây Tạng có quyền và những quyền này được bảo vệ. Tuy nhiên ai biết chăng lòng Nyima Tsering ngổn ngang bao mối lo khó xử ? Nói như thế nào ? Nói gì đây ? Nên nói gì... và không nên nói gì ? Ông thật khổ tâm. Mặc dù ông biết, dưới chiếc áo dài choàng đỏ đậm này, ông chẳng hơn gì con rối, nhưng ông không muốn có vẻ quá lạc điệu hay đi quá sự đúng mực. Một cách kín đáo, ông hỏi ý kiến của một người nước ngoài mà ông đã bắt đầu tin tưởng. Người nước ngoài khuyên thầm ông nên nói chung chung và tránh đề cập đến bất kỳ điều gì cụ thể.

Nyima Tsering vì vậy đọc thuộc lòng bài phát biểu ông đã chuẩn bị theo "văn bản" hay chính xác hơn, theo "văn bản" gởi cho báo, đài và truyền hình. Bài phát biểu hoàn toàn phù hợp với những ý tưởng thường xuất hiện trên truyền thông trong nước : văn hóa của dân tộc Tây Tạng hoàn toàn được bảo vệ và phát huy, người Tây Tạng có tự do tôn giáo, và quần chúng tu hành đều yêu nước. Mọi người trong hội nghị im lặng lắng nghe ông. Chỉ một người từ thính giả, một người Mỹ, hỏi bằng tiếng Anh, "Nếu vậy, ông có tự do gặp gỡ Đạt lai Lạt ma ?". Mặc dù ông đã chuẩn bị trước cho những câu hỏi thuộc loại này, nhưng khi nghe tên của người lãnh đạo - như vào ngày đầu tiên, khi ai đấy chỉ cho ông thấy nơi Đạt lai Lạt ma nhận giải thưởng Nobel Hòa bình - ông ngẩn người ra. Nhưng ông lấy lại bình tĩnh ngay và trả lời một cách khôn khéo, "Đây là câu hỏi chính trị, tôi từ chối trả lời". "Câu hỏi chính trị gì ở đây chứ ? Câu hỏi về một người Tây Tạng, một lạt ma, muốn gặp Đạt lai Lạt ma của mình sao lại có thể là câu hỏi chính trị ?". Tất cả những người khác đều không hỏi bất kỳ câu hỏi nào như thể mọi người ở hội nghị thấu hiểu được hoàn cảnh và nỗi lòng của Nyima Tsering. Ông nghĩ như thế.

Ngày thứ tư cuối cùng đến. Ông tưởng những ngày đau khổ sắp qua đi. Nhưng, bất ngờ thay, cú đánh lớn nhất giáng xuống vào ngày cuối cùng.

Sau khi kết thúc hội nghị, họ tổ chức cho đoàn đại biểu đi xem một công viên quốc gia nổi tiếng. Các công viên ở Na Uy đều rất đẹp và đầy bao nét quyến rũ về sự cùng tồn tại hài hòa với thiên nhiên. Cảnh đẹp khiến vị lạt ma trẻ, người lớn lên trên mái nhà thế giới, thấy lòng vơi bao sầu muộn. Khi ông nhìn quanh, một phụ nữ trẻ đến gần ông. Cho dù chị mặc áo thun và quần jeans - trông chẳng khác gì áo quần của những người nước ngoài quanh ông - Niyama Tsering nhận ra ngay tức thì chị là người Tây Tạng. Chị có khuôn mặt Tây Tạng, vẻ Tây Tạng, đặc trưng Tây Tạng.

Người phụ nữ bước đến Nyima Tsering và hai tay dang ra tưởng như chị tình cờ gặp lại người bạn bặt tin từ lâu. Đột nhiên, ông như chìm đắm vào giấc mộng, nghĩ đã gặp chị trước đây. Ông không thể nào cưỡng lại việc nắm tay chị lúc chị nắm chặt tay ông. Bất ngờ thay, người phụ nữ không chịu buông tay ông ra và bắt đầu khóc to lên. Chị vừa khóc ràn rụa vừa nói với ông bằng tiếng Tây Tạng, "Thầy ơi, thầy làm gì ở đây vậy ? Thầy làm gì với bọn Tàu này ? Thầy là người Tây Tạng, hãy nhớ thầy là người Tây Tạng, đừng giao du với họ...".

