Chủ thể xuất hiện như một tiền đề để xây dựng văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền, khi chủ thể nhận diện được sự thật trong sinh hoạt nhân sinh bằng chính nhân tri của mình, thì chủ thể là nơi chào, nhận, tiếp, đón chân lý. Chính chân lý là trung tâm của nhân trí sẽ đưa chủ thể tới phạm trù tự do mà mình muốn có, như điều kiện tiên khởi để nhận dạng công bằng và bác ái phải là những giá trị làm nền cho nhân vị, khung cho nhân bản, nơi cư trú cho nhân phẩm trong ngôi nhà của nhân quyền.
Nhân lộ của chủ thể
Chủ thể sẽ dấn thân chống bất bình đẳng, rồi chống bất công vì những giá trị của công bằng và bác ái, đây là những giá trị làm nên nhân sinh quan của chủ thể. Chủ thể có sinh hoạt ngay trong cơ chế, từ cải tổ tới cải cách, từ cải cách tới cách mạng, vận dụng công ích để dẫn dắt tư lợi, tận dụng công luận để vô hiệu hóa vụ lợi. Chủ thể liên tục bồi đắp thế giới quan của mình với nhân cách bảo vệ đồng bào, đồng loại, tha nhân, nên chủ thể xa lánh tính vị kỷ của cá nhân, buông bỏ tính ích kỷ của cá thể. Chủ thể mang nhân cách của nhân tri bằng đạo lý của trách nhiệm trước xã hội, của bổn phận trước cộng đồng, bằng chính nhận thức về lợi ích tập thể. Từ đây, chủ thể sinh hoạt trong sáng tạo để thăng hoa tự do vì công bằng để phục vụ tích cực bác ái. Chủ thể đưa tự do đi thật xa để công bằng được rộng hơn, để bác ái được sâu hơn, từ đó vũ trụ quan của chủ thể có tầm vóc cao, sâu, xa, rộng từ nhân sinh tới môi sinh, từ nhân loại tới thiên nhiên, biết sống chung vì đã thấy để thấu chúng sống chính là lối thoát mà cũng là lối sống của một nhân loại trong nhiều nhân loại có cùng một giá trị của sinh linh, nơi mà mọi sự sống đều thiêng liêng.
Chủ thể hành tác bằng nội công đạo lý của tổ tiên, bản lĩnh đạo đức của dân tộc, tầm vóc luân lý của nhân loại, từ đây chủ thể đi tìm qua hành tác sáng tạo cho sự phát triển của đất nước, cho sự tiến bộ của dân tộc, cho văn minh vì giống nòi, tôn kính tổ tiên để tôn trọng chính nhân phẩm của mình. Chủ thể hành động qua hệ sáng (sáng kiến, sáng tạo, sáng tác, sáng lập) không chỉ đóng khung các hình thái nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, văn chương… mà hệ sáng là động lực thường xuyên trong sinh hoạt xã hội, và động cơ thường nhật ngay trong quan hệ xã hội. Chủ thể sáng tạo có bàn đạp là hệ tự (tự do, tự chủ, tự lập) để làm giàn phóng cho hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái), để liên tục sáng tạo ngay trong đời sống xã hội, để chuyển hóa xã hội theo chiều hướng hay, đẹp, tốt, lành.
Chủ thể được trưởng thành trong các môi trường giáo dục có những nhận thức của công dân tốt biết đấu tranh để bảo vệ một xã hội tốt, được bảo quản bởi một định chế tốt, được bảo trì bởi một cơ chế tốt, được bảo hành từ một chế độ tốt. Tại đây, giáo dục học đường, nơi trao truyền hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) để xây dựng chủ thể ngay trong phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải, làm nên quan hệ chặc chẽ giữa chủ thể và tha nhân.
Chủ thể có giáo dục đạo lý, từ gia đình tới học đường, từ nghề nghiệp tới xã hội, công dân xác nhận chức năng vì công ích của mình trong tập thể, cộng đồng. Cùng lúc xác chứng bằng giáo dục qua vai trò tích cực của mình qua trách nhiệm với đất nước, qua bổn phận với dân tộc, nghĩa vụ với giống nòi. Giáo dục đạo lý này song hành cùng giáo dục khoa học, là quá trình tự chủ biết khách quan hóa các kiến thức, với phân tích trúng các hiện tượng, với giải thích đúng các bản chất, bằng dữ kiện, bằng chứng qua chứng minh. Chủ thể biết tiếp nhận kiến thức của khoa học, kỹ thuật như tiếp đón các vốn liếng cùng các kỹ năng để tạo tiền đề cho phát triển vì đất nước, tiến bộ vì dân tộc, văn minh vì giống nòi.
Chủ thể luôn củng cố giáo dục dân chủ cho chính mình và cho xã hội, từ đây trợ lực cho tập thể, cho cộng đồng, cho dân tộc nhận ra đa nguyên chính là cốt lõi của hệ đa (đa tài, đa dung, đa tri, đa trí, đa hiệu, đa năng) làm nên tổng lực cho quần chúng, dân chúng, nhân dân. Một tổng lực được vun đắp bằng đa diện, từ đa chiều, để tiếp nhận giáo dục về nhân quyền, với công bằng trong quan hệ xã hội, với công lý trong đời sống xã hội, để sinh hoạt xã hội luôn được bảo đảm bởi công luật. Chính phương trình công bằng-công lý-công luật sẽ trực diện để chống lại mọi bất công của độc đảng-độc quyền-độc tài lấy đặc quyền để tạo đặc ân, đặc lợi để vụ lợi, đây là bất công của mọi bất công.
Nhân hành của xã hội dân sự
Có những trình độ đấu tranh khác nhau giữa các xã hội dân sự, nhưng bước đầu tiên phải là trong ấm ngoài êm, rồi bước thứ hai là quốc thái dân an, và bước thứ ba là ấm no hạnh phúc. Nhưng xã hội dân sự phải biết xa hơn bằng những mong cầu xã hội được dẫn dắt bởi hoài bão của đồng bào, đồng loại. Những bước tiếp theo luôn là đà đi lên từ nhân tri tới nhân trí, khi mà các điều kiện vật chất và kinh tế khi được giải quyết xong, thì mong cầu xã hội sẽ đi xa về hướng phát triển, đi cao về phía tiến bộ. Sinh hoạt của xã hội dân sự là tìm mọi cách để đi rộng ngay trên chính hoài bão của xã hội, vì biết chọn chân trời văn minh vì dân tộc và văn hiến vì giống nòi.
