Nếu cần một ca để minh chứng cho tánh xấu của người Việt, các bạn chỉ cần đến những khu đông người Việt (ví dụ như ở Úc) là thấy ngay. Nơi tôi đậu xe có 5 tầng, có thể chứa hơn 400 (?) chiếc xe hơi. Sáng thứ Hai nào cũng rất sạch sẽ vì nhân viên của Hội đồng thành phố đến quét dọn và làm sạch tất tần tật. Nhưng những ngày sau đó thì mức độ dơ bẩn cứ tăng dần và đạt đỉnh điểm vào ngày Chủ Nhật. Đến ngày Chủ Nhật, khu đậu xe 5 tầng là một bãi rác lớn, gồm đủ thứ đồ thải, từ thức ăn và thức uống thừa, các hộp plastic, hộp giấy, và nay thì thêm cả … khẩu trang vung vãi khắp nơi. Nhìn toàn cảnh phải nói là còn dơ bẩn hơn cả những trạm đậu xe ở Việt Nam!
Đây là khu tập trung đông người Việt ở Sydney. Đa số những người đậu xe ở đây là người Việt, người Hoa, và cả người Trung Đông (có lẽ ít hơn). Có thể nói không ngoa rằng cả 3 sắc tộc này đều mang tiếng là … ở dơ. Không biết ai hơn ai về cái thói ở dơ, nhưng nhìn cảnh họ vứt rác bừa bãi thì phải nói là kinh khủng. Họ thản nhiên mở cửa xe quăng rác xuống đường. Họ vô tư mở cửa xe hỉ mũi vào không khí và người đi sau có thể … lãnh đủ. Họ không quan tâm gì đến vệ sinh công cộng, và cũng chẳng quan tâm đến người phía sau. Dĩ nhiên, không phải người Việt nào cũng vậy, nhưng chỉ một thiểu số như vậy cũng đủ để chúng ta xấu hổ. Người quét dọn cái nhà đậu xe nghĩ gì, khó ai biết, nhưng chắc chắn họ không đánh giá cao người Việt chúng ta.
Tôi thỉnh thoảng hỏi một ‘thủ phạm’ sao vứt rác như vậy, thì câu trả lời rất thú vị. Họ nói rằng chẳng cần quan tâm, vì hành vi của họ là tạo công ăn việc làm cho nhân viên của Hội đồng thành phố! Nhưng hình như họ không nghĩ rằng chúng ta - và cả họ - phải trả tiền thuế để trả lương cho những người nhân viên đó. Vả lại, cách lí giải đó là một nguỵ biện cho hành vi kém văn hoá của một cộng đồng.
Điều đáng nói ở đây là những đồng hương này đã tiếp xúc với ‘thế giới văn minh’. Họ đã sống trong xã hội Úc này một thời gian, một xã hội rất quan tâm đến vấn đề vệ sinh công cộng. Như tôi nói, chỉ có một số ít người Việt xả rác như thế thôi. Những người ở Úc lâu năm (ví dụ như trên 10) thì chắc không xả rác bừa bãi như tôi mô tả và cũng không có suy nghĩ kiểu ‘tạo công việc cho người khác’. Thế hệ người Việt thứ hai thì chắc chắn là không xả rác như thế. Chỉ có thể suy đoán là hành vi xả rác đó hay thấy ở người Việt mới đến Úc định cư, hay người Việt chưa quen với văn hoá vệ sinh công cộng. Văn hoá mang tính di truyền, và rất có thể họ đem những ‘nét quê hương’ sang Úc. Cũng có thể thời gian dài chưa đủ để tiến hoá đến hành vi văn minh. Dù lí do gì thì họ cũng làm xấu hổ người Việt.
Tác giả Trần Văn Chánh
Câu chuyện tôi kể chỉ để nhằm giới thiệu một cuốn sách mới có tựa đề là “Người xưa cảnh tỉnh” (1) của hai soạn giả Trần Văn Chánh và Vương Trí Nhàn. Đây là cuốn sách thuộc vào nhóm sách ‘học làm người’ thời nay.
Những sách cảnh tỉnh, vạch ra những thói hư tật xấu của một dân tộc không phải là mới, nhưng mới với Việt Nam. Người Mĩ đã có “The Ugly American” (Người Mĩ xấu xí). Người Úc có “The Ugly Australian” (Người Úc xấu xí). Người Nhật cũng có một cuốn sách tương tự. Gần chúng ta hơn, người Hoa cũng đã có một cuốn sách như thế. Thật vậy, đúng 20 năm trước, tác giả Bá Dương (Bo Yang) đã làm cho cả thế giới và cộng đồng người Hoa xôn xao khi ông cho xuất bản cuốn sách ‘Xú Lậu Đích Trung Hoa Nhân’ (‘Người Hoa Xấu Xí’). Trong sách, Bá Dương (người Hoa sống ở Đài Loan) liệt kê và phê phán không khoan nhượng những nét văn hóa, những thói quen, những hủ tục ‘xấu xa’ của người Hoa. Ông không có một chữ nào để viết về những nét văn hóa ‘đẹp’ của Trung Hoa. Cuốn sách được bán rất chạy, và trở thành đề tài bàn luận của hầu hết các tầng lớp xã hội, từ giới bình dân đến trí thức. Cuốn sách được dịch sang tiếng Anh dưới tựa đề ‘The Ugly Chinaman and the Crisis of Chinese Culture’ (và đã tái bản 3 lần), được xem là ‘cẩm nang’ của người phương Tây để hiểu biết hơn người Hoa.
