Nhạc sĩ Từ Công Phụng : Bây giờ tháng mấy
Hoài Duyên, VOA, 06/07/2020
Từ Công Phụng (sinh ngày 27/7/1942) là một nhạc sĩ Việt Nam thuộc dân tộc Chăm. Từ Công Thơm, thiếu tướng Việt Nam Cộng Hòa với ông là con chú bác.
Nhạc sĩ Từ Công Phụng
Từ Công Phụng nổi tiếng rất sớm. Ông là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu cho tân nhạc Việt Nam trong thập niên 1960, 1970 cùng với Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương… ; là tác giả của các ca khúc trữ tình được nhiều người biết đến như "Bây giờ tháng mấy", "Mắt lệ cho người", "Giọt lệ cho ngàn sau", "Trên ngọn tình sầu", "Mùa xuân trên đỉnh bình yên"… Ông cũng hát một số trong những bài hát của chính mình.
Từ Dung-Từ Công Phụng trình bày 9 tình khúc của Nhạc sĩ Từ Công Phụng. Bản ghi âm trước năm 1975
Từ Công Phụng tốt nghiệp cử nhân luật, từng là biên tập viên đài phát thanh VOF. Trong thời gian học Đại học Văn Khoa, ông gặp Từ Dung là con gái út của nhà văn Nguyễn Tường Long – Hoàng Đạo, yêu và cưới cô. Ông cưới cô theo đúng nghĩa là có sính lễ và rước rể về nhà vợ theo truyền thống mẫu hệ của người Chàm. Hai vợ chồng bắt đầu lên sân khấu hát cặp với nhau từ năm 1967, thường sinh hoạt ở Quán Văn trong khuôn viên Văn Khoa từ 1968, cùng thời với Khánh Ly và Trịnh Công Sơn. Hai vợ chồng đã thu một cuốn băng (Tơ Vàng 3) vào năm 1971, rồi sau đó khi Quán Văn đóng cửa kéo về Quán Gió của Nam Lộc trên đường Võ Tánh.
Từ Dung hát Đêm Độc Thoại của Từ Công Phụng
Từ Dung là con gái của nhà văn Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long) trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, là cháu ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân). Cô sinh năm 1945, là con út trong số 4 người con (3 gái, 1 trai) của nhà văn. Từ Dung mồ côi cha năm 3 tuổi (Hoàng Đạo lên cơn đau tim và qua đời ngày 22/7/1948 trên chuyến xe lửa từ Hồng Kông về Quảng Châu, Trung Quốc). Không biết bà Hoàng Đạo đưa các con vào Sài Gòn lúc nào nhưng người ta cũng đã ghi nhận trong đám tang nhà văn Nhất Linh vào ngày 7/7/1963, cô đội mũ tang đi trong đoàn người đưa tiễn. Năm 1965, Từ Dung tốt nghiệp tú tài toàn phần và đến năm 1969 lấy bằng cử nhân văn chương. Không chỉ học hành đến nơi đến chốn, Từ Dung còn là một giai nhân của Sài Gòn lúc bấy giờ, cô từng đoạt danh hiệu á hậu trong một cuộc thi sắc đẹp tại miền Nam với vẻ đẹp lộng lẫy và nổi bật làn da trắng…
Từ Dung rất say mê ca hát và được trời ban cho một chất giọng khá hay. Cô theo học thanh nhạc với ca sĩ Châu Hà (vợ của nhạc sĩ Văn Phụng). Chính môi trường này đã đưa đẩy Từ Dung gặp gỡ Từ Công Phụng. Ngoại hình to lớn nhưng phong thái lại rất nghệ sĩ, ăn nói nhẹ nhàng, lịch sự của Từ Công Phụng đã chinh phục trái tim người đẹp.
Bây Giờ Tháng Mấy - Nhạc Từ Công Phụng - Tiếng hát Sĩ Phú
Ông tham gia sáng tác nhạc từ năm 1960. Sau 30/4/1975, các sáng tác của ông bị cấm lưu hành tại Việt Nam cho đến năm 2003.
Ông rời Việt Nam từ tháng 1/1980 và hiện đang định cư tại Portland, Oregon, Hoa Kỳ. Năm 1998, ông có trở về thăm quê hương Ninh Thuận nhưng không tham gia hoạt động âm nhạc. Tháng 5/2008, ông lại trở về Việt Nam và lần này có biểu diễn trong chương trình "45 năm tình ca Từ Công Phụng" tại một phòng trà có tiếng ở Sài Gòn.
