Định luận của dân chủ :
Tư tưởng giải phóng kiến thức
Kiến thức luôn là kiến thức về một cái gì, về một đối tượng, và kiến thức cần đối tượng để đi tới từ phân tích tới giải thích. Ngược lại, tư tưởng không cần một đối tượng cụ thể để tư duy, tư tưởng không cần một đối tượng thiết thực để tư luận. Trên quan điểm này tư tưởng không bị nhốt tù bởi một đối tượng, nên tư tưởng không bị cầm tù bởi một khung hay một khuôn của kiến thức.
Ngay trong giáo trình làm nên giáo án, ngay trong giáo khoa làm nên giáo dục. Chỉ vì chúng ta tôn trọng giáo trình để văn ôn võ luyện, chỉ vì chúng ta quý trọng giáo án để học thuộc bài, chỉ vì chúng ta trân quý giáo khoa để học thuộc lòng, chỉ vì chúng ta tôn vinh giáo dục để dồi mài kinh sử. Càng yêu học vị chúng ta càng bị giam hãm trong khuôn của kiến thức, càng quý học hàm chúng ta càng bị giam siết trong khung của tri thức, càng trọng học lực chúng ta càng bị giam cầm trong xiềng xích của trí thức. Mà chúng ta quên hẳn chuyện luận thức !
Cụ thể là hệ thống hóa hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) bằng thức luận, đây là đứa con tin yêu của tư tưởng. Hãy vận dụng trí lực để xếp gọn lại kiến thức, tri thức, trí thức, rồi xếp đặt lại ý thức, nhận thức, tỉnh thức, bằng hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận). Nằm ngủ say trong hệ thức, mà quên đi hệ luận thì không khác gì học thuộc bài chỉ để đi thi, mà quên khuấy đi định đề :
"Luận thức là phải vận dụng hệ thức để nuôi hệ luận !". Đây chính là đường đi nước bước vì nhân kiếp của chúng ta, có nhân sinh vì tha nhân, có nhân thế vì đồng loại.
Nếu hệ thức là văn ôn võ luyện, học thuộc bài, học thuộc lòng, dồi mài kinh sử, thì hệ luận giáo dục chúng ta từ phê bình dựa trên gốc của dữ kiện tới phê phán dựa trên nền của chứng từ. Hệ luận còn giáo dưỡng chúng ta về tính đa nguyên của chân lý, tính đa luận của lẽ phải, đây là gốc, rễ, cội, nguồn của mọi tư tưởng, nơi mà người ta thuyết phục nhau bằng cái lý, nơi mà người ta tôn trọng nhau bằng cái luận. Nơi mà chuyện cả vú lấp miệng em chỉ là trò bịp, nơi mà hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) chỉ là cái bạo làm nên cái ác, để cái ác nuôi cái tà của hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền), để rồi cái tà sinh ra cái quỷ của hệ đặc (đặc quyền, đặc lợi, đặc ân).
Chính hệ độc làm chúng ta buồn nôn ngay trong kiến thức, hệ tham làm chúng ta lợm giọng ngay trong tri thức, hệ đặc làm chúng ta dị ứng ngay trong tri thức. Vì ngay trên thượng nguồn của tư tưởng thì ba hệ này đã là ba loài ký sinh trùng mà não bộ có luận thức luôn muốn khử trùng chúng để bảo vệ nhân phẩm cho nhân loại. Nên thầy dặn các bạn thêm là khi ta đối diện với một tên đầu đảng chủ soái của công an trị, một tên đầu lãnh chủ trì của thanh trừng trị, một tên đầu sỏ chủ loài của ngu dân trị, một tên đầu nậu chủ biên của tuyên truyền trị, thì ta thấy bị buồn nôn, bị lợm giọng, bị dị ứng, đây là chuyện hoàn toàn bình thường !
Vì thể lực, tâm lực, trí lực của chúng ta là một liên hợp làm nên liên kiếp, nơi mà con người có hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) đã tạo dựng nên hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ) để làm nên nhân cách. Một nhân cách không chấp nhận những điều không chấp nhận được. Và nhân cách đó bị buồn nôn trước cái ác, bị lợm giọng trước cái bạo, bị dị ứng trước cái tà là chuyện hoàn toàn tự nhiên. Còn ngược lại, nếu thấy hậu quả của các chuyện ác, độc, thâm, hiểm làm nên hậu nạn xấu, tồi, tục, dở, mà chúng ta không cảm thấy bị buồn nôn, bị lợm giọng, bị dị ứng, thì chúng ta đã bị đám ký sinh trùng này xâm nhập vào não bộ rồi chăng ? Mà não bộ bị dịch ác, dịch bạo, dịch tà xâm chiếm thì sẽ làm ra não trạng thờ ơ trước nỗi khổ của đồng bào, lãnh đạm trước niềm đau của đồng loại, thì não bộ này xem như là "đồ bỏ" rồi !
Khi chúng ta không còn bị buồn nôn trước cái ác, không còn bị lợm giọng trước cái bạo, không còn bị dị ứng trước cái tà, thì cả ba thể lực, tâm lực, trí lực đang bị tiêu diệt bởi đám ký sinh trùng này. Nhân kiếp của chúng ta sẽ là một nhân nạn, đó là thể lực của người nhìn mà không thấy, tâm lực của người vô cảm vì vô giác, trí lực của người vô minh vì vô luận. Nếu cả ba : sinh mạng, tâm hồn, trí tuệ mà bị điếm thể hóa bởi vô cảm, vô giác, vô minh, vô tri, vô luận, thì kiến thức của chúng ta đã bị siết ngộp, để rồi tư tưởng chóng chầy sẽ bị chôn sống bởi các ác, cái bạo, cái tà rồi ! Tiếp tục đi trên nhân lộ của học thuật, với các bước chân cẩn trọng, thấy để thấu và xem để xét, luôn biết biến hóa hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) bằng tư tưởng, để luôn được tỉnh thức !
Hành luận của chủ thể dân chủ :
Câu chuyện "có đối thủ nhưng không có đối thù" là câu chuyện có gốc của văn minh dân chủ, có nguồn của văn hiến nhân quyền, câu chuyện này hoàn toàn ngược lại với phản xạ thanh trừng trị, phản ứng thanh lọc trị, phản thùng bằng thanh toán trị của các chế độ dựa vào bạo quyền độc đảng toàn trị. Muốn thấy cho thấu câu chuyện "có đối thủ nhưng không có đối thù" thì nên bắt đầu bằng sự thông hiểu ngay trên ngữ vựng của dân chủ là không có đối thù, và ngữ văn của đa nguyên là không có tử thù.
Vì ngữ pháp của nhân quyền xem sinh hoạt chính trị là sinh hoạt của hợp tác qua cạnh tranh trên nền tảng các giá trị của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái), tại đây không ai xem ai là kẻ thù không đội trời chung ! (không ai là lực lượng thù địch của ai cả !). Tại đây, thì chính trị học về đa nguyên, triết học về nhân quyền, xã hội học về dân chủ cùng nhau thống nhất trên một định đề để làm nên định nghĩa cho mọi hành động, mọi hành tác trong chính trường mà mọi chính khách cùng tất cả chính giới phải tuân thủ, nơi mà sinh hoạt chính trị trong một cơ chế dân chủ là sinh hoạt trong đó :
- Có ứng cử, tuyển cử và bầu cử và bên thắng cử đã thắng một hay nhiều đối phương, rồi được đề cử để thực hiện chương trình cùng phương án của mình. Cùng lúc bên thắng cử phải tôn trọng bên thua cử, giờ đã trở thành đối lập ngay trong chính trường với một vai trò đối kháng mới. Từ đối lý tới đối luận, bên đối lập có thực quyền để tạo đối kháng ngay trên chương trình cùng phương án của bên thắng cử đang trở thành chính sách, và nếu được lập pháp chấp nhận sẽ mang chính danh của quốc sách.
- Bên thắng cử có đa số, bên thua cử là thiểu số, trong cơ chế dân chủ thì thiểu số phục tùng đa số, nhưng đây chỉ là nguyên tắc làm nên từ văn minh của dân chủ. Mà trong thực tế khi vận hành các cơ chế dân chủ, thì các chủ thể dân chủ phải tôn trọng một nguyên tắc ứng dụng, mà tên gọi của nó rất cụ thể : kỷ luật tập thể.
- Nội chất văn minh của kỷ luật tập thể, dựa trên quá trình giáo dục để đào tạo các chủ thể dân chủ, có bổn phận bảo vệ dân chủ, có trách nhiệm bảo trì nhân quyền, có sứ mệnh bảo đảm đa nguyên.
Các chủ thể dân chủ này sinh hoạt và hành tác trong các định chế, và cơ chế trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau :
- Sung lực của tinh thần tôn trọng lẫn nhau chính là sự thông minh biết tôn trọng lẫn nhau, sự thông minh này được thấy qua đối thoại thường xuyên giữa đa số thắng cử và thiểu số thua cử. Nơi đây, kẻ thắng biết lắng nghe để hiểu thấu cái lý của kẻ thua, cũng tại nơi đây kẻ thua phải hiểu rõ cái lý của kẻ thắng sẽ thành luận sách để rồi sẽ trở thành chính sách, rồi quốc sách.
- Trên nhân tri của sự thông minh biết tôn trọng lẫn nhau là thiện chí đối thoại với nhau, dù trong đối thoại chỉ là lý đối lý và luận đối luận, tạo ra các nghịch lý cùng nghịch luận. Và xã hội dân sự của các chế độ dân chủ luôn được trưởng thành bằng những nghịch lý và nghịch luận tới từ chính trường, chính giới, chính khách.
- Khi phương trình hành tác dân chủ được định hình : thiểu số phục tùng đa số- kỷ luật tập thể- tinh thần tôn trọng lẫn nhau- sự thông minh biết tôn trọng lẫn nhau-đối thoại để đối lý và đối luận, thì đây chính là định nghĩa để định diện và định dạng các chủ thể dân chủ. Sự sống còn của văn minh dân chủ luôn song hành cùng văn hiến của nhân quyền tùy thuộc vào các chủ thể dân chủ lấy dân- làm-chủ vì biết có dân chủ-là-dân qua ứng cử, tuyển cử, bầu cử.
