Việt Nam đang ngột ngạt cực độ bởi thời tiết được ghi nhận là nóng nhất trong 40 năm qua. Số trẻ em và người già nhập viện bởi ảnh hưởng thời tiết nóng bức tăng nhanh. Thậm chí đã có người chết vì nắng nóng. "Thời sự nắng nóng" của Việt Nam thậm chí xuất hiện trên cả báo Mỹ (1). Nóng càng nóng hơn khi mà bây giờ việc tìm bóng cây để trú nắng bắt đầu trở nên khó khăn. Và đó là cái giá phải trả cho sự tàn phá rừng và cũng như chặt đốn cây xanh để nhường chỗ cho phát triển đô thị…
Ở Sài Gòn, sự ngột ngạt do mật độ con người lẫn xe cộ, trong khi mảng xanh thiếu, có thể được cảm nhận rất rõ.
Ông Lưu Đức Cường, Viện trưởng Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia (Bộ Xây dựng), cho biết, cách đây 20 năm, diện tích công viên của Sài Gòn là khoảng 1.000 hecta ; bây giờ, chỉ còn chừng 535 hecta – giảm gần 50%. Trong quá trình đô thị hóa trong vòng 15 năm trở lại đây, Sài Gòn còn mất 47 con kênh (bị san lấp) với tổng diện tích 16,4 hecta. Ai sống lâu ở Sài Gòn cũng đều thấy rõ sự thay đổi chóng mặt bởi cơn lốc bùng nổ các khu quy hoạch mới xảy ra cùng lúc với sự biến mất cây xanh. "Con đường Duy Tân cây dài bóng mát" còn đó nhưng vô số "cây dài bóng mát" ở những quận huyện khác của Sài Gòn đã chỉ còn trên những tấm ảnh cũ.
Ở Sài Gòn, sự ngột ngạt do mật độ con người lẫn xe cộ, trong khi mảng xanh thiếu, có thể được cảm nhận rất rõ : chỉ cần băng qua cầu Kênh Tẻ, từ quận 4 sang quận 7, lập tức đã có thể thấy được sự khác biệt khi hít thở không khí, giữa một nơi chỉ toàn nhà cửa bê tông với một nơi thoáng đãng nhiều cây xanh. Tuy nhiên, quận 7 cũng đã bắt đầu ngộp thở với hàng loạt chung cư mới. Đó là cái giá phải trả khi con người "giành" đất với cây xanh,và chính quyền thì ngày càng chứng tỏ họ không có khả năng quy hoạch đô thị.
Khi vấn đề "mảng xanh" đang bị "khủng hoảng", người ta lại lật lại Quyết định 01/2006/QĐ-BXD ngày 5/1/2006 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, để xem vấn đề cây xanh đô thị được "quy định" như thế nào. Theo Quyết định trên, tiêu chuẩn đất cây xanh công viên của đô thị đặc biệt là 7-9 m²/người ; đô thị loại I-II : từ 6-7,5 m²/người ; đô thị loại III-IV : từ 5-7 m²/người ; loại V : từ 4-6 m²/người. Trong khi đó, báo cáo Hiện trạng môi trường Quốc gia 2016 do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố, tỷ lệ diện tích cây xanh tại Hà Nội và Sài Gòn chỉ đạt khoảng 2 m²/người, bằng 1/10 chỉ tiêu cây xanh của các thành phố tiên tiến trên thế giới ! Báo Tài Nguyên Môi Trường (25/04/2019) cho biết, theo tính toán của giới khoa học, khi trồng cây xanh, hai năm đầu tiên cho 3-5m2 cây xanh ; sau 5 năm, có từ 15-18m2 và 10 năm là 25-30m2 cây xanh. Thật nghịch lý khi mà "chiến lược" phát triển cây xanh lại được tái thiết kế, sau khi vô số cây cổ thụ hàng trăm năm, chẳng hạn ở đường Tôn Đức Thắng (Nancy cũ), đã bị đốn hạ !
Riêng Sài Gòn, theo quy hoạch công viên cây xanh "đến năm 2020" và "tầm nhìn đến năm 2025", chỉ tiêu cây xanh khu vực nội thành là 2,4m2/người ; khu vực nội thành mở rộng là 7,1m2/người ; khu vực ngoại thành là 12m2/người. Vấn đề "thiếu xanh" đã không ít lần được báo chí đề cập và "cảnh báo" nhưng thực tế không thấy có gì mới. Các quận Gò Vấp, Bình Thạnh, Thủ Đức…, vốn thưa thớt dân cư và đầy diện tích xanh, nay ngày càng ngột ngạt. Báo chí cứ thế mà "thèm lắm mảng xanh" nhưng "mảng xanh" tiếp tục biến mất. Có lẽ báo chí đừng "thèm lắm mảng xanh" nữa. Họ nên "thèm lắm" một chính quyền biết cách tạo ra mảng xanh chứ không phải ăn chia với các đại gia bất động sản để lấn chiếm mảng xanh và cắn xé nhau giành giật từng centimet đất trong những phi vụ trục lợi như đã xảy ra ở Thủ Thiêm, nơi in đậm bóng dáng của cái gọi là "tham nhũng chính sách".