Năm 16 tuổi, ông tự học về âm nhạc qua cuốn sách Harmonie et Orchestration của Robert de Kers, bản tiếng Pháp, xuất bản tại Paris, năm 1944. Năm 1960, ông sáng tác nhạc phẩm đầu tay Bây giờ tháng mấy khi mới 18 tuổi, tác phẩm nhanh chóng được giới sinh viên Văn Khoa yêu mến. Thời gian ở Đà Lạt, Từ Công Phụng cùng một số bạn học mới, trong đó có nhạc sĩ Lê Uyên Phương, thành lập ban nhạc Ngàn Thông chơi nhạc hàng tuần trên đài phát thanh Đà Lạt. Ca khúc Bây giờ tháng mấy của ông cũng được trình bày lần đầu tiên qua làn sóng phát thanh này. Sau đó, ông lần lượt sáng tác những ca khúc như Mùa thu mây ngàn, Bài cho em…
Hoài Duyên
Nguồn : Việt Luận, 06/07/2020
********************
Từ Công Phụng, phát ngôn nhân tình yêu của tuổi trẻ miền Nam
Du Tử Lê, Nhạc xưa thời báo
Lời giới thiệu : Bài viết này của thi sĩ Du Tử Lê viết về âm nhạc Từ Công Phụng nói riêng và dòng nhạc tình ca miền Nam nói chung. Du Tử Lê cho rằng dòng nhạc của những nhạc sĩ tiêu biểu như Từ Công Phụng, Trịnh Công Sơn, Lê Uyên Phương… đã phá vỡ những lối mòn khuôn sáo, khô cứng của dòng nhạc tiền chiến. Những nhạc sĩ này đã mang đến công chúng một thể loại nhạc với những hình tượng mới lạ nhưng gần gũi, chiếm được cảm tình của giới trẻ miền Nam trước năm 1975.
Bây Giờ Tháng Mấy 2 - Từ Công Phụng & tiếng hát của Khánh Ly
-----------------------
Một trong những nét đặc thù của sinh hoạt tân nhạc miền Nam 20 năm, theo tôi là sự xuất hiện như những mảnh đất tân-bồi-nghệ-thuật của lớp nhạc sĩ trẻ, thuộc thế hệ thứ hai – là những người sinh trong khoảng thập niên 1940.
Du Tử Lê cho rằng dòng nhạc của những nhạc sĩ tiêu biểu như Từ Công Phụng, Trịnh Công Sơn, Lê Uyên Phương… đã phá vỡ những lối mòn khuôn sáo, khô cứng của dòng nhạc tiền chiến.
Ảnh hưởng từ những thành tựu văn chương mang ý nghĩa dứt khoát bước ra khỏi vạch phấn tiền chiến; nỗ lực đoạn tuyệt mọi diễn tả có tính khuôn sáo, đã khô cứng, đã cliché; lớp nhạc sĩ trẻ thuộc thế hệ thứ hai ở miền Nam cũng cho thấy sự thành công huy hoắc của họ – Nhất là lãnh vực tình ca, với những ca từ mà người thưởng ngoạn khó tìm thấy nơi những tình khúc thời tiền chiến.
Theo nhạc sĩ Cung Tiến, Việt Nam không có âm nhạc thuần tuý, hiểu theo nghĩa nhạc không lời, mà chúng ta chỉ có những ca khúc. Cho nên ca từ của một ca khúc trở thành linh hồn, yếu tố quyết định giá trị, sự tồn tại của ca khúc ấy.
Nói về ảnh hưởng của thi ca đối với âm nhạc miền Nam 20 năm trước đây, một lần đã lâu, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang cũng đồng ý rằng nhờ những đổi mới tích cực của thi ca, mà ca từ của tân nhạc đã có những chuyển biến đáng kể.
Tôi vẫn nghĩ, nếu không có những cuộc "cách mạng" chữ nghĩa một cách táo bạo của một số thi sĩ ở cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960, đưa thi ca miền Nam tới những biển trời chói chan cảm thức mới – Để sau đó, âm nhạc được chắp cánh, bay tới những biên cương tự do phơi phới; thì không ai có thể đoán biết bao giờ tình ca miền Nam mới đoạn tuyệt được tang cây, bóng lớn của tình khúc tiền chiến.
Một trong những thi sĩ có công làm cuộc cách mạng khá rốt ráo ở lãnh vực chữ, nghĩa với thể so sánh và liên tưởng, theo tôi là Nguyên Sa.
Một Nguyên Sa, thơ tình, với những câu thơ như :
Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
như con mèo ngái ngủ trên tay anh
đôi mắt cá ươn sắp sửa se mình
để anh giận sao chả là nước biển… (trong bài "Nga")
Hoặc
Nụ cười mềm như ánh nắng của cuộc chia ly
của một buổi sáng mai khi những người phu đổ rác bắt đầu đi
những thùng rác bắt đầu cọ vào nhau
với những tiếng kêu của một loài sắt lạnh
như những tiếng kêu của những chiếc đinh khô, những
mình búa rắn… (trong bài "Paris")
Ngay cả câu thơ (như lời tiên tri về định mệnh chính mình) của nhà thơ Quách Thoại, trước khi mất:
Rưng rưng mùa hoa gạo
lỡ một mai tôi chết trần truồng không cơm áo
Cùng một số nhà thơ khác, tất cả cộng lại đã làm thành những nhát rìu phá tung nhiều ngục tù ngôn ngữ sáo mòn từ tiền chiến.
Trước Nguyên Sa, tôi không thấy ai đem người yêu của mình so sánh với "chó / mèo" ! Đôi mắt của người yêu khi hờn dỗi, được ông ví von với "đôi mắt cá ươn" ! Cũng trước ông, tôi chưa thấy ai đem những "người phu đổ rác", "những thùng rác", những "đinh", những "búa" ra làm nhân chứng cho cuộc chia tay giữa hai người yêu nhau.