Sẽ không có dân chủ nếu không có quá trình giáo dục để đào tạo ra các chủ thể dân chủ, và khi các chủ thể dân chủ này ra đời và trưởng thành trong xã hội dân chủ thì bạo quyền độc đảng toàn trị sẽ đột quỵ, thì tà quyền độc đảng ngu dân trị sẽ đột tử, thì quỷ quyền độc đảng công an trị sẽ đột tan, thì ma quyền độc đảng tuyên truyền trị sẽ đột tiêu…
Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức)
Hãy ý thức về một chiến thắng của người trí thức là một chiến thắng vì đồng bào và vì đồng loại, khi người trí thức đã biết vận dụng tri thức để giảng dạy cho những kẻ ác đã gieo sợ hãi bằng chính tội ác của chúng lên chính nhân kiếp của đồng bào, của đồng loại, rằng bây giờ tới lượt của chúng cũng phải biết sợ hãi ngay trong não bộ của chúng ! Vì kiến thức của người trí thức ngày này sang ngày kia sẽ trở thành ý thức của dân tộc, tháng này sang tháng kia sẽ hình thành nhận thức của xã hội, từ đó tạo ra một nhân tri mới làm nền cho nhân quyền là : kẻ ác sẽ bị tiêu diệt bởi chính cái ác của nó ! Hãy lần lượt trả lời các câu hỏi của hệ thức này : Nhân quyền là gì ? Nhân quyền có hay không ? Và có từ bao giờ ? Nhân quyền có ngay từ khi con người có nhận thức mình là một sinh vật sinh hoạt qua ngôn ngữ, vận dụng ngôn ngữ để nói được những gì mình muốn nói từ tư duy của mình, rộng và cao hơn nữa là nói lên những gì mình mong muốn ngay trên điều kiện làm người của mình.
Chính trị là gì ? Chính trị là gì trong sinh hoạt chính giới có cội là văn hiến nhân quyền, có gốc là văn minh dân chủ ? Tôi xin trả lời : đó là sinh hoạt của chính tri : tuyệt đối cấm tiêu diệt đối phương trong đa nguyên ! Tại đây, không được coi là chính trị tất các những sinh hoạt xem đối phương là đối thủ, rồi biến đối thủ thành đối thù. Để kết cuộc là biến đối thù thành tử thù trong phản ứng thanh toán nhau, trong phản xạ thanh toán nhau mà ta đang thấy trong sinh hoạt của bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay tại Việt Nam.
Cách mạng là gì ? Xin được trả lời : đó là công cuộc thay đời đổi kiếp theo hướng thăng hoa về chân trời văn minh của dân chủ biết "sống còn" cùng văn hiến của nhân quyền. Mọi toan tính cướp chính quyền, để mượn danh hiệu "làm cách mạng", để sau đó biến cướp quyền thành độc quyền, để lạm quyền, rồi cực quyền. Mà kết cuộc là cuồng quyền trong mê loạn của đảng trị, thì đây không phải là cách mạng, mà còn ngược lại chính đây là phản cách mạng : dùng độc đảng để xây độc trị, dựng độc tài, tạo độc tôn. Quá trình cướp, đoạt, giành, giật quyền lực này mang bản chất thất nhân bất đức, vì cách mạng chính thống là xây nhân dựng đức, xây nhân đạo để dựng nhân đức.
Từ đây, nhân tri thỉnh cầu nhân đạo để nhân trí yêu cầu nhân đức phải vô cùng cảnh giác trước hai loại cách mạng rất khác nhau về bản chất cùng như về sự vận hành của chúng :
- Cách mạng vì công bằng, thí dụ cụ thể là cách mạng Pháp 1789, trong bối cảnh của một quốc gia không có nội chiến, không bị bao vây bởi thế chiến, trong một xã hội có công nghiệp lẫn nông nghiệp được trợ lực bởi khoa học và kỹ thuật. Nhưng sự bất bình đẳng về cách điều kiện làm người song hành cùng các bất công liên tục tạo ra các khoảng cách giữa các thành phần xã hội. Từ đây bất bình đẳng cùng bất công đã tạo ra nhận thức là con người không thể sống bất nhân với nhau, và cách mạng là nhận thức về công bằng để tạo ra một công lý nơi mà con người được sống nhân của nghĩa để làm nên đạo của nhân.
- Cách mạng vì ý thức hệ, đó là nội chất của các cuộc cách mạng trong thế kỷ XX vừa qua, nó mạo danh cách mạng, nó biết dựa vào bối cảnh của hai cuộc thế chiến. Loại cách mạng này còn biết mỵ dân bằng tuyên truyền chống bất công, bằng cách lén lút hay công khai đưa vào số phận một dân tộc, một châu lục : một ý thức hệ ngoại lai, đó là ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa, mà Việt tộc hiện nay vẫn còn đeo đẳng thảm kiếp này ngay trong nhân sinh của mình.
- Cách mạng vì công bằng mang những hậu quả của bạo động xã hội tới từ hai phái chính quyền bảo lưu đặc quyền của giai cấp thống trị, và sau cuộc thắng thua thì dân chủ sẽ là trọng tài để nhân quyền được bảo vệ trong khung của nhân phẩm : sống để được làm người trong điều kiện của nhân vị, nhân bản, nhân tính, nhân lý. Ngược lại cách mạng vì ý thức hệ là một quá trình bạo động của chính quyền dai dẳng trong bạo quyền độc đảng toàn trị, truyền miên trong cực quyền độc đảng công an trị, thường trực trong quỷ quyền độc đảng thanh trừng trị. Nơi mà, cái bạo cộng với cái cực được nhân lên bởi cái quỷ, luôn tạo ra cái tà tới từ cuồng quyền độc đảng ngu dân trị, và lạm quyền độc đảng tuyên truyền trị.
Từ bản chất tới nội dung là cách mạng vì công bằng, khi thiết lập xong giá trị của công bằng bằng hai giá trị khác của cộng hòa là tự do và bác ái, thì chế độ dân chủ ra đời bằng cơ chế của tam quyền phân lập. Nơi có chính quyền là hành pháp được bổ nhiệm bởi lập pháp qua quốc hội, nhưng hành pháp phải hành động và hành tác trong khung của tư pháp, đại diện cho luân lý và đạo lý của hệ công (công bằng, công lý, công luật, công pháp, công ích) có gốc, rễ, cội, nguồn của công tâm.
Từ gian manh tới gian trá của cách mạng vì ý thức hệ là nó mạo danh cách mạng để cướp chính quyền, mà sau khi cướp được chính quyền rồi, thì nó mạo diện của hành pháp, mạo dạng của lập pháp, mạo tướng của tư pháp, để buôn gian bán lận tới tận xương tủy của tam quyền phân lập. Khi cái mạo làm nên cái giả, để cái giả tạo ra cái gian, dựng lên cái xảo, xây lên cái lận, thì độc đảng toàn trị không trao trả quyền lực lại cho xã hội dân sự đã bị nó lợi dụng và lạm dung đấu tranh.
Hệ công (công ích, công bằng, công lý, công tâm, công pháp, công luật)
Nhân lộ tương lai của Việt tộc khởi hành bằng khởi điểm của hệ công, nơi mà công ích xã hội sẽ làm nên chính nghĩa cho một chính quyền, sẽ làm nên chính danh cho một chính phủ. Nơi mà lập pháp, hành pháp, tư pháp đều có một điểm hẹn là công bằng, có một điểm tới là công lý, vì có một chân trời chung là công tâm. Tất cả sẽ được hội tụ chung quanh công pháp, chính là gốc, rễ, cội, nguồn của công luật để chế tác ra hiến pháp, để hiến pháp điều khiển và điều chế luật pháp.
Liên kết làm nên liên minh của hệ công (công ích, công bằng, công lý, công tâm, công pháp, công luật) chính là nội công của mọi chiến công của hệ công, khi khởi hành chỉ là một mạch nước ngầm nhưng ngày ngày, tháng tháng, năm năm sẽ thay thân chuyển lực để biến thành trận đại hồng thủy mà không một thành lũy nào của bạo quyền độc đảng công an trị có thể đứng vững được ! Đây là nhân lý của nhân quyền, nhân trí của nhân tâm, nhân tri của nhân bản, nhân vị của nhân nghĩa mà không một tà quyền độc đảng tham nhũng trị nào có thể đánh tráo được khái niệm về chân lý của hệ công này !
Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri)
Người lương thiện lấy cái sạch để làm cái sáng từ đó nêu rõ nhân cách của mình trong quan hệ xã hội, cái sạch lương thiện còn biết làm sạch sinh hoạt xã hội, cái sáng của lương thiện còn biết sáng tỏ đời sống xã hội. Nếu công dân thấy-để-thấu được sức mạnh của lương thiện, thì sự lương thiện hiện diện trong nhân tâm, nhân từ để làm chỗ dựa cho nhân lý, nhân tính, với tên gọi là : lương tâm !
Khi lương tâm được nhân bản và nhân vị thừa nhận là đường đi nẻo về của nhân đạo để bảo vệ nhân nghĩa, thì lương tâm được xem-để-xét như là một giá trị vừa của đạo lý, vừa của xã hội. Và giá trị này đã có mặt trong các hệ thống giá trị của tổ tiên, của giống nòi của dân tộc, với tên gọi là : giáo lý, được hiện diện ngay trong hệ thống giáo dục của một quốc gia từ dưới lên trên, từ tiểu học tới đại học.
Cốt của lương thiện, lõi của lương tâm giờ đã tạo ra lương tri : tri thức của lương thiện và lương tâm, luôn hiện hữu trong giáo dục gia đình, giáo dục học đường, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục xã hội… Nên khi bạo quyền độc đảng công an trị khi nó truy cùng diệt tận các tù nhân lương tâm, thì nó là loại bất lương. Nên khi tà quyền độc đảng tham nhũng trị sử dụng mưu hèn kế bẩn để diệt các đứa con tin yêu của Việt tộc thì nó là loại bất nhân.
