Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Hermann Hesse là một trong những nhà văn hiện thực phê phán lớn của văn học Đức thế kỷ XX và cũng là một trong những nhà văn có tác phẩm được đọc nhiều nhất trên thế giới. Ông nhận giải Nobel văn học vì những tác phẩm mang đậm truyền thống nhân đạo cổ điển, thể hiện bằng một văn phong súc tích. Nhiều tác phẩm của ông được cả bạn đọc phương Tây và phương Đông yêu thích.

Dấu ấn của những tác phẩm đặc sắc

Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo.

Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên.

Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người.

Undatierte Aufnahme des deutschen Schriftstellers Hermann Hesse bei der Lektüre in seinem Arbeitzimmer in Montagnola. Hesse wurde am 2. Juli 1877 in Calw/Württemberg geboren und verstarb am 9. August 1962 in Montagnola/Schweiz. 1946 wurde er mit dem Nobel

Nhà văn Hermann Hesse.

Cuốn tiểu thuyết được chú ý đầu tiên của ông là "Peter Camenzind" (1904) có ít nhiều tính chất tự truyện : một người nguồn gốc tầm thường, có tài và có nhiều hoài bão, không thích nghi được với xã hội tư sản và đời sống thành phố, đành trở về sống ở quê nhà. Đây là một tiểu thuyết giáo dục rất hấp dẫn bạn đọc đương thời.

Tiểu thuyết "Demien" (1919) viết về tình trạng rối loạn của thanh niên tư sản. Đây là tác phẩm đã khiến rất nhiều độc giả thanh niên say đắm. Cuốn sách từng được chuyển ngữ sang tiếng Việt với nhan đề "Tuổi trẻ băn khoăn".

Hermann Hesse từng viết "Cái đẹp chỉ có thể sinh ra từ những giấc mơ điên rồ". Có lẽ xuất phát từ quan điểm đó nên càng trưởng thành, văn chương của Hermann càng đầy ắp những ý tưởng sáng tạo điên rồ, vượt khỏi mọi đường biên của ý thức thông thường.

"Sói thảo nguyên" được xem là một cuốn sách đặc biệt của Hermann Hesse. Đây là tác phẩm được sinh ra trong bối cảnh nước Đức vừa trải qua Thế chiến thứ nhất, đồng thời khi ấy Hermann Hesse cũng phải hứng chịu nhiều bất hạnh cá nhân trước khi bắt đầu sáng tác. Cuốn sách được dẫn dắt dưới dạng một tập bản thảo được viết bởi của nhân vật chính - người đàn ông trung niên tên là Harry Haller. 

Hesse đã tạo nên một tác phẩm đầy xung đột, nhưng đồng thời phóng khoáng bởi sự pha trộn giữa tính hài hước châm biếm và chất thơ trong việc xử lí chủ đề. "Sói thảo nguyên" phản ánh cuộc đấu tranh nội tâm của tác giả với thái độ phê phán khía cạnh tha hóa đạo đức của văn minh phương tây.

Những sáng tác sau "Sói thảo nguyên" có thể coi là giai đoạn tự vấn quyết liệt cũng như phơi bày một hành trình trưởng thành đầy nghiệt ngã của bản thân con người.

Bị cuốn hút bởi sự thông thái của người Ấn Độ ngay thời thơ ấu, nên khi trưởng thành, ông du lịch tới đất nước mà ông hằng mong mỏi. Tuy nhiên ông đã không tìm được lời giải đáp cho những bí ẩn của đời sống ở đây. Nhưng Phật giáo đã ảnh hưởng tới tư tưởng của ông, một ảnh hưởng hoàn toàn không chỉ giới hạn ở "Siddhartha", câu chuyện đẹp đẽ về cuộc tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống trên trái đất của chàng tín đồ Bà la môn trẻ tuổi. Chân lý cuối cùng anh ngộ được là yêu thương cuộc sống, yêu thương thế giới.

Ở tiểu thuyết vĩ đại cuối cùng "Trò chơi với chuỗi hạt cườm", Herman Hesse đã đặt con người vào một bối cảnh tương lai, thế kỷ 25. Ở đó, sự phát triển của con người không gắn liền với sự phát triển của đời sống. Mọi giới hạn về đời sống vốn có bị phá vỡ. Nó tồn tại giống như một trò chơi trật tự, và nhân vật chính, Joseph Knecht, là vật chủ trong trật tự ấy.