Trước Quách Thoại, tôi cũng chưa thấy ai mang vào trong thơ họ, cụm từ "chết trần truồng không cơm áo"…
Lý do ? Rất dễ hiểu : Đó là những hình ảnh không… thơ. Không đẹp theo quan niệm thi ca cũ.
Một khi những hình ảnh được coi là không… thơ, không đẹp… vốn hiếm thấy xuất hiện trong dòng thơ tình thời tiền chiến ; thì người ta sẽ càng khó tìm thấy chúng hơn nữa, trong những tình khúc cùng thời điểm.
Nhìn lại ca từ những tình khúc tiền chiến, ngay giai đoạn cực thịnh của phong trào lãng mạn, khi nói tới người nữ, người ta chỉ thấy những những mô tả chung chung, mờ nhạt, không cá tính. Vì thế, các nhạc sĩ thường bị "đụng hàng" khi so sánh người yêu của họ, một cách ước lệ như : Em (hay nàng) đẹp như… tranh ! Em (hay nàng) đẹp như… thơ ! Cụ thể hơn một chút thì, họ ví nhan sắc người nữ đẹp như trăng, như sao, như hoa tươi, như nắng sớm… Nghĩa là những so sánh, những ví von rất mơ hồ. Rất "huề vốn" !
Lại nữa, khi mô tả dung nhan người yêu, đa số các nhạc sĩ chú tâm vào vài điểm không…hiểm hóc, như tóc, môi, mắt. Do đó, chúng ta có hàng loạt tóc mây, tóc thề, tóc (dài như) suối. Về đôi mắt người nữ, thì chúng ta cũng có hàng loạt mắt buồn, mắt hồ thu, hay mắt… mơ huyền. Còn môi thì chúng ta có môi tiên nữ, môi thắm, môi son, môi quyến rũ…
Làm như dung nhan hay thân thể phụ nữ, chỉ có mấy điểm đó đáng ca ngợi. Ngoại giả, những phần còn lại đều… xấu, phải quên đi, không nên nhắc tới ! Trong khi thực tế, từ lâu, đa số đã "đồng thuận" với nhau rằng : Nét đẹp, sự quyến rũ tự nhiên của bộ ngực, vòng eo, tay, chân, dáng đi của người phụ nữ… là những gì ta không dễ…"nhắm mắt bỏ qua" !
Tuy nhiên, ở thế hệ nhạc sĩ thứ hai của 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, lãnh vực tình khúc, những giới hạn hay, những úy kỵ kể trên, đã được vượt qua.
Lần đầu tiên, giới thưởng ngoạn gặp được trong tình ca của các nhạc sĩ lớp tân-bồi-âm-nhạc này, nhiều hình ảnh mới, lạ bất ngờ, như :
- "Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau", trong tình khúc Trịnh Công Sơn
– "Em rơi vào đời tôi / tình yêu em khôn lớn trong dịu dàng"
Hoặc :
- "Giòng sông đang thì thầm trong tóc những khúc nhạc tình" trong các ca khúc nhan đề "Như ngọn buồn rơi" và, "Tình tự mùa xuân" của nhạc sĩ Từ Công Phụng.
Trước Trịnh Công Sơn, tôi không thấy nhạc sĩ nào nhân cách hóa "sỏi đá" để nói lên khao khát có nhau của đôi lứa. Trước Từ Công Phụng, tôi cũng chưa thấy một nhạc sĩ nào "vật thể hóa" người yêu khi ông dùng động tự "rơi" hoặc, nhân cách hóa dòng sông, để dòng sông có thể "thì thầm" trong tóc. Và, nếu tình khúc tiền chiến chỉ ghi nhận hình ảnh người nữ từ đầu tới cổ thì, qua một vài bài thơ phổ nhạc, ông cũng đã mang được nhiều phần khác của người nữ vào trong ca khúc của mình.
Một đặc điểm khác, tôi nghĩ cũng nên ghi lại. Đó là : Trước khi chúng ta có truyền hình vào cuối thập niên 1960, khởi đầu, đa số các nhạc sĩ thường nhờ tới các làn sóng phát thanh, để phổ biến sáng tác của mình. Nhưng một số nhạc sĩ thuộc thế hệ thứ hai, như Từ Công Phụng, đã không chọn đi qua chiếc cầu gập ghềnh, gian nan này.
Nhiều tình khúc Từ Công Phụng được cất lên từ sân trường, các giảng đường đại học ; trước khi chúng "xuống đường" bước về đại chúng. Lớp thính giả đầu tiên của Từ Công Phụng là thanh niên, sinh viên. Họ đón nhận ông, như đón nhận một phát ngôn nhân tình yêu gần gũi, đằm thắm nhất của họ. Họ cũng tìm thấy hình bóng, trái tim họ, trong cả những tình khúc chia, lìa, phụ rẫy nhất, của họ Từ.
Từ Công Phụng thời trẻ
Tôi không biết Từ Công Phụng tìm đến với âm nhạc, hay âm nhạc đưa tay gõ những tiếng gõ rụt rè đầu tiên, nơi cánh cửa tâm hồn, khi ông mới 13 tuổi, lúc còn theo học bậc tiểu học ở quê hương Phan Rang, Ninh Thuận.