Mong cầu xã hội khi đồng hành với hoài bão dân tộc, thì cả hai phải biết chuyển hóa hoang lộ bùn lầy của bất công tạo ra bởi bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay, trở thành quang lộ của công bằng nơi mà công luật biết dựa trên dân quyền của dân chủ. Một xã hội dân sự có thực chất là một xã hội dân sự có nhận thức rành mạch về sự sống còn của công bằng luôn có bạn đồng hành là : tự do cá nhân. Chính công bằng xã hội cùng tự do cá nhân phải được bảo vệ và tồn tại bằng thực lực xã hội dân sự, nơi có nhân quyền biết tôn vinh bác ái, ngay trên đại lộ của dân chủ. Chỉ có cách này mới dọn dẹp tới nơi tới chốn các hoang lộ bùn lầy là hiện nạn của bạo quyền độc đảng công an trị, của tà quyền độc quyền tham nhũng trị, của tuyên truyền ngu dân trị…Mong cầu của xã hội dân sự luôn dựa trên các giá trị của chính xã hội đó là tự do, công bằng, bác ái, khi được đồng hành với hoài bão của dân tộc trên các giá trị của phát triển, của tiến bộ, của văn minh trong nhân quyền, đây là kim chỉ nam để dân chủ trợ lực cho tam quyền phân lập. Từ đây, xuất hiện những yêu cầu bức bách của xã hội dân sự về sự liêm chính của các chính khách, về sự liêm sỉ của chính giới, đang chủ đạo sinh hoạt chính trị. Nên xã hội dân sự tham dự tích cực và thường xuyên ngay trên các định hướng của không gian chính sách : có tự do rồi thì phải có tự do hơn, có công bằng rồi thì phải có công bằng hơn, có bác ái rồi thì phải có bác ái hơn.
Cụ thể là xã hội dân sự luôn trợ lực cho dân chủ mỗi ngày phải cao, sâu, xa, rộng hơn, và nhân quyền mỗi ngày phải hay, đẹp, tốt, lành hơn, đây chính thử thách mà chỉ có đa nguyên mới cõng, bồng, ẵm, bế được. Vì bạo quyền độc đảng công an trị, của tà quyền độc quyền tham nhũng trị, của tuyên truyền ngu dân trị không kham được, vì nó chẳng đủ tâm lẫn đủ tầm để cõng, bồng, ẵm, bế dân chủ lẫn nhân quyền, vi vậy đa nguyên luôn là tử thù của nó. Chính tự do-công bằng-bác ái là minh tri của cộng hòa, chính dân chủ-đa nguyên-nhân quyền là minh trí của văn minh làm nên nội công, bản lĩnh, tầm vóc cho xã hội dân sự. Cả hai minh tri của cộng hòa và minh trí của dân chủ khi được hội tụ lại sẽ làm rõ chức năng, làm sáng vai trò của xã hội dân sự. Hùng lực dân chủ của một xã hội dân sự đủ tâm và đủ tầm để báo động ngày tàn, điểm chết của bạo quyền độc đảng công an trị, của tà quyền độc quyền tham nhũng trị, của tuyên truyền ngu dân trị.
Khi cả hai, minh tri của cộng hòa và minh trí của dân chủ, kết tinh lại ngay xã hội dân sự, thì xã hội này sẽ trợ lực cho các đứa con tin yêu của dân tộc chính là các chủ thể năng động của giống nòi để chuẩn bị mồ chôn cho bạo quyền độc đảng công an trị, của tà quyền độc quyền tham nhũng trị, của tuyên truyền ngu dân trị. Muốn chuẩn bị mộ phần cho đám âm binh này, thì xã hội dân sự phải biết tạo ra phong trào xã hội ; vì phong trào xã hội sẽ tạo ra đòi hỏi xã hội ; đòi hỏi xã hội sẽ tạo ra đấu tranh xã hội ; đấu tranh xã hội sẽ tạo ra đối thoại xã hội, đối thoại xã hội sẽ tạo ra định hướng xã hội, bằng chính nghĩa của một dân tộc, bằng lẽ phải vì giống nòi, đây chính là hành tác chủ thể hóa xã hội dân sự.
Chính lòng yêu nước thương nòi là nội chất xã hội dân sự được hình thành từ nội lực tự chủ của tổ tiên làm nên nội hàm độc lập của dân tộc. Chủ thể hóa xã hội dân sự là quá trình nhận thức trực tiếp độc đảng toàn trị hiện nay là đám đầu lãnh phản dân hại nước, chính là đám đầu sỏ lãnh đạo đang biến chất cơ đồ của tổ tiên, để biến thái phẩm chất của dân tộc trong tà lộ của cực quyền trị. Đảng lãnh đạo buôn dân bán nước là đám đầu nậu đang biến chất nhân phẩm của đồng bào, để biến thái nhân bản của Việt tộc, bằng quỷ cách của cuồng quyền trị. Nếu mong cầu của xã hội dân sự là hạnh phúc của nhân dân, thì mong cầu này không thể bắt đầu tính toán quyền lợi, không thể bắt đầu toan tính tư lợi. Thậm chí, xã hội dân sự cũng không màng tới chuyện chiếm đoán quyền lực, vì xã hội dân sự chỉ dùng quyền lực xã hội để chuyển đổi quyền lực chính trị bằng pháp quyền, và tư lợi chính trị thành công ích xã hội. Mong cầu của xã hội dân sự mang nội lực chuyển đổi xã hội để tạo bàn đạp cho các chính sách phải chuyển hóa thực tại, để đẩy thực tế đi về phía ước mơ hạnh phúc của nhân dân.
Nhân đạo của chủ thể hóa xã hội dân sự
Chủ thể hóa xã hội dân sự phải được bắt đầu bằng những định đề và định luận trên về chủ thể, từ đây chúng ta sẽ nhận ra chỉ có một xã hội dân sự thật sự là một xã hội được chủ thể hóa. Nơi mà cá thể đã nhập nội vào tập thể, nơi mà cá nhân đã cùng chân trời với đồng bào, đồng loại để tạo ra tâm điểm cho ba nhân lộ được cùng nhau hội tụ trên cùng môt nhân đạo :
Chủ thể hóa xã hội dân sự bằng kiến thức của các hành tác minh trí biết gìn giữ văn hiến của tổ tiên, văn minh của dân tộc, văn hóa của giống nòi, luôn là ý thức tập thể để chủ thể hóa xã hội dân sự. Một xã hội luôn đấu tranh vì quốc thái dân an, trợ lực cho nhận thức của các lãnh đạo chính trị biết yêu nước thương nòi. Khi tổng hợp kiến thức minh trí, ý thức minh lý, nhận thức minh tri trên nhân lộ chủ thể hóa xã hội dân sự, thì các lãnh đạo chính trị phải có chính tri để biết vô hiệu hóa các xung đột nội bộ trong chính giới, để công năng hóa các hợp tác quốc tế. Từ đó loại đi mầm móng của nội chiến, gạt ra nguồn cơn của ngoại chiến, xa chiến tranh để gần hợp tác, xa chém giết để để sống chung bằng chung sống, để hợp tác trong hòa bình.
