Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Tôi nghe tin ông qua đời với một chút bùi ngùi, một chút thương tiếc nhưng cũng có cả một chút vui mừng cho ông. Bùi ngùi bởi tiếc một bậc tài hoa, thương tiếc bởi tiếc một con người tử tế và dễ bao dung đến mức khó tin, và mừng vui cho ông bởi từ nay ông được tự do, những ai đến viếng ông thì con cháu ông ghi sổ, ông không phải ngồi hí hoáy ghi chép… !

tvs1

Nhà báo Trương Duy Nhất (trái) và nhà thơ Trần Vàng Sao (phải) tại Huế tháng 2/2016 - Blog Trương Duy Nhất

Tôi biết ông khá muộn màng, gặp ông đúng hai lần tại nhà ông và hai lần ấy để lại cho tôi ấn tượng khá mạnh. Lần thứ nhất, tôi và một người em (nhà văn, sống ở Huế, tôi xin giấu tên) đến nhà thăm ông ở phường Vĩ Dạ, sau một cơn mưa mùa xứ Huế. Nhà ông có một cây vú sữa khá to và lâu năm trước sân. Vào nhà ông, ấn tượng mạnh nhất vẫn là khoảng sân rộng có tiếng chim gù, cây vú sữa và những bức tranh Đạt Ma của ông vẽ.

Lần đầu thăm ông, tôi cảm nhận hầu hết các bức tranh Đạt Ma do ông vẽ đều có nét mặt rất Trần Vàng Sao. Sau khi trò chuyện thân mật, tôi hỏi ông đang vẽ Đạt Ma hay là đang vẽ chính ông. Ông chỉ cười, nói nửa giỡn nửa thật rằng Đạt Ma đang vẽ ông cũng đúng…

Sau một lúc trò chuyện, tôi chuyển đến ông một chút quà do người anh em bên hải ngoại gửi tặng ông và không quên xin ông chép cho một bài thơ mới nhất. Ông nói lâu lắm rồi không làm thơ, chỉ vẽ, mà chỉ vẽ Đạt Ma thôi, làm thơ khổ quá !

Khi tôi ra về, ông không quên hỏi tên tôi lần nữa và mở cuốn sổ ra ghi đầy đủ : Ngày… tháng… năm… anh… đến thăm vào lúc …g, ngồi chơi chừng…g rồi về… Anh người từ… đến… Nội dung nói chuyện…". Nhìn cuốn sổ dày cộm và chi chít chữ kia, tôi hỏi ông có mấy cuốn sổ như vậy. Ông nói mình không nhớ nổi, cứ cuốn này đầy lại phải ghi cuốn khác.

Người em nhà văn ở Huế phân trần "Đôi khi ông cẩn thận đến mức mình phát chán. Nhưng thực sự khó cho ông, bởi con của ông đều làm chủ tịch phường, làm chức này chức nọ, vì vấn đề chính trị của chúng, ông phải chấp nhận hi sinh nhiều thứ thôi !...".

Lần thứ hai, tôi đến thăm ông vì một lẽ khác, tôi muốn tìm hiểu câu chuyện về Huế Mậu Thân 1968, tôi đến tìm ông. Lần này tôi đi với một anh bạn nhà thơ khá nổi tiếng trên đất Huế và khá thân với ông. Nói cách khác, anh này là bạn vong niên của ông.

Lần thăm thứ hai này, có vẻ như ông mệt mỏi và yếu hơn lần thứ nhất mặc dù thời gian chỉ cách nhau chưa tròn năm. Ông nói chuyện không còn hoạt bát và có vẻ như ông rất ngại nói đến những chuyện nhạy cảm. Khi tôi hỏi về chuyện Mậu Thân, trong đó gồm cả Hoàng Phủ Ngọc Tường lúc đó đang ở đâu, thì ông lắc đầu, nói thôi đừng nhắc chuyện cũ chi thêm buồn và mệt lắm. Ông kể sang chuyện đốt cỏ tranh trên rừng để lấy muối và nhử chồn, nhử thỏ.