Ông kể, thời điểm đó, một lần, khi tình cờ nghe người anh cả đàn và hát bài"Con thuyền không bến" của Đặng Thế Phong, và "Trương Chi" của Văn Cao, ông bồi hồi, xúc động. Chạm mặt đầu tiên với âm nhạc, nơi Từ Công Phụng khiến ông ngây ngất, như sự chạm mặt với tình yêu thứ nhất. Ông bắt đầu học nhạc với người anh, qua những câu hỏi đơn giản về các nốt nhạc, cách đánh đàn.
Ông nói : "Nhưng mãi tới năm 16 tuổi, tôi mới thực sự hiểu biết về âm nhạc một cách sâu sắc qua cuốn sách nhạc nhan đề ‘Harmonie et Orchestration’ của Robert de Kers, bản tiếng Pháp, xuất bản tại Paris, năm 1944 ; mà tôi vẫn còn giữ, như một kỷ niệm quý báu".
Cũng thuộc về kỷ niệm thời niên thiếu, Từ Công Phụng kể, lần đầu tiên ông bước lên sân khấu là khi đang học năm lớp nhất, trường Nam Phan Rang, (lớp 5 bây giờ). Sau đó, ông được đề cử đi hát ở các buổi lễ lớn, thi đua cùng các trường tiểu học khác. Con đường "nghệ sĩ trình diễn" này, tiếp tục đon đả mời ông bước tới khi lên trung học. Ông luôn được chọn lên sân khấu đơn ca trong các buổi sinh hoạt văn nghệ toàn trường. Hai năm cuối cùng của bậc trung học ở các trường Duy Tân (Phan Rang) và Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), ông được chọn làm trưởng ban văn nghệ toàn trường.
Năm 1961, ông sáng tác ca khúc"Bây giờ tháng mấy". "Nhưng tôi không dám trình bày trước công chúng. Phần vì nhát, phần chưa tin tưởng lắm vào tài sáng tác của mình", họ Từ tâm sự.
Thời gian ở Đà Lạt, Từ Công Phụng cùng một số bạn học mới, thành lập ban nhạc Ngàn Thông, chơi hàng tuần cho đài phát thanh Đà Lạt. Ca khúc "Bây giờ tháng mấy" của họ Từ được trình bày lần đầu tiên, qua làn sóng điện này.
Ngay sau đó, ông nhận được rất nhiều thư khen ngợi. Những bức thư khen ngợi kia, đã khuyến khích Từ Công Phụng mạnh dạn hơn trong lãnh vực sáng tác. Và, lần lượt, những ca khúc như "Mùa thu mây ngàn," "Bài cho em"… ra đời.
Tác giả "Bây giờ tháng mấy" kể, một thành viên cùng trong ban Ngàn Thông với ông, sau này cũng trở thành nhạc sĩ nổi tiếng. Đó là nhạc sĩ Lê Uyên Phương.
Tuy nhiên, vẫn theo Từ Công Phụng, kể từ khi di chuyển về Saigòn, học đại học Quốc Gia Hành Chánh, thì :
"Con đường âm nhạc của tôi mở ra thênh thang hơn. Sách vở về âm nhạc nhiều hơn, đã cho tôi một cái nhìn khác về âm nhạc. Tôi bắt đầu mê nhạc hòa tấu giao hưởng và thích nghe nhạc cổ điển Tây phương nhiều hơn. Trường hợp ca khúc ‘Bây giờ tháng mấy’ cũng là một cái duyên kỳ lạ, đưa nó tới quảng đại quần chúng. Ban đầu nó chỉ nằm trong khuôn viên ký túc xá của trường Quốc Gia Hành Chánh. Đêm đêm anh em ngồi quây quần chung quanh, nghe tôi hát. Bản ‘Bây giờ tháng mấy’ đã bị một anh bạn ‘chôm’, đem ra nhà xuất bản gạ bán giùm tôi. Nhà xuất bản Minh Phát lúc bấy giờ đã trả giá bản nhạc ấy có $4,000.00 ; và được hứa hẹn khi nào bán chạy sẽ trả thêm. Sau khi ca sĩ Nhật Trường trình bày ca khúc ấy, lần đầu tiên trên đài Quân Đội, bản nhạc bán chạy như tôm tươi. Nhạc lẻ in ra bán hết chục ngàn này tới chục ngàn khác, mà lời hứa hẹn của Minh Phát ngày nào, cũng tan bay theo gió !".
Về nguồn gốc của ca khúc đầu tay vừa đề cập, Từ Công Phụng nói :
"‘Bây giờ tháng mấy’ là một sáng tác hoàn toàn hư cấu, là những mơ mộng của chàng học sinh mới lớn, là tâm tư của một tên học trò đọc quá nhiều tiểu thuyết lãng mạn, cho nên, như ghi nhận của nhà văn Song Thao : ‘Bây giờ tháng mấy’ đã bắt được nhịp đập con tim của giới trẻ lúc bấy giờ. Lúc họ đang sống thấp thỏm trong hoàn cảnh chiến tranh, khao khát một tình yêu trong sáng lãng mạn. Và Từ Công Phụng đã mang lại cho họ món ăn tinh thần ấy".