Chủ thể hóa xã hội dân sự thường bắt đầu bằng những thiểu số được đại diện bởi cá nhân, tập thể, cộng đồng biết yêu nước thương nòi. Chủ thể hóa xã hội dân sự là cuộc hành trình của giáo huấn trước một dân tộc là cúi đầu trước tham nhũng của tà quyền ngày ngày làm nên khuyết tật dài lâu cho chính dân tộc đó. Chính những thiểu số được đại diện bởi cá nhân, tập thể, cộng đồng nhận trách nhiệm giáo dục cho một xã hội là quỳ gối trước các lũng đoạn của ma quyền tham tiền là khoanh tay chấp nhận một điếm tật đáng khinh bỉ. Vì những điếm tật đáng tởm, đáng lợm, đáng nhờm này là do bạo quyền độc đảng, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền làm ra từ tuyên truyền trị để tạo ra ngu dân trị, những điếm tật này không hề là của xã hội, của dân tộc, của giống nòi.
Chủ thể hóa xã hội dân sự có đường đi nẻo về của các cá nhân, các hội đoàn, các tập thể, các cộng đồng với lòng yêu nước thương nòi sẽ đưa xã hội cúi đầu, dân tộc khom lưng ra khỏi ma trận âm binh của tuyên truyền ngu dân trị. Chủ thể hóa xã hội dân sự để đưa đường dẫn lối cho chính quyền phải biết quản trị tốt một đất nước, trước hết phải biết rằng quản trị ngược với cai trị. Chủ thể hóa xã hội dân sự là chống lại sự cai trị của bạo quyền độc đảng toàn trị bằng các định luận của cộng hòa (tự do-công bằng-bác ái) trên các định chế của dân chủ (tam quyền phân lập). Từ đây, quản trị là một quá trình khai thị : đồng bào không phải là "các lực lượng tù địch", đồng loại không phải là "các lực lượng cơ hội", và tha nhân không phải là "các lực lượng phản động" như luận điệu tuyền truyền của đôc đảng toàn trị hiện nay.
Các loại ngữ vựng để chế tác ra các loài ngữ văn : "các lực lượng tù địch", "các lực lượng cơ hội", "các lực lượng phản động" chính là hiện tượng quan của một tâm lý bất an có gốc, rễ, cội, nguồn của một loại lãnh đạo mang tà tâm chính trị, đã ăn ngủ không yên trước lẽ phải của xã hội dân sự. Hiện tượng trực quan của thực tế mắt thấy tai nghe làm nên hiện tượng luận của thực trạng thối nát do chính bạo quyền độc đảng công an trị, tà quyền độc quyền tham nhũng trị, ma quyền ngu dân trị đã tạo ra bao bất bình đẳng, để sinh sôi nảy nở bao bất công. Chính hiện tượng luận đầy dẫy bất công sẽ kết tụ rồi kết tinh để kết luận rằng xã hội dân sự chính là sung lực cho dân tộc để kết liễu số phận của bạo quyền, tà quyền, ma quyền. Chủ thể hóa xã hội dân sự sẽ trực diện để trực tiếp chống lại của tham nhũng trị là mua chức bán quyền, song hành cùng chạy chức mua ghế, mua chức để lọt vào tà quyền lãnh đạo, từ chính phủ tới quốc hội, từ chính quyền tới tư pháp. Đám tội phạm này cũng đã mua quốc tịch ngoại, chuyển tiền của tới tự tam nhũng ra ngoại quốc, đã chuẩn bị cao bay xa chạy, sau khi đã vơ vét tiền tài của dân tộc, nạo vét tài nguyên của đất nước. Cái trống, cái vắng, cái rỗng chung quanh chữ thương dân từ não bộ tới não trạng của đám đầu lãnh không hề có tình thương đất nước, lòng thương dân tộc, tin thương giống nòi, đã thành phản xạ ngay trong hành vi vô tri đã làm nên hành động vô luân của chúng với Việt tộc.
Nhân tri của chủ thể hóa xã hội dân sư
Chính nhân tri của chủ thể hóa xã hội dân sự sẽ là khung của dân chủ để đưa đường dân lối cho lảnh đạo chính trị làm nên chính sách, có nội dung của chính nghĩa với quyết đoán chính trị, tạo nên chính danh của lãnh đạo chính trị. Tất cả chính sách, chính nghĩa, chính danh đều phải có nội lực của ý nguyện tốt vì đồng bào, của ước nguyện lành vì đồng loại. Xã hội dân sự sẽ tháo, gỡ, gặt, ngăn những tính toán xấu vì tư lợi, những toan tính tồi để trục lợi, vì cả hai đều phản lại ý nguyện tốt vì dân tộc, ước nguyện lành vì đất nước. Nên xã hội dân sự trực tiếp giảm tuổi thọ của ma quyền vì tư lợi, tà quyền để trục lợi, rồi xua bạo quyền độc đảng toàn trị mau vào huyệt đạo.
Xã hội dân sự yêu cầu lãnh đạo chính trị phải liêm chính, liêm khiết trong chính sách, liêm sỉ trước nhân dân. Không phải là đám quan tham đã biến thành tội phạm, từ tướng lĩnh tới bộ trưởng, từ ủy viên bộ chính trị tới ủy viên trung ương đảng, để khi phải ra tòa vì tham nhũng lại khóc lóc mà tự thú là bất tài, rồi khóc than xin đảng trưởng tha tội, mà không hề biết cúi đầu xin lỗi nhân dân. Xã hội dân sự không chấp nhận sống chung với đám đầu lãnh vô tri, đám đầu sỏ vô minh, đám đầu nậu vô luân đã và đang sinh sôi nẩy nở ngay Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. Xã hội dân sự phải nhận vai trò vạch mặt chỉ tên đám đầu lãnh vô tri, đám đầu sỏ vô minh, đám đầu nậu vô luân này để trong sạch hóa nhân bản của Việt tộc. Không có tư cách chính khách, không có phong cách chính giới, không có nhân cách chính trị thì đừng lãnh đạo.
Chính xã hội dân sự sẽ quyết định tuổi thọ của một đảng lãnh đạo không nằm trong cấp số nhân của các nhiệm kỳ, cũng chẳng chui rúc qua mưu hèn kế bẩn của kẻ cướp quyền vì tham quyền, cực quyền vì cuồng quyền, lộng quyền vì loạn quyền. Chính xã hội dân sự sẽ quyết định tuổi thọ của một đảng lãnh đạo phải yểu mệnh vì độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không hề biết quản trị, độc tôn nhưng lại chôn lấp các tôn ti trật tự trong cơ đồ của tổ tiên. Vì trong các quốc gia có văn minh dân chủ song hành cùng văn hiến nhân quyền làm nên hùng lực của các xã hội dân sự của các quốc gia đó, thì tuổi thọ của một đảng lãnh đạo nằm trong sự thông thái của quyết sách. Nên tuổi thọ của một đảng lãnh đạo phải là sự thông thạo quốc sách, đó là hằng số của sự thông minh chính trị làm nên trí tuệ của chính tri. Vì xã hội dân sự buộc chính khách, chính giới, chính trị phải chính tri.