Nên khi quỷ quyền độc đảng toàn trị vận dụng phương châm giữ đảng hơn giữ nước trước Tàu tặc thì nó đi từ bất lương tới bất nhân, cụ thể là nó đang đi tà lộ từ vong quốc tới vong thân. Trên tà lộ này, khi nó thanh trừng lương thiện, thanh toán lương tâm để thủ tiêu lương tri để chôn lấp hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) chính nó đang chôn sống nó trong vong bản vô lương !
Hệ liêm (liêm khiết-liêm chính-liêm sỉ-liêm minh)
Sạch bắt đầu trong không gian của nhân bản bằng sự trong sạch, trong không gian của nhân phẩm bằng sự trong sáng làm nên từ hệ liêm, với liêm khiết biết làm nên liêm chính để dựng lên liêm sỉ ngay trong nhân tính của mỗi cá nhân. Từ đây, chúng ta yêu cầu và đòi hỏi công pháp của xã hội và công luật của chế độ phải liêm minh.
Liên hợp liêm khiết-liêm chính-liêm sỉ-liêm minh chính là những tinh chất làm nên nhân cách thấy được qua nhân dạng, cảm nhận được qua nhân diện (trông mặt bắt hình dong). Liên hợp liêm khiết-liêm chính- liêm sỉ-liêm minh tạo ra liên minh của hệ nhân, từ nội dung (nhân bản, nhân phẩm, nhân tính) tới hình thức của hệ nhân (nhân diện, nhân dạng, nhân cách).
Trong một quốc gia thì hệ liêm là một hùng lực của xã hội dân sự biết yêu cầu, biết đòi hỏi để bắt buộc một chính quyền phải liêm khiết, một chính phủ phải liêm chính, một chế độ phải liêm sỉ, một pháp quyền phải liêm minh. Bạo quyền độc đảng công an trị không liêm khiết, tà quyền độc đảng tham nhũng trị không liêm chính, ma quyền độc đảng tham tiền trị không liêm sỉ, quỷ quyền độc đảng tham trừng trị không liêm minh.
Nhưng chính liên hợp liêm khiết-liêm chính-liêm sỉ-liêm minh sẽ chế tác ra liêm lực để xóa bạo quyền, tẩy tà quyền, vùi ma quyền, chôn quỷ quyền. Liêm lực có trong mỗi con dân Việt, vì hệ liêm có trong luân lý tổ tiên Việt, có trong giáo lý giống nòi Việt, có trong đạo lý dân tộc Việt.
Hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự lập)
Khi con người đi tìm sự thật về bất công, để thấy cho thấu gốc, rễ, cội, nguồn của sự bất nhân, từ đây con người tự phải giải phóng nhân kiếp của mình bằng hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự lập). Khi con người hét lên “bất công quá !”, khi con người thét lên “bất nhân quá !”, rồi gào lên “thất đức quá !” thì con người phải tự xây dựng phạm trù tự do để không sa lầy vào các câu chuyện bất nhân thất đức này.
Tự do là sung lực của giải phóng, thoát bất công để đi tới công bằng mà xây dựng bác ái, làm nên giá trị của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái). Tự do còn đi xa hơn để nhận ra nhân vị, nhân bản, đi rộng hơn để tìm cho ra nhân tri, nhân trí, đi sâu hơn để thấy được nhân tâm, nhân từ, đi cao hơn để tiếp nhận nhân đạo, nhân nghĩa.
Tự do biết đi cao, sâu, xa, rộng bằng nhân quyền, đây là sự tương tác hữu cơ và sống còn ngay trong nhân kiếp : không có tự do nếu không có nhân quyền, không có nhân quyền thì tự do bị đe dọa ngay trong trứng nước. Nhưng tự do có khởi điểm là tự chủ, để khởi hành bằng tự tin, tự chủ bằng nhân quyền, tự tin bằng giáo lý của tổ tiên, bằng luân lý của giống nòi, bằng đạo đức của dân tộc.
Vì vậy, Việt tộc luôn biết tự lập từ hơn bốn ngàn năm nay. Bạo quyền độc đảng công an trị luôn truy cùng diệt tận các hành tác của tự do ; tà quyền độc đảng thanh trừng trị luôn tìm cách thanh toán các hành động tự chủ của dân tộc ; ma quyền độc đảng tham nhũng trị luôn tìm cách bẩn thỉu hóa lòng tự tin của công dân ; quỷ quyền độc đảng ngu dân trị luôn tìm cách vô tri hóa lực tự lập của giống nòi. Hãy cùng nhau bảo vệ hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự lập) như bảo vệ chính nhân phẩm của mình !
Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái)
Thông minh để bảo đảm nhân tri, thông thạo để bảo hành nhân kiếp, thông thái để bảo quản nhân quyền, liên hợp của hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) chính là liên hiệp giữa nhân tri và nhân trí, nhân kiếp và nhân đạo, nhân quyền và nhân phẩm, tất cả biết làm nên nhân bản vì nhân văn.
Ngay thượng nguồn của nhân sinh, thì nhân loại đã biết sử dụng sự thông minh của chính mình để sinh tồn trong thiên nhiên, vận dụng sự thông thạo trong kỹ năng của mình để tồn tại trong môi sinh, một nhân loại luôn biết tận dụng sự thông thái của chính mình để vượt thoát rồi vượt thắng mọi trở lực đe dọa sự tồn vong của nhân thế.
Trong thông minh có sáng tạo, trong thông thạo có kỹ năng, trong thông thái có minh triết, tất cả làm nên tầm vóc của một dân tộc, của một quốc gia, của một giống nòi, mà hàng xóm cùng nôi tam giáo đồng nguyên của Việt tộc đã thành công : Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Thành công nhờ thông lý qua học tập, nhờ thông luận qua ứng dụng từ khoa học tới kỹ thuật, từ kinh tế tới thương mại, từ văn hóa tới giáo dục…
Thành công này tạo ra thành đạt kia trên ngay trong tổ chức xã hội ; thành đạt này tạo ra thành tựu kia ngay trong quan hệ quốc tế ; thành tựu này tạo ra thành quả kia để thăng hoa đất nước, dân tộc, giống nòi. Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái) là anh cả có em út là hệ thành (thành công, thành đạt, thành tựu, thành quả) trong một gia đình có hậu.
Nhưng đối với Việt tộc hiện nay, thì các gia tộc Việt trước hết phải sinh ra được đứa con cả đầu lòng là hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái. Và đứa con cả này phải có nội công của thông minh để quật đổ bạo quyền độc đảng công an trị, có bản lĩnh của thông thạo để quật sập tà quyền độc đảng ngu dân trị, có tầm vóc của thông thái để quật ngã quỷ quyền tuyên truyền trị. Nếu đứa con cả này không có nội công của thông minh, không có bản lĩnh của thông thạo, không có tầm vóc của thông thái, thì nó sẽ không bao giờ có em út, và gia đình này sẽ từ độc tôn vô tích sự đi dần tới độc lộ vô hậu sự !
Hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo)
Khi mọi công dân Việt trở thành chủ thể Việt, biết nhận bổn phận với tổ quốc, trách nhiệm với dân tộc và sứ mệnh với giống nòi, vì biết bảo vệ các giá trị của cộng hòa là tự do, công bằng, bác ái, thì chính chủ thể sẽ tận dụng nhân quyền để bảo hành dân chủ.
Nhưng chủ thể chỉ là chủ thể khi chủ thể có sáng kiến trong quan hệ xã hội, có sáng chế trong sinh hoạt xã hội, có sáng lập trong phong trào xã hội, và có sáng tạo để thay đổi tổ chức xã hội, từ đó mà thăng hoa chính xã hội mà mình đang sinh sống. Sáng tạo không ngừng ở cách hình thái nghệ thuật (âm nhạc, hội họa, thi ca, văn chương…) mà sáng tạo trên mọi không gian và thời gian của nhân kiếp.
Cụ thể là sáng tạo để làm chủ, chớ không phải để làm tớ, làm chủ thể chớ không làm nạn nhân, sống để quản trị nhân quyền chớ không phải để bị trị bởi bạo quyền độc đảng toàn trị. Ngay trên thượng nguồn, thì chủ thể đã sáng lý vì đã hiểu các giá trị của nhân tri về tự do, để từ đó mà hành động bằng sáng luận về bổn phận, trách nhiệm, sứ mệnh của chủ thể luôn song hành cùng tự do của tự chủ, tự chủ của tự lập, tự lập vì tự tin. Hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) từ sáng lý tới sáng luận là nhân lộ của văn minh dân chủ, luôn được dìu dắt bởi văn hiến của nhân quyền.
Chính hệ sáng này có được chiều cao của văn minh vì dân chủ vì biết dựa lên chiều dày của văn hiến vì nhân quyền, cả hai làm nên nội lực của chủ thể. Nội lực này sẽ chuyển hóa thành sung lực của chủ thể trong xã hội dân sự để đấu tranh vì công bằng xã hội ; và sung lực này sẽ trở thành hùng lực của chủ thể trong phong trào xã hội sẽ dấn thân vì đồng bào, vì đồng loại.
Chuyển hóa nội lực của sáng kiến thành sung lực của sáng lập, thành hùng lực của sáng tạo sẽ làm nên chủ lực để đối lực với bạo quyền độc đảng công an trị, tà quyền độc đảng ngu dân trị, ma quyền độc đảng tuyên truyền trị, quỷ quyền độc đảng thành trừng trị… Nói gần nói xa không qua nói thật là chủ lực của hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập, sáng tạo) sẽ thay hình đổi dạng để trở thành một mãnh lực, mà không một độc đảng toàn trị nào có thể đứng vững trước đợt sóng thần như vũ bão này !