Sau gần 40 năm, kể từ sáng tác đầu tay, cảnh thổ âm nhạc mang tên Từ Công Phụng vẫn là tình ca. Ông tâm sự : "Với tôi, tình ca vẫn là con đường đẹp nhất dẫn mọi người đến gần nhau hơn, chia sẻ được với nhau nhiều hơn vì, cùng chung một hơi thở".
Ông nói thêm : "…Cho đến tuổi này, chúng ta không còn thì giờ để chia lìa. Quá mụôn màng cho một bắt đầu mới (?). Dĩ nhiên mỗi tuổi cái nhìn về cuộc đời có khác đi (tùy người). Và dĩ nhiên sự chuyển hướng có đậm nét hay không, chắc chắn là phải có trong sáng tác của tôi sau này khi ra hải ngoại và khi tuổi đời đã chồng chất." Nhân đề cặp tới tình khúc, nhạc sĩ Từ Công cũng đưa ra quan niệm của ông chung quanh hai danh từ "ca khúc" và "nhạc phẩm".
Ông đề nghị những bài hát hiện nay các ca sĩ thường hát, chúng ta nên gọi là "ca khúc" hay "bài hát", hơn là "nhạc phẩm".
"Vì danh từ ‘nhạc phẩm’ thường được dành cho những sáng tác âm nhạc lớn. Những sáng tác dùng nốt nhạc để diễn tả tâm tư hay hình ảnh… Nhưng vì dùng nốt nhạc để diễn tả khiến không mấy ai hiểu nổi. Nên chúng ta mới có ca khúc. Ca khúc dùng nốt nhạc để chuyển lời ca đến với khán thính giả thì dễ hiểu hơn. Cho nên, nhạc và lời bao giờ cũng phải quyện với nhau sao cho tương xứng. Nói cách khác là khéo xếp đặt lời ca và nốt nhạc làm sao dễ đi vào lòng người. Tóm lại, ca khúc là chuyển tâm tư của người viết đến người nghe bằng những lời thơ qua âm nhạc…" - ông nói.
Về thói quen sáng tác, Từ Công Phụng cho biết, ông không biết các nhạc sĩ sáng tác ca khúc như thế nào ; nhưng riêng với ông, ông coi trọng cả hai thứ : Nhạc và lời. Ông nói, nhạc phải cho hay. Lời phải cho đẹp và ý nghĩa. Đôi khi ông viết nhạc trước theo dòng cảm hứng và, tìm lời phù hợp với nốt nhạc gắn vào. Đôi khi ông lại làm lời trước. Đó là trường hợp ông muốn nói tới một điều gì đặc biệt… Sau đó ông mới tìm nốt nhạc gắn vào.
Ông tóm gọn : "Tôi luôn tìm cách hành âm cho có sự thay đổi khác lạ ; gây thích thú cho người nghe. Và cũng có đôi khi, tôi viết luôn hai thứ một lúc".
Với tiêu chí tự đặt cho mình : "Nhạc phải cho hay, lời phải cho đẹp và ý nghĩa", Từ Công Phụng đã đem đến cho giới thưởng ngoạn những tình khúc sang cả, mượt mà từ nhạc tới lời.
Nhưng ông không chỉ cho thấy khả năng viết ca từ với những câu đầy thi tính mà, trong nhiều ca khúc của họ Từ, người ta còn thấy sự hiện diện cùng lúc, những ca từ như thơ và, những ngôn ngữ dung dị, đời thường.
Bạn tôi, một lần, kể rằng giữa lúc đang chăm chú làm việc, khi không, một đoạn nhạc của Từ Công Phụng đã dềnh lên trong đầu bạn tôi. Đó là hai câu :
"Đôi mắt em rất buồn
đôi chúng ta rất buồn…"
(ca khúc "Mắt lệ cho người").
"Đôi mắt em rất buồn" hay "quá buồn" là một câu nói đơn giản. Ở đời thường, một lúc nào đó, có thể chúng ta cũng đã từng buột miệng, nói như vậy, với người thương yêu của mình.
Nhưng cũng trong ca khúc này, trước đấy, lại là những câu mang tính văn chương bác học, với chủ tâm (tình cờ) nhân cách hóa "mưa" và "rong rêu" ; khi tác giả viết :
"Mưa soi dấu chân em qua cầu
theo những cánh rong cưu mang niềm đau".
Bạn tôi nói, những ca từ đơn giản này, như có năng lực huyền bí, thẩm, nhập, rồi tiềm phục đâu đó, trong vô thức của bạn tôi.
Tôi cho đó cũng là một trong những nét đặc thù của tình khúc Từ Công Phụng. Sự kiện vừa kể, khiến tôi liên tưởng tới khí hậu trong cõi giới tình ca của Phụng.