Nhưng người Việt thì chưa có một cuốn sách hoàn chỉnh như những cuốn ‘ugly’ đề cập trên đây; có lẽ cuốn ‘Người xưa cảnh tỉnh’ là gần nhứt. Tuy chưa có, nhưng các học giả Việt Nam trong quá khứ đã nhiều lần nói lên những tính xấu của người Việt. Họ viết ra những điều đó trong nhiều dịp và bối cảnh khác nhau, có khi rất cá nhân, nhưng nói chung là rất rải rác và rời rạc. Chúng ta chưa có một tổng luận có hệ thống về thói xấu của người Việt.
Tác giả Vương Trí Nhàn
Sách là một loại ‘anthology’ hay tập hợp những đoạn văn của các học giả Việt viết về tính cách và thói quen của người Việt. Đó là những học giả sống vào thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20 như Nguyễn Trường Tộ, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Trọng Kim, Phan Khôi, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Tất Tố, Ngô Đức Kế, Đào Duy Anh, Hoàng Đạo, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Quỳnh, Dương Bá Trạc. v.v. Họ viết ra những nhận xét đó trong các bài báo và khảo luận văn hóa. Thời gian họ viết ra trong những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, khi nền báo chí học thuật Việt Nam bắt đầu khởi sắc. Những nhận xét đó được viết bằng thể văn có khi là học thuật, có khi là ngôn ngữ thô, nhưng nhiều khi là châm chọc.
Trong ‘Người xưa cảnh tỉnh’ hai soạn giả Vương Trí Nhàn và Trần Văn Chánh mượn những lời nhận xét của các học giả đó để cảnh tỉnh người Việt ngày nay. Đó là một cuốn sách không hẳn dễ đọc, nhưng khi đã đọc thì khó buông được, bởi vì hình như người đọc có thể tìm thấy hình bóng của chính mình hay những người chung quanh trong từng câu chữ trong sách.
Sách gồm 2 phần: phần đầu là sưu tập những câu nói của các học giả, và phần hai là tổng luận. Phần I được sưu tập bởi tác giả Vương Trí Nhàn (Hà Nội). Phần II được viết bởi tác giả Trần Văn Chánh (Sài Gòn). Phần đầu, Vương Trí Nhàn sưu tập đến 260 câu nói của các học giả. Ông sắp xếp các phát biểu đó dưới 13 tiểu mục: ăn ở, cư trú và mối liên hệ với thiên nhiên; tệ nạn xã hội; dân trí và ý thức xã hội; giáo dục; giao lưu tiếp xúc; tìm tòi học hỏi và tiếp nhận người nước ngoài; làm ăn buôn bán; nói năng, suy nghĩ, lễ nghi, phong tục; quan hệ giữa người với người; tổ chức quản lí làng xã; tổng quát về người Việt; trí thức quan lại; và văn hóa nghệ thuật và học thuật. Phần tóm tắt có thể xem dưới đây (2). Như có thể thấy, đó là một danh sách dài những thói hư tật xấu của người Việt.
Có thể xem cấu trúc quyển sách như là một tiểu luận mang tính học thuật định tính. Phần đầu là những dữ liệu (hay nói ‘chứng cứ’ cũng được), và phần hai là diễn giải những dữ liệu đó và đặt chúng vào bối cảnh hiện tại. Do đó, đọc phần đầu thì có thể hơi nhàm vì dữ liệu (260 câu trích dẫn), nhưng đọc phần hai thì thấy thú vị hơn vì người đọc sẽ hiểu những dữ liệu đó có ý nghĩa gì, và biết được những cách nhìn của tác giả. Bài tổng luận (tác giả gọi là ‘tổng thuật’) bắt đầu bằng một trường hợp liên quan đến một tiếp viên của Vietnam Airlines bị tạm giam ở Nhật vì nghi ngờ xách lậu hàng ăn trộm về Việt Nam, và tác giả Trần Văn Chánh bàn về những thói quen không mấy hay ho của người Việt. Tác giả trích lại nhận xét của học giả Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược về người Việt: ‘Tâm địa thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tin tông giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác.’ Tác giả cho rằng nhận xét đó khá đúng với tâm tánh của người Việt (dĩ nhiên là nói chung), dù nhiều người không muốn nhìn nhận điều đó. Tác giả Vương Trí Nhàn đi đến nhận xét rằng ‘Thói xấu lớn nhất của người Việt là rất sợ nói về thói xấu của mình.’
Học giả Trần Trọng Kim nói về người Việt: ‘Tâm địa thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tin tông giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác.’