Hệ đa (đa nguyên, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu)
Nhân loại tồn tại bằng đa nguyên, biết trợ lực cho nhân sinh có tầm nhìn đa chiều, nơi mà nhân thế luôn đa dạng, nơi hội tụ tới từ đa phương tạo nên đa lực, có đa tài để thăng hoa dân tộc, có đa trí để bảo vệ giống nòi, có đa năng để phát triển đất nước, có đa hiệu vì tiến bộ của xã hội. Khi thấy hình thức của hệ đa (đa chiều, đa dạng, đa phương), thì phải thấu nội dung của hệ đa (đa nguyên, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu). Thấy hình thức để thấu nội dung thì phải xem hình thức để xét nội dung, nơi mà đa nguyên luôn đa trí hơn độc quyền, nơi mà đa đảng luôn đa tài hơn độc đảng, nơi mà đa nguyên luôn đa năng hơn độc tôn, nơi mà đa đảng luôn đa hiệu hơn độc trị.
Thấy-để-thấu, xem-để-xét, mà còn phải thông hiểu từ thông lý tới thông luận để công nhận rằng hệ đa (đa nguyên, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu) là chiều cao của một văn minh vì dân chủ, luôn biết dựa trên nền của một chiều dày là văn hiến vì nhân quyền. Mà đa nguyên còn là sự vận hành của dân chủ trước bạo quyền độc đảng công an trị, còn là hành tác của nhân quyền trước tà quyền độc đảng ngu dân trị, đã sinh con đẻ cái ra : tham nhũng trị, thanh trừng trị, tuyên truyền trị…
Chính đa nguyên có nội lực của đa tài, có sung lực của đa trí, có hùng lực của đa năng, tất cả tạo nên mãnh lực của đa hiệu để đối diện với cực quyền độc đảng trị, để trực diện với cuồng quyền độc tài trị ! Cũng chính hệ đa (đa nguyên, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu) đang âm ỉ trong nội lực của xã hội dân sự sẽ vương mình đứng lên thành phong trào xã hội biết dấn thân, biết đấu tranh vì các giá trị của cộng hòa : tự do, công bằng, bác ái để đạp đổ mọi nhà tù của hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc trị, độc tôn) ! Chỉ vì hệ đa không chấp nhận “đội trời chung” với hệ độc !
Nhân lý dân chủ có sức thuyết phục của dân chủ là biết dựa trên quy luật cùng-nhau-để-có-nhau, không ai được diệt ai và không ai được bỏ ai, chuyện cốc mò cò ăn trong các giai đoạn lịch sử người bóc lột người phải chấm dứt càng sớm càng hay. Nhất là chuyện kẻ ăn ốc người đổ vỏ trong thảm trạng của xã hội Việt Nam hiện nay nơi mà tham quyền sinh đôi cùng tham nhũng để bòn rút của cải dân tộc, nạo vét tài nguyên của đất nước thì phải được xóa bỏ sớm ngày nào hay ngày nấy !
Chủ thể của nhân lý dân chủ không những biết mở lối cho hệ nhân (nơi mà nhân lý, nhân tri, nhân trí biết đưa đường dẫn lối cho nhân tình, nhân thế, nhân sinh, nhân loại để bảo vệ nhân đạo, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn) mà chủ thể của nhân lý dân chủ còn khai sáng hệ thức (nơi mà kiến thức làm nền cho tri thức để chế tác ra trí thức, trong một dân tộc có ý thức, trong một xã hội có nhận thức tới từ nhân lý dân chủ). Chính hệ nhân khi được trợ lực bởi hệ thức, giúp chủ thể của nhân lý dân chủ đủ vai vóc để nhận các thử thách thời cuộc, hiểu các xung đột xã hội, thấu các mâu thuẫn trong nhân sinh và tìm cách vượt qua các khó khăn, vượt thoát các trở lực, và vượt thắng các trở ngại trong các thế kỷ qua, mà luôn bảo vệ được nhân tính trong nhân lý, đây là sức mạnh của dân chủ.
Chủ thể của nhân lý dân chủ mở lối đúng cho nhân loại vì nó tính toán trúng cho nhân sinh, với đáp số ít tồi tệ nhất cho nhân thế, vì trên thượng nguồn nó biết vượt thoát các trở lực tới từ thượng đế, thần linh, mê tín, dị đoan, rồi nó vượt thắng luôn các bạo quyền, tà quyền không lấy nhân làm lý, mà chỉ lấy quyền để trục lợi. Song song với quy luật sáng sủa trò chơi-sân chơi-luật chơi của dân chủ qua đầu phiếu (thực) qua bầu cử (thật), dân chủ còn có một nội lực qua hệ năng (tại đây khả năng được đào tạo để trở thành kỹ năng, chế tác ra tài năng) làm nguyên khí cho quốc gia. Chuyện kéo bè lập đảng để đánh lận con đen qua hệ tham (tham quan sinh ra tham ô, đẻ ra tham nhũng, để nuôi quái thai tham quyền) sẽ bị kết án bởi tư pháp thật sự dân chủ, để rồi bị kết tội bằng các hằng số luân lý của hệ liêm (nơi mà liêm khiết trong phong cách làm nên liêm chính trong nhân cách để bảo vệ liêm sỉ cho tư cách).
Trước khi có dân chủ, tôn giáo cũng đề ra quy luật cùng-nhau-để-có-nhau, nhưng qua sự tổ chức và dưới quyền điều hành của một đấng thiêng liêng là thượng đế, khai sinh ra vạn vật, khai sáng cho muôn loài. Trong quá trình hình thành dân chủ, từ cổ sử Hy Lạp tới tận thế kỷ XX, dân chủ là ý nguyện đã biến thành ý lực để tách chính trị ra khỏi tôn giáo.
Chưa hết, nó kiểm soát chính giới ngay trong sinh hoạt chính trị, nơi đây chính trị gia phải là các công dân gương mẫu. Nếu chính trị gia rơi vào tham ô, tham nhũng thì chóng chày sẽ rơi vào tay của tư pháp đại diện cho công pháp, được trợ lực bởi công lý để đưa các chính trị gia tham ô, tham nhũng vào vòng lao lý. Không phải như hiện trạng độc đảng hiện nay của Việt Nam, nếu là đảng viên thì thoát được công pháp, nếu là lãnh đạo thì thoát được công lý, và tham ô, tham nhũng vẫn thoát được lao lý.
Chủ thể của nhân lý dân chủ mở lối cho nhân tri, trên con đường với bao chướng ngại vật tới từ nhiều bọn xấu trong lãnh đạo, vì chúng là bọn đầu nậu không những trong chính trị mà cả trong kinh tế, không những trong quân đội mà cả trong công an, không những trong giáo dục mà cả trong văn hóa… Không gian dân chủ không hề là mưa thuận gió hoà, thời gian dân chủ không hề là thuận buồm xuôi gió, không gian và thời gian của dân chủ thường có những mùa biển động, nên các chính quyền dân chủ chấp nhận đầu sóng ngọn gió, các chính khách dân chủ chấp nhận vì có khả năng đứng mũi chịu sào cho dân tộc và đất nước. Vì họ được đào tạo thật qua học thật-thi thật- bằng thật, với học vị thật, qua học hàm thật vì họ có học lực thật, không như hiện trạng quái thai độc đảng tại Việt Nam, cho ra đời học giả-thi giả-bằng giả để âm binh thành quan chức qua mua bằng-bán cấp, rồi tức khắc nhập vào ma đạo của mua chức-bán quyền.
Nhân lý đẹp trong dân chủ tốt còn là định vị của hiện tại đang nhìn thẳng về tương lai để thấy được các chân trời đẹp và các viễn ảnh tốt cho nhân trí và nhân sinh, cho nhân bản và nhân phẩm, để ngày mai phải khác hơn vì đẹp hơn, tốt hơn hôm nay ; nó chống lại ngưng đọng của độc tôn vì độc quyền, nó ngược lại cái ao tù của độc tài vì độc đảng. Dân chủ tìm nhiều chân trời để được chọn lựa, nó không để hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) làm nên nhiều độc hại là chỉ nhìn về một hướng để chỉ thấy một chiều.
Sung lực của dân chủ còn là nơi mà cá nhân có cá tính làm nên cá thể qua sáng kiến, để xây dựng nên chủ thể qua sáng tạo ; và chủ thể dân chủ sáng tạo này khi làm ra vốn liếng mới, sản phẩm mới, truyền thông mới, mạng xã hội mới… tức là ra tiền của mới, năng suất mới, tiềm năng mới, đạo lý mới… cho xã hội và nhân loại, thì chủ thể dân chủ sáng tạo này có thế (vì có lực và có vị) làm thay đổi không những cơ chế mà cả luật pháp, không những định chế mà cả chính quyền. Đây là bản lai diện mục của chủ thể của dân chủ trực tiếp.
Chủ thể của dân chủ trực tiếp có nhân lý trực quan trong dân chủ trực diện là nơi mà người dân không còn chịu cảnh cúi đầu-còng tay-siết cổ vào các đồn công an để bị tra tấn, giết chóc như hiện nay tại Việt Nam, mà họ có thể cầm trên tay phải hiến pháp như công pháp để bảo vệ họ, và cầm trên tay trái điện thoại di động thông minh biết thu âm, nhận ảnh để các sự kiện phải là sự cố, để các dữ kiện phải là chứng từ giúp luật pháp bảo vệ quyền công dân của họ. Luật an ninh mạng của tà quyền độc đảng toàn trị chính là loài quái thai trước hai hiện thể của thế giới văn minh hiện nay : chủ thể dân chủ sáng tạo và chủ thể truyền thông toàn cầu. Nơi mà sự thật từ tin tức tới truyền thông được trực tiếp mô tả, phân tích, giải thích trên nền tản của chân lý và lẽ phải được đạo lý và pháp lý bảo vệ.