Không chỉ "xanh" biến mất ở đô thị, "xanh" ở cao nguyên cũng không còn. Tình trạng "rừng xưa đã khép" của Việt Nam thậm chí cũng xuất hiện trên báo Mỹ ("Vietnam’s Empty Forests", New York Times, 1/4/2019). Theo trang socialforestry.org.vn, chỉ hơn 5 năm, từ 2012-2017, diện tích rừng tự nhiên bị mất do chặt phá rừng trái pháp luật "đạt đến" 11%, 89% còn lại là do chuyển mục đích sử dụng rừng từ các dự án được duyệt. Độ che phủ rừng hiện còn chưa đến 40%, diện tích rừng nguyên sinh còn khoảng 10%. Tạp chí Môi Trường (số 7, 2016) cho biết, tính đến cuối năm 2014, Tây Nguyên có hơn 2.567.118 hecta đất có rừng, giảm 180.000 hecta so với năm 2010. Trong 5 năm (2010-2014), trữ lượng rừng Tây Nguyên giảm hơn 57 triệu m³ (từ 327 triệu m³ năm 2010 xuống 270 triệu m³ năm 2015) ; diện tích rừng giảm tới 6,1%, khiến độ che phủ của rừng bị giảm từ 51,8% còn hơn 45%.
Nếu ở đô thị, người ta vừa thất bại trong quy hoạch vừa trục lợi đất đai bằng công cụ chính sách khiến diện tích xanh bị ảnh hưởng, thì ở các tỉnh vùng núi, người ta cũng tranh nhau "ăn" rừng. Một số vụ "lấn chiếm rừng", thực chất, là chính quyền địa phương bán đất rừng chứ không phải người dân lấn chiếm. Cho đến nay, vụ "cả nghìn công trình vi phạm trên đất rừng Sóc Sơn" vẫn tiếp tục bỏ ngỏ, dù UBND Thành phố Hà Nội đã "ra thông báo kết luận thanh tra đất rừng". Tại Quảng Ninh, 31 hecta rừng ở xã Quảng La (huyện Hoành Bồ) đã bị "cạo trọc" để công ty cổ phần tập đoàn Hạ Long khai thác than trái phép, dưới danh nghĩa múc đất đổ nền dự án nghĩa trang Đồng Khuôn. Nói cách khác, rừng biến mất và cây rừng bị đốn chặt không chỉ bởi lâm tặc, mà còn bởi "chính quyền tặc" ! Hệ thống "tặc" này, như có thể thường thấy ở Việt Nam, gần như luôn xảy ra tình trạng "có dấu hiệu buông lỏng quản lý" và "bao che nhau". Điển hình, Nguyễn Thanh Sơn (nguyên Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Đắk Nông), vốn dính vào vụ "ăn" 40 hecta đất rừng, vẫn được Ban thi đua khen thưởng tỉnh Đắk Nông tặng Huân chương Lao Động hạng Nhì (VietnamNet, 8/4/2019) !
Rồi thì Việt Nam sẽ như thế nào ? Rồi những đứa trẻ sẽ lớn lên trong một môi trường "trong xanh" như thế nào ? Hãy thử xem ảnh vệ tinh Google Earth so sánh diện tích rừng Việt Nam giữa năm 1984 và 2016 để có thể thấy rõ bức tranh kinh khủng xám xịt của "mảng xanh" Việt Nam. Tương lai Việt Nam, không chỉ chuyện rừng và cây xanh, cũng xám xịt như vậy. Ở thời điểm này, báo chí vẫn cứ thế mà "thèm lắm mảng xanh", hơn là "thèm lắm" và nỗ lực đòi hỏi nhất thiết phải có một chính quyền "sạch" !
(1) "Vietnam just observed its highest temperature ever recorded : 110 degrees, in April", Washington Post, 22/04/2019
Water, water, every where,
Nor any drop to drink.
Samuel Taylor Coleridge [1772-1834]
Thế kỷ 21 của tỵ nạn môi sinh, đã có 2 triệu người phải rời bỏ quê hương đồng bằng sông Cửu Long ra đi tìm kế sinh nhai
Hình ảnh một dòng sông đang chết dần ; cũng để hiểu tại sao đã có 2 triệu người phải rời bỏ quê hương đồng bằng sông Cửu Long đi tìm kế sinh nhai ; từ phải : tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện. [photo by Ngô Thế Vinh]
Xứ sở cây thốt nốt và người Khmer hiền hòa
Tới An Giang, tới hai quận Tịnh Biên và Tri Tôn không thể không thấy hàng cây thốt nốt nổi bật trên những cánh đồng lúa xanh. Cây thốt nốt thuộc họ cau, tên khoa học Borassus flabellifer, có nhiều ở các nước Đông Nam Á. Cây thốt nốt sống cả trăm năm dài hơn tuổi thọ một đời người. Thân cây thẳng và cao tới 30 mét. Cây đực không trái, cây cái cho tới 60 trái mỗi cây. Trái thốt nốt có vỏ xanh đen, nhỏ hơn trái dừa bên trong có những múi trắng mềm, ngọt và mát. Hoa cây thốt nốt cho nước ngọt có vị thơm, có thể nấu thành đường, ngon hơn đường mía. Nếu Quảng Ngãi, quê Hương Nghiêu Đề bạn tôi, từng nổi tiếng về đường phổi, đường phèn thì An Giang, vùng Tịnh Biên Tri Tôn nổi tiếng với đường thốt nốt. Chè đậu xanh nấu với đường thốt nốt ngọt dịu và rất thơm ngon. Hình như tất cả mọi thành phần cây thốt nốt đều có công dụng : thân làm cột nhà, lá dùng lợp mái. Trong nền văn hóa cổ Khmer, các Chùa chiền còn lưu giữ được những văn bản viết trên lá cây thốt nốt. Cây thốt nốt cũng được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp. [Hình 2]
Hàng cây thốt nốt đứng soi bóng bên hồ nơi khu đền đài Angkor ; cây thốt nốt được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Khắp xứ Chùa Tháp xuống tới Đồng Bằng Sông Cửu Long, đi đâu cũng chỉ gặp những người dân Khmer hiền hòa, và rồi không thể nào hiểu được những gì đã xảy ra giữa họ và những người Việt trong quá khứ. Chỉ có thể giải thích họ là một đám đông nạn nhân của những khích động thù hận mà động cơ là những mưu đồ chánh trị đen tối.