Ngay cả các truyện ngắn mà Hesse gọi là "cổ tích" như "Huệ tím", "Bèo tím và nụ hồng", "Bích thảo hóa thân"..., cũng được sáng tạo bằng sự tưởng tượng phong phú, đầy chất thơ, sự biến hóa đầy tính huyền thoại. Những truyện của ông dù là "cổ tích" nhưng đều không diễn ra theo nghệ thuật truyền thống : các nhân vật của ông không đi tìm kho báu hay lên ngôi vua, trở thành ông hoàng bà chúa, mà đuổi theo một lý tưởng thoát tục, một lý tưởng hành động, nuôi ý chí lên đường đi tìm chân lý.

Nơi gặp gỡ và giao lưu của hai nền văn hóa Đông Tây

Có thể khẳng định : Hermann Hesse là đại diện tiêu biểu cho nền văn học nhân đạo - tư sản Đức. Toàn bộ tác phẩm của thi hào Hermann Hesse, dù đó là thơ hay tiểu thuyết, tạp văn hay truyện ký, đều là tấm gương phản chiếu một giai đoạn lịch sử quan trọng của nước Đức và của Châu Âu cuối thế kỷ XIX đến 60 năm đầu thế kỷ thứ XX. Qua đó, người đọc cảm nhận một gương mặt nhân hậu, đầy tình yêu thương con người, một tiếng nói sắc sảo chống xã hội tư bản. 

So với các thế hệ văn hào Đức, ở Hermann Hesse có một nét rất riêng biệt, nếu không nói là đặc sắc : ông và tác phẩm của ông là điểm hẹn, là nơi gặp gỡ và giao lưu của hai nền văn hóa Đông Tây trên cả hai phương diện : nội dung và nghệ thuật.

Đó là sự hòa nhập nội tâm, một sự dấn thân mang tính tất yếu làm cho ông trở nên thật sự độc đáo và riêng biệt. 

Đó là sự tiếp thu có chọn lọc, có suy nghĩ, có thể nghiệm công phu của ông. Hình như ông còn cảm nhận hơn những người Á Đông nét chủ yếu trong lối nhìn Đông phương : không phải yếu thế, mặc cảm mà là lạc quan, cứu rỗi, tự nhiên. Sự hóa kiếp là một tiếng reo vui bất tử, là chiến thắng mọi lo âu già cỗi, mỗi phút ngắm hoa là một lần chứng ngộ chân lý, mỗi chút yêu người quên mình là một hiện thực niết bàn hạnh phúc, và làm thơ là con đường vượt thời gian hay ngậm thời gian cả quá khứ, hiện tại, vị lai vào trong chốn bất diệt...

Miệt mài nghiên cứu, học tập, tiếp thu các nền văn hóa, song trước sau ông vẫn là một nhà văn người Đức, đã thổi vào văn học Đức, văn học Châu Âu một luồng sinh khí mới, không máy móc, khuôn sáo ; đằng sau những bóng dáng quen thuộc vẫn lung linh những gương mặt, những tiếng nói cao quý và mới mẻ hơn. 

Qua những tập truyện ngắn, tiểu thuyết, tập thơ của ông, dường như người phương Đông và người phương Tây vẫn có những "tri âm", rất gần gũi và không ngừng bổ sung cho nhau. Ngoài nội dung, ông còn mang đến cho độc giả nước mình một thứ tư duy mới, tư duy hình tượng phong phú, đầy âm thanh, màu sắc. Từ ngôn ngữ, từ vựng Đức, ông đã cho xuất hiện những hình ảnh của vạn vật, những chân trời thấp thoáng gió và cỏ cây, nắng và sóng biển... Tất cả đều dào dạt, ngân vang trong một thứ hành văn đầy chất thơ, những câu thơ văn xuôi có vần, đọc lên người ta như muốn hát, muốn thả tâm hồn bay bổng.