Chủ thể của dân chủ trực tiếp biết cổ vũ cho một nhân lý sáng suốt trong dân chủ tỉnh táo là hành trình của nhân loại đi tìm sự bình an trong công bằng giữa cái bất an trong bất công đã có sẵn trong nhân loại từ bao đời nay, nên chính dân chủ cũng bất an vì các trăn trở chưa (và đang) hoàn thiện của nó ; nó càng đau đáu hơn khi trong một xã hội, một dân tộc, một nhân loại luôn có các thành phần trộm, cắp, cướp, giật quyền lợi của tha nhân để trục lợi cho riêng mình. Chủ thể của dân chủ trực tiếp đi về hướng ánh sáng mới cho nhân lý trong đạo lý, đi về hướng mặt trời cho nhân trí trong công lý cho mọi người, cho mỗi người. Chủ thể của dân chủ trực tiếp luôn đi trên lưng, trên vai, trên đầu những cái vô liêm sỉ tới từ bất tín với tổ tiên, bất trung với dân tộc, bất tài của Đảng cộng sản Việt Nam trước triển vọng phát triển đất nước, tiến bộ xã hội, văn minh dân tộc.
Khi nhận định về các điều kiện bình đẳng để có công bằng tự trên xuống dưới, từ khi ra đời tới khi trưởng thành, Tocqueville lấy cá thể giờ là công dân trong thể chế dân chủ để làm gốc rễ cho tri thức dân chủ, và sau hai thế kỷ con người đã có những bước tiến rõ rệt về tổ chức các nguyên tắc công bằng ngày càng phong phú. Sau các cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật, thông tin, truyền thông, văn hóa, giờ đây là mạng xã hội qua internet nơi mà tin tức, dữ kiện, chứng từ xuất hiện để phản biện, công dân trong phản luận dân chủ, từ đó vai trò đấu tranh dân chủ vì công bằng và tự do luôn được thay đổi theo hướng đi lên ; mà các chuyên gia về các thể chế dân chủ gọi tên nó là sự khủng hoảng tăng trưởng. Tại đây xuất hiện hai dữ kiện mới của dân chủ :
- Xã hội dân sự đối diện để đối chất với chính quyền dân chủ do dân bầu ra, tức là bầu rồi, thắng cử rồi nhưng vẫn phải chịu hệ kiểm (kiểm soát, kiểm tra, kiểm toán…) trong mọi công trình, trong mọi chính sách, trong mọi phương án từ hiện tại tới tương lai.
- Dân chủ của những bản sắc trực diện để trực tiếp đòi hỏi quyền bảo vệ bản sắc trong bối cảnh toàn cầu hóa, nơi mà bản sắc của thiểu số luôn bị đe dọa bởi các áp lực kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học, kỹ thuật của các cường quốc.
Sự khủng hoảng tăng trưởng là sự khủng hoảng để trưởng thành, để vững mạnh trong phát triển và vững vàng trong các thử thách khi đối diện với các lực lượng quá khích hoặc cực đoan luôn muốn phá hoại sinh hoạt dân chủ để đưa độc tài vào xóa dân chủ, lấy độc trị để diệt nhân quyền, đưa độc đảng vào triệt tự do. Dân chủ luôn có các địch thủ muốn thủ tiêu nó, luôn có các đối phương muốn xóa bỏ nó, để áp đặt độc tài mà mục đích là chỉ phục vụ cho một người, một đảng, mà quên tiền đồ của tổ tiên, quên quyền lợi của dân tộc, tại đây một thể chế dân chủ muốn sống còn nó phải tự hiện đại hóa nó qua hai phương hướng sau :
- Dân chủ phải luôn đào sâu nội chất đạo lý công bằng-tự do-bác ái của nó, là phục vụ mọi người, tuân thủ đa số mà không quên thiểu số, đạo lý của nó không được bỏ sót ai, không được phân biệt đối xử với bất cứ ai, không được kỳ thị với bất cứ đoàn thể, sắc tộc, tầng lớp xã hội nào.
- Dân chủ phải luôn mở cửa để tiếp nhận mọi tiến bộ của nhân loại từ khoa học tới kỹ thuật, từ thông tin tới truyền thông, từ hợp tác quốc tế tới toàn cầu hoá… tất cả dựa trên nhân quyền để củng cố nhân đạo, tăng cường nhân từ, bảo vệ nhân phẩm.
Chính nội lực dân chủ này làm nên sung lực dân chủ trong hành động của mỗi của chủ thể của dân chủ trực tiếp.
Thể chế dân chủ tạo nên chế độ dân chủ để bảo trì xã hội dân chủ, không phải là một thể chế thuần giống hay thuần chủng, vì nó vượt trên phạm trù thuần hóa để thống trị, chính nghĩa của dân chủ luôn tìm tới sự hợp nhất dựa trên :
- Lưỡng nguyên có đối kháng để phát triển xã hội, để bảo vệ tự do cho công dân, cụ thể là có ít nhất hai đảng, hoặc hai tập thể tạo ra hai cực đối kháng nhau, qua các dự án phát triển đất nước, qua các lộ trình phát huy sức mạnh của một dân tộc. Hai đảng này trực diện để đối diện thường xuyên bằng sức đối kháng của họ, nơi mà họ phải tích cực để tiến bộ qua các chương trình ứng cử, sẽ trở thành quốc sách khi họ thắng cử để nắm chính quyền. Lưỡng nguyên chấp nhận đối kháng mang bản chất của tự do cạnh tranh trên chính trường rất sòng phẳng, nơi luật rừng mạnh được yếu thua được thế bằng luật đúng của đa số thắng thiểu số qua tranh cử.
- Đa nguyên dựa đa tài, nơi mà đa nguyên dựa trên đa đảng, vì có sung lực tạo ra đa tài trong quản lý, đa năng trong sản xuất, đa trí trong cơ chế, đa hiệu trong kinh tế… Đa nguyên chọn đa dạng để chống độc tài, chọn đa chiều để loại độc trị, chọn đa đảng để khử độc đảng. Chính hệ đa này sẽ mở ra nhiều cửa, đưa tới nhiều chân trời làm mới tự do, làm rộng công bằng, làm giàu bác ái. Cũng chính đa nguyên tạo ra nhiều nhận định trong lập pháp, tạo ra nhiều phân tích trong tư pháp, tạo tiền đề cho nhiều phương án trong hành pháp.
Chủ thể dân chủ của đối thoại tạo đa nguyên để chế tác ra sung lực của dân chủ, vì nhờ có đa tài nên chống lại được với thảm họa quá nhiều bất tài hiện nay trong lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đa nguyên dùng đa trí để gạt luôn quá nhiều bất lực, và cũng chính đa nguyên dụng đa hiệu để trừ mọi hậu quả của độc đoán tới từ độc đảng, độc tôn, độc trị, độc quyền. Đa nguyên nói thẳng với sung lực : vắng mợ chợ vẫn đông ! Không có lãnh tụ nào, không có đảng phái nào là tối cần, chính họ tự nghĩ là : không có họ thì nhân loại phải gục ! Dân tộc phải chết ! Trong sinh họa chính trị là không ai là tối cần cả trong một thể chế thật sự dân chủ. Một thể chế thật sự dân chủ cần dân tộc vì cần mọi công dân, cần đất nước vì cần mọi nguyên khí, cần giống nòi vì cần mọi tiềm năng. Sung lực dân chủ là hợp nhất trong đa nguyên, nó không tính chuyện đơn lẻ để xé lẻ, để xài lẻ.
Chủ thể dân chủ của đối thoại phải thấy để thấu quá trình hợp nhất qua lưỡng nguyên thì hai đảng có thể thay nhau mà lãnh đạo, mà nắm chính quyền qua tranh cử, có lúc cùng nhau tổ chức một chính phủ, các quốc gia Âu châu có nhiều kinh nghiệm về hệ chia quyền này, nước Đức là quốc gia có nhiều kinh nghiệm phong phú về quá trình này. Có quá trình hợp nhất qua đa nguyên, nhiều đảng phái, nhiều tập hợp chính trị có thể nắm chính quyền, tổ chức chính phủ cũng qua đầu phiếu, tạo ra một sung lực dân chủ đó là sự thông minh hỗ tương đảng này bổ khuyết cho đảng kia, tập thể này hữu ích cho tập thể kia, hiện nay nước Pháp đang sống kinh nghiệm này để vượt qua lưỡng nguyên (phái tả, phái hữu) với thói quen của các phản xạ kình chống nhau qua biên giới tả-hữu.
Chủ thể dân chủ của đối thoại phải nhận định rõ là sự thông minh hỗ tương, tận dụng đa tài, đa năng, đa trí, đa hiệu tạo ra một sinh hoạt văn minh trong chính trường, cho phép ra đời sự thông minh tôn trọng lẫn nhau. Đó là văn minh qua hỗ tương, qua tôn trọng lẫn nhau, nên loại thông minh này tránh được các cuộc thảm sát của ĐSCVN đã làm, đã truy diệt các đảng đối lập, từ các đảng phái quốc gia tới các đảng thuộc phong trào đệ tứ cộng sản trong những năm 1940-1960. Và cho đến giờ này với độc đảng, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục truy diệt mọi chồi non dân chủ, mọi mầm móng đa nguyên. Đây là thảm họa cho Việt tộc mà thủ phạm chính là Đảng cộng sản Việt Nam đang ám sát mọi thông minh có trong giống nòi Việt, họ diệt đa tài để giữ độc đảng, đây là một trọng tội của Đảng cộng sản Việt Nam trong lịch sử cận đại và hiện đại của Việt Nam.
Chủ thể dân chủ của đối thoại biết tạo những sung lực dân chủ có tầm vóc chính trị, có bản lĩnh định chế, có gân cốt nhân lý được thấy rõ qua ba thực thể pháp lý sau đây của mọi chế độ thực sự có dân chủ :
- Phân ranh giữa chính trị và luật pháp, trong đó chính trị được nắm chính quyền, được lập chính phủ, nhưng chính trị qua chính giới và chính khách cùng với đảng phái của họ không được đứng trên, đứng ngoài, đứng xa pháp luật, mà họ phải ở trong khung pháp luật như mọi công dân, và nếu cần phải chịu bị xử như mọi công dân.