Cũng như sách của Bá Dương, quyển ‘Người xưa cảnh tỉnh’ không có một lời nói nào tốt về người Việt, đơn giản vì đó không phải là mục tiêu của sách. Mục tiêu là mượn lời nói của người xưa để cảnh tỉnh người Việt thời nay. Người Việt thời nay, bên cạnh những nét văn hóa hay, còn có rất rất nhiều thói quen và quán tính chỉ có thể mô tả bằng một cụm từ: khó hòa nhập với thế giới văn minh.
Đó là những thói quen và quán tính mà tác giả Vương Trí Nhàn và Trần Văn Chánh đề cập đến trong sách. Sách còn có những trích dẫn mà nếu đối chiếu lại ngày nay cũng khá thời sự tính, như nền giáo dục giết chết nhân cách (Đào Duy Anh) và nền giáo dục bị thương mại hóa (Thái Phỉ). Những thói như loanh quanh chỉ những ăn uống (nhận xét của Phan Kế Bính), mê muội hưởng lạc (Nguyễn Trường Tộ), mê tín gây lãng phí, ăn uống chơi bời bên cạnh nỗi đau của người khác (Phan Kế Bính), thạo sử người hơn sử mình (Hoàng Cao Khải), học đòi làm dáng sống sượng (Nguyễn Văn Vĩnh), chỉ biết học cái bề ngoài (Phạm Quỳnh), hiếu danh đến mất tự trọng (Phạm Quỳnh), chỉ trích và châm chọc (Lương Đức Thiệp), hay nghi ngờ và hại nhau trong công việc (Phan Bội Châu), khinh miệt cá nhân (Hoài Thanh), mưu danh bằng cách hạ nhục kẻ khác (Hoa Bằng), v.v. tất cả đều dễ dàng nhận ra trong xã hội ngày nay.
Một câu hỏi đặt ra là những thói xấu vừa đề cập có phải là ‘văn hóa’. Nếu lí giải rằng cái nền văn hóa Việt Nam là nguyên nhân của những thói hư tật xấu đó có vẻ đơn giản hóa vấn đề, bởi vì người Việt ở nước ngoài có vẻ có ít thói xấu như thế so với người trong nước, và ngay cả ở trong nước cũng có sự khác biệt lớn về lề thói ứng xử giữa người miền Bắc và miền Nam trước 1975, hay sau và trước 1975. Tức là có một yếu tố khác, hơn là văn hóa, có thể giải thích tại sao những cái mà tác giả gọi là ‘thói hư tật xấu’ của người Việt. Tôi nghĩ rằng đó là thể chế chính trị – xã hội. Khi nói ‘thể chế’, tôi muốn nói đến cái tiếng Anh gọi là ‘institution’, chứ không hẳn là chế độ chính trị. Nhưng dĩ nhiên, có người sẽ nói chế độ đẻ ra thể chế văn hóa, nên người ta cũng có lí do qui về chế độ.
Có nhiều nghiên cứu cho thấy người Á châu, kể cả người Việt, ít tin tưởng vào người lạ hơn là người Âu châu. Có lẽ vì văn hóa Á Đông phân biệt tương đối rạch ròi giữa Trong Nhóm và Ngoài Nhóm. Người Trong Nhóm dễ tin hơn người Ngoài Nhóm. Và, có người chỉ ra rằng các tập đoàn kinh tế người Hoa thường do người trong gia đình nắm quyền điều hành, còn các tập đoàn kinh tế Âu Mĩ thì ít có ‘thể chế gia đình trị’ đó, và do đó có thể giải thích tại sao nhiều tập đoàn kinh tế Á châu khó vươn ra ‘biển lớn’. Riêng trường hợp Việt Nam, mới có một cuộc điều tra xã hội cho thấy có khoảng 23% là người ta tin tưởng lẫn nhau, và có đến 80% người trả lời sẵn sàng lợi dụng người khác để hưởng lợi cho mình, nói lên một xã hội bị sứt mẻ niềm tin nghiêm trọng. Với một xã hội như thế thì chúng ta khó kì vọng gì lành mạnh và tươi sáng cho tương lai, cũng giống như bên Tàu, dù kinh tế có phát triển đây đó nhưng thế giới vẫn xem người Hoa là một loại hạng hai.
‘Người xưa cảnh tỉnh’ có thể làm cho nhiều người cau có, thậm chí giận dữ, bởi vì tác giả chỉ nêu lên những thói xấu của người Việt. Nhưng nếu có những nhận xét giận dữ và phản ứng hằn học với quyển sách thì điều đó chỉ thêm minh chứng về tính xấu của người Việt mà thôi. Tuy quyển sách chưa phải là một quyển ‘Người Việt Xấu Xí’ (chứ chưa chắc ‘xấu xa’) như cuốn của Bá Dương, vì tác giả chỉ ‘mượn’ người xưa, chứ chưa trực diện tấn công như Bá Dương. Tuy nhiên, những lời của người xưa và lí giải trong sách cũng đáng để chúng ta tham khảo.