Năm 1946, Hermann Hesse được tặng Giải Nobel Văn học. Ông cũng là tác gia Đức được đọc và dịch nhiều nhất. Hơn 100 triệu bản sách của ông được bán khắp trên thế giới. Nhiều tác phẩm của Hermann Hesse đã được dịch sang tiếng Việt, trong đó có những cuốn có 2 bản dịch khác nhau và có cuốn được tái bản đến 5 lần.

Ông mất ngày 9/8/1962 ở Thụy Sĩ, nơi ông định cư từ năm 1923. Để tưởng nhớ Hermann Hesse đã có 2 giải thưởng lớn mang tên ông : Giải thưởng Hermann Hesse và giải thưởng văn học Hermann Hesse.

Mạnh Cường (tổng hợp)

***********************

Hermann Hesse : Dòng sông chảy mãi trong trần gian

Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này".

Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học.

Cuộc đời giữa nhiều dòng văn hóa

Hermann Hesse là tác gia hiện đại nổi tiếng của Đức, ông sinh ngày 2/7/1877 ở Calw vùng Württemberg (Đức) và mất ngày 9/8/1962 ở Montagnola (Thụy Sĩ).

Cha của ông đã sống ba năm ở Ấn Độ với tư cách là nhà truyền giáo, mẹ ông là con gái của nhà truyền giáo, nhà Ấn Độ học, tiến sĩ Hermann Gundert - một người có học vấn uyên thâm về Ấn Độ và có riêng một thư viện lớn.

Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân lọai sống trong cảnh bình yên.

hess2

Nguồn gốc gia đình khiến Hermann Hesse từ nhỏ đã luân chuyển giữa hai giá trị văn hóa phương Đông và phương Tây. 

Ta luôn thấy trong nhiều tác phẩm của ông những kỷ niệm thời thơ ấu của nhà văn. Năm 1890 ông học Trường La Tinh. Năm 1891, ông học thần học. Ông bỏ học do thấy mình không thích hợp với nghề làm giáo sĩ, rồi 1892 ông học nghề buôn bán sách. 1899-1904, ông sống ở Bael (Thụy Sĩ) và mở hiệu sách cũ.

Từ 1904, ông sống ở Gaienhofen bên bờ hồ đẹp như mộng là Bodensee (bên này hồ thì thuộc về Đức, bên kia hồ thuộc Thụy Sĩ) và chuyển sang viết văn chuyên nghiệp. Ngán cảnh náo nhiệt của thời cuộc nên năm 1912, Hermann Hesse sang Thụy Sĩ, nhập quốc tịch và bắt đầu sự nghiệp sáng tác đầy thăng trầm nhưng nhiều thành tựu vĩ đại ở đất nước này.

Tuổi trẻ băn khoăn

Cuốn tiểu thuyết được chú ý đầu tiên của Hermann Hesse là Peter Camenzind (1904) có ít nhiều tính chất tự truyện: một người nguồn gốc tầm thường, có tài và có nhiều hoài bão, không thích nghi được với xã hội tư sản và đời sống thành phố, đành trở về sống ở quên nhà. Đây là một tiểu thuyết giáo dục (bildungsroman) rất hấp dẫn bạn đọc đương thời.

Cuốn tiểu thuyết tiếp theo của ông, Demien (1919) viết về tình trạng rối loạn của thanh niên tư sản. Đây là tác phẩm đã khiến rất nhiều độc giả thanh niên say đắm. Cuốn sách từng được chuyển ngữ sang tiếng Việt với nhan đề Tuổi trẻ băn khoăn.

hess3

Văn chương của Hesse vừa đậm đà triết lý nhưng vẫn hấp dẫn người đọc.

Emil Sinclair trong Tuổi trẻ băn khoăn là một cậu bé được nuôi dưỡng trong một gia đình thuộc tầng lớp trung lưu. Cậu lớn lên giữa một môi trường được mô tả là một Scheinwelt, trong lối chơi chữ nó có nghĩa là "thế giới ánh sáng", hoặc là "thế giới ảo giác".

Toàn bộ sự hiện diện của Emil có thể được tóm tắt như một cuộc đấu tranh giữa hai thế giới: thế giới ảo ảnh (khái niệm của người Hindu về giả tướng) và thế giới tâm linh siêu thực. Trong suốt diễn biến câu chuyện, được sự dẫn dắt và thúc đẩy của người bạn học cùng lớp bí ẩn - Max Demian, Emil đã thoát ly và chống lại những tư tưởng thiển cận của sắc giới (world of appearances) để cuối cùng nhận thức được bản ngã của chính mình.