Trong y khoa, khi khảo sát não trạng vô thức của đám đông, qua nghiên cứu hành vi/ behavior của loài cá, khoa học gia Đức đã làm một thử nghiệm : thả một con cá bị hủy não bộ vào một hồ cá, không có gì ngạc nhiên là con cá ấy mất định hướng bơi tán loạn, nhưng điều kỳ lạ là đàn cá lành mạnh thì lại ngoan ngoãn bơi theo con cá mất não ấy. Phải chăng "thử nghiệm hành vi"của nhà khoa học Đức, đã phần nào giải thích hiện tượng cả một dân tộc Đức văn minh đã có một thời kỳ nhất loạt tuân theo một lãnh tụ như Hitler xô đẩy cả thế giới vào lò lửa của cuộc Thế chiến thứ Hai.
Từ ruộng hành xã Vĩnh Hải huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng những thố hành tím được chất thành ngọn lên xe tải để phân phối tới các chợ [photo by Ngô Thế Vinh]
Có một nền văn hóa nước lợ
Trên đường dọc theo sông Hậu, xe dừng lại Hộ Phòng là một phường của thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Xuống xe đi bộ lên chiếc cầu xi măng có tên Hộ Phòng 2, bắc qua con kênh lớn Gành Hào [được xây từ năm 2011 do quỹ ODA/ Official Development Assistance của Nhật].
Bấy lâu, các chuyên gia Bộ Nông nghiệp từ ngoài Bắc vào vẫn có cái nhìn rất giản đơn về hệ sinh thái sông nước Cửu Long : họ chỉ thấy có triều cường và triều kiệt. Rồi đề xuất kế hoạch làm những cống đập chặn triều cường để ngăn mặn giữ ngọt. Từ suy nghĩ giản đơn ấy, họ đã và đang gây ra bao nhiêu hệ lụy cho hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long như hiện nay.
Đoàn đứng trên cầu phía hướng ra Biển Đông, nơi có cống đập ngăn mặn. Ngoài mặn trong ngọt. Anh Dương Văn Ni sinh ra và lớn lên từ vùng sông nước Miền Tây, khi nói về nhịp đập của hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long, anh Ni thông thuộc như với đường chỉ tay của chính mình ; với một giọng thuần Nam Bộ trầm tĩnh bắt đầu một bài giảng :
"đồng bằng sông Cửu Long chỉ nói riêng phía Biển Đông, không đơn giản chỉ có triều cường và triều kiệt. Hỏi người nông dân thì họ biết rất rõ. Thủy triều từ Biển Đông là bán nhật triều, sáng và chiều hai lần trong ngày ; hai lần nước lớn tiếp theo hai lần nước ròng, mực nước lên xuống bốn lần trong một ngày. Trong tháng, người nông dân biết chừng nào thì "nước rong" vào ngày rằm, khi nào "nước kém" vào cuối tháng âm lịch. Trong năm, thì họ có mùa "nước nổi" và mùa "nước hạn".
Từ mấy trăm năm, trải qua bao thế hệ, người nông dân Miền Tây đã quen chung sống với nhịp đập thiên nhiên ấy của những dòng sông : trong ngày, trong tháng, trong năm và đã hình thành một nền "văn minh sông nước". Họ đã quen chung sống với cả ba tình huống : nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Lãnh đạo bộ Nông nghiệp đa số mang theo họ một nền văn hóa từ Châu thổ sông Hồng, biết rất ít về hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long vốn rất đặc thù. Với đầu óc duy lý giản đơn, với những con số thống kê, nhưng họ có biết đâu rằng chuỗi những con số đó chính là những tín hiệu đã nằm ngay trong nền "văn hóa sông nước" mà người nông dân từ đời này sang đời nọ vẫn đọc được. Người nông dân bấy lâu đã biết nương theo sức mạnh của thiên nhiên để chung sống. Văn hóa sông nước thực ra gồm bốn phần tương tác Sông-Biển-Châu thổ-Con người cùng hòa nhập nhau theo từng nhịp đập.
Một ví dụ, chỉ riêng chuyện di chuyển ghe thuyền trên sông, người nông dân biết tính trước khi nào thì cho ghe xuôi theo con "nước ròng", khi nào thì ghe ngược theo con "nước lớn", và cũng để thấy cấu trúc của lòng ghe bấy lâu là làm sao dùng sức đẩy tối ưu của dòng chảy.
Và rồi trong tháng họ biết lúc nào thì cho nước vào ruộng, khi nào thì xả, khi nào thì thả con giống cá tôm... mà không cần tốn nhiều công sức, để phải dùng gầu tát nước hay phải dùng tới máy bơm.