Nhưng mục tiêu của tác giả là cảnh tỉnh người thời nay. Cảnh tỉnh để tự sửa mình. Khi được hỏi người Việt nên bắt đầu từ đâu để tự sửa mình, tác giả nghĩ đến giáo dục và luật pháp. Tôi nghĩ đó có lẽ cũng là câu trả lời nhiều người nghĩ đến, nhưng chưa đủ. Giáo dục và luật pháp chịu sự chi phối nặng nề của thể chế chính trị, cho nên tôi nghĩ cái gốc và cũng là nơi khởi đầu chỉnh sửa chính là thể chế. Ngoài thể chế, tôi nghĩ vai trò của tôn giáo độc lập cũng vô cùng quan trọng. Có rất nhiều nghiên cứu tâm lí xã hội ở phương Tây cho thấy mối liên hệ dương tính giữa đạo đức xã hội, đạo đức cá nhân và mức độ hoạt động độc lập của tôn giáo. Do đó, cảnh tỉnh là ở cấp độ cá nhân, dù rất quan trọng, nhưng vẫn cần phải có sự tác động của ‘hệ thống’ thể chế và tôn giáo.
‘Người xưa cảnh tỉnh’ cũng có thể ví như là một tấm gương. Tấm gương đó có tác dụng phản chiếu để mỗi chúng ta nhìn thấy những tì vết tâm lí của chính mình mỗi ngày. Tôi nghĩ cuốn sách xứng đáng có mặt trong tủ sách của mỗi gia đình người Việt. Tác giả Bá Dương đã qua đời năm 2008, và trước ngày qua đời ông nhận định rằng cuốn sách ‘Người Trung Hoa Xấu Xí’ của ông đã giúp cho người Hoa tốt hơn. Chúng ta cũng hi vọng rằng quyền ‘Người xưa cảnh tỉnh’ của hai tác giả Vương Trí Nhàn và Trần Văn Chánh cũng có tác động tích cực như thế cho người Việt trong tương lai.
Nguyễn Văn Tuấn (Úc)
(6/5/2021)
Nguồn: https://nguyenvantuan.info/2021/02/20/doc-sach-nguoi-xua-canh-tinh/
(1) Sách “Người xưa cảnh tỉnh: thói hư tật xấu của người Việt trong con mắt các nhà trí thức nửa đầu thế kỉ 20” của hai tác giả Vương Trí Nhàn (sưu tầm) và Trần Văn Chánh (luận giải), do Nxb Tổng Hợp ấn hành năm 2018. Sách dày 284 trang, khổ nhỏ, giá bán 90,000 đồng.
(2) Tóm tắt trong sách về những thói hư tật xấu của người Việt:
1. Người Việt và ý thức công dân ý thức xã hội (Phần 1):
Bảo thủ, dựa dẫm, cầu an; Tri túc và hiếu cổ; Cái gì cũng đổ tại trời; Ma quỷ sống lẫn với người hèn yếu; Ý thức quốc gia thức tỉnh quá chậm; Khi bàn chuyện quốc gia chỉ ham hư danh; Làm ra vẻ yêu nước để mưu lợi riêng; Lo việc nước theo lối tự tư tự lợi; Tư tưởng gia nô; Kém óc hợp quần; Một vài thói tục đã thành di truyền (một là học để làm quan, hai là làm quan ăn lót, ba là a dua người quyền quý, bốn là trọng xác thịt…); Sợ tự do, cam chịu làm nô lệ; Chưa trưởng thành trên phương diện công dân; Các hội nghề nghiệp yếu ớt ọp ẹp; Sinh hoạt hội đoàn dễ bị làm hỏng; Theo sự chi phối của quan niệm hư vô.
2. Người Việt và ý thức công dân ý thức xã hội (Phần 2):
Có độc lập cũng cướp đoạt của cải và chém giết nhau đến chết; Dân trí thấp kém… (hay nghi kỵ lẫn nhau, không làm nên việc gì cả…); Tôn sùng những điều xa hoa vô ích, bỏ bễ những sự nghiệp đáng làm; Chỉ biết lợi mình mà không biết hợp quần; Thương tiếc của riêng, không tưởng đến việc ích chung; Biết có thân mình nhà mình mà không biết có nước; Dễ ỷ lại; Trong việc nước cũng ai mạnh thì theo, bỏ hết liêm sỉ; Rên rỉ than vãn mỗi khi gặp khó; Không có chí viễn du; Xa lạ với chuyện phiêu lưu; Căn tính nô lệ, run sợ trước cái mới; Không thiết việc đời; Chống đối tự phát (như nhà nước đòi sơn thì dân chặt cây đi, nhà nước đòi vải lụa thì dân phá khung dệt, đòi gỗ thì dân quăng búa rìu, đòi tôm cá thì dân xé lưới…); Đi đâu cũng lo quay về làng; Ngoài làng xã không biết gì đến nước nhà đến thế giới; Tình yêu làng nước cản trở tiến bộ; Ương ngạnh, hoài nghi, khó dìu dắt.