Bạo quyền độc đảng thấy "khuyết điểm" của dân tộc khi dân tộc không phục vụ đầy đủ cho nó, còn dân tộc thì thấu rành mạch khuyết tật của bạo quyền độc đảng sâu trong lòng tham không đáy của nó. Trong cơn khát vô hạn của bạo quyền độc đảng, trong cơn đói vô biên của tà quyền độc trị, chúng đã "ăn chẳng chừa một thứ gì", chúng thi nhau là đứa này phải "ăn dày" hơn đứa kia. Nhưng một xã hội dân sự có nội công của nhân tri dân chủ, có bản lĩnh của nhân trí nhân quyền sẽ vạch mặt chỉ tên đám lãnh đạo khi đã có ý định tính toán quanh quyền lợi thì sẽ dẫn tới ý muốn toan tính cướp quyền lực, chóng chày sẽ tạo ra ý đồ mưu toan vì tư lợi. Chỉ vì đồng bào, đất nước, giống nòi hoàn toàn không có chỗ đứng ; và xã hội, cộng đồng, tập thể hoàn toàn không có ghế ngồi trong ý định tính toán quanh quyền lợi, ý muốn toan tính cướp quyền lực, ý đồ mưu toan vì tư lợi của đám lãnh đạo này.
Nên khi bạo quyền độc đảng nhập hồn vào tà quyền tham nhũng, nhập vong vào ma quyền tham tiền, thì nhân diện xấu, tồi, tục, dở của nó đã được định hình bởi nhân dạng thâm, độc, ác, hiểm, mà cả hai tới từ bất nhân cách gian, tà, xảo, hèn của nó, với biệt danh hèn với giặc, ác với dân. Nên xã hội dân sự sẽ có từ chứng cớ tới chứng từ, từ chứng tích tới chứng nhân để xác chứng rằng : bạo quyền độc đảng toàn trị từ khi nó rời nhân tâm, nhân từ, nhân nghĩa ; từ lúc nó bỏ nhân bản, nhân văn, nhân vị, từ độ nó rời nhân tính, nhân lý, nhân đạo, thì chính nó tự loại bỏ nó ra khỏi nhân lộ của nhân loại. Vì vậy, số kiếp của nó không còn là nhân kiếp, mà đã trở thành súc kiếp của loài dã thú bằng súc dạng ăn tươi nuốt sống, xã hội dân sự không bao giờ chấp nhận nó, chỉ vì nó diệt tha nhân để nuôi thân.
Chính xã hội dân sự sẽ rành mạch hóa các hậu quả cùng hậu nạn tới từ bạo quyền độc đảng toàn trị biến đất nước Việt thành một nhà tù, giam cầm dân tộc Việt trong vòng lao lý. Nên hai từ đồng bào không có ý nghĩa gì trong một chế độ công an trị, tham nhũng trị, ngu dân tri, tuyền truyền trị, tội ác trị, thành trừng trị… Khi đám lãnh đạo vừa là bạo quyền độc đảng, vừa là tà quyền tham nhũng, thì chúng đã muốn xuất hiện cùng lúc trên hai độc lộ chỉ mang đến các hậu nạn độc hại cho giống nòi Việt. Đám lãnh đạo vừa là ma quyền tham tiền, vừa là quỷ quyền tham chức, thì chúng đã đi hai chân trên hai tà lộ. Đám lãnh đạo này lại vừa là cực quyền công an trị, vừa là cuồng quyền ngu dân trị, thì chúng đã tách não trạng của chúng ra khỏi não bộ của Việt tộc. Chính xã hội dân sự sẽ minh chứng hóa là đám lãnh đạo này ngày đêm mang số phận âm binh, chia nhau đặc quyền trong âm giới ; suốt kiếp mang số phận âm phần chém giết nhau vì đặc lợi trong âm lộ của thanh trừng trị. Và xã hội dân sự sẽ pháp lý hóa đám lãnh đạo này từ ngày sinh tới ngày tận thế của chúng, từ lý lịch của chúng luôn xuất hiện với hành vi thanh toán, đeo đẳng với hành động thanh trừng, đây chính là hành tác chém giết của âm binh trong một địa ngục bất nhân thất đức. Nhân đạo của xã hội dân sự sẽ báo tin về những cái chết của các bạo quyền độc đảng toàn trị, nơi đây, xã hội dân sự luôn đại diện cho sự sống : chung sống trong vui sống, sống chung trong sống vui.
Xã hội dân sự thấy-để-thấu một tên chủ tịch nước có thể là nạn nhân trong phản xạ thanh trừng giữa đầu lãnh, khi qua đời phải nhập mộ phần, lại chiếm nhiều mẫu ruộng để tự làm lăng tẩm, trong khi nông dân không đủ đất để canh tác. Xã hội dân sự biết xem-để-xét một ông tướng nọ khi qua đời lại chiếm cả một cái đồi tại miền Trung cũng để làm lăng tẩm ; đó là chưa kể các nghĩa địa mà đầu lãnh, đầu sỏ, đầu nậu của Đảng cộng sản Việt Nam luôn được xa hoa hóa trong vô tri lẫn vô minh. Cùng lúc thì các nghĩa trang của các chiến sĩ hy sinh vì đất nước chống Tàu tặc tại biên giới phía Bắc thì bị trở thành bình địa trong hoang ma.
Xã hội dân sự như một chủ thể minh trí không bao giờ chấp nhận đặc quyền, đặc lợi, đặc ân của đám đầu lãnh, đầu sỏ, đầu nậu, chúng đã bất chấp khổ nỗi của đồng bào, nỗi đau của dân tộc. Chỉ vì xã hội dân sự là một chủ thể có nhận thức rành mạch là các loại đặc quyền, đặc lợi, đặc ân này tới từ bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham quyền trị, quỷ quyền ngu dân trị. Nếu đám đầu lãnh, đầu sỏ, đầu nậu sống trong gian trá, gian lận, gian manh thì giá trị tâm linh của tình thương dân tộc, tình nghĩa đồng bào không có một giá trị gì đối với đám này. Đây vừa là thảm nạn, vừa là hậu nạn của chúng, mà xã hội dân sự như là một chủ thể dày nhân bản, sẽ báo ngày dứt kiếp của chúng.Thường dân có thể chỉ muốn sống vì mình, nhưng xã hội dân sự như một chủ thể minh trí bắt buộc các lãnh đạo chính trị phải sống vì người, vì tha nhân, vì đồng bào, vì đồng loại. Ngược lại làm lãnh đạo mà chỉ muốn sống vì mình, lấy tham quyền để nuôi lạm quyền, lấy tham quan để nuôi hoạn quan, thì không phải là lãnh đạo. Chính xã hội dân sự sẽ vạch mặt chỉ tên chúng chỉ là ký sinh trùng của quyền lực, ký sinh thể của quyền lợi, loại gà què ăn quẩn côi xay trong tính toán ốc mò cò ăn, trong toan tính cướp ngày là quan.