Nhưng trước lúc tôi về, ông không quên nói lại lần nữa "Lúc đó hình như Tường nó ở trên căn cứ, chắc là không tham gia đổ máu đâu. Nhưng mà cứ nào thì mình không rõ chứ chỗ cứ mình thì không thấy Tường… Mình tin là Tường nó tội lắm, nó là nhà thơ, không thể giết người được !".

Thực ra, tôi cảm nhận được trong sâu thẳm ông muốn nói gì, bởi ông là nhà thơ có ánh mắt biết nói và nói rất rõ. Nhưng ông không muốn bạn bè tổn thương, ông cũng chẳng muốn nhắc đến bất kì chuyện gì của quá khứ, ai làm sai thì lương tâm tự vấn mà tự đau khổ, dằng vặt… Ông từng nói vậy.

Và đương nhiên, khi tôi ra về, ông vẫn không quên lấy sổ ra ghi họ tên người thăm đầy đủ, sau đó lại nói về cây vú sữa trong sân nhà rồi tiễn khách. Vấn đề tự do của ông mà tôi nói rằng tôi có chút vui mừng vì ông được tự do khi qua đời cũng nằm ở cái cuốn sổ này. Ông chưa bao giờ có tự do ngay trong cả gia đình.

Trừ người vợ tảo tần của ông ra, dường như chung quanh ông là một hệ thống chính quyền thu nhỏ, các con của ông làm chức sắc địa phương, có người làm chủ tịch phường. Và ông không được phép nói gì thêm kể từ sau Bài thơ của một người yêu nước mình. Bởi ông làm cha, ông không thể ngồi viết những câu thơ khiến cho nồi cơm và cái ghế của con ông bị hất đổ. Và ông vẽ, ông vẽ như một sự ký thác linh hồn. Có lẽ vì vậy mà ông vẽ Đạt Ma khá là giống ông.

Có thể nói rằng hai chữ tự do theo nghĩa trọn vẹn của nó đối với cuộc đời Trần Vàng Sao là quá xa xỉ và hoang đường. Ông bị mất tự do trên mọi nghĩa. Và cuộc đời ông, có lẽ chỉ có vợ ông và những câu thơ là hiểu và gần với ông nhất !

Và hình như, ngoài những người tìm đến thăm ông như một tri âm, trong giới văn nghệ nhà nước cũng lắm kẻ đến để bá vai, quàng cổ, chụp hình cùng ông và không quên diễn một tư thế để thấy mình cao hơn ông một chút hoặc mạnh mẽ, trẻ trung hơn ông một chút… Cái "một chút" đó không biết để làm gì nhưng người ta thường làm vậy. Chính vì vậy mà khi ông qua đời, có lắm người khi ông sống cũng chẳng thân thiết chi, nhưng nghe tin ông mất là trưng ngay một tấm ảnh chụp chung với ông cùng vài lời thương tiếc. Đương nhiên có người thương tiếc ông thật, cũng có người không biết có thật tình thương tiếc ông không !

Bởi tôi nghi ngờ điều này khi họ khoác cho ông một chiếc áo dũng cảm, dám nói dám làm. Không, Trần Vàng Sao không phải là một người như họ mô tả đâu ! Ông cũng sợ nhiều thứ, ông sợ ngay cả những bài thơ của ông và ông chịu mất tự do, ngay cả việc uống cà phê với bạn bè, ông cũng hạn chế uống và mỗi lần uống, ông tranh thủ hít thở như đang nuốt lấy nuốt để bầu tự do thoáng qua. Và những lúc như vậy, nói chuyện là một cực hình đối với ông.

Tôi mới gặp ông có hai lần thôi nhưng sao tôi dám nói về ông nhiều vậy ? Bởi hai lần gặp ấy, tôi chứng kiến mọi thứ, kể cả việc mời ông cùng ra phố uống cà phê và khi đưa ông về, ông nói là dạo này hơi hụt tiền nên chẳng dám cà phê, tôi lại nhờ ông chép tặng tôi bài thơ để tôi gửi nhuận bút cho ông. Chỉ là cái cớ thôi ! Và gặp nhau cũng chỉ là cái cớ, làm thơ cũng là cái cớ, viết văn cũng là cái cớ và sống cũng chỉ là cái cớ để thấy mình tự do trong phút chốc với thiên thu !