Chính nhịp đập của "mẹ thiên nhiên (natural pulse)" là bạn đồng hành thân thiết bấy lâu của họ. Và nay thì bị phá vỡ và cắt đứt một cách thô bạo.
Cũng từ bao trăm năm, nông dân đồng bằng sông Cửu Long biết rất rõ là sông rạch nối liền với biển, có thủy triều lên nên mới có được con nước lớn, và thủy triều xuống mới có con nước ròng, và cũng nhờ đó mà sông rạch được làm sạch, có cá tôm và đã hình thành cả một nền văn hóa sông nước.
Chúng tôi cùng hiểu rằng : với cống đập kia, con sông bị cắt làm hai : chỉ còn một bên ngọt, một bên mặn, mất hẳn một vùng nước lợ (blackish). Bên trong không còn nước lớn, nước ròng mà sông biến thành hồ tù đọng, tích lũy đủ mọi loại ô nhiễm, và không còn cá tôm. Bên ngoài, hệ sinh thái ven biển cũng bị nghèo đi và nông ngư dân cho biết, từ ngày có cống đập không còn đâu nguồn tôm cá phong phú của cả một vùng nước lợ. Đó là chưa nói tới tình trạng gián đoạn giao thông trên sông.
Rồi anh Ni đưa ra một ví dụ rất tượng hình : "Cũng giống như khai quật được một kho tàng cổ sử, người không chuyên môn thì chỉ thấy được đó là những mảnh đá mảnh sành, cùng lắm là thấy thêm được mấy nét vẽ ngoằn ngoèo vô nghĩa trên đó, nhưng với con mắt của nhà khảo cổ thì khác, đó là dấu vết và tín hiệu của cả một nền văn minh".
Và tôi cũng hiểu rằng, bấy lâu với các chuyên gia nông nghiệp từ ngoài Bắc vào, chưa từng chung sống và chết với nền văn minh sông nước ấy, họ đã có những chánh sách can thiệp thô bạo chống lại mẹ thiên nhiên để phải trả giá rất đắt và nạn nhân không ai khác hơn là chính ngót 20 triệu cư dân phải ngày đêm sống với những bất cập ấy như hiện nay.
Cầu Hộ Phòng II là cây cầu mới trên khúc đường vòng/ detour, (do quỹ ODA / Official Development Assistance của Nhật xây 2011 [photo by Ngô Thế Vinh]
Công trình cống đập Ba Lai : một hối tiếc
Hai mươi năm qua (1997-2017), lãnh đạo Bộ Nông nghiệp, qua nhiệm kỳ của 3 bộ trưởng :
1. Lê Huy Ngọ, nhiệm kỳ 7 năm, 1997-2004
2. Cao Đức Phát, nhiệm kỳ 12 năm, 2004-2016
3. Nguyễn Xuân Cường, nhiệm kỳ 2016 đương nhiệm
Họ đến từ miền Bắc đã và đang có những quyết định phải nói là sinh tử với hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long, một vùng thổ nhưỡng phải nói là rất xa lạ với họ.
Chỉ thấy đơn giản nơi đồng bằng sông Cửu Long có triều cường triều kiệt, coi nước mặn là kẻ thù nên đã có một chiến lược ồ ạt xây những đại công trình mà người ta gọi là Cống Đập Ngăn Mặn, mà Cống đập Ba Lai là một điển hình.
Được khởi công ngày 27/02/2000, dự án công trình cống đập Ba Lai chắn ngang cửa sông Ba Lai từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân (Ba Tri). Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng Việt Nam. Con đập dài 544 m gồm 10 cửa với khẩu độ 84 m được vận hành bằng một hệ thống van tự động hai chiều. Quy hoạch trên lý thuyết, thì cống đập Ba Lai có chức năng : ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ cho 115.000 hecta đất trong đó có 88.500 hecta là đất canh tác, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành ; cùng kết hợp với phát triển giao thông thủy bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án [sic].
Hai năm sau, từ ngày 30.04.2002 cống đập Ba Lai được đưa vào hoạt động, được vinh danh là một công trình thủy lợi lớn nhất của đồng bằng sông Cửu Long. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 9 cửa của Cửu Long chính thức bị ngăn lại.
Từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông Ba Lai nhánh thứ 8 bị chính con người đóng lại. Cửa Ba Thắc đã bị bồi lấp từ cả trăm năm nay, và hiện giờ Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh : Thất Long. [photo by Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị]
Tính cho tới nay, cống đập Ba Lai đã vận hành được 16 năm [2002-2018], hiệu quả công trình Cống đập Ba Lai ấy ra sao ? Chỉ có những lời ta thán.
Hàng trăm cống ngăn mặn không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch không có cống ngăn mặn đã tập hậu nước mặn vào bên sau hệ thống cống đập đã xây.
Giải thích của nhà nước về "hiệu quả ngược" của công trình cống đập Ba Lai như hiện nay là : do thiếu vốn để làm tiếp nhiều công trình khác tiếp theo, trong đó có hai hạng mục quan trọng, đó là phải xây thêm cống đập và cả âu thuyền* trên hai con sông Giao Hòa và Chẹt Sậy vẫn tiếp tục đem nước mặn từ sông Cửa Đại đổ vào "hồ nước ngọt Ba Lai".