Chủ thể hóa xã hội dân sự để vạch đường chỉ lối cho lãnh đạo chính trị phải hành động trong tỉnh táo, hành tác trong sáng suốt, biết thức tỉnh khi xã hội bị lạc đường, biết tỉnh thức mà nhận ra chân trời của tương lai, vì đất nước, vì dân tộc, vì giống nòi. Xã hội dân sự được xây dựng bằng đa tài của nhiều tập thể, bằng đa trí của nhiều cộng đồng, đa hiệu của nhiều hội đoàn, đa năng của nhiều thành phần xã hội, nên đạo lý của xã hội dân sự chính là đa nguyên. Não bộ của xã hội dân sự là đa trí, não trạng của xã hội dân sự là đa tri, nên xã hội dân sự hoàn toàn ngược chiều với độc đảng luôn cô độc trước nhân dân, nghịch hướng với độc tài luôn cô đơn trong xã hội. Ngược lại, chủ thể hóa xã hội dân sự để biết tự cứu xã hội, cùng lúc cứu nguy cho dân tộc, và cứu nạn cho giống nòi.
Lê Hữu Khóa
(10/01/2021)
Chủ thể có những định luận khác nhau trong khoa học xã hội và nhân văn, nhưng cuối cùng là các định luận này sẽ cùng nhau hội tụ chung một chân trời. Nơi mà cá thể khi trở thành chủ thể, thì cá nhân lẻ loi sẽ là công dân sinh hoạt trong nhân tri sáng tạo ra chính nhân kiếp cho mình, vì mình.
Không gian tri thức của chủ thể
Có ít nhất ba quan niệm về chủ thể đã biết chung lưng đấu cật trong thế kỷ qua để làm nên văn minh dân chủ và văn hiến nhân quyền :
* Triết học quan niệm chủ thể chính là các tác nhân biết tìm để hiểu sự thật trong quá trình làm người của mình. Từ đó, xem rồi xét phạm trù tự do mà mình muốn có, để thấy rồi thấu nhân lộ của chủ thể luôn đi xa hơn cá thể, luôn đi rộng hơn cá nhân, luôn đi cao hơn công dân, để tự quyết không gian nhân kiếp của chính chủ thể.
* Sử học quan niệm chủ thể bắt đầu bằng sự dấn thân chống bất bình đẳng, rồi chống bất công vì những giá trị của công bằng và bác ái bằng những nhân lộ khác nhau. Từ cải tổ tới cải cách, từ cải cách tới cách mạng, chủ thể đi tìm công ích để chống tư lợi, đi tìm công luận để gạt đi vụ lợi. Nên chủ thể xây gốc, đắp rễ, dựng cội, tạo nguồn từ nhân tính vô vụ lợi, khác hẳn với tính vị kỷ của cá nhân, khác xa với tính ích kỷ của cá thể.
* Xã hội học quan niệm chủ thể bằng đạo lý của trách nhiệm trước xã hội, của bổn phận trước cộng đồng, bằng chính nhận thức về lợi ích tập thể. Tại đây, chủ thể luôn đứng về phía sáng tạo : công bằng rồi thì phải công bằng hơn, bác ái rồi thì phải bác ái hơn, nên đã tự do rồi thì phải tự do cao hơn, sâu hơn, rộng hơn, xa hơn. Sáng tạo ngay trong sinh hoạt xã hội bằng sáng kiến làm tốt sinh hoạt xã hội, sáng tác ngay trong quan hệ xã hội bằng sáng lập ra các quan hệ xã hội mới, biết làm đẹp hơn cho đời sống xã hội đang có.
Chính hệ sáng (sáng kiến, sáng tạo, sáng tác, sáng lập) này không ngừng ở các hình thái nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, văn chương… Mà hệ sáng là động lực thường xuyên và động cơ thường nhật để chủ thể tạo ra hệ hành (hành vi, hành động, hành tác) dựa trên hệ tự (tự do, tự chủ, tự lập). Lại được trợ lực bởi hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái), vì được trợ duyên bởi hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ).
Tất cả các hệ này làm nên : nội công đạo lý, bản lĩnh đạo đức, tầm vóc luân lý của chủ thể. Đây chính là nguồn cơn mất ăn mất ngủ của bạo quyền độc đảng toàn trị, tà quyền tham nhũng trị, quỷ quyền ngu dân trị, ma quyền công an trị, âm quyền tuyên truyền trị… Đó chính là các hoạn nạn mà Việt tộc đang phải gánh chịu dưới sự cai trị của Đảng cộng sản Việt Nam, tới từ một sự cai trị vừa diệt sự phát triển của đất nước, vừa triệt sự tiến bộ của dân tộc, vừa giết văn minh vì giống nòi, cùng lúc thanh trừng luôn tiền đồ tổ tiên Việt đã làm nên nhân phẩm Việt.
Không gian giáo lý của chủ thể
Không ai sinh ra đã là chủ thể, mà chủ thể được ra đời với ít nhất trong năm môi trường giáo dục chủ yếu biết đào tạo những công dân tốt biết đấu tranh để bảo vệ một xã hội tốt, được bảo quản bởi một định chế tốt, được bảo trì bởi một cơ chế tốt, được bảo hành từ một chế độ tốt. Tất cả dựa trên năm môi trường giáo dục sau đây :
* Giáo dục học đường, nơi mà hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) giúp công dân sử dụng phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải để tạo dựng nhân sinh quan cho chính mình, một nhân sinh quan biết sống cùng, sống chung với đồng bào, đồng loại.
* Giáo dục đạo lý, từ gia đình tới học đường, từ nghề nghiệp tới xã hội, công dân xác nhận chức năng vì công ích của mình trong tập thể, cộng đồng. Cùng lúc xác chứng được vai trò tích cực của mình qua trách nhiệm với đất nước, qua bổn phận với dân tộc, nghĩa vụ với giống nòi.
* Giáo dục khoa học, là quá trình tự chủ biết khách quan hóa các kiến thức để có phân tích trúng, giải thích đúng. Nơi mà chủ thể tiếp nhận kiến thức của khoa học, kỹ thuật như tiếp đón các vốn liếng cùng các kỹ năng để tạo tiền đề cho phát triển vì đất nước, tiến bộ vì dân tộc, văn minh vì giống nòi.
* Giáo dục dân chủ, đây là nhân lộ thiết yếu để nhận ra đa nguyên là cốt lõi của hệ đa (đa tài, đa dung, đa tri, đa trí, đa hiệu, đa năng) với định đề biết dựa trên sự thông minh của tập thể, của cộng đồng. Sự thông minh này luôn đa diện, đa chiều, và vượt trội sự thông minh của cá thể trong ích kỷ, của cá nhân trong vị kỷ.
* Giáo dục nhân quyền, nơi mà công bằng giữa các thành viên trong xã hội được xác nhận bởi hiến pháp, mà công lý là gốc, rễ, cội, nguồn cho mọi công luật. Phương trình công bằng-công lý-công luật trực tiếp chống lại mọi bất công của độc đảng-độc quyền-độc tài lấy đặc quyền để đặc tham, đặc lợi để vụ lợi, đặc ân để chóng chày sẽ bội ân với dân tộc, với giống nòi, với đất nước.