Trên ngọn tình sầu - Từ Công Phụng - Du Tử Lê
Khí hậu trong nhạc tình Từ Công Phụng, theo cảm nhận của tôi, là cái khí hậu ẩm đục những cơn mưa. Đầm đìa những lệ mặn, chát đắng những quá khứ. La đà những cây, trái thất lạc tương lai. Đồng thời, người nghe cũng có thể cảm được những tay ôm, vỗ về của biển. Những chân đi chập chùng của gió. Những rét mướt của rừng. Những bơ vơ của núi. Những ngơ ngác phố cũ. Những rữa nát thềm xưa. Những cỏ cây. Chim muông. Hình bóng. Kỷ niệm… Tất cả, dường đã cùng thức dậy, đứng lên, buồn bã, chông chênh bước vào tâm hồn người thưởng ngoạn. Vì trong rất nhiều tình khúc của Phụng, hạnh phúc đã tựa như lời nói dối ; nếu hiểu, tình yêu, vốn là điều không thật!
Nói tới tình ca, tôi nhớ, tình cờ đọc được ở đâu đó, trước tháng 4/1975, một câu của nhạc sĩ Phạm Duy, in trang trọng nơi trang đầu một tuyển tập nhạc tình của ông. Đại ý ông tỏ dấu tiếc đã không dành hết quãng đời viết nhạc của mình, cho sự ngợi ca tình yêu.
Tôi thú vị lắm, phải nói thế, khi đọc lời tâm sự buồn bã nhưng rất thực của người viết nhạc lớp trước. Tình yêu, cách nào khác, tôi nghĩ, chính là khuôn mặt chập lại, sáng lên cùng lúc : Sự sống và, lẽ chết.
Nói tới tình ca, cũng là nói tới bước đường mà chẳng một nhạc sĩ nào không ít nhiều kinh qua. Nó giống như cánh cửa mê hoặc đầy cạm bẫy sinh/tử của thể thơ lục bát, với những người làm thơ vậy.
Tình ca, cái thế giới mầu nhiệm, thấn thánh của tuổi trẻ ? Hay nó là mặt bên kia của cảm nhận đại ngục, thiên đường; hắt lên từ một dương gian hiu quạnh ?
Lại nữa, những tình khúc của họ Từ, hình như đã không chỉ như những tình khúc hiểu theo nghĩa một sáng tác nói về tình yêu đôi lứa.
Ẩn giữa những dòng nhạc, giấu trong những lời ca, mỗi tình khúc của Từ Công Phụng còn là một thánh thoát êm đềm, dù cho nhạc phẩm nói về một tình yêu đổ vỡ. Ở đâu đó, trong những dòng nhạc, giữa những từ ngữ, vẫn thấp thoáng một nhân sinh quan đầy cam chịu và độ lượng.
Từ những cảm nhận trên, tôi thấy, một trong những nét đặc thù của sinh hoạt âm nhạc miền Nam trước tháng 4/1975, là sự góp mặt đông đảo và, sự phồn thịnh sáng tác của nhiều người viết nhạc. Nhưng nói như thế không có nghĩa tất cả những người sáng tác nhạc đều trở thành nhạc sĩ. Định đề khắc nghiệt của nghệ thuật là giá trị thực hữu trong sáng tác, phải được ấn chứng bởi ngọn lửa thời gian bạo liệt. Thời gian tuồng keo kiệt nụ cười trước mỗi lao tác tinh thần, tự nguyện. Mặc dù cuối cùng thời gian cũng vẫn là đôi tay duy nhất, nâng niu, gìn gìn giữ cho chúng ta, những hạt ngọc.
Trong biển sống cuồn cuộn của nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng thì, mỗi tài hoa tiêu biểu cho một dòng sống. Kẻ đại diện dòng sống đó, được quần chúng ngắm nhìn, yêu thích, như một phần đời dậy hương của chính họ.
Trong nghĩa này, Từ Công Phụng là người đã được giới thưởng ngoạn chọn lựa. Ông là đại diện thân ái nhất cho dòng suối tình ca lênh đênh ly biệt, của hai mươi năm tân nhạc Nam, Việt Nam.
Từ Công Phụng là đại diện thân ái nhất cho dòng suối tình ca lênh đênh ly biệt, của hai mươi năm tân nhạc Nam, Việt Nam.
Là một trong những ngọn thác âm giai chảy từ đầu nguồn riêng lẻ, đời nhạc Từ Công Phụng, nhìn lại, từ điểm đứng tỵ nạn, nửa vòng trái đất, tôi thấy, trước sau, vẫn đằm đằm sang-cả-buồn-bã, mới.
Từ điểm đứng kia, tôi chợt hiểu sự kỳ diệu của âm nhạc, không chỉ là những phối ngẫu toàn hảo giữa âm giai và ca từ mà, âm nhạc, ở độ chín nào đó, còn là những hồi chuông lung linh kỷ niệm khôn nguôi, một đời vậy.
Bạn có quyền không đồng ý những cảm nhận của tôi. Bạn cũng có quyền cất tiếng thảo luận với nhạc sĩ…
Nhưng trước đó, tôi đề nghị, bạn nên có một lần, buông, thả thân, tâm mình trong dòng suối tình khúc của họ Từ. Dù cho, hạnh phúc trong tình khúc Từ Công Phụng có tựa như những lời nói dối!