* Âu thuyền (canal lock) : là một từ tương đối mới, chỉ một công trình chắn ngang sông hoặc kênh, có cửa hai đầu để tăng hoặc giảm mực nước, giúp cho thuyền hay tàu đi qua nơi có mực nước chênh lệch nhiều.
Theo phóng viên TTXVN Phan Văn Trí, trích dẫn : "Ông Cao Văn Trọng, Chủ tịch UBND tỉnh cho biết để thi công hai hạng mục đập và âu thuyền và một số hạng mục khác cần nguồn vốn khoảng 200 triệu USD. Vì vậy, tỉnh đã kiến nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tranh thủ nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản. Ông Trọng cũng cho biết tổ chức JICA (Nhật Bản) đã đến Bến Tre khảo sát địa điểm xây dựng đập và âu thuyền. Tuy nhiên, việc khởi công có thể còn phải chờ đến… năm 2020. Dù gì thì hình ảnh những chiếc xe máy cày hay xe bò kéo chở nước đem đổi cho người dân, với giá từ 70,000 đồng đến 100.000 đồng/m3, chắc chắn vẫn còn diễn ra trong những mùa khô cho tới 2020. Điều đáng nói là nước đó được lấy từ những chiếc giếng đào trên giồng cát, chưa qua xử lý…" [2].
Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng nay chỉ còn có 7 cửa. Nam Thất Nữ Cửu,như hình ảnh một đồng bằng sông Cửu Long bị triệt sản. Bởi thế dân gian tỉnh Bến Tre mới có câu :
Ba Lai là cái cửa mình
Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ
Một câu hỏi được đặt ra : với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, hay Bộ Tài nguyên và môi trường hay Chánh phủ trung ương sẽ nhận trách nhiệm với phong cách "đem con bỏ chợ" như hiện nay, phải chờ cho tới 2020 cho đến khi ODA của Nhật chịu rót vốn vào ?
Từ bài học thất bại của đại công trình cống đập Ba Lai, nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi sinh như một "think tank" đã không ngừng lên tiếng cảnh giác rằng : nếu không có một đánh giá môi sinh chiến lược cho toàn đồng bằng sông Cửu Long mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình hạn mặn, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng xây một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái và hậu quả sẽ khôn lường.
Khảo sát của nhóm Liên Hiệp Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (IUCN-International Union for Conservation of Nature) tại Việt Nam đưa ra nhận định là do hệ thống cống đập khiến hai bên bờ sông Ba Lai đang khép lại dần.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu, Đại học Cần Thơ đã dùng một cụm từ rất gợi hình để chỉ hệ thống cống đập Ba Lai khi ông gọi đó là "dòng sông bị cưỡng bức". Sông nay biến thành hồ chứa, ô nhiễm thì tích lũy nước đổi màu do rong tảo sinh sôi phía trong cống đập.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia về nước ngập (Wetlands) cho rằng hàng năm vào mùa mưa do lượng nước mùa lũ đổ về, toàn thể phù sa trong lượng nước đó sẽ lắng xuống đáy sông Ba Lai - nay trở thành hồ và với thời gian sông Ba Lai sẽ chết hẳn do bị bồi lấp [1].
Khi đưa ra cái nhìn toàn cảnh hiện trạng và tương lai đồng bằng sông Cửu Long, các anh trong đoàn đưa ra một cái nhìn tổng quan không mấy lạc quan :
Đất bị mất do sạt lở bờ sông bờ biển, trong những năm gần đây, đất bị lún với tốc độ 10 lần nhanh hơn so với nước biển dâng, và đất đai còn lại thì bị vắt kiệt. Sông ngòi ô nhiễm đủ thứ, từ nước thải sinh hoạt, công nghiệp, thủy sản đổ thẳng vào sông, cũng như lượng lớn phân bón, thuốc trừ sâu từ nông nghiệp do 3 vụ thâm canh.
Theo một nghiên cứu về lịch sử đất lún do nhà khoa học Minderhoud và một nhóm chuyên gia Hà Lan, Hoa Kỳ và Việt Nam thực hiện công bố năm 2017 trên Environmental Research Letters, độ lún và vận tốc lún tại Châu thổ đồng bằng sông Cửu Long đã xuống sâu 25 cm và thậm chí đến 50 cm theo biểu đồ kỹ sư Phạm Phan Long trích dẫn chú thích và cung cấp sau đây [Hình 10].
Trong những thập niên tới, biển dâng được dự đoán với vận tốc 5 cm/năm, như vậy mặt đất thấp sẽ thấp dần dưới mặt biển có thể đến 1 m trong vòng 100 năm nữa. Trước tác động kép do sinh hoạt con người và do biến đổi khí hậu, đồng bằng sông Cửu Long sẽ rơi vào tình huống xấu nhất toàn cầu. Một đối sách có tên "ASR, aquifer storage and reuse" đang được Viet Ecology Foundation đề bạt thảo luận là lọc và trữ nước ở những túi rỗng ngầm, vừa ngăn mặn tập kích vào thềm lục địa, vừa có nước ngọt sinh hoạt canh tác và tránh cho mặt đất tiếp tục lún xuống.
Biểu đồ độ lún và vận tốc đất lún trong 25 năm tại Đồng Bằng Sông Cửu Long. [nguồn : Environ.Res.Lett. 12 (2017) với ghi chú của kỹ sư Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation]. Hiện nay, rất nhiều giếng tầng nông và bơm bằng tay đều bị nhiễm mặn nhiễm phèn, nước giếng không còn dùng được, và nay người nông dân phải khoan sâu 400-500m để tìm được nguồn nước ngọt, mặt bằng đồng bằng sông Cửu Long đang bị sụt lún nhanh chóng vì các tầng nước ngầm đang bị tận cùng khai thác.