Tổng lực của năm hệ giáo dục này : giáo dục học đường- giáo dục đạo lý - giáo dục khoa học - giáo dục dân chủ - giáo dục nhân quyền, thành công hay thất bại là tùy thuộc vào hệ lực (nội lực, thực lực, sung lực, hung lực, mãnh lực) của xã hội dân sự luôn biết làm cao lập pháp, làm hay hành pháp, làm tốt tư pháp. Đây là nhân lộ tương lai của Việt tộc để xây dựng lại từ giáo dục tới văn hóa, từ lao động tới kinh tế, từ sinh hoạt xã hội tới đời sống văn minh… Với tất cả giá trị tâm linh biết nương dựa vào tiền đồ của tổ tiên Việt.
Hãy tìm lối thoát, lối ra cho tổng lực của năm hệ giáo dục này, cụ thể là sẽ không có dân chủ trong nhân quyền cho nhân kiếp Việt tộc nếu không có các hành động tới từ chủ thể. Sẽ không có nhân quyền cho nhân tri Việt tộc nếu không có các hành tác tới từ chủ thể. Sẽ không có đa nguyên cũng như sẽ không có xã hội dân sự ngày ngày đấu tranh vì các giá trị của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) nếu không có các hành vi thường trực tới từ chủ thể. Vì chỉ có chủ thể mới biết bảo vệ các giá trị đạo đức dân tộc, đạo lý đồng bào, luân lý giống nòi, làm nên tổng lực của các giá trị tâm linh của Việt tộc.
Không gian công lý của chủ thể
Hãy phân tích thật cụ thể chức năng của chủ thể của mỗi công dân Việt hiện nay là gì ? Hãy giải thích thật rành mạch vai trò của chủ thể của mỗi công dân Việt hiện nay là gì ? Để trả lời thật minh bạch câu hỏi chủ thể hóa công dân là gì ? Câu trả lời sẽ là động cơ làm nên hành động của chủ thể trước thảm trạng của xã hội Việt hiện nay, chính là thảm họa của dân tộc Việt hiện nay, chính là thảm nạn của giống nòi Việt trong những năm tháng tới. Bây giờ và ngay trên đất nước Việt, chủ thể Việt phải xây dựng được một tổng lực mới tới từ :
Tận dụng tổng lực này mà chế tác ra hệ đối (đối lý, đối luận, đối thoại, đối lực, đối trọng, đối kháng) vừa để thấy bản lai diện mục, vừa để vạch mặt chỉ tên các hệ sau đây :
* Hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tôn, độc tài, độc trị) độc đảng giết nhân quyền để diệt dân chủ ; độc quyền để lạm quyền rồi cuồng quyền ; độc tôn để triệt mọi tôn ti trật tự ngay trong cơ đồ của tổ tiên Việt ; độc tài nhưng bất tài trước quá trình phát triển đất nước ; độc trị nhưng không biết quản trị vì tiến bộ dân tộc, vì văn minh cho gióng nòi.
* Hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền), nơi mà độc đảng là có độc quyền vơ vét tiền bạc của dân tộc, nạo vét tài nguyên của đất nước ; nơi mà độc đảng là độc quyền để mua bằng bán chức, rồi mua chức bán quyền, và sẽ không ngần ngại sa vào quỷ lộ buôn dân bán nước.
* Hệ gian (gian dối, gian trá, gian manh) của một hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị mà tất cả từ khẩu lệnh tuyền truyền tới chính sách đều dựa vào sự ăn gian nói dối của Đảng cộng sản Việt Nam, với phản xạ sở khanh thường xuyên là nói lời rồi lại nuốt lời như chơi.
* Hệ bạo (bạo lực, bạo động, bạo hành) làm nên bạo sách xem dân là các lực lương thù địch, làm nên bạo quyền bằng công an trị, với bạo tâm sẵn sàng giết dân, từ Cải cách ruộng đất tới việc đẩy cả dân tộc vào cuộc bạo chiến bằng nội chiến huynh đệ tương tàn trong thế kỷ qua.
* Hệ đặc (đặc quyền, đặc lợi, đặc ân) ; nơi đây đặc quyền đã thành phản xạ cho lạm quyền, đã thành phản ứng cho cực quyền, để tham quyền sinh đôi với cuồng quyền. Nơi đây đặc lợi đã thành phản xạ vụ lợi bè đảng để phục vụ cho tư lợi cá nhân, nơi mà sự ích kỷ với lòng tham không đáy, bất chấp những hậu quả cho đất nước, hậu nạn cho giống nòi ; chỉ để nuôi đặc ân là ăn trên ngồi trốc trên đầu, trên cổ cả một dân tộc.
* Hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm) tất cả tới từ vô học từ giáo lý tới kiến thức của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, vô năng từ lý luận tới lập luận trong cách chính sách, vô hiệu từ giải luận tới diễn luận trong cách quốc sách đang làm nên hậu nạn, một điều đáng sợ nhất cho Viêt tộc là : vô hậu hóa giống nòi Việt !
Không gian đấu tranh của chủ thể
Hãy cụ thể hơn nữa để thấy-cho-thấu lối thoát cùng lối ra làm nên lối thắng cho Việt tộc chính là quá trình chủ thể hóa công dân. Bằng sáng kiến và hành động từ cá nhân tới tập thể, từ cộng đồng tới quần chúng, bằng phong trào, bằng thông tin, bằng truyền thông, với cường độ của tri thức, với mật độ của liêm khí, với trình độ của đạo lý để chống lại :
* Công an trị, chủ thể trực diện để chống lại công an giết dân trong các đồn công an, chủ thể trực tiếp chống lại công an tra tấn bằng nhục hình man rợ nhất giữa thế giới đã biết văn minh dân chủ, đã hiểu văn hiến nhân quyền. Công an trị là một chế độ với cơ chế nơi mà cả xã hội là một nhà tù, với công dân sẽ bị lao lý hóa nếu chống bạo quyền độc đảng toàn trị. Công an trị là cai trị bằng bắt bớ, tra tấn, tù đày, nơi mà bạo lực thay nhân tính, bạo động thay nhân lý, bạo hành thay nhân bản.
* Tham nhũng trị, với phản xạ điếm nhục của lót tay, của bôi trơn, với phản ứng phong bì, đây không phải là văn hóa Việt. Đây chỉ là tà lộ điếm lậu của một chế độ độc đảng toàn trị, sinh hoạt như một tập đoàn tội phạm, không biết quản trị mà chỉ biết cai trị bằng công an trị để vơ vét qua tham nhũng trị.