Viết từ Sài Gòn

Nguồn : RFA, 10/05/2018

**********************

Trần Vàng Sao và lời thơ 'yêu nước đau đớn' (BBC, 10/05/2018)

tvs2

Nhà thơ Trần Vàng Sao, được biết đến với những bài thơ 'yêu nước' nhưng 'đau đớn'

Nhà thơ Trần Vàng Sao, được biết đến với những bài thơ 'yêu nước' nhưng 'đau đớn', qua đời ngày 10/5.

"Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình" là tên một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ gốc Huế sinh năm 1942.

Nhưng nổi tiếng hơn có lẽ phải kể đến tập thơ "Bài thơ của một người yêu nước mình", do Nhà xuất bản Giấy Vụn xuất bản.

Nhà thơ 'yêu nước mình'

Báo chí của nhà nước Việt Nam có nhiều bài viết về nhà thơ Vàng Sao sau khi ông mất.

Tờ Tuổi Trẻ gọi ông là 'nhà thơ yêu nước mình', in năm 1967, được đánh giá là một trong 100 bài thơ Việt hay nhất thế kỷ XX.

Còn tờ Người Lao Động nói thơ của Vàng Sao có 'giọng điệu không lẫn với ai.

Ông Hồ Thế Hà, Đại học Khoa học Huế, được Tuổi Trẻ trích lời, nói "Bài thơ của một người yêu nước mình" là điển hình cho phong cách Trần Vàng Sao.

Bài thơ của một người yêu nước mình

Buổi sáng tôi mặc áo đi giày 

                                   ra đứng ngoài đường 
Gió thổi những bông nứa trắng bên sông 
Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua 
Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà 
Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé 
Tôi yêu đất nước này như thế 
Mỗi buổi mai 
Bầy chim sẻ ngoài sân 
Gió mát và trong 
Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng 
Tôi vẫn sống 
            vẫn ăn 
                  vẫn thở 
                           như mọi người 
  
Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ 
Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu 
Một vết bùn khô trên mặt đá 
Không có ai chia tay 
Cũng nhớ một tiếng còi tàu. 
Mẹ tôi thức khuya dậy sớm 
Năm nay ngoài năm mươi tuổi 
Chồng chết đã mười mấy năm 
Thuở tôi mới đọc được i tờ 
Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần 
Nước sông gạo chợ 
Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ 
Sống qua ngày nên phải nghiến răng 
Cũng không vui nên mẹ ít khi cười 
Những buổi trưa buổi tối 
Ngồi một mình hay khóc 
Vẫn thở dài mà không nói ra 
Thương con không cha 
Hẩm hiu côi cút 
Tôi yêu đất nước này xót xa 
Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng 
Thương tôi nên ở góa nuôi tôi 
Những đứa nhà giàu hằng ngày chửi bới 
Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc, 
                                               như cho một đứa hủi 
Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới 
Thắp ba cây hương 
Với mấy bông hải đường 
Mẹ tôi khóc thút thít 
Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người 
Con nó còn nhỏ dại 
Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi 
Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng 
Tôi yêu đất nước này cay đắng 
Những năm dài thắp đuốc đi đêm 
Quen thân rồi không ai còn nhớ tên 
Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng 
Áo mồ hôi những buổi chợ về 
Đời cúi thấp 
Giành từng lon gạo mốc, 
Từng cọng rau hột muối 
Vui sao khi con bữa đói bữa no 
Mẹ thương con nên cách trở sông đò 
Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc 
Đêm nào mẹ cũng khóc 
Đêm nào mẹ cũng khấn thầm 
Mong con khôn lớn cất mặt với đời 
Tôi yêu đất nước này khôn nguôi 
Tôi yêu mẹ tôi áo rách 
Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.