Nyima Tsering xiết bao bối rối và buồn bã, nhưng ông chẳng thể rút tay lại cũng chẳng thể nói nên lời. Đám đông bắt đầu xúm lại. Tất cả những người nước ngoài, họ đều rất tò mò trước cảnh một nhà sư mặc áo dài choàng đỏ đang bị người phụ nữ khóc lóc giữ chặt. Không một ai trong đoàn can thiệp, ngược lại họ còn bỏ đi thật nhanh và làm ra vẻ cảnh tượng ấy chẳng liên quan gì đến họ, mà có thể được hiểu là cử chỉ cảm thông và thấu hiểu. Đến lúc này, viên chức do tòa đại sứ phái đi theo Nyima Tsering suốt trong bốn ngày qua mới mở miệng. "Nyima Tsering, chúng ta đi thôi. Kệ bà ta".

Người phụ nữ Tây Tạng không hiểu tiếng Trung Quốc, nhưng chị cũng có thể đoán được ông ta nói gì. Chị nổi giận và ra sức la lại ông ta bằng tiếng Anh. Nyima Tsering liền cản chị và nói lặp đi lặp lại, "Tôi biết, tôi biết, tôi biết...". Người phụ nữ vẫn khóc tiếp và nói, "Nếu thật sự thầy biết, thì thầy đừng trở lại nữa". Khó nhọc lắm, Nyima Tsering mới nói buột ra điều ông nghĩ trong lòng : "Làm sao tôi có thể không trở về chứ ? Quê hương chúng ta ở đấy. Nếu chúng ta ai cũng bỏ đi hết thì còn ai ở lại Tây Tạng ?". Khi ông nói những lời này, ông không thể nào cầm được nước mắt. Mắt ông đẫm lệ.

Rốt cuộc nhiều người đến giúp ông thoát ra tình trạng khó xử này. Họ là những người Tây Tạng được các đơn vị công tác của họ ở Lhasa - như Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội TAR, Đại học Tây Tạng, và thư viện - cử đi học những khóa học cao cấp ngắn hạn ở Na Uy. Nyima Tsering chẳng quen họ, nhưng ông biết họ giống như ông : Những người Tây Tạng ở Tây Tạng. Đến ngày hôm nay ông cũng chẳng hiểu tại sao rất nhiều người Tây Tạng thuộc nhiều thành phần khác nhau lại tập trung ở công viên ấy. Tất nhiên, lúc ấy ông không nghĩ về điều ấy. Ông vội vàng giật nhanh tay mình ra khỏi tay nắm chặt của người phụ nữ vẫn đang khóc, xong ông vội lấy áo lau khô nước mắt, và chạy trở lại với đoàn.

"Thưa thầy, "một trong những người đã đến giúp ông khuyên ông một cách ân cần, "nếu ai hỏi chuyện gì đã xảy ra, thầy chỉ nói với họ là người trong gia đình bà ta qua đời cho nên bà ta nhờ thầy thắp những ngọn đèn bơ và tụng kinh cầu siêu cho người đã khuất ở chùa Jokhang khi thầy trở lại Lhasa". Nyima Tsering gật đầu liền, nhưng cảm thấy đau nhói trong lòng. Tưởng như mọi chuyện đã xảy ra đã được chấp nhận, chẳng một ai liếc nhìn ông hay nói lời nào khi ông đến gần. Tựa như chẳng có chuyện gì xảy ra - chẳng có gì đáng bàn tán.