Đã thế nhiều sông ngòi, bị kế hoạch cống đập đã biến sông rạch thành hồ tù đọng, tích lũy ô nhiễm. Nước sông ngòi không còn dùng được phải chuyển sang xài toàn nước ngầm nên tầng nước ngầm cũng cạn kiệt nhanh và đất lún.
Còn có hiện tượng "tỵ nạn môi sinh (ecological refugees)" của người dân đồng bằng sông Cửu Long rời bỏ quê hương đi tới vùng đất khác, tha phương cầu thực. Con số gần 2 triệu người đã đi khỏi vùng đất này trong hai thập niên qua thì phải có những lý do như môi trường sống bị suy thoái, nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt.
Thủy điện thượng nguồn từ Vân Nam Trung Quốc rồi Lào làm mất ngót 90% nguồn phù sa, không có gì thay thế ; biến đổi khí hậu với nước biển dâng có thể phần nào thích ứng nhưng còn vấn đề phát triển tự hủy (destructive development) do tự mình gây ra đang là một nan đề lớn do chính sách "duy lý và thiếu tầm nhìn chiến lược" đến từ trung ương đã gây nhiều tổn thương cho đồng bằng sông Cửu Long, gây trở ngại cho phát triển.
Từ cống đập Ba Lai tới sông Cái Lớn - sông Cái Bé
Bài học thất bại của công trình thủy lợi Ba Lai vẫn còn đó, vậy mà, nguyên bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cao Đức Phát, một người sinh quán Nam Định từ Châu thổ Sông Hồng, vẫn bất chấp mọi lời cảnh báo của giới chuyên gia, vẫn kiêu căng tuyên bố sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình cống đập lớn đến năm 2020, từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai, và xây dựng thêm các hệ thống cống đập sông Cái Lớn - sông Cái Bé tỉnh Kiên Giang, được quảng bá như một công trình của Thế kỷ, với ngân khoản lên tới 3,300 tỷ đồng (150 triệu USD) với hậu quả hay thảm họa trên toàn hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long không biết sẽ trầm trọng tới đâu.
Rõ ràng có những khoảng chống của Dự án Cống đập sông Cái Lớn - sông Cái Bé và các câu hỏỉ :
1. Chỉ nghe nói, bản nghiên cứu đánh giá tác động môi trường (EIA- Environmental Impact Assessment) về Dự án Cống đập sông Cái Lớn - sông Cái Bé là do Viện Kỹ Thuật Biển thuộc Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thực hiện, nhưng không thấy công bố ở đâu hết, với sự không minh bạch (transparency) như vậy thì làm sao có được sự góp ý của giới chuyên gia.
2. Dự án sông Cái Lớn - sông Cái Bé bao giờ khởi công và tình hình tới đâu chỉ diễn ra sau những cánh cửa Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ngoài ra không có ai được biết tới để có thể theo dõi.
3. Và cũng là điều vô cùng ngạc nhiên là với gần 2 triệu người di cư ra khỏi đồng bằng sông Cửu Long trong hai chục năm qua, nhưng vẫn chưa hề có cuộc điều tra cơ bản nghiên cứu về những nguyên nhân ra đi của họ.
Sơ đồ dự án hệ thống cống đập chắn mặn trên sông Cái Lớn-sông Cái Bé, sẽ tác động trên 1/4 diện tích toàn đồng bằng sông Cửu Long và ảnh hưởng tới đời sống hơn một triệu cư dân trong vùng. (6) [nguồn : Ánh Sáng và Cuộc Sống]
Rõ ràng Dự án cống đập Sông sông Cái Lớn - sông Cái Bé đã thiếu hẳn một đánh giá chiến lược tác động môi trường toàn diện và khách quan, bị ảnh hưởng bởi quan điểm của chủ đầu tư / nhóm lợi ích chỉ để nhằm biện minh cho sự cấp thiết của dự án, trong khi mà ai cũng biết là dự án sẽ tác động tới toàn hệ sinh thái của cả một vùng rộng lớn chiếm 1/4 tổng diện tích của đồng bằng sông Cửu Long [hơn 1 triệu hecta], ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có giải pháp rốt ráo. Và khi đã gây hủy hoại trên hệ sinh thái thường rất khó đảo nghịch.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó Việt trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Đại học Cần Thơ [Viện DRAGON] nhận định : cắt đứt trao đổi nước giữa sông và biển chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới canh tác sản xuất của nông dân quen sống theo nhịp thủy triều, giảm nguồn thủy sản bên trên và bên ngoài cống đập, và do nước tù đọng sẽ tích luỹ mọi ô nhiễm.