Tôi bước đi 
Mưa mỗi lúc mỗi to, 
Sao hôm nay lòng thấy chật 
Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc 
Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua 
Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước 
Chim đậu trên cành chim không hót 
Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may 
Tôi yêu đất nước này những buổi mai 
Không ai cười không tiếng hát trẻ con 
Đất đá cỏ cây ơi 
Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha 
Ăn quán nằm cầu 
Hai hàng nước mắt chảy ra 
Mỗi đêm cầu trời khấn phật, tai qua nạn khỏi 
Tôi yêu đất nước này áo rách 
Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió 
Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở 
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài 
Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai 
Tôi yêu đất nước này như thế 
Như yêu cây cỏ ở trong vườn 
Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương 
Nuôi tôi thành người hôm nay 
Yêu một giọng hát hay 
Có bài mái đẩy thơm hoa dại 
Có sáu câu vọng cổ chứa chan 
Có ba ông táo thờ trong bếp 
Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen 
Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em 
Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò 
Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ 
Trong bước chân chim sẻ 
Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi 
Hay nói chuyện huyên thuyên 
Chuyện trên trời dưới đất rất lạ 
Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá 
Cứ hay cười mà không biết có người buồn. 
Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn 
Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại 
Ngó cây cam cây vải 
Thương mẹ già như chuối ba hương 
Em chưa buồn 
Vì chưa rách áo 
Tôi yêu đất nước này rau cháo 
Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu 
Áo đứt nút qua cầu gió bay 
Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan 
Tôi yêu đất nước này lầm than 
Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển 
Ăn rau rìu rau éo rau trai 
Nuôi lớn người từ ngày mở đất 
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật 
Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ 
Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng.

Tôi đi hết một ngày 
Gặp toàn người lạ 
Chưa ai biết chưa ai quen 
Không biết tuổi không biết tên 
Cùng sống chung trên đất 
Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam 
Cùng có chung tên gọi Việt Nam 
Mang vết thương chảy máu ngoài tim 
Cùng nhức nhối với người chết oan ức 
Đấm ngực giận hờn tức tối 
Cùng anh em cất cao tiếng nói 
Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do 
Bữa ăn nào cũng phải được no 
Mùa lạnh phải có áo ấm 
Được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm 
Được thờ cúng những người mình tôn kính 
Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định.

Tôi trở về căn nhà nhỏ 
Đèn thắp ngọn lù mù 
Gió thổi trong lá cây xào xạc 
Vườn đêm thơm mát 
Bát canh rau dền có ớt chìa vôi 
Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc 
Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái tử 
Đất nước hôm nay đã thấm hồn người 
Ve sắp kêu mùa hạ 
Nên không còn mấy thu 
Đất nước này còn chua xót 
Nên trông ngày thống nhất 
Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam 
Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc 
Lòng vui hôm nay không thấy chật 
Tôi yêu đất nước này chân thật 
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi 
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi 
Và yêu tôi đã biết làm người 
Cứ trông đất nước mình thống nhất.

(19/12/1967)

Trang VnExpress bình luận rằng :

"Bài thơ dài 155 câu được tác giả trình bày theo lối tự do. Nét đặc trưng của bài thơ là sự hòa quyện giữa cảm xúc trữ tình của tác giả với hình tượng đất nước, đặt trong liên hệ với người mẹ, người thân, người yêu và quê hương khốn khó cùng khát vọng độc lập tự do, khát vọng làm người chân chính".

'Nhà thơ có số phận thăng trầm'

Tờ Người Lao Động gọi ông là 'nhà thơ có số phận thăng trầm' trên bài viết ngày 10/5.

Trước đây, có vẻ như ít báo trong nước nhác đến nhà thơ Trần Vàng Sao. Còn những bài thơ táo bạo của ông, như bài 'Tau chưởi', thì chỉ có cách tìm trên Google, theo nhà văn Nguyễn Viện.

tau chưởi

 