Cuối cùng đã đến lúc rời Na Uy - nhưng không rời ngay. Phái đoàn phải chờ thật lâu ở phi trường : hơn hai giờ. Những người đứng đầu và cán bộ từ tòa đại sứ, kể cả người không bao giờ tách rời Nyima Tsering suốt bốn ngày qua, đã đi về sau khi đưa phái đoàn ra phi trường. Trong những giờ chờ đợi dằng dặc này mọi người ngồi, đứng, đi qua đi lại trong phòng chờ phi trường sáng sủa, rộng rãi và ấm cúng. Bất luận họ là công dân nước nào chăng nữa, họ đều có vẻ tự do và thanh thản. Nyima Tsering cũng đi thơ thẩn qua lại tự do. Dường như chẳng ai theo dõi ông, điều này khiến ông cảm thấy ông có thể đi đâu tùy ý. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu ông : Nếu mình không đi với họ thì sao ? Dù sao, hộ chiếu ở trong người mình, và mình có đủ tiền. Nếu mình mua vé khác đi đến nơi nào đấy...

Tất nhiên, đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua. Như tôi đề cập vào lúc đầu, Nyima Tsering lúc nào cũng điềm đạm, chín chắn, và tự tin. Cho nên cuối cùng, ông - con kiến trong chảo nóng - trở lại với đoàn. Trở về quê hương dường như là cách tốt nhất cho ông. Tuy nhiên, khi máy bay chầm chậm rời phi trường Oslo, khi Na Uy-biểu tượng của thế giới tự do - dần dần bỏ lại phía sau, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy dài xuống đôi má gầy guộc của Tsering.

Tsering Woeser

Nguyên tác : "Nyima Tsering's Tears", dịch từ tạp chí Mānoa, chủ đề "Beyond Words-Asian writers on their work", University of Hawai’s Press, 2006, trang 97-103. Bản dịch tiếng Anh của Jampa, Bhuchung D. Sonam, Tenzin Tsundue, và Jane Perkins

Trần Quốc Việt dịch

(19/02/2022)

**********************

Bên nhau vì quê hương 

Yoani Sanchez, Trần Quốc Việt, 19/02/2022 

Lời người dịch :Nhân dịp đến Mỹ vào năm 2013, blogger nổi tiếng nhất Cuba Yoani Sanchez đã đọc diễn văn này ở Freedom Tower tại thành phố Miami, tiểu bang Florida, trước đông đảo những người Cuba tỵ nạn tại Mỹ. Nhiều người, đặc biệt giới trẻ, đã chào đón chị nồng nhiệt. Và bài diễn văn này tạo ra tiếng vang lớn trong lòng những người Cuba lưu vong.

cuba1

Yoani Sanchez là blogger bất đồng chính kiến người Cuba nổi tiếng. Photo/archive Kelly Knaub/HT

--------------------------

Cách đây nhiều năm, khi lần đầu tôi rời Cuba, tôi ở trên chuyến tàu chạy từ Berlin về hướng bắc. Một Berlin đã thống nhất nhưng vẫn còn giữ lại những mảnh vỡ của vết sẹo xấu xí, bức tường chia cắt quốc gia. Trong toa tàu hôm ấy, trong lúc nghĩ về cha và ông mình -cả hai đều kỹ sư- những người sẵn sàng đánh đổi bất kỳ thứ gì để được đi trên những toa và đầu máy tuyệt vời này, tôi bắt đầu nói chuyện với một người đàn ông trẻ ngồi ngay trước mặt mình.

cuba2

Blogger Yoani Sanchez nói chuyện trước 500 cử tọa người Cuba tại hội trường Freedom Tower, Miami, Florida, ngày 01/04/2013

Chúng tôi chào nhau. Do dùng sai tiếng Đức "Guten Tag" nên tôi nói rõ rằng "Ich spreche ein bisschen Deutsch". Ngay lập tức, anh hỏi tôi người gì. Thế là tôi đáp "Ich komme aus Kuba" (1).

Như luôn luôn diễn ra sau câu nói ta đến từ đảo lớn nhất thuộc quần đảo Antilles, người đối thoại liền chứng tỏ họ biết nhiều về nước chúng ta. "À... Cuba, nhớ ra rồi, thành phố nghỉ mát Varadero, rượu rum, nhạc salsa". Một đôi lần tôi còn biết sự liên tưởng duy nhất mà họ dường như có về nước chúng ta là album nhạc "Buena Vista Social Club" đang thịnh hành vào những năm ấy.