3. Người Việt qua cách nói năng cười cợt
Không còn lễ nghĩa liêm sỉ; Những câu chửi rủa quá quắt; Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu, ta không ra ta; Thiên về những cái tầm thường thô bỉ; Tật huyền hồ sáo hủ (chỉ sự ăn nói lời nói linh tinh, trống rỗng, giả tạo…); Gì cũng cười (trong tiếng cười ẩn chứa nhiều ý xấu…); Tiếng cười vô duyên; Nói bừa nói bãi, tủi nhục cho cả nòi giống; Hay cãi nhau, thích kiện tụng; Chỉ trích và châm chọc.
4. Thói hư tật xấu người Việt trong làm ăn buôn bán
Thiếu cái gan làm giàu; Không lo xa, dễ thỏa mãn; Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá; Không biết chấn hưng thực nghiệp; Đồng tiền không dùng để sinh lợi; Những người thợ bất đắc dĩ; Buôn bán lòng vòng trong phạm vi hẹp; Không có nghề nào đạt tới trình độ chuyên nghiệp; Không chịu học buôn học bán; Khéo tay mà trí không khôn; Không ai chuyên nhất việc gì; Làm hàng bán hàng đều kém; Tài trí thua kém; Thời gian phí phạm cách sống làm điệu làm dáng; Quan niệm về kinh tế quá cổ lỗ; Giữa chủ và thợ không tìm được hình thức cộng tác thích hợp; Những cái gia truyền dần dần mất đi; Ngủ yên trên danh vọng; Bôi bác, giả dối, chỉ cầu rẻ; Người làm nghề không ngóc đầu lên được; Không biết thích ứng với xã hội hiện đại.
5. Việc tìm tòi học hỏi và nền giáo dục của người
Nhắm mắt bắt chước điều không hay của cổ nhân và ngại thay đổi; Dễ học cái dở; Học thuật hủ bại; Học để kiếm gạo; Học để làm quan; Học đòi vặt vãnh bỏ qua chuyện lớn; Nặng tính hiếu kỳ; Thần trí bạc nhược, thiếu óc tự lập; Như cái cây bị “cớm”; Con ma cử nghiệp giết chết sự học; Có khoa cử mà không có sự nghiệp; Giáo dục hiện đại bị thương mại hóa; Thiếu niên hư hỏng; Đỗ đạt là xong, không còn cầu học; Một nền giáo dục giết chết nhân cách; Không có một nhà tư tưởng, không có người khao khát tìm đạo lý mới.
6. Việc tìm tòi học hỏi và nền giáo dục của người Việt (2)
Khi học thuật kém cỏi lòng người sinh ra phù phiếm, phong tục trở nên bại hoại; Nói láo nói linh; Không học nên thiếu tư cách làm người; Cái hay của người đến mình trở thành cái dở; Học không biết cách, luật pháp hồ đồ, cương thường giả dối; Không học được cách tư duy hợp lý; Không có học thuyết của mình (xưa nay ta chỉ có mấy lối học của Tàu truyền sang…); Việc bắt chước dễ dãi thường gây nhiễu loạn; Mô phỏng lâu ngày quên cả sáng tạo; Mình lại rẻ mình, bản thân tự làm hỏng; Tình nghĩa thầy trò bị hiểu sai lệch và bị lợi dụng; Chỉ lo nuôi không lo dạy; Sẽ có lúc mất hết đạo lý? (song song với vấn đề nghèo khổ, còn phải giải quyết vấn đề giáo dục…); Không chú trọng học thuật sẽ thành dân tộc bỏ đi.
7. Thị hiếu nhỏ mọn và chất bi thương sầu cảm trong văn chương
Thị hiếu tầm thường; Văn chương phù phiếm, toàn giọng bi thương; Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu nhược; Chỉ giỏi về văn thù ứng; Tưởng thật mà hóa dối; Khinh miệt cá nhân; Không tìm thấy bản sắc; Phê bình nghĩa là nịnh nọt; Nhắm mắt bắt chước cốt kiếm lợi; “Tiểu thuyết của phường coi cổng” (những cuốn tiểu thuyết hay nhất của ta bây giờ, già lắm chỉ bằng những cuốn tiểu thuyết của phường coi cổng bên Pháp mà thôi!…); Nhiều trò quảng cáo bỉ ổi; Những nhạc điệu rời rạc, ẻo lả; Nặng tính trang sức mà thiếu sức sống (nghệ thuật Việt Nam thường bị bó buộc trong lề lối cổ…); Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não.
8. Quan hệ giữa người với người: tham lam ích kỷ cạnh tranh nhỏ nhặt
Không ai hết lòng với ai; Tham lợi dẫn đến vô cảm; Không biết hợp quần; Ích kỷ và khôn vặt; Chỉ biết cạnh tranh trong những việc tầm thường, lặt vặt; Vừa không thiết chuyện gì, vừa xét nét nhỏ nhặt; Lợi dụng đạo nghĩa kiếm lợi; Danh dự bị hiểu sai lạc và mang ra mua bán; Trông nhau để … yên tâm trục lợi; Cách sống của kẻ cùng đường; Mưu danh bằng cách hạ nhục kẻ khác; Chỉ biết lo thân.