- Hợp nhất giữa chính quyền và quốc gia, trong đó chính quyền đại diện cho quốc gia, từ chính trị tới ngoại giao, từ xã hội tới văn hóa, từ an ninh tới quốc phòng… cùng lúc phải bảo vệ một cách tuyệt đối không những quyền lợi của quốc gia, nhất là sự sinh tồn của dân tộc đã bầu ra chính quyền đó.
- Ưu tiên nhân quyền trong đó dân chủ tận dụng mọi quyền hạn của mình để bảo vệ tự do, công bằng, bác ái vì nhân quyền, với nội dung ngày càng cao về nhân phẩm, nhân đạo ; ngày càng rộng về nhân bản, nhân văn ; ngày càng sâu về nhân từ, nhân nghĩa, ngày càng xa về nhân tri, nhân trí.
Không có ba sung lực : phân ranh giữa chính trị và luật pháp, hợp nhất giữa chính quyền và quốc gia, ưu tiên nhân quyền thì không có thể chế dân chủ nào bền vững. Chính dân chủ đã dùng tất cả sung lực này của mình để tổ chức ra một không gian chính trị dân chủ, trong đó mê tín, dị đoan, thần linh, kể cả thượng đế không còn có mặt trong sân chơi-trò chơi-luật chơi này. Và bản thân sân chơi-trò chơi-luật chơi này phải luôn được hiện đại hóa từ xã hội tới pháp luật, từ văn hóa tới giáo dục, để mở rộng tự do cho công dân, để thăng hoa nhân quyền ; từ đây xuất hiện phạm trù : tự do dân chủ cao hơn tự do của cá nhân, và nó luôn tìm cách đi xa hơn tự do của tập thể, của cộng đồng để tới những giá trị phổ quát của nó được xã hội tiến bộ và thế giới văn minh bảo vệ.
Chủ thể dân chủ của đối thoại chủ động để vận động tự do dân chủ cụ thể là tận dụng ba tự do : tự do đầu phiếu, tự do ứng cử, tự do tranh cử để thay đổi các tự do đã cố hữu như thành lũy trong sinh hoạt văn hóa và xã hội. Cụ thể là khi con người muốn có tự do hôn nhân, thì phải ra luật để bảo đảm quyền hủy hôn nhân, tức là lập ra một quyền mới là được ly hôn, được quyền ly dị. Vì hôn nhân là một thực thể của tự do, thì ly hôn cũng phải là một thực thể ngược lại để cùng song hành với hôn nhân để bảo vệ tự do của mỗi cá nhân, khi thỏa hiệp hôn nhân không còn được một trong hai người hoặc cả hai không đồng ý với thỏa hiệp hôn nhân này nữa. Xa hơn : giữa hôn nhân và ly hôn, còn có người muốn sống chung mà không qua đám cưới, muốn sống thử mà không màng gì tới hôn nhân, thì đây cũng là một tự do mà một xã hội văn minh phải công nhận. Xa hơn nữa, xã hội dân chủ chấp nhận hôn nhân giữa các cá nhân đồng tính, và công nhận quyền có con của các cặp hôn nhân này qua luật pháp.
Chủ thể dân chủ luôn bảo vệ nhân trí vì nhân quyền, đây là một nhân lộ không bao giờ bị ngưng động, vì kiến thức nhân sinh được bồi đắp thường nhật, dân chủ không bao giờ bị cầm tù vỉnh viễn, vì đòi hỏi cho công bằng và tự do luôn được khởi động thường xuyên trong sinh họt xã hội, vì thế nhân trí dân chủ luôn được hoạt kích để thăng hoa trong quan hệ xã hội, nơi mà nhân tri biết trợ lực cho nhân sinh. Nhưng động cơ nào làm nên sức mạnh của chủ thể dân chủ luôn bảo vệ nhân trí vì nhân quyền, tại đây lý luận về dân chủ làm nên các động cơ của các phong trào đấu tranh vì dân chủ :
- Con người làm nên lịch sử của chính con người, nên chính con người phải làm chủ lịch sử của mình qua lý trí, qua trí tuệ, qua tuệ giác của chính mình bằng cách hiểu các quy luật của nhân trí để làm khá lên nhân sinh, làm tốt hơn nhân tình mà mình đang sống, hoặc đang bị chịu đựng.
- Con người có ý thức sẽ làm nên ý lực cho cộng đồng của mình, con người đó với lý trí, trí tuệ, tuệ giác của mình, đã thấy sự thất bại của mọi chế độ công hữu, được cổ suý qua chủ nghĩa xã hội và cộng sản đều thảm bại chỉ vì nó không tôn trọng tự do cá nhân. Mà chính con người cũng thấy chính tự do cá nhân khi biến thành chủ nghĩa ích kỷ, mà quên dân tộc và nhân loại thì tự do ích kỷ này cũng sẽ không có hùng lực để tổ chức xã hội, tức là tổ chức ra sự sống chung có chia sẻ dựa trên công bằng xã hội luôn có mặt trong tự do của cá nhân.
- Con người có nhận thức không cực đoan công hữu, không quá khích tư hữu, nên nhân trí dân chủ tạo ưu tiên cho đa số để giải quyết ba phạm trù thiết yếu của nhân sinh là tự do, công bằng, bác ái, mà vẫn tôn trọng thiểu số, vẫn bảo vệ cá nhân. Đây cũng là lý luận và lập luận của lý trí, trí tuệ, tuệ giác có trong nhân trí, nếu làm mất phương pháp giải luận này, thì sẽ không có thể chế dân chủ.
Khi đã nhận ra ba động cơ trên, chủ thể dân chủ của nhân trí vì nhân quyền phải tiếp tục diễn luận để thấy các thực trạng khác của một thể chế dân chủ. Khi thiết lập một thể chế có ứng cử và tuyển cử để có dân chủ thì phải thấy là một chế độ dân chủ được nuôi dưỡng bằng chính sức mạnh của nó, trong đó nó phải xử lý hai chuyện cùng một lúc :
- Chủ thể dân chủ phải biết xử lý và giải quyết các hành động mỵ dân của bọn chính khách đạo đức giả để được đắc cử, để khi có chính quyền thì chúng sẽ diệt dân chủ, tức là giết tự do, công bằng, bác ái ; sinh hoạt dân chủ luôn bị đe doạ, giăng bẫy bởi bọn mượn đầu heo nấu cháo. Bọn tồi tệ này không hề vắng mặt trong các chế thể dân chủ, cũng như trong lịch sử loài người, chúng không những biết thừa gió để bẻ măng, mà chúng còn biết thừa nước đục để thả câu với sự gian dối phản dân chủ của chúng, chúng sẽ đưa dân tộc chúng tới đại nạn, vì chúng chỉ tính toán cho chúng, theo con tính đục nước thì béo cò, đừng mong chúng kính trọng dân chủ.
- Chủ thể dân chủ phải biết vượt qua sự khác biệt, sự chênh lệch của chương trình ứng cử và khả năng quản lý chính quyền của người, của nhóm, của đảng thắng cử với một chương trình hay và đẹp mà chính quyền quản lý chương trình này lại bất tài, bất lực thì kẻ đó, nhóm, đảng đó sẽ bất tín, bất trung vì chỉ biết hứa hảo, hứa bừa, hứa liều. Đây là bọn nói như rồng leo, mà làm như mèo mửa mà hiện nay, Việt tộc đang phải trả giá rất nặng nề và ác liệt chuyện này của Đảng cộng sản Việt Nam, độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không biết quản trị, độc tôn nhưng không biết tôn trọng cơ đồ của tổ tiên Việt trước thảm họa mất nước tới từ Tàu tặc.
Từ hai thực tế trên như hai trở lực trên, tại đây sức mạnh của một thể chế dân chủ là phải biết tự bảo vệ mình : biết lập thân nhưng cũng biết phòng thân chống bọn thâm, độc, ác, hiểm ; biết tu thân nhưng cũng phải biết thủ thân trước đám xấu, tồi, tục, dở. Chưa hết, một thể chế dân chủ sáng suốt còn có một nội lực biết thay đổi chính quyền, thay thế chính phủ đúng lúc để tránh hậu nạn cho dân tộc, cho quốc gia trước các đột biến mới mà lực lượng lãnh đạo đương nhiệm không gồng gánh nổi, không "kham" nổi, vì họ không có tâm hoặc không có tầm. Một thể chế dân chủ sáng suốt phải luôn có sự tỉnh táo, không để nước tới chân mới nhảy , không để chuyện mất trâu rồi mới xây chuồng xẩy đến.