Đây là giai đoạn trẻ tuổi đầy băn khoăn trăn trở nhưng cũng mang đậm dấu ấn lãng mạn phong nhiêu của văn chương Hermann Hesse.

"Sói thảo nguyên" và quá trình trưởng thành của một con người

Trong thư gửi Thomas Mann, tác giả Hermann Hesse từng viết “Cái đẹp chỉ có thể sinh ra từ những giấc mơ điên rồi". Có lẽ xuất phát từ quan điểm đó nên càng trường thành, văn chương của Hermann càng đầy ắp những ý tưởng sáng tạo điên rồ, vượt khỏi mọi đường biên của ý thức thông thường.

Sói thảo nguyên được xem là một cuốn sách đặc biệt của Hermann Hesse. Đây là tác phẩm được sinh ra trong bối cảnh nước Đức vừa trải qua Thế chiến thứ nhất, đồng thời khi ấy Hermann Hesse cũng phải hứng chịu nhiều bất hạnh cá nhân trước khi bắt đầu sáng tác.

Cuốn sách được dẫn dắt dưới dạng một tập bản thảo được viết bởi của nhân vật chính - người đàn ông trung niên tên là Harry Haller. Từ ấy, tác giả liên tục đẩy nhân vật vào những giấc mơ tưởng, trò chơi dữ dội, để đi đến cùng là sự tri nhận về bản ngã của bản thân và thế giới.

hess4

Sói thảo nguyên - Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Hermann Hesse.

Những sáng tác sau Sói thảo nguyên có thể coi là giai đoạn tự vấn quyết liệt cũng như phơi bày một hành trình trưởng thành đầy nghiệt ngã của bản thân con người.

Ở tiểu thuyết vĩ đại cuối cùng Das Glasperlenspiel (Trò chơi hạt thủy tinh), Herman Hesse đã đặt con người vào một bối cảnh tương lai, thế kỷ 25. Ở đó, sự phát triển của con người không gắn liền với sự phát triển của đời sống. Mọi giới hạn về đời sống vốn có bị phá vỡ. Nó tồn tại giống như một trò chơi trật tự, và nhân vật chính, Joseph Knecht, là vật chủ trong trật tự ấy.

Trước đây, Thomas Mann đã từng cho biết Hesse là người rất ngưỡng mộ Kafka, ngay khi Kafka còn chưa nổi tiếng. Điều đó cũng không mấy ngạc nhiên, nếu độc giả để ý đến tên nhân vật chính trong Das Glasperlenspiel cũng là một J. K.: Joseph Knecht.

Das Glasperlenspiel là cuốn tiểu thuyết dài cuối cùng đầy đủ của Hermann Hesse. Nó được bắt đầu vào năm 1931 và được xuất bản ở Thụy Sĩ vào năm 1943 sau khi bị từ chối cho xuất bản ở Đức do quan điểm chống phát xít Hesse. Một vài năm sau đó, vào năm 1946, Hesse đã giành giải Nobel Văn học. Trong diễn văn tôn vinh tại lễ trao giải thưởng, Viện Hàn lâm Thụy Điển cho rằng cuốn tiểu thuyết "chiếm một vị trí đặc biệt" trong sự nghiệp của Hesse.

Hermann Hesse là một trong những nhà văn Đức có sách bán nhiều nhất thế giới ở thế kỷ 20, sách ông được in ra 150 triệu cuốn và dịch ra 60 thứ tiếng. Rất nhiều tác phẩm của ông đã dịch ra tiếng Việt như Câu chuyện dòng sôngNhà khổ hạnh và gã lang thangTuổi trẻ băn khoănSói thảo nguyênĐâu mái nhà xưaHuệ tím...

Để tưởng niệm Hesse hai giải thưởng văn chương được đặt theo tên ông: Giải thưởng Hermann Hesse và Giải thưởng văn học Hermann Hesse.

Phong Linh

Nguồn : news.zing.vn, 01/12/2016

Published in Văn hóa