9. Bẻ quẹo những chuẩn mực đạo lý nhân bản
Lêu lổng qua ngày, mất hết tự trọng; Trông đợi quá nhiều ở sự may rủi; Thiếu tận tâm, tránh khó tìm dễ; Xấu làm tốt dốt làm thông; Không biết tôn trọng cả lợi ích công cộng lẫn lợi ích cá nhân; Những ham muốn tầm thường; Giả dối thịnh hành, không biết nhìn ra sự thật; Giải thích sai các giá trị (hỏi trọng gì, ắt là võng lọng cân đai; hỏi quý ai, tất là ông cả bà lớn; hỏi cái gì là sang, tất là xe ngựa lâu đài ngọc ngà gấm vóc…); Đạo lý ngược đời; Trung dung theo nghĩa nửa vời, trung dung cốt để ngu dân (“Trung dung thật là một cái thuyết lôi thôi, mà xã hội ta chịu lấy cái ảnh hưởng trung dung ấy mà hóa ra một cái xã hội ương ương dở dở, trắng không ra trắng đen không ra đen…”); An nhẫn lẫn với đê hèn nhục nhã; Lười biếng và hay nói hão…
10. Giả dối, lừa lọc, kiêu ngạo, hiếu danh
Không biết giữ chữ tín; Hiếu danh đến mất tự trọng; Bệnh giả dối quá nặng; Sợ mang tiếng chứ không phải sợ cái xấu; Chỉ giỏi diễn trò trước mặt mọi người; Kiêu ngạo, hợm hĩnh, 23 theo đuổi những cái hão huyền; Khiêm nhường giả, kiêu căng thật; Hay tự ái và thích chơi trội; Tinh thần voi nan (những con voi to lớn lắm, có đủ chân đủ vòi, nhưng nó ở trong bằng nan ở ngoài bằng giấy…); Học đòi, làm dáng.
11. Nếp tư duy đơn sơ tùy tiện
Kém óc khoa học; Óc tồn cổ; Quá vụ thực trong tư duy; Điều hòa với nghĩa… chắp vá bừa bãi; Áp đặt chuyên chế mọi nơi mọi chỗ; Gọt chân cho vừa giày; Chỉ suy nghĩ bằng khuôn sáo; Không chịu được những tìm tòi phá cách; Bỏ cũ theo mới một cách nông nổi; Thói quen cam chịu; Dễ dãi thô thiển thế nào cũng xong; Tùy tiện thay đổi, chỉ cốt có lợi.”
Qua câu chuyện 39 người thiệt mạng tại Anh, tôi thấy nổi lên nhiều vấn đề có liên quan đến đến toàn thể cộng đồng Việt hiện nay, trước tiên là câu chuyện cách kiếm sống của con người và triết lý ẩn sau cách kiếm sống đó.
Người lao động Việt Nam - hình minh họa
Cụ thể là người Việt hiện rất kém về mặt nghề nghiệp để tạo nên năng suất lao động cần thiết trong khi đó nhu cầu có một cuộc sống tiện nghi lại quá mạnh mẽ và quyết liệt, khiến cho người ta sẵn sàng làm bậy kiếm tiền, những người vốn ngại ly hương thì sẵn sàng ra đi tìm cách kiếm ăn ở nước ngoài dù đôi khi phải đổi lấy mạng sống.
Mà có thoát chết chăng nữa thì tuy có một cuộc sống bề ngoài đầy đủ về mặt vật chất nhưng thật ra trong đó bao giờ cũng không thiếu những yếu tố của sự đau khổ.
Nên biết thêm tình trạng kém cỏi về mặt nghề nghiệp là tình trạng của người Việt trong lịch sử nó khiến cho một quyển sách như "Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn" đã viết đại ý 1/3 ba người dân ở đây là kẻ cướp, 2/3 còn lại sống dưới mức nghèo khổ
Qua đó cho thấy chiến tranh đã tàn phá xã hội Việt Nam như thế nào cụ thể là làm hỏng con người Việt đi như thế nào.
Tôi cũng cần thấy thêm là trong việc kiếm sống hiện nay có một triết lý phổ biến ngấm ngầm chi phối người Việt "chỉ có những việc không làm được chứ không có những việc không được làm"
Đây cũng là dấu hiệu của sự tàn phá con người về mặt đạo đức do chiến tranh mang lại.
Nó khiến chúng ta rất khó hội nhập với thế giới hiện đại.
Về trình độ kiếm sống của người Việt và cái triết lý đi kèm với tình trạng này tôi đã từng viết nhiều lần, lần cuối là trên blog của tôi tháng 2/2018 :
Kiếm sống chỉ là cách nói nôm na của khái niệm " trình độ sản xuất " của một xã hội. Trong bài này tôi muốn đi từ hoạt động của những người dân mà nghĩ dần lên tới các vấn đề tồn tại của xã hội. Đề tài quá rộng và cũng là quá sức với bản thân, tôi đưa ra ở đây với ý nghĩ" nếu không phải chúng ta thì ai sẽ nghĩ thay ta đây" và rất mong các bạn cùng nghĩ.