Du Tử Lê
Nguồn : Tùy bút "Trên ngọn tình sầu", 25/10/2011
Từ Công Phụng là một trong những nhạc sĩ được yêu thích từ thập niên 1960, 1970. Nhạc của ông lãng đãng, bàng bạc như hơi thở của người yêu, với giai điệu sâu lắng cùng lời hát trữ tình làm say mê giới trẻ trên làn sóng điện, tại các quán cà phê, phòng trà ca nhạc miền Nam sau năm 1963.
Nhạc sĩ Từ công Phụng
Từ Công Phụng với nhạc bản đầu tay "Bây giờ tháng mấy" sáng tác năm 1960, khi ông mới 18 tuổi và được phổ biến lần đầu tiên trên đài phát thanh Đà Lạt ba năm sau đó đã đưa người nghe vào một thế giới tuyệt vời, huyền diệu của tình yêu. Nhưng ông cho biết không có bóng dáng một thiếu nữ nào đằng sau tình khúc này, mà đó là kết tinh của những bản nhạc ông thường nghe hàng đêm của các nhạc sĩ nước ngoài lẫn trong nước như những tình khúc của Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Phạm Duy...
Bây Giờ Tháng Mấy - Courtesy of Từ công Phụng – Tuấn Ngọc
"Hồi đó mình mới lớn mình đâu có dám yêu ai đâu. Nhát thấy mồ", ông tâm sự với VOA.
Sau "Bây giờ tháng mấy" bản tình ca "Mùa Thu mây ngàn" ra đời kế tiếp cũng được giới yêu nhạc đón nhận nồng nhiệt.
Nhạc sĩ Từ Công Phụng bị kẹt lại miền Nam Việt Nam sau ngày 30/4/1975 và mãi đến năm 1980 ông và gia đình một vợ 8 con mới vượt biên thành công, sang Mỹ định cư. Trong thời gian 5 năm sống dưới chế độ cộng sản, ông vẫn tiếp tục sáng tác tình ca.
"Vẫn là những bài tình ca nhưng nó đượm một cái vẻ cuộc đời nhiều hơn là thuần túy tình ca. Sau này khi đời sống mình tạm thời ổn định rồi thì tôi viết lại tình ca nhưng nó cũng phảng phất những đời sống ở trong đó với cái nhìn sâu sắc hơn ví dụ như bài ‘Đời bỗng phù du’ với những câu như ‘Tôi như người du mộng trong cuộc đời bềnh bồng, ngó theo đời quạnh hiu, buồn vây theo năm tháng,’ nhạc sĩ Từ Công Phụng chia sẻ.
Với tâm hồn nghệ sĩ nhìn đâu cũng thấy nhạc, nghe nhạc, nên trong những ngày lênh đênh trên biển trong hành trình vượt biên, ngắm nhìn những cánh chim bay, nhạc sĩ Từ Công Phụng đã dệt nên những ca từ của nhạc bản ‘Qua vùng biển nhớ’
"Như cánh chim bay giữa vùng biển nhớ mênh mông,
Dạt về đây nghe sóng vỗ hồn sầu…"
Đặt chân lên đất Mỹ, ông đã cho ra đời bài hát ‘Khi tôi đến nơi này’ để mô tả sự khác biệt lớn lao giữa lối sống tại Mỹ và cuộc sống ở Việt Nam.
Phỏng vấn - nhạc sĩ Từ Công Phụng – Người Việt, 16/05/2013
"Khi mình sống ở dưới thời cộng sản nó khác, nhưng qua bên này nó khác, khác lắm. ‘Khi tôi đ ến nơi đây, nắng rực rỡ ngoài khoan trời xa, mà lòng tôi thấy rộng mở những thiên đường’".
Thời gian đầu tới Mỹ, ông cư ngụ tại tiểu bang Iowa, đi học nghề in trước khi chuyển sang bang Oregon. Tại đây, ông đã mở nhà in kiếm sống, lo cho gia đình.
"Lúc đi qua đây, tôi phải đi kiếm một cái nghề tôi học, tôi làm để kiếm tiền. Đời sống của tôi không phải là một đời sống nghệ sĩ. Tôi không thích phải làm nghệ sĩ để kiếm tiền tại vì mình là sinh viên ngày trước và mình có khả năng mình học mà, tại sao mình không đi học. Tôi kiếm một nghề thực tế lúc bấy giờ là nghề in. Tôi có mấy cuốn sách muốn in và thích tự mình ấn loát mấy cuốn sách của mình. Tôi học in ở Iowa, tôi sửa soạn xong hết mới qua Portland. Lúc bấy giờ tiền bạc không có, nghèo lắm, hai vợ chồng một đàn con, phải kiếm sống hàng ngày, làm bất cứ việc gì cũng được miễn sao đúng nghề của mình để kiếm tiền nuôi gia đình. Cũng có một thời gian tôi đi dạy học ở mấy trường trung học", ông hồi tưởng trong cuộc trò chuyện với VOA.
Cuộc sống vất vả, nhưng ông vẫn sáng tác.
"Mình vẫn viết đều lắm, khi nào cảm thấy hứng là viết, tại vì không ai bắt buộc mình viết cả".