Một chuyên gia Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên Đại học Cần Thơ, nhận định về sự khác biệt của hai chế độ thủy triều phía Biển Đông và Biển Tây. Phía Biển Đông là bán nhật triều : nước lên xuống ngày 4 lần, trong khi Biển Tây là chế độ nhật triều, nước lên xuống ngày hai lần. Riêng vùng Tây Nam sông Hậu chế độ thủy văn phúc tạp hơn nhiều, chịu ảnh hưởng của cả hai chế độ nhật triều và bán nhật triều khác nhau. Trong khi các cống đập hiện nay chỉ vận hành theo một mô hình thô thiển : đóng cổng đập khi triều cường, mở cổng đập khi triều kiệt. Hệ thống cống đập trên sông Cái Lớn - sông Cái Bé sẽ gây rối loạn cho chế độ thủy văn vùng này, làm "mất lực hút-đẩy" của chế độ thủy văn thiên nhiên [sic] nước sẽ tù đọng tích luỹ ô nhiễm từ các chất thải nông ngư nghiệp, kỹ nghệ và cả nước thải không được xử lý đổ xuống từ các khu gia cư.
Nhân dân tỉnh Long An đã một lần nói không
Tiến sĩ Lê Phát Quới, người Long An, giảng dạy tại Khoa Tài nguyên và môi trường Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, anh có giọng nói lớn, có nét trực tính của người dân Nam Bộ, anh nói : "Sau công trình cống đập Ba Lai, trung ương có kế hoạch xây thêm hệ thống cống đập trên cửa con sông Vàm Cỏ là kết nối của hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây thuộc tỉnh Long An. Anh Lê Phát Quới thuật lại : "Trong một cuộc họp với Trung ương và cấp lãnh đạo tỉnh cùng với các nhà khoa học - trong đó có thằng Quới, anh tự gọi mình là thằng, cuộc họp có cả ông Sáu Dân tức Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó. Khi tỉnh Long An được hỏi ý kiến, thì lãnh đạo tỉnh đã có câu trả lời : sau khi phái đoàn tỉnh đi thăm cống đập Ba Lai trở về, sau khi tham khảo ý kiến nhân dân, thì toàn thể nhân dân Long An có câu trả lời là không. Lưu ý các anh, là câu trả lời không phải từ tỉnh ủy hay ủy ban nhân dân mà là toàn dân tỉnh Long An nói không. Nếu nói là tỉnh ủy hay ủy ban nhân dân, thì trung ương có thể dùng quyền lực đảng hay quyền lực trung ương để áp đặt, nhưng là tiếng nói của toàn thể nhân dân Long An thì khác. Và rồi sau đó, kế hoạch bị gác lại".
Anh Lê Phát Quới đi tới kết luận : "nếu cứ để thực hiện hệ thống cống đập trên con sông Vàm Cỏ thì không biết tai họa cho toàn hệ sinh thái tỉnh Long An sẽ khủng khiếp như thế nào". Và anh Quới không dấu được nét hãnh diện về tiếng nói ngăn chặn kịp thời của nhân dân tỉnh hạt mình.
Ủy hội Mekong Vietnam vẫn mãi một địa chỉ nghich lý
Từ sau 1975, đất nước này nói chung trong đó có đồng bằng sông Cửu Long đang được điều hành với những "đầu óc nghịch lý".
Đứng từ trên một chiếc phà đi ngang nhánh sông Trần Đề để qua Cù lao Dung, trong ráng chiều chập choạng của hoàng hôn, tôi qua sang hỏi một anh trong đoàn : "Hỏi thật lòng anh, là hiện nay người dân đồng bằng sông Cửu Long có cảm thấy hạnh phúc hơn không so với trước 1975". Chỉ có một câu trả lời khẳng định, nếu có thì là các gia đình không còn bị ly tán và đất nước không còn chiến tranh.
Tôi đã không hỏi anh thêm nữa vì thực sự không có được câu trả lời đơn giản. Riêng tôi thì vẫn cứ bị ám ảnh với con số đã có 2 triệu người phải từ bỏ quê hương đồng bằng sông Cửu Long đi tìm kế sinh nhai. Cách biện minh là với 2 triệu người bỏ đi nhưng cũng có 700 ngàn người mới tới, không phải là một câu trả lời rốt ráo.
Từ hơn hai thập niên, người viết đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ của những con đập khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc rồi tới chuỗi 9 đập thủy điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia : ngoài những hậu quả rối loạn về dòng chảy, mất nước nơi các hồ chứa và nhất là mất nguồn cát nguồn phù sa, dẫn tới nguy cơ của một tiến trình đảo ngược khiến một đồng bằng sông Cửu Long đang dần dần tan rã.
Những mối nguy cơ từ thượng nguồn, gần như không làm gì được. Nhưng quá trình phát triển tự hủy (destructive development) ngay nơi đồng bằng sông Cửu Long trong mấy thập niên qua cũng phải kể là những hệ luỵ tích luỹ tác hại nghiêm trọng trên sự sống còn của cả một vùng Châu thổ. Có thể kể, từ sau 1975 :
* Xây đê đắp đập chắn lũ mở rộng khu gia cư để làm lúa ba vụ làm mất 2 túi nước thiên nhiên Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.
* Xây hệ thống cống đập chắn mặn phá vỡ nhịp đập thiên nhiên của hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long biến sông rạch thành một hệ thống hồ ao tù đọng.
* Xây dựng 14 nhà máy nhiệt điện than nơi đồng bằng sông Cửu Long gây ô nhiễm đất, nước, không khí trên toàn vùng.
Phát triển với những bước không bền vững (unsustainable development) như trên đã làm tổn thương trên toàn hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long và các nguồn tài nguyên thì cứ nghèo dần đi.