Kiếm sống bằng mọi giá
Thời tiết oi ả, đang nóng bỗng lạnh đang lạnh bỗng nóng, nhiều nhà đêm trước vừa mở điều hoà, đêm sau đã phải lôi chăn mùa rét ra đắp, khí trời năm nay ở đồng bằng sông Hồng độc quá !
Chẳng những con người nhoai ra mà đến cả các giống vật cũng khó sống : ở vùng ngoại ô tôi đang ở, sáng sáng trên mặt hồ vô khối cá chết nổi lềnh bềnh.
Có cá chết là có người đi vớt, bởi thứ cá này đun lên còn cho lợn cho chó ăn được.
Mấy người dạy sớm lại chuẩn bị sẵn vợt, cá vớt được dễ đến cả rổ.
Đến lượt một ông già nọ, lộc giời chẳng còn bao nhiêu, đi lui đi tới ngắm nghía mãi mới thấy một hai con sót lại.
Cá thì nằm khá xa mà trong tay ông không có lấy một cái que cái sào nào cả. Nhưng ông không chịu.
Thoạt đầu thấy ông nhặt gạch hòn to hòn nhỏ vun thành đống lùm lùm tôi chưa hiểu để làm gì. Bỗng nghe tũm tũm gạch ném xuống nước, thì ra ông lấy gạch để lái cho cá trôi dần vào bờ. Liên tiếp, có đến vài chục viên gạch được sử dụng. Khi mùi cá chết nồng nặc xông lên thì cũng là lúc tôi nghe cái túi nilon trong tay ông gìa sột soạt.
Có thế chứ. Thoát làm sao được khỏi tay ta, hỡi những chú cá không biết mới chết đêm qua hay từ hôm kia mà thân hình đã mủn cả ra trên mặt nước.
Tôi đứng nhìn ông già lấy gạch dồn cá mà nghĩ đến cách kiếm sống của con người hiện nay. Nào ông có khác với nhiều thanh niên trai trẻ háo hức vào đời, nhất là những thanh niên nông thôn đang đổ lên đô thị :
- Tay trắng lập nghiệp.
- Nghề ngỗng chẳng có.
- Đồ nghề cũng không tức là không có công cụ.
- Có miếng ngon miếng sốt thì lớp người đi trước giành hết cả rồi.
Thành thử có gì là lạ khi họ chỉ còn cách lăn xả vào bất cứ việc gì người ta thuê mướn dù là mồ hôi đổ ra nhiều mà đồng bạc thu về chẳng khác mấy con cá trôi nổi trên mặt hồ.
Trách họ thì oan cho họ quá.
Thế nhưng cái đáng sợ nhất vẫn là cái "triết lý" toát lên từ cái việc kiếm sống đơn giản này.
Nhìn đống gạch được ném xuống nước, tôi cứ định nói với ông già rằng như thế tức là trực tiếp phá huỷ môi trường.
Vụ nước máy ô nhiễm tại Hà Nội gần đây nêu lại vấn đề ý thức và trách nhiệm
Ai cũng thích thì làm, hôm nay mươi viên mai vài chục viên ném xuống hồ, hỏi còn gì là cái mặt nước thân yêu ?
Chẳng phải là chỉ mấy năm nay nước hồ đã đen dần vì nước cống, lòng hồ đã bồi cao lên vì các loại phế thải xây dựng và rác rưởi ?
Nhưng tôi không mở miệng nổi.
Từ cái việc mà ông già thản nhiên và hào hứng theo đuổi, tự nó đã toát ra một lời tuyên bố : để kiếm sống, con người ta có quyền làm bất cứ việc gì họ có thể làm, bất kể là có hại cho người chung quanh hoặc tàn phá môi trường sống chung quanh đến như thế nào.
Lại nhớ nhà văn Nga Anton Chekhov (1860 - 1904) từng có một đoản thiên kể chuyện một người mugich hồn nhiên tháo đinh bù loong trên đường sắt về rèn mấy cái đinh thúc ngựa. Sắt ê hề ra đấy mà làm gì, tháo một vài cái có sao, không tàu hoả thì đi bộ đã chết ai ? -ông ta lý sự.
Còn ở ta những năm chiến tranh có những người coi kho phá cả một cỗ máy để lấy mấy cái vít.
Xét về mặt lý lẽ mà người trong cuộc đưa ra để biện hộ, giữa cái hành động của người mugich Nga thế kỷ XIX với việc người Việt thế kỷ XXI đã và đang làm :
- rải đinh trên đường cao tốc,
- bán đủ các loại rau quả vừa phun thuốc trừ sâu,
- đá bóng vào lưới nhà để thực hiện hợp đồng bán độ,
- rồi chặt phá rừng vô tội vạ,
- rồi mua bán bằng cấp và chức sắc,
- rồi kê đơn cho bệnh nhân toàn những thuốc đắt tiền để ăn hoa hồng,
- rồi đưa ma tuý vào trường học rủ rê con nhà lành vào con đường nghiện ngập cốt bán được ít hàng quốc cấm...
Các hành động ấy bắt nguồn từ những ý nghĩ có khác nhau là bao ?