Được hỏi là trong giai đoạn ấy, giữa khung cảnh phải vất vả vì cơm áo gạo tiền, những cảm tác của ông có gì thay đổi không, nhạc sĩ Từ Công Phụng cho biết : "Dĩ nhiên là mình càng sống mình càng cảm thấy có sự thay đổi trong đời sống mình. Mình nhìn đời sống sâu sắc hơn. Cơm áo là một chuyện, âm nhạc là một chuyện khác. Khi nào mình viết nhạc, mình không bị những cái đó nó ảnh hưởng đến mình. Có nhiều người nhờ tôi làm thế này, làm thế kia tôi không làm, trả tôi một số tiền tôi không lấy, đại khái như vậy. Tôi không lệ thuộc vào cái đó".
Nhạc sĩ Từ Công Phụng sử dụng thành thạo cả đàn guitar lẫn đàn piano, nhưng khi sáng tác, ông thường dùng đàn guitar và đôi khi tự xướng âm và sau đó dùng đàn để trau chuốt lại.
"Thường thường cảm giác từ âm nhạc tới và một câu nhạc đầu tiên nào đó. Xong mình ghi lại, mình phát triển ra. Thỉnh thoảng hay có những dòng âm thanh nó bay ngang trong đầu mình, mình thấy hay mình viết lại nhưng thỉnh thoảng nó lướt qua trong đầu rồi nó biến mất không biết ở đâu nữa. Cảm hứng suy nghĩ ra âm nhạc của mình là những kỷ niệm".
Về cung bậc của những nốt nhạc được sử dụng trong các bản nhạc của Từ Công Phụng, nhạc sĩ cho biết ông thích sử dụng âm giai trưởng (major) hơn là thứ (minor).
"Thường thường những bài hát của tôi, tôi viết bằng major nhiều hơn là minor. Major mỗi gam mỗi khác, nhưng nhạc cũng có thể buồn được bằng major hay minor, nhưng minor buồn da diết, nó thảm lắm, tôi không thích. Mình buồn nhưng là buồn man mác là được rồi, không có bi lụy".
Hiện nay, nhạc sĩ Từ Công Phụng đang phải chống chọi với 2 căn bệnh ung thư kéo dài đã 12 năm và bệnh tật đã ảnh hưởng nhiều đến nội lực sáng tác của ông.
"Nó cũng ảnh hưởng vì sức khỏe. Bây giờ tôi ngồi lâu không được, ngồi lâu mệt lắm. Người ngó mạnh khỏe vậy nhưng ngồi lâu mệt trong người. Muốn viết nhạc phải ngồi lâu, phải suy nghĩ nhiều, phải chọn lựa những âm thanh nào tốt, dễ nghe. Mình không ngồi lâu được nên sức sáng tác cũng kém đi. Tuy nhiên lâu lâu cũng được một vài bài, kiếp tầm nhả tơ mà. Có một số bài mới tôi tính in thêm một tập nữa nhưng chưa thực hiện được. Một trong những bài mới đó có tên gọi là ‘Bên dòng đời tịch liêu’ nói về cái cô đơn của mình trong cuộc đời, có câu kết luận như thế này ‘Ng ồi đây một mình bên dòng đời tịch liêu và tôi bỗng thấy hồn mình sẽ tan vào vời vợi thinh không’".
Ông cho biết nhạc khúc ‘Tình tự mùa Xuân’ là kết quả của mối tình của ông với bà Kim Ái, người vợ ông gặp sau biến cố 1975 và cùng đồng cam cộng khổ cho đến ngày nay, nên ca từ của bài hát rất tha thiết, mô tả sự gắn bó của đôi tình nhân.
"Em, lại đây với anh
ngồi đây với anh
trong cuộc đời này
nghe thời gian lướt qua
mùa xuân khẽ sang
chừng như không gian đang sưởi ấm những giọt tình nồng…"
Triết lý sáng tác của nhạc sĩ Từ Công Phụng gói gọn trong hai chữ ‘tình yêu’.
Tình tự mùa xuân - Courtesy of Từ Công Phụng - Ngọc Hạ
"Tôi quan niệm tôi ca ngợi tình yêu hơn là tôi chối bỏ tình yêu. Tôi ca ngợi tình yêu vì tôi nghĩ là rốt cuộc chỉ có tình yêu mới làm nên giá trị con người thôi. Không có tình yêu làm sao có được sự tiếp nối dòng đời, nhân loại. Tình yêu là cái tốt nhất trong cuộc đời người ta mà không ca ngợi thì ca ngợi cái gì nữa. Chính trị rồi cũng qua đi, chiến tranh rồi cũng qua đi, khác biệt về chính kiến làm nổ bùng chiến tranh rồi cũng hết, chỉ là giai đoạn thôi. Nhưng cái vĩnh cửu từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời kia cũng vẫn là tình yêu thôi".
Chính vì tâm niệm đó, tác giả của ‘Mắt lệ cho người,’ ‘Giọt lệ cho ngàn sau,’ ‘Trên ngọn tình sầu,’ ‘Mùa xuân trên đỉnh bình yên’ cùng nhiều ca khúc trữ tình nổi tiếng khác nữa xứng đáng được mệnh danh là một trong những ‘nhạc sĩ của tình yêu’ của miền Nam trước 1975 và có lẽ là của nhiều thế hệ sau này nữa.
Hà Vũ
Nguồn : VOA, 27/08/2019