Buena Vista Social Club - 'Chan Chan' at Carnegie Hall (Official HD Video)

Nhưng người đàn ông trẻ trên chuyến tàu Berlin ấy đã khiến tôi ngạc nhiên. Khác với những người khác, anh không đáp lời tôi bằng những định kiến về nhạc hay du lịch, anh đi xa hơn nhiều. Anh hỏi tôi, "Chị là người Cuba. Cuba của Fidel hay Cuba của Miami ?" (2).

Mặt tôi chợt đỏ ửng lên, tôi quên mất tất cả vốn liếng tiếng Đức ít ỏi của mình, nên tôi trả lời anh bằng tiếng Tây Ban Nha chính giọng Havana. "Này anh, tôi là người Cuba của José Marti" (3). Cuộc trò chuyện ngắn ngủi của chúng tôi kết thúc như thế. Nhưng từ đấy trong suốt đoạn đường còn lại, và suốt cuộc đời còn lại, lần trò chuyện ấy cứ vương vấn mãi trong đầu tôi. Nhiều lần tôi tự hỏi điều gì đã khiến người Berlin ấy và rất nhiều người khác trên thế giới thấy những người Cuba ở trong nước và ngoài nước như hai thế giới cách biệt, hai thế giới không thể hòa giải được.

Câu trả lời cho câu hỏi đó cũng xuyên suốt qua phần nào các bài viết trên blog của tôi, Thế hệ Y. Làm thế nào họ đã ngăn chia nước chúng ta ? Làm thế nào một chính quyền, một đảng, một kẻ nắm quyền có quyền quyết định ai nên được giữ quốc tịch của chúng ta, ai nên không ?

Quý vị biết rõ hơn tôi những câu trả lời cho những câu hỏi này. Quý vị là những người đã trải qua bao đau đớn của cuộc đời lưu vong. Quý vị thường là những người ra đi tay trắng. Quý vị là những người từ biệt gia đình, ra đi mà không bao giờ gặp lại người thân. Quý vị là những người đã cố gắng gìn giữ Cuba, một Cuba trọn vẹn, không thể nào chia cắt, trong tâm tưởng và trong lòng mình.

Nhưng tôi hôm nay vẫn không biết, điều gì đã xảy ra ? Cơ sự nào mà định nghĩa về người Cuba lại trở thành một điều chỉ được ban phát dựa trên ý thức hệ ? Hãy tin tôi, khi ta sinh ra và lớn lên với một cách hiểu lịch sử duy nhất, một cách hiểu lịch sử bị cắt xén và tùy tiện, ta không thể nào trả lời câu hỏi ấy.

May mắn, ta có thể thức tỉnh sau đêm dài bị tuyên truyền. Chỉ cần mỗi ngày một câu hỏi, như chất a xít ăn mòn, hiện ra trong đầu. Chỉ cần không nghe những gì họ nói với chúng ta. Tuyên truyền không thể nào tồn tại với hoài nghi, quá trình tẩy não chấm dứt ngay lúc não ta bắt đầu nghi ngờ những lời lẽ nó nghe. Tựa như sự lạnh nhạt, quá trình thức tỉnh diễn ra chậm chạp như thể bề mặt hiện thực bất ngờ bắt đầu lộ ra.

Trong trường hợp của tôi mọi thứ bắt đầu như thế. Tất cả quý vị đều biết lúc nhỏ tôi là một thiếu niên Tiền phong bình thường. Hàng ngày vào lúc chào cờ buổi sáng ở trường tiểu học tôi luôn luôn hô vang khẩu hiệu "Chúng tôi, những thiếu niên Tiền phong vì chủ nghĩa cộng sản, sẽ noi gương Che". Biết bao nhiêu lần tay ôm mặt nạ chống hơi độc tôi chạy đến hầm trú ẩn, khi các thầy cô giáo quả quyết rằng chúng tôi sắp bị tấn công. Tôi tin lời họ. Trẻ em luôn luôn tin lời người lớn.

Nhưng có những điều gì đấy đã không khớp. Mọi quá trình tìm kiếm sự thật đều có điểm kích hoạt, một khoảnh khắc khi một phần không khớp với toàn bộ, khi điều gì đấy không hợp lý. Và sự không hợp lý này tồn tại ở cuộc đời bên ngoài trường học, tại nơi tôi ở và ở trong gia đình tôi. Tôi đã không hiểu, nếu những người vượt biển trong cuộc thủy vận Mariel cứu vớt thuyền nhân (4) là "những kẻ thù của Nhà nước" thì tại sao bạn bè tôi rất sung sướng khi một trong những người thân lưu vong ấy gởi về cho họ thực phẩm hay áo quần.