tau tức quá rồi

tau chịu không nổi

tau nghẹn cuống họng

tau lộn ruột lộn gan

tau cũng có chân có tay

tau cũng có đầu có óc

có miệng có mắt

có ông bà

có cha mẹ

có vợ con có ngày sinh tháng đẻ

có bàn thờ tổ tiên một tháng hai lần

rằm mồng một hương khói bông ba hoa quả

tau đầu tắt mặt tối

đổ mồ hôi sôi nước mắt

vẫn đồng không trự nõ có

suốt cả đời ăn tro mò trú

suốt cả đời khố chuối Trần Minh

kêu trời không thấu

tau phải câm miệng hến

không được nói

không được la hét

nghĩ có tức không

tau chưởi

tau phải chưởi

tau chưởi bây

tau chưởi thẳng vào mặt bây

không bóng không gió

không chó không mèo

mười hai nhánh họ bây đem lư hương bát nước

giường thờ chiếu trải sắp hàng một dãy ra đây

đặng nghe tau chưởi

tau kêu thằng khai canh khai khẩn tam đợi mười đời

cao tằng cố tổ ông nội ông ngoại cha mẹ chú bác cô dì

con cháu thân hơi cật ruột bây tau chưởi

tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống

hết nối dõi tông đường

tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp

tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu

tam giáo đạo sư bây

cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây

hà hơi trún nước miếng cho bây

bây ỉ thế ỉ thần

cậy nhà cao cửa rộng

cậy tiền rương bạc đống

bây ăn tai nói ngược

ăn hô nói thừa

đòn xóc nhọn hai đầu

ngậm máu phun người

bây bứng cây sống trồng cây chết

vu oan giá hoạ

giết người không gươm không dao

đang sống bây giả đò chết

người chết bây dựng đứng cho sống

bây sâu độc thiểm phước

bây thủ đoạn gian manh

bây là rắn

rắn

toàn là rắn

như cú dòm nhà bệnh

đêm bây mò

ngày bây rình

dưới giường

trên bàn thờ

trong xó bếp

bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra

bây mang bí danh

anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường

lúc bây thật lúc bây giả

khi bây ẩn khi bây hiện

lúc người lúc ma

lúc lên tay múa ngón sủi bọt mép gào thét

lúc trợn mắt khua môi múa mỏ đả đảo muôn năm

lúc như thầy tu vào hạ

lúc như con nít đói bụng đòi ăn

hai con mắt bây đứng tròng

bây bắt hết mọi người trứơc khi chết phải hô

cha mẹ bây ông nội ông ngoại bây tiên sư cố tổ bây

sống dai đời đời kiếp kiếp

phải quỳ gối cúi đầu

nghe bây nói không được cãi

phải suốt đời làm người có tội

vạn đợi đội ơn bây

đứa nào không nghe bây hớt mỏ chôn sống

thằng nào không sợ bây vằm mặt thủ tiêu

bây làm cho mọi người tránh nhau

bây làm cho mọi người thấy nhau nhổ nước miếng

đồ phản động

đồ chống đối

đồ không đá bàn thờ tổ tiên

đồ không biết đốt chùa thiêu Phật

thượng tổ cô bà bây

mụ cô tam đợi mười đời bây

tau xanh xương mét máu

thân tàn ma dại

rách như cái xơ mướp chùi trách nồi không sạch

mả ông bà cố tổ bây kết hết à

tụi bây thằng nào cũng híp mắt hai cằm

bây ăn chi mà ăn đoản hậu

ăn quá dã man

bây ăn tươi nuốt sống

mà miệng không dính máu

người chết bây cũng không chừa

năm năm mười năm hai mươi năm

xương chân xương tay sọ dừa vải liệm`

bây nhai bây khới bây mút

cả húp cả chan bây còn kêu van xót ruột

bao nhiêu người chết diều tha quạ rứt xương

khô cốt tàn dọc bờ dọc bụi giữa núi giữa rừng

để bây xây lăng đắp mộ dựng tượng dựng đài cho

cha mẹ cố tổ bây

hỡi cô hồn các đảng

hỡi âm binh bộ hạ

hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió

trong am trong miếu giữa chợ giữa đường

đầu sông cuối bãi

móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó

cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi

bây giết người như thế

bây phải chết như thế

ác lai thì ác báo

tau chưởi ngày chưởi đêm

mới bét con mắt ra tau chưởi

chập choạng chạng vạng tau chưởi

nửa đêm gà gáy tau chưởi

giữa trưa đứng bóng tau chưởi

bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi

mười hai nhánh họ bây

cao tằng cố tổ bây

tiên sư cha bây

tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén

xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng

tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ

mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm

tau chưởi  cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc

đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu

tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn

đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ

bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra

cũng phải tránh xa

tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn

sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn

chết không được mà sống cũng không được

tau chưởi cho dứt nọc dòng  giống của bây cho bây chết sạch hết

không bà không con

không phúng không điếu

không tưởng không niệm

không mồ không mả

tuyệt tự vô dư

tau chưởi cho bây chết hết

chết sạch hết

không còn một con

không còn một thằng

không còn một mống

chết tiệt hết

hết đời bây

29 tháng 6 năm 1997

Năm 1988, nhà thơ Trần Vàng Sao tiếp tục nổi tiếng với bài thơ "Người đàn ông 43 tuổi nói về mình" đăng trên tạp chí Sông Hương năm 1988. Một bài thơ mang đến cho ông nhiều 'khổ sở'.