Lịch sử cận đại và hiện đại của các thể chế dân chủ cho thấy có hai châu lục : Âu châu và Mỹ châu, bị những suy thoái kinh tế sâu rộng, những khủng hoảng thị trường nặng nề, nhưng luôn tự vực mình dậy. Như vậy, bản thân nhân trí dân chủ mang cùng lúc được hai nội chất : biết vượt thoát các thăng trầm, biết vượt thoát các thử thách : biết phục sức và biết hồi sức trước các trở lực. Chủ thể dân chủ của nhân tính vì nhân sinh dấn thân và đấu tranh vì tiến bộ hằng ngày bảo vệ nhân tính vì nhân sinh, khi thể chế dân chủ sử dụng chính pháp quyền của mình, xác nhận và xác chứng ba phạm trù mới của nhân trí :
- Cá nhân đặc thù, nơi đây mọi công dân có quyền lợi và quyền hạn như nhau, nhưng trong mọi công dân còn có các cá nhân với đặc thù riêng, với khả năng riêng thường tìm cách thành tựu trong giáo dục, thành đạt trong nghề nghiệp, thành công trong xã hội, một chế độ thật sự dân chủ thì phải bảo vệ thành quả của cá nhân này. Bảo vệ hệ thành (thành tựu, thành đạt, thành công, thành quả) là phải bảo vệ từ thù lao tới lợi tức, từ tiền của tới tài sản của cá nhân này bằng luật, cụ thể là phải đa dạng hóa hệ thống luật pháp hiện có, tại đây không chỉ có luật hình sự, mà phải có luật lao động, luật thương nghiệp, luật kinh tế, luật bảo vệ tài sản trí tuệ… Tất cả các luật này luôn được hiện đại hóa để bảo vệ ba hệ của cá nhân đó : hệ sáng (sáng kiến sáng tạo, sáng lập) ; hệ minh (thông minh, thông thái, thông thạo) ; hệ thành (thành tựu, thành đạt, thành công, thành quả). Chính quá trình cá nhân hóa trong đặc thù là bản lĩnh đấu tranh vì tự do cá nhân, mà vẫn dựa trên công bằng xã hội của mọi công dân. Tại đây, nó không để vàng thau lẫn lộn giữa các cá nhân tích cực thức khuya dậy sớm, chấp nhận một nắng hai sương, chịu đựng đầu sóng ngọn gió phải ăn cùng mâm ngồi cùng chiếu với đám tiêu cực biếng thây, lười cốt, chỉ biết chờ sung rụng, để được ngồi mát ăn bát vàng. Loại thứ nhì này là ký sinh trùng của dân tộc, chúng ngày ngày ăn bám xã hội, chúng bòn rút tài nguyên của đất nước, đây là thảm kịch của Việt tộc hiện nay, với bọn tham quan ăn trên, ngồi trốc, chúng dựa vào chế độ độc đảng của chúng để làm chuyện cướp ngày là quan, chúng chính là bọn sâu dân, mọt nước, chúng cũng ngày đêm mất ăn, mất ngủ để tiêu diệt các phong trào dân chủ đấu tranh cho công bằng xã hội, cho tự do của đồng bào, vì chúng chỉ muốn tiếp tục đè đầu, cưỡi cổ dân tộc !
- Tập thể đặc sắc, được trưởng thành qua các phong trào đấu tranh chống bất công vì công bằng, có nội công của các nhận thức nhanh nhạy từ luật pháp tới kinh tế, từ giáo dục tới văn hóa, từ thông tin tới truyền thông… làm nên bản lĩnh của tập thể này trong sinh hoạt xã hội, trong hành động chính trị mà không cần phải qua đảng phái, và chỉ qua sáng kiến của xã hội dân sự. Tập thể đặc sắc biết vận động sự thông minh của thời đại để làm nên vai vóc đặc sắc cho tập thể của mình qua hội đoàn, qua tập hợp. Các tập thể đặc sắc có mặt không những trong các sáng kiến về thiện nguyện mà có mặt luôn trong các cuộc ứng cử, bầu cử, tuyển cử, khi chính họ yêu cầu nhà nước pháp quyền phải kiểm tra các hành vi của chính khách, phải kiểm soát các phương án của chính giới, kiểm định các ý đồ của chính phủ. Họ đặc sắc qua cái khác với các chính đảng, họ không cần quyền lợi được ban bố bởi chính quyền, họ không màng tới bổng lộc đã có trong các đảng phái. Vì bản chất hành động chính trị liêm chính của họ, vì một xã hội thượng tôn pháp luật, nên họ vô vụ lợi để thực hiện được những chuyện mà chính quyền chưa có ý thức đúng, chính giới chưa có nhận thức tốt, chính khách chưa có tâm thức lành. Các tập thể này, họ đặc sắc qua hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) của chính họ, và họ biết vạch mặt chỉ tên : bọn đầu cơ chính trị mượn đầu heo nấu cháo, bọn đầu nậu chính thể treo đầu dê, bán thịt chó, bọn đầu sỏ chính giới thừa gió bẻ măng.
- Cộng đồng đặc điểm hiện diện trong văn hóa địa phương, có sắc thái riêng với truyền thống riêng, có di sản riêng với sinh hoạt cộng đồng riêng, với tất cả đặc điểm của vùng miền của chính mình. Nơi mà di tích của tổ tiên có mặt trong các sinh hoạt văn hóa hiện tại, từ nghệ thuật tới lễ hội… với kinh nghiệm riêng, với cách diễn đạt riêng. Nơi mà quá khứ của tổ tiên khi đã thành ký ức của cộng đồng, thì không hề bị lỗi thời trong hiện tại, luôn được tái tạo qua hiện đại hóa các sinh hoạt cộng đồng, vì biết thích ứng với các hoàn cảnh mới, môi trường mới, thực trạng mới. Cộng đồng đặc điểm này biết loại ra để xóa đi các hủ tục ; cùng lúc biết giữ lại các sinh hoạt dân chủ của họ, tức là có ứng cử, có tuyển cử, có bầu cử ngay trong các đơn vị : thôn, làng, huyện, vùng… Họ đủ trí lực và tâm lực để thích ứng với các định chế dân chủ hiện đại nhất qua hệ hiệu (hiệu năng, hiệu quả, hiệu xuất) trong các sinh hoạt cụ thể vì quyền lợi của cộng đồng. Họ biết phát huy các sáng kiến hay, đẹp, tốt, lành để phát huy cộng đồng của họ, qua các sáng kiến các chương trình mới về bảo tồn di sản, bảo vệ môi trường, phát triển du lịch… bằng các sinh hoạt thật sự dân chủ. Chính các cộng đồng đặc điểm này đóng góp rất tích cực cho quá trình toàn cầu hóa hiện nay, vì họ đã làm sáng ra một chân lý : mọi chuyện toàn cầu đều có gốc rễ từ địa phương.
Chủ thể dân chủ của nhân tri vì nhân trí phải thấy để thấu hành động dân chủ của mình, phải xem để xét về hành tác dân chủ của mình, mà không quên đặt ra ba loại câu hỏi, mà các câu trả lời có chính tri trong chính kiến sẽ chủ thể nhận ra đối tượng trong quá trình tranh đấu của chủ thể :
- Ai sợ dân chủ ? Câu trả lời : tà quyền sợ dân chủ !
- Ai thù dân chủ ? Câu trả lời : bạo quyền thù dân chủ !
- Ai muốn diệt dân chủ ? Câu trả lời : quỷ quyền độc đảng toàn trị luôn muốn diệt dân chủ !
Nhưng từ tà quyền tới bạo quyền, làm sao diệt được dân chủ ! Chỉ vì năng lực của dân chủ là tự do không rào cấm, chỉ vì nội lực của dân chủ là công bằng không rào ngăn ; chỉ vì nhân trí dân chủ chính là nhân quyền luôn đi trên lưng, trên vai trên đầu mọi tà quyền, mọi bạo quyền ; chỉ vì nhân trí dân chủ là tổng lực của sự thật-chân lý-lẽ phải để định nghĩa và định vị nhân phẩm.
Hãy xem và xét hai nền móng của nhân trí dân chủ : chỉnh lý dân chủ và chỉnh chu công lý, trong đó đường đi nước bước của một dân tộc, của một xã hội phải được pháp quyền bảo vệ, từ hiến pháp tới luật pháp. Qua hơn hai thế kỷ tồn tại, phát triển và biết vượt qua được các thăng trầm lịch sử, người ta nhận ra nhân trí dân chủ đứng vững nhờ hai gốc rễ :
- Sự thật xã hội : sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội, quan hệ xã hội là tâm điểm cho mọi đấu tranh vì dân chủ để bảo vệ tự do và công bằng.
- Lý tính của luật : được chuẩn lý, chỉnh lý, toàn lý là trung tâm của mọi lý luận để bảo vệ tự do và công bằng cho cá nhân, cho tập thể, cho cộng đồng, cho dân tộc, cho nhân loại.
Chủ thể dân chủ của nhân tri vì nhân trí phải nhận ra hai gốc rễ này để xây dựng dân chủ, và để xử lý hai sinh hoạt rất khác nhau và nếu không có pháp quyền vững, chắc, mạnh hai sinh hoạt này sẽ thường xuyên kình chống và xung đột nhau :
- Tính tất yếu của tự do cạnh tranh là kết quả tự nhiên của cá nhân đã thành công dân có quyền thành công trong xã hội, và dùng công sức của mình để cạnh tranh trong các sinh hoạt kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật… để biến thành công trong lao động ra thành quả tài chính trực tiếp phục vụ cho điều kiện vật chất để mưu cầu hạnh phúc của riêng mình.
- Tính hành pháp của chính quyền, là bảo vệ không những mỗi công dân, mà cả dân tộc, cả đất nước của các công dân này qua chính sách của chính phủ, tức là qua quốc sách của một quốc gia trong đó có an sinh xã hội, có luôn quốc phòng, có luôn các quan hệ quốc tế… các chính sách này rộng hơn tư lợi của một cá nhân, cao hơn quyền lợi của một công dân.
Khi Hegel phân tích về tính chuẩn lý-chỉnh lý-toàn lý của công lý làm ra công luật, thì sự phát triển của dân chủ từ hai thế kỷ qua cho phép ta đi thêm một bước nữa để phân tích sâu hơn quan hệ giữa :
- Chính trị trong đó có chính trường, chính giới, chính khách tìm quyền lực qua đầu phiếu, có chính quyền để thực thi chương trình của mình khi ứng cử không những để bảo vệ quyền lợi của mọi công dân, mà phải đưa đất nước về hướng phát triển, xã hội về hướng văn minh để thăng hoa dân tộc của mình.
- Xã hội trong một thể chế dân chủ, có lao động qua sáng tạo ra sản phẩm và ra các tiện nghi mới, luôn ở thế động : chuyển động và di động vì linh động trong mọi dây chuyền từ sản xuất tới tiêu thụ, có quá trình riêng của nó và thường đi trước, đi nhanh hơn các đạo luật hiện hành, tại đây chính sinh hoạt xã hội đóng vai trò linh động hóa luật, chuyển động hóa pháp quyền theo hướng ngày càng văn minh, ngày càng hiện đại.