Tại sao những người hàng xóm ấy, những người bị tiễn đưa bằng những lời bêu xấu tại chung cư Cayo Hueso nơi tôi chào đời, vẫn lo cho người mẹ già còn ở lại quê nhà ? Người mẹ già ấy đem một phần đồ con cái gởi về cho lại chính những người đã lăng mạ và bêu riếu con bà. Tôi không hiểu được. Và từ chính sự không hiểu được này, mà đau đớn như mỗi lần sinh nở, đã sinh thành nên con người tôi hôm nay.

Vì thế khi người Berlin ấy chưa bao giờ đến Cuba mà lại cố tình chia cách nước tôi, tôi nhảy đựng lên để phản đối anh ta. Cho nên nhờ thế hôm nay tôi đứng đây trước mặt quý vị để khẳng định rằng không ai lại có thể phân chia chúng ta thành người Cuba này hay người Cuba khác. Chúng ta sẽ cần lẫn nhau cho một Cuba tương lai và chúng ta cần lẫn nhau trong Cuba hiện tại. Không có quý vị, nước chúng ta sẽ trở nên không trọn vẹn, như thể thân thể quê hương bị cắt hết tay chân. Chúng ta không thể cho phép họ tiếp tục chia cắt chúng ta.

Như chúng tôi đang đấu tranh để sống trong quốc gia nơi chúng tôi có quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, và rất nhiều quyền tự do khác mà đã bị cướp đoạt từ chúng tôi ; chúng tôi phải làm tất cả mọi điều - những điều có thể và những điều bất khả - để quý vị có thể lấy lại những quyền tự do họ cũng cướp đoạt từ quý vị. Không có "các anh chị" và "chúng tôi". Chỉ có một chúng tôi. Chúng ta sẽ không cho phép họ tiếp tục chia lìa chúng ta.

Tôi có mặt ở đây hôm nay vì tôi không tin lịch sử họ kể tôi. Với rất nhiều người Cuba khác lớn lên dưới một "sự thật" chính thức duy nhất, chúng tôi đã thức tỉnh. Chúng tôi cần xây dựng lại đất nước của chúng ta. Chúng tôi không thể thực hiện điều này một mình. Những người hiện diện ở đây -như quý vị biết rõ- đã giúp đỡ rất nhiều gia đình ở trong nước có thực phẩm để nuôi con cái. Quý vị đã thăng tiến trong các xã hội nơi quý vị khởi sự từ tay trắng. Quý vị ra đi đã mang theo cả Cuba trong lòng và quý vị thương yêu quê hương. Hãy giúp chúng tôi đoàn kết quê hương lại, phá tan bức tường này mà, khác với bức tường ở Berlin, không làm bằng bê tông hay gạch đá, mà làm bằng những lời nói láo, sự im lặng, và bao ác ý. Trong nước Cuba mà rất nhiều người trong chúng ta mơ ước, không cần phải xác định chúng ta là người Cuba nào. Chúng ta sẽ chỉ là người Cuba, thế thôi.

Yoani Sanchez

Nguyên tác : "Cubans, period" trích từ HavanaTimes, 01/04/2013. Tựa đề do người dịch đặt

Trần Quốc Việt dịch, 19/02/2022 

-------------------------------

Chú thích của người dịch :

(1) "Guten Tag" là "Chào". "Ich spreche ein bisschen Deutsch" là "Tôi nói chút ít tiếng Đức". "Ich komme aus Kuba" là "Tôi là người Cuba" (dịch từ Google Translate)

2. Miami là nơi có rất nhiều người Cuba sống.

3. Joses Marti (1853-1895) là anh hùng cách mạng và là nhà thơ người Cuba

4. Cuộc thủy vận cứu người vượt biển ra đi từ cảng Mariel vào năm 1980 đã cứu và đưa hơn 100 ngàn người tỵ nạn Cuba đến định cư ở Hoa Kỳ.