* Tuyên truyền trị, với điếm ngôn là biến mọi thất bại của Đảng cộng sản Việt Nam thành xảo ngữ : thành công, thành quả, thành tích… Diệt sự thật bằng các khẩu lệnh gian dối (ơn Đảng), triệt chân lý bằng các khẩu hiệu gian manh (mừng Đảng), giết lẽ phải bằng các khẩu ngôn gian trá (Đảng tổ chức mọi thắng lợi…). Điếm để gian, gian để tráo, tráo để lận, lận để lừa dân phản nước.
* Ngu dân trị, sinh đôi cùng tuyên truyền trị, bứng đi hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức) để cắm vào đó hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm) tới từ vô học. Mà ý đồ độc hại là giả hóa cả một hệ thống giáo dục, man trá hóa cả một hệ thống tri thức với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, gian lận học vị để biển lận học hàm, mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền bằng chính sự vô học trong vô hậu của Đảng cầm quyền. Nơi mà thực chất chuyên chính vô sản đã làm ra bản sắc chuyên chính vô học.
* Bản năng trị, chính là tà sách của Đảng cộng sản Việt Nam không biết quản trị mà chỉ biết cai trị dân bằng sưu cao thuế nặng. Biến chuyện miếng cơm manh áo thành phản ứng của bản năng đói ăn khát uống bằng phản xạ tức thì ăn tươi nuốt sống, chỉ biết sống còn mà không tình nghĩa với đồng bào, đồng loại. Biến giá áo túi cơm thành phản ứng sống chết không tình thương với đồng loại. Biến chuyện cơm áo gạo tiền thành phản hồi sống mái với tha nhân, từ đó đưa xã hội vào vô luân, đẩy dân tộc vào vô đạo, xua giống nòi vào vô hậu.
* Thanh trừng trị, lấy thanh lọc trong xung đột nội bộ bằng thanh toán của bạo quyền giữa các bè, nhóm, phái, bọn…qua thanh trừng không thương tiếc chính các đồng chí của họ trong quy trình bất nhân hóa vì quyền-tiền. Phản xạ thanh trừng sinh đôi với phản ứng thanh toán luôn là âm giới của bọn âm binh thanh lọc nhau không bằng ánh sáng trong sạch của sự thật, của chân lý, của lẽ phải, mà chỉ qua ám sát để ám hại, thủ tiêu để triệt tiêu.
* Tội ác trị, luôn là bạo sách của Đảng cộng sản Việt Nam, nơi mà bắt bớ rồi giam cầm một cách vô pháp, tra tấn rồi nhục hình một cách vô luân. Nơi mà dân lành một sớm một chiều trở thành dân đen, nơi mà dân tốt một ngày một tuần trở thành dân oan. Nơi mà nhân dân yêu nước chống hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu tà, Tàu nạn) bị buộc tội là những lực lượng thù địch. Nơi mà, các đứa con tin yêu của Việt tộc đã bị lao lý hóa, trở thành các tù nhân lương tâm trước một chế độ thất nhân bất đức !
Không gian dấn thân của chủ thể
Khai sinh và lý lịch của chủ thể Việt là gì ? Câu trả lời đã có Việt sử làm nên Việt tính, cụ thể là bản sắc Việt đã song hành cùng văn hóa Việt :
* Chủ thể thương dân, tình cảm yêu nước thương nòi hình thành trong nội lực của sự ham muốn phục vụ đất nước, lòng hoài bão muốn hiến dâng vì dân tộc, chí mong cầu muốn giống nòi được thăng hoa. Lòng yêu nước thương nòi của một cá nhân, một tập thể, một cộng đồng chính là tiềm lực sẽ làm nên nội lực của chủ thể. Dù chủ thể không có quyền lực trong tay, dù chủ thể chưa có quốc sách đưa đường chỉ lối nhưng chủ thể là tiềm lực của lý trí, nội lực của trí tuệ. Một chủ thể vì nước vì dân thì hơn vạn cá nhân đã cúi đầu hàng phục trước bạo quyền ; một chủ thể yêu nước thương nòi thì hơn hàng triệu cá nhân đã quỳ gối quy phục trước tà quyền.
* Chủ thể tuệ giác, biết học hỏi để được học tập, đây chính là nhu cầu khai sáng của lý trí, học tập để học thật là sự cầu thị của trí tuệ, học thật bằng học lực là sự cầu tri của tuệ giác. Không có học hỏi, học tập, học thật, học lực mà muốn có học vị, học hàm thì chỉ còn cách gian, lận, điếm, xảo như hiện nay trong lò đồ giả của Đảng cộng sản Việt Nam : học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả.
* Chủ thể minh tri biết tuyển chọn chính quyền, biết tuyển lựa chính phủ. Chính chủ thể thấy thật sâu và thấu tận gốc là những thiểu số được đại diện bởi cá nhân, tập thể, cộng đồng sẽ dẫn dắt đa số thụ động đã khuất phục rồi quy phục bạo quyền. Chính những thiểu số được đại diện bởi cá nhân, tập thể, cộng đồng yêu nước thương nòi là những chủ thể, sẽ chỉ giáo cho một xã hội đã nhắm mắt trước bất công của tà quyền độc đảng.
* Chủ thể nhận thức, nơi mà mỗi công dân sẽ thấy mình bị mất đi cuộc sống ngay trong chính cuộc đời của mình, nếu mình không thấy dân chủ trong đa nguyên, không thấu dân quyền trong nhân quyền. Chính chủ thể sẽ khai thị cho các kẻ lãnh đạo phải thấy rằng họ đang mất dân tộc, đất nước, giống nòi ; nếu họ không cải cách đất nước bằng phát triển, dân tộc bằng tiến bộ, giống nòi bằng văn minh.
* Chủ thể giáo lý luôn có nhận thức : bạo quyền độc đảng chỉ là cơn bão đang quật gục tất cả những gì đã được xây dựng. Tà quyền tham nhũng là cơn lũ sẽ vùi lấp tất cả những gì đã được vun đắp. Ma quyền tham tiền là cơn sạt lở sẽ nhận chìm tất cả những gì đã được tổ tiên nâng niu, dân tộc gìn giữ. Chủ thể giáo lý luôn có nhận thức : cực quyền độc trị là cơn động đất sẽ siết ngộp tất cả những gì đang bền vững ; cuồng quyền độc tôn là đợt sóng thần của quỷ giới, sẽ nhấn chìm tất cả những gì đang được trao truyền, từ văn minh của dân tộc tới văn hiến của giống nòi.
* Chủ thể đạo lý, sống với ý thức thấy tội ác mà không tố cáo tội ác là nhắm mắt để rơi vào quỷ lộ, thấy tội lỗi mà không nhìn thẳng mặt tội lỗi là cúi đầu để sa vào tà lộ. Thấy tội đồ mà không vạch mặt tội đồ là khom lưng để chui vào âm lộ của âm binh. Chủ thể không chấp nhận : nhắm mắt, cúi đầu, khom lưng, vì hành vi phản chủ thể là dễ dãi quỳ gối trước bạo quyền độc tài, cũng hành động mau chóng nằm rạp đất để cuồng quyền giết hại đồng loại, tiêu diệt đồng bào của mình.