Người đàn ông 43 tuổi nói về mình

1.
tôi tuổi tỵ
năm nay bốn mươi ba tuổi
thường không có một đồng trong túi
buổi sáng buổi chiều
thứ hai thứ ba thứ bảy chủ nhật
trong nhà ngoài sân với hai đứa con
cây cà cây ớt
con chó con mèo
cái đầu gãy cái tay gãy của con búp bê
cọng cỏ ngọn lá vú sữa khô
thúng mủng chai chén sách vở quần áo mũ nón cuốc rựa trên ghế dưới bàn
hai ba ngày một tuần một tháng có khi không đi đâu hết
một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa
miếng nước trà mốc nguội có mùi bông lài rát cổ
cũng không có chi phiền
vấn một điếu thuốc hút
hai ba lần tắt đỏ
rồi nửa chừng rách giấy
bạn bè gặp nhau
cho uống một ly cà phê
một lần
qua hai lần phải tránh
không phải ai cũng nghĩ như mình
nhiều đứa vui gặp nhau cho năm ba đồng một chục
đưa tay cầm lấy
miệng nói không được 

2.
tôi thấy tôi như người tù được thả rông
lang thang giữa đường giữa phố
nhìn hết mọi người
xem mình lâu ngày mặt mũi có khác người không
tôi đi lui
tôi đi tới
phố phường đông chật
tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ
chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng
tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc
lấy chân hất một hòn đá
cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề đường
rồi đi về
qua cầu dép sút một quai 
tôi không muốn nhớ gì hết

3.
tôi ngồi trên hòn đá trước nhà
buổi chiều không có một con chim đậu trên cây
đám trẻ con chia phe bắn nhau cười la ngoài sân
đứa sống đứa chết cãi nhau ăn gian chưởi thề
những người đi bán về nói chuyện to
hai đứa nhỏ nhà bên cạnh cầm đèn che miếng lá chuối
qua xin lửa hỏi tôi nấu cơm chưa
tôi cười lắc đầu muốn đi ngủ
trong gió có mùi rơm cháy
tôi không biết làm gì hết
tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát
đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua
tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một cây đèn để lên bàn thờ
hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về
trời còn lâu mới tối
tôi đi gánh một đôi nước uống

4.
tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày của mình
không định được ngày mai
có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai 
cái kẹo gừng
có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ 
           lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt
mả cha cuộc đời quá vô hậu
cơm không có mà ăn
ngó lui ngó tới không biết thù ai
những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất

5.
lâu ngày tôi thấy quen đi
như quen thân thể của mình
tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi
buổi chiều không có cơm ăn
những con ruồi ăn nước mũi khô trên má
           những đứa đau quan sát những con chuột
                                  chết lòi ruột ở bến xe đò
những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em
          con cái chưởi bới la hét trong bữa ăn
người điên ở trần đứng làm thinh
          giữa trời mưa ngoài chợ
những ngày hết gạo hết tiền hết củi
          muối sống không còn một hột của tôi
những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt
hai mắt tôi mở to
đầu tôi cúi thấp
miệng tôi há ra
những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm
                               dồn cứng chật cuống họng

nói thật lúc này tôi muốn được say rượu
họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng

6.
nhiều khi tôi quá chán
chân tay rã rời
đầu óc đau nhức
không muốn làm gì hết
mấy đứa nhỏ chơi buôn bán bỏ đi đâu không biết
                                           để đất đá lá cây đầy nhà
tôi dựa cửa ngồi yên một chỗ
dụi mắt nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác
nói chi tới những đứa đã chết trên rừng giữa phố
bạn