 

*******************

Sống chết với quê hương 

David Samuels, Trần Quốc Việt, 19/02/2022

Lời tòa soạn : Dưới đây là một đoạn trích từ bài nói chuyện với cựu trí thức bất đồng chính kiến Adam Michnik về 'tâm lý người Ba Lan', bài Do Thái và 'đeo kính Do Thái', do ký giả David Samuels thực hiện, đăng trên trang Tablet Magazine ngày 18/12/2014.

--------------------------

POLAND-MICHNIK

Cựu trí thức bất đồng chính kiến Adam Michnik – Ảnh chụp năm 1981 tại Warsawa

Vào tháng Năm 1968 tôi đang ở tù và tôi ở trong "karcer" này, tức xà lim kỷ luật đặc biệt, hay còn gọi là "giường cứng". Rồi bất ngờ họ đưa tôi đi cung ở một căn phòng trải thảm đỏ sang trọng.

"Ông Adam, mời ông dùng thuốc lá ? Ông dùng trà hay cà phê ?"

Rồi viên an ninh điều tra trẻ, độ chừng hơn ba chục tuổi, thực ra chẳng lớn tuổi hơn tôi, nói :

"Ông Adam, khi ra tù ông có tính đi Do Thái ?"

"Tại sao tôi nên đi Do Thái ?"

"Vì hiện nay tất cả những người Do Thái đều có thể đi Do Thái".

Nghe thế, tôi nói với anh ta. "Tôi sẽ di cư sang Do Thái vào ngày sau khi anh di cư sang Mạc Tư Khoa".

Anh ta rất tức giận, nhưng đối với tôi đây là khoảnh khắc rất quan trọng, vì tôi tự quyết định về thân phận của mình. Điều mà cộng sản và những kẻ bài Do Thái nói về tôi đối với tôi thật ra chẳng quan trọng gì. Đối với tôi, điều quan trọng là điều tôi nghĩ về mình.

Cha tôi không ngừng ép tôi di cư. Ông thường nói "Này con, con ở đây họ sẽ giết con đấy". Trước đó trong phiên tòa xử mình tôi đã phát biểu rất khiêu khích và sắc sảo. "Họ sẽ không bao giờ tha thứ con chuyện ấy", cha tôi hay nói. Ông muốn tôi đi. Tôi đáp, "Không. Con nhất định ở lại đây để may vải liệm cho họ".

David Samuels

Nguyên tác : "The Conscience of Poland : A Q&A With Adam Michnik", Tablet Mag, 18/12/2014Tựa đề do người dịch đặt

Trần Quốc Việt dịch (19/02/2022)

**********************

Quê hương

Trần Quốc Việt, 19/2/2022

(Phỏng theo bài thơ "Quê hương" của Đỗ Trung Quân)

 

quehuong1

 

Quê hương là gì hở mẹ

Mà cô giáo dạy cố yêu

Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng vui nhiều

 

Quê hương là chùm khế ngọt

Cho quan trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về nặng tập trên vai

 

Quê hương là con diều biếc

Tuổi thơ con ngóng thèm thuồng

Quê hương là con đò nhỏ

Sương rơi chờ khách đêm khuya

 

Quê hương là cầu tre nhỏ

Mẹ về bóng đổ hắt hiu

Quê hương là vòng tay lạnh

Bơ vơ bao kẻ bên lề

 

Quê hương là bến nước lạ

Phận gái trôi dạt trời xa

Quê hương là luồng cá bạc

Máu rơi thấm đẫm khoang thuyền

 

Quê hương là ngày mưa lớn

Thương cha vất vả trên đường

Quê hương là đêm trăng lạnh

Em thơ ngủ mệt bên thềm

 

Quê hương nếu ai lên tiếng

Sẽ không thoát khỏi lao tù

Quê hương nếu ai hờ hững

Tủi lòng lịch sử ngàn xưa

 

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một Đảng thôi.

Trần Quốc Việt, 19/02/2022

Additional Info

  • Author Tsering Woeser, Yoani Sanchez, David Samuels, Trần Quốc Việt
Published in Văn hóa