* Chủ thể nhân phẩm, nơi mà quan niệm về nhân lý và nhân tính sẽ xây dựng nhân bản và nhân vị trên nền của nhân đạo và nhân nghĩa, được trợ duyên bởi nhân tâm và nhân từ, được chế tác bằng nội công của nhân tri và bản lĩnh của nhân quyền. Tất cả được bắt đầu xây dựng bằng sự thật bây giờ của một xã hội và ở đây của một dân tộc. Đây là công trình của nhân trí biết vận dụng lẽ phải để tận dụng đạo lý của tổ tiên. Chính sự thật và lẽ phải sẽ làm nên quyết đoán trong quyết định, chính lẽ phải dẫn dắt hành vi trong hành động, để công trình này được đi tới chủ điểm là chân trời, nơi sự thật và lẽ phải hội tụ để vun đắp nhân phẩm.
* Chủ thể đa nguyên, đặt niềm tin vào hệ đa (đa tài, đa trí, đa dung, đa năng, đa hiệu) để tạo đa đảng mà bảo vệ vừa dân chủ, vừa nhân quyền. Chủ thể không thể nào phát triển được lý trí lớn của một dân tộc một trăm triệu dân bằng sự quản thúc trong độc lộ của độc đảng trong độc trị của vài trăm đầu nậu. Chủ thể không thể nào có trí tuệ rộng trong môi trường độc quyền chỉ biết độc tôn của vài chục đầu sỏ chủ mưu quản chế dân tộc. Chủ thể không thể nào có tuệ giác cao trong ngõ cụt của độc tài bằng độc trị của vài tên đầu lãnh. Người ta không thể nào có lý trí lớn, trí tuệ rộng, tuệ giác cao bằng độc đạo vô cùng độc hại độc đảng.
Không gian tri luận của chủ thể
Chủ thể còn có bản lĩnh chống lại bản năng của con người, vô tình hay cố ý tạo cơ nguy cho đồng loại, chỉ vì muốn tha nhân phải làm theo ý của mình, đi theo kinh nghiệm của mình. Chủ thể chọn dân chủ vì chuộng nhân quyền, chỉ vì độc đảng trong toàn trị bằng công an trị và tham nhũng trị thì nguy hại cho đất nước, nguy hiểm cho dân tộc, nguy nan cho giống nòi. Độc đảng đã cướp quyền để lạm quyền, tham quyền để lạm quyền, muốn cực quyền nên dể đi vào con đường cuồng quyền. Chính bạo quyền độc đảng toàn trị đã lấy khống chế để áp chế, đã tạo áp lực bằng bạo lực, vận dụng phương tiện bạo động nên để tận dụng bạo hành chống đồng bào của mình.
Chủ thể trong các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền luôn biết sử dụng hệ nhân (nhân phẩm, nhân lý nhân tính, nhân bản, nhân vị, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân tâm, nhân từ, nhân tri, nhân quyền) để kiểm nghiệm những kẻ lãnh đạo chính trị. Chính khách cũng như chính giới phải được thường xuyên kiểm định bằng đạo đức học, phải thường xuyên được kiểm soát bằng tri thức học, phải thường xuyên được kiểm tra bằng tâm thần học. Chủ thể biết nhận trách nhiệm này !
Chủ thể còn biết đối xứ với đồng loại như đối xử với chính đồng bào của mình, còn biết đối xử với đồng bào như đối xử với kẻ đồng thuyền trong gian nan, và đối xử với kẻ đồng thuyền trong gian nan như đối xử với kẻ đồng cam cộng khổ trong đấu tranh vì các giá trị của cộng hòa và dân chủ là : tự do, công bằng, bác ái. Và đối xử với kẻ đồng cam cộng khổ như đối xử với kẻ sẽ cùng chia ngọt sẻ bùi với mình, để nhận ra đạo lý đồng hội đồng thuyền là kết quả của đồng chung đồng chia. Mọi chung chia của thủa nằm gai nếm mật, mọi chia chung của thời hạt muối cắn làm đôi là những giá trị thực tiễn của chủ thể. Nên chủ thể không bao giờ chấp nhận các giá trị thực tiễn của cuộc sống bị xóa bỏ bởi đảng cướp quyền để cuồng quyền, lại tự ban phát đặc quyền, đặc lợi, đặc ân cho chính mình. Nên chủ thể phải tố cáo đảng cực quyền này trước công luật quốc gia và trước công pháp quốc tế. Vì đảng này không những bất chính với xã hội mà còn bất lương với dân tộc, đảng này có hành động vô nhân với hành tác vô phúc trong hành vi vô hậu hóa giống nòi.
Chủ thể gởi ước nguyền vào tiến bộ cho dân tộc, gởi ước nguyện vào phát triển đất nước, gởi ước mơ thăng hoa trong văn minh cho giống nòi. Ước nguyền tiến bộ, ước nguyện phát triển, ước mơ văn minh. Nên chủ thể đứng về phía đạo đức của tổ tiên, chủ thể đứng về phía đạo lý của chính nghĩa, chủ thể đứng về phía luân lý của chính trị. Và chủ thể trực tiếp yêu cầu chính quyền không được xa rời rồi buông bỏ các quốc sách vì phát triển đất nước, vì tiến bộ dân tộc, vì văn minh giống nòi. Và đảng nào đi ngược lại phạm trù này chỉ là đảng phản dân hại nước ; như bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay với ý đồ của tà tâm ngay mật nghị Thành Đô trước Tàu tặc là cứu đảng hơn cứu nước. Chủ thể biết xem-để-xét là bạo quyền này đã sa lầy rồi lún ngập vào quỷ lộ buôn dân bán nước.
***
Chủ thể thấy để thấu và từ chối phải chịu đựng một số phận mà mình không được chọn lựa, để nhân kiếp không phải là nhân số. Mà nhân kiếp là quá trình chuyển biến nhân tính thành nhân lý để nhận lại nhân bản, chính là nơi cõng, bồng, ẵm, bế nhân phẩm trong bất cứ hoàn cảnh nào của nhân thế, trong bất cứ hiện cảnh nào của nhân gian, trong bất cứ thực cảnh nào của nhân họa. Đừng hứa hẹn láo khoét về một xã hội chủ nghĩa đầy đủ vật chất, đừng hẹn hò láo điếm về một xã hội cộng sản dư thừa vật chất ! Mà hãy tạo mọi điều kiện tức khắc bằng những cơ hội tức thì là lắp đôi cánh cho nhân sinh ra khỏi túng quẩn, chắp đôi cánh cho nhân thế bay xa bất công, nâng cao đôi cánh cho nhân gian bay cao về hướng công bằng, để công bằng vừa được tiếp đón tự do, vừa được đón nhận bác ái.
Lê Hữu Khóa
(09/01/2021)
-------------------
Lê Hữu Khóa là Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học Châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.