Để thay kết luận, người viết gửi tới ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, người thay thế Bộ trưởng Cao Đức Phát sau 12 năm tại nhiệm, câu trích dẫn và cũng là bài học đầu tiên của một sinh viên vào học Y khoa : Primum non nocere (First do no harm) trước hết là không gây hại. Mọi kế hoạch vội vã, thiếu thời gian cho một lượng giá chiến lược ảnh hưởng tác động môi trường khách quan, với tổn phí hàng ngàn tỉ đồng mà còn gây hại cho toàn hệ sinh thái vốn đã quá mong manh/ fragile của một vùng Châu thổ mà trước đây đã từng được đánh giá là phong phú và giàu có nhất trên hành tinh này.
Qua kinh nghiệm 16 năm vận hành của hệ thống cống đập Ba Lai, để thấy rằng dù tốn hàng bao nhiêu tỷ đồng, cứ với quyết tâm làm đê ngăn mặn nhưng nước sông rạch bên trong vẫn không thể dùng được cho sinh hoạt, những công trình như thế còn khiến nước bên trong bị ô nhiễm nghiêm trọng vì dòng chảy không lưu thông, tù đọng. Xây dựng cống đập Ba Lai đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm - nếu có thiện chí sửa sai, thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng sẽ rất tốn kém và không thể mau chóng và không phải là dễ dàng.
Tiếp tục biện pháp xây dựng công trình cống đập ngăn mặn rất tốn kém sẽ cắt đứt thô bạo mối liên hệ cân bằng hệ sinh thái sông - biển - đồng bằng, qua công trình cống đập Ba lai đã chứng minh là không tạo được lợi ích và giải quyết được chuyện gì cho cư dân đồng bằng sông Cửu Long mà còn đảo lộn điều kiện thiên nhiên, phá vỡ hệ sinh thái của cả một vùng Châu thổ.
Như một nhắc nhở và nhấn mạnh, người viết ghi nhận lại nơi đây một đề nghị cụ thể với Thủ tướng chánh phủ kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc : hãy cho hoãn ngay Dự án xây hệ thống cống đập sông Cái Lớn - sông Cái Bé một thời gian (time frame) ít nhất là 5 năm, trích 5% ngân sách 3.300 tỷ dự trù cho dự án để thành lập ngay một nhóm nghiên cứu tác động môi trường độc lập [có thể bao gồm cả các chuyên gia Hòa Lan, họ đã có kinh nghiệm và có công lớn thực hiện một số chương trình khảo sát cơ bản cho đồng bằng sông Cửu Long], và bảo đảm rằng Đánh giá Tác động Môi trường được thực hiện một cách công tâm, thận trọng bởi những người không có liên hệ gì tới chủ đầu tư hay nhóm lợi ích, để sau thời gian 5 năm đó, nhà nước sẽcó được một bản tường trình lượng giá ảnh hưởng môi trường đầy đủ khách quan và minh bạch, với tất cả mọi tình huống (pros & cons) để từ đó mới có quyết định "nên hay không nên"triển khai dự án được mệnh danh là công trình của Thế Kỷ ấy. Cũng trong bản tường trình ấy, cũng không thể thiếu phần điều tra cơ bản về nguyên nhân nào đã khiến 2 triệu cư dân đồng bằng sông Cửu Long phải rời bỏ quê hương ra đi tìm kế sinh nhai. Được như thế thì sẽ phù hợp với tinh thần Nghị quyết 120 về đồng bằng sông Cửu Long [17/11/2017] trong đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh nguyên tắc : "thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào thiên nhiên".
Đồng bằng sông Cửu Long 12/2017 - 02/2018
Ngô Thế Vinh
Tham khảo :
1/ Có còn con sông nước lớn, nước ròng ? Lê Quỳnh. Báo Người Đô Thị online Thứ hai, 20/06/2016 (http://nguoidothi.net.vn/co-con-con-song-nuoc-lon-nuoc-rong-4042.html)
2/ Thiếu vốn, dự án ngọt hóa sông Ba Lai trở thành... mặn quá. Phạm Văn Tri, TTXVN 06/08/2016 (https://baomoi.com/thieu-von-du-an-ngot-hoa-song-ba-lai-tro-thanh-man-qua/c/20027474.epi)
3/ Chuyên gia đề nghị tạm dừng dự án thủy lợi 3,300 tỷ đồng ở Miền Tây. Huỳnh Xây, Dân Việt, 03/06/2017 (http://danviet.vn/nha-nong/chuyen-gia-de-nghi-tam-dung-du-an-thuy-loi-3300-ty-dong-o-mien-tay-775724.html)
4/ Phát triển đồng bằng sông Cửu Long : Tốn tiền tỷ mà trái quy luật thì trả giá đắt. Nguyễn Hữu Thiện ; VietnamNet 27/11/2017 (http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/moi-truong/phat-trien-dbscl-ton-tien-ti-ma-trai-quy-luat-thi-tra-gia-dat-413188.html)
5/ Ngăn đập sông Cái Lớn - Cái Bé : đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Phạm Anh ; Tiền Phong 02/06/2017 (https://www.tienphong.vn/xa-hoi/ngan-dap-song-cai-lon-cai-be-dbscl-se-bi-anh-huong-khong-nho-1154506.tpo)
6/ Băn khoăn xây cống Cái Lớn – Cái Bé, Sáu Nghệ ; Ánh Sáng và Cuộc Sống ; 26/06/2017 (http://anhsangvacuocsong.vn/ban-khoan-xay-cong-cai-lon-cai/)