Ở đâu thì cũng cùng một lý lẽ ấy, lý lẽ của ông già ném gạch dồn cá, vốn đã bắt rễ trong tiềm thức nhiều người chúng ta hôm nay.
Khi độ nguy hiểm của nó ta còn chưa cảm thấy rõ ràng thì làm sao đủ sức để chống lại ?
Vận tải thô sơ
Từ kiếm sống đến hình thành tính cách
Từ trường hợp của những ông già ném cá ở phần trên, tôi xin thử nêu lên một vài đặc điểm làm nên cách kiếm sống dân ta xưa và nay :
1. Từ thời tiền hiện đại trong cuộc mưu sinh, dân ta còn đang dừng lại ở tư duy hái lượm tức là sẵn có cái gì của thiên nhiên thì nhặt lấy mang về.
Con người trong xã hội đa số là vô nghề nghiệp và không đạt tới đỉnh cao trong việc làm nghề.
Các ngành nghề không được chăm lo cải tiến nên chỉ có giậm chân tại chỗ.
Khi tiếp xúc với các nền kinh tế khác chúng ta lại không chịu học hỏi đàng hoàng kỹ lưỡng nên cứ kém mãi.
2. Chiến tranh là nhân tố chủ yếu chi phối khuôn mặt của xã hội Việt Nam trong suốt trường kỳ lịch sử.
Trong các thế kỷ trước, nhất là hai thế kỷ XVII - XVIII sa vào nội chiến, ở ta, việc sản xuất nông nghiệp chỉ phát triển trong mức độ bảo đảm cho các cuộc chiến tranh giữa các phe phái được duy trì. Vậy mà nạn đói vẫn luôn luôn xảy ra. .
Điều này càng rõ nếu xét tình hình từ 1945 tới nay.
Trong chiến tranh bao nhiêu con người giỏi giang đổ hết cả ra mặt trận.
Đến cả lương thực cho người dân miền Bắc cũng phải nhập của nước ngoài.
Súng ống đạn dược xe pháo dùng trong chiến tranh là của ngoại nhập tất.
Năm 1975 : tác giả nói về người Việt Nam rằng 'sau chiến tranh hầu hết chúng ta là những kẻ vô nghề nghiệp'.
Ở hậu phương mọi công việc như xây dựng nhà cửa đường xá hoàn toàn ngưng trệ.
Sau chiến tranh hầu hết chúng ta là những kẻ vô nghề nghiệp.
Để đắp điếm che giấu sự thiếu thốn này xã hội chỉ tổ chức ra một nền giáo dục "thiếu tháng", "bất thành nhân dạng", còn cả việc học hỏi về nghề nghiệp lẫn học kiến thức cơ bản đều chắp vá qua loa.
Trong khi không biết xấu hổ trước trình độ sản xuất nội địa ở mức lè tè thì ta lại đang lao đầu hưởng thụ, lấy việc kiếm được hàng hóa sản xuất từ các nước khác làm niềm vui thích.
3. Có lần trên mạng thấy loan tin các cơ quan khoa học quốc tế người ta đánh giá rằng nước mình là một xứ mà việc quản lý các tài nguyên khoáng sản là loại đội sổ, kém nhất thế giới.
Không cần có mặt ở các loại mỏ, chỉ từ tình hình chung cũng đoán ra hết.
Những người chủ trì công việc làm ăn ở các vùng tài nguyên đó, theo sự nhìn nhận của tôi thật cũng chẳng khác gì mọi người dân thường.
Ta chỉ trách những quan chức này là họ tham nhũng.
Ta quên rằng họ cũng đang là những người kiếm sống không có nghề ngỗng gì hết, và kiếm sống với bất cứ giá nào.
Trong khi khai thác tài nguyên theo kiểu thổ phỉ vậy, tự họ đã tước đi khả năng tồn tại và phát triển của cái nguồn lực đáng lẽ nuôi sống cộng đồng và chính họ trong một thời gian lâu dài. Họ cũng từ bỏ luôn cái cơ hội tốt để họ và con cháu họ tử tế nên người.
4. Một đặc điểm khác chi phối việc kiếm sống của người mình, nhất là con người hiện đại.
Là ta có lối suy nghĩ rất thiển cận, trong khi phấn đấu để vượt lên số phận nghèo khó đã không chịu tự nhận lỗi về mình không chịu thành tâm học hỏi theo hướng chuyên môn hóa…mà lại chỉ muốn đi tắt đón đầu nhăm nhăm tính toán sao cho có thể đạt đến mọi mục đích tầm thường của mình bằng Con đường Ngắn nhất.
Nhân danh nghèo khó, cho là mình có quyền làm mọi điều xấu xa và sẽ chẳng có thần phật nào trừng trị chúng ta cả.
Tiếp đó là bày ra đủ thứ lý luận để cãi trắng cho sự hư hỏng của mình.
Cả một đội quân tuyên truyền góp phần vào việc tự biện hộ này.
Chúng ta đã đi tới sự tự lừa dối tự lúc nào không biết.
Đến lúc này thì người ta nói rằng cả con người và xã hội đã vô phương cứu chữa.
Vương Trí Nhàn
Nguồn : BBC, 15/11/2019