Chủ thể dân chủ của nhân bản pháp quyền không được quên là quan hệ xã hội mới trong một đời sống xã hội mới luôn sinh ra các bất công mới, lúc thì công khai, lúc thì lẳng lặng để tổ chức lại các quan hệ xã hội, và phân loại mới sinh ra phân tầng mới ngay trong xã hội. Cụ thể là sự sai biệt quá lớn về sức thu nhập của các tầng lớp mới thành công, đã giàu nhanh và thực tế là rất giàu nhờ lợi nhuận mới rất cao, tạo ra sự chênh lệch quá nhiều giữa các tầng lớp xã hội, mà ta thấy kẻ giàu ngày càng giàu và kẻ nghèo ngày càng nghèo. Tại đây, con tính về các bậc thang xã hội sẽ trở nên phức tạp, với thực tế là sự tăng trưởng nhanh về số lượng của các tầng lớp được gọi là trung lưu trong các xã hội dân chủ, trong đó vai trò của khoa học kỹ thuật đã hỗ trợ phát triển tạo ra một tầng lớp trung lưu có mặt trong các đô thị.
Rousseau, qua phân tích Công ước xã hội (Contrat social), mà ta có thể hiểu như một hợp đồng xã hội, có tính nhất thể trong một quy chế có pháp quyền, đã nhận định được các nhược điểm của các chính khách trong một chính giới luôn bị các tham vọng quyền lực chi phối. Từ đây tư tưởng gia này đưa vào lý luận dân chủ quyền tự do của công dân bằng định nghĩa về công ước, mà bước đầu tiên là chính quyền phải rời quyền lực của vua chúa. Ông đã đi xa thêm một bước trong lập luận là chính quyền có quyền hạn để xây dựng ra một thế lực chính trị có đủ khả năng để quản lý xã hội bằng luật pháp, mà không bằng thần pháp của đạo giáo hoặc vương pháp của vua chúa. Từ đây ông đưa ra quan niệm : công dân có tự do ngay trong chủ quyền của quốc gia, để lập ra một tập hợp thống nhất, nơi mà quyền lực được cộng đồng dân tộc quyết định và kiểm soát. Trong tư tưởng dân chủ này, ta thấy có các giai đoạn tuyển-cử-bầu, mà có luôn cả quá trình của những cơ hội dân chủ thường xuyên cho phép các lực lượng chính trị khác nhau, có khi kình chống nhau, được có quyền lực qua chính quyền được dân bầu, để tổ chức xã hội trong ý nguyện của dân làm chủ.
Chủ thể dân chủ của nhân bản pháp quyền phải thấy cho thấu nền tảng của quyền tự chủ trong ý thức dân chủ như nhân tri đi tìm tự do, nơi mà mọi quyền lực đều phải được đầu phiếu rồi được quy hạn hóa qua nhiệm kỳ trong không gian của quốc gia, trong thời gian của xã hội. Đây là một định nghĩa mới về quyền lực trong quyền hạn, được giới hạn qua thực chất dân chủ của đầu phiếu, qua ứng cử và bầu cử ; như vậy quyền lực của hành pháp được hướng dẫn bởi hai trọng lực : ý nguyện của dân tộc và lý trí của luật pháp.
Nơi đây quyền tự do cạnh tranh được khung trong quyền tự do cá nhân, cả hai dựa trên khả năng của dân chủ có đủ tiềm năng quản lý cá nhân, cùng lúc quản lý chính giới nắm chính quyền để thực thi quyền tự do này. Lập luận này được xem là động thái rất nhân lý của nhân loại biết dựa lên chính mình để có nhân tri trong quyền tự quyết, nó có tên gọi là : quyền tự lập hiến từ chất công của công dân. Hai tư tưởng dân chủ, Hobbes và Rousseau, có khác nhau trong lập luận nhưng bổ khuyết cho nhau trong phân tích về chủ động tính hỗ tương của nhân quyền, giúp ta thấu hiểu nội chất của dân chủ :
- Quyền tự do trong dân chủ đều mang theo quyền lợi của cá nhân, trong đó quyền tư hữu của mỗi người phải được tôn trọng. Chính Đảng cộng sản Việt Nam khi chế ra luật quái thai : đất là sở hữu của toàn dân, do nhà nước quản lý, đã cho đẻ ra bọn tham quan thông đồng với bọn tham đất qua tham nhũng, vì cả hai cùng tham tiền, nên chúng đã diệt quyền tự do sở hữu cá nhân bằng bạo quyền độc đảng phản dân chủ.
- Quyền tự quyết trong dân chủ đã xóa đi cách xếp hạng theo thang bậc thượng đế-tôn giáo-vương quyền tại Âu châu, xóa luôn thế "dẫm trên đầu " nhân quyền của phong kiến Á châu nơi mà vua là thiên tử đại diện cho thiên lý bằng thiên mệnh, đứng ngoài mọi nhân lý, mọi pháp lý.
- Quyền tự chủ của quốc gia, trong đó chính quyền được dân chọn, nơi mà mọi công dân được bầu, tuyển, chọn ra một chính quyền, để bảo vệ quyền lợi cho dân tộc, để bảo đảm chủ quyền cho đất nước.
Hãy nhận diện nhân vị dân chủ qua các chỉ báo trong chính sinh hoạt của dân chủ : dân chủ là thể chế của các công dân muốn sống chung bằng hùng lực của dân tộc, bằng hùng khí của giống nòi, chớ không phải bằng cái hèn, cái tục cái nhục trong cái sợ được tuyên truyền và gieo rắc bởi đảng trị. Dân chủ là thể chế của các công dân muốn lấy cái dũng của liêm chính, cái khôn của liêm minh, cái sáng của liêm sỉ để đi tìm tiến bộ, phát triển và văn minh, ngược hẳn với cái chịu khuất phục để bị dìm trong cái bị thuần hóa bởi bạo quyền.
Dân chủ là thể chế của các công dân muốn cái bằng để chế tác ra cái công, làm cái tư bớt ích kỷ, bớt vô cảm, bớt vô tri trước mọi bất công, vì dân chủ biết dâng cái luật cho cái nhân để cùng nhau làm ra nhân vị vì nhân quyền . Dân chủ là thể chế được hình thành từ phong trào qua các giai đoạn lịch sử nơi mà nhân lý luôn thắng cái bất nhân của tà quyền, nơi mà xã hội dân sự có chỗ đứng, có tiếng nói để không những gạt bỏ cái bạo, mà còn xóa luôn cái bất, của bất tài trong quản lý luôn luồn lách trong cái bất tín với dân tộc, cái bất trung với tổ tiên. Dân chủ là thể chế luôn tập hợp được cái đa, nơi mà đa đảng là thông minh tập thể chống là cái độc của độc đảng luôn tìm cách vô tri hóa dân tộc, vô cảm hóa giống nòi, chỉ vì đảng vị và đảng lợi của nó, đây chính là nhà tù của nó, vì nó không đa dụng trong đa trí, không đa năng trong đa hiệu, không đa tài trong đa lực… Dân chủ là thể chế tổng hợp được các phong trào của xã hội để thăng hoa tự do của tập thể, của cộng đồng và nhất là của cá nhân, nó còn biến cá nhân này thành công dân có chủ quyền quốc gia, để trở thành chủ thể có sáng kiến để sáng tạo ra các đường đi nước bước cho nhân trí.
Chủ thể dân chủ của phát triển, tiến bộ, văn minh đấu tranh để tập hợp được một tổng lực của những lực đối kháng nhau trong lịch sử nhưng hợp tác được với nhau qua đồ hình sinh hoạt dân chủ ; lấy bình đẳng để giáo dưỡng công bằng, nhưng không truy diệt quyền tự do cạnh tranh, mà lại còn biết lập được liên đới giữa công bằng và tự do để chế tác ra bác ái, luôn là liên minh bền bỉ của công bằng và tự do trên lộ trình dân chủ.
Chủ thể dân chủ của phát triển, tiến bộ, văn minh dấn thân bằng sự thông minh có thông hiểu về sự giao lưu linh động của xã hội dân sự, trong đó các phong trào xã hội lấy sáng kiến qua sinh hoạt xã hội, có sáng tạo ngay trên quan hệ xã hội, để làm mới và làm tốt, để làm hay và làm đẹp nhân vị ; dân chủ luôn ngược dòng với độc đảng luôn giữ độc quyền để kiểm soát các phòng trào xã hội, để kiểm tra các quan hệ xã hội. Nên, dân chủ mở, độc đảng đóng.
Chủ thể dân chủ của phát triển, tiến bộ, văn minh đi tìm thể chế có hợp đồng xã hội dựa trên hợp tác của công dân qua hợp ước giữa các cộng đồng khác nhau của một dân tộc, trên tinh thần của công ước được tam quyền phân lập công nhận và tuân thủ, nó ngược chiều với với độc đảng không nhận hợp tác với nhân dân, nên không có hợp đồng với xã hội, không có chỗ dựa là hợp ước được kiểm định bằng đầu phiếu, để trở thành công ước luôn có gốc, rễ, cội nguồn của công lý.
Chủ thể dân chủ của phát triển, tiến bộ, văn minh đi tìm một nhân lộ trong đó các thể chế của xã hội biết đặt quyền lợi cá nhân qua chủ quyền của dân tộc, nơi mà luật pháp bảo vệ cá nhân, pháp quyền kiểm định chính quyền, có thương tôn pháp luật làm căn bản cho mọi chính sách của chính phủ, nó ngược vị với độc đảng tự tung, tự tác và luôn ngồi trên lưng hiến pháp, trên vai pháp quyền.
Chủ thể dân chủ của phát triển, tiến bộ, văn minh luôn đi cùng nhân sinh lên đường đi tìm nhân cách, qua nẻo của nhân tri, bằng ánh sáng của nhân lý và nhân tâm, tất cả theo lối của nhân đạo để đưa nhân loại về chân trời của nhân phẩm, để nhận nhân vị một cách xứng đáng nhất trong thể chế thực sự dân chủ.
Lê Hữu Khóa
(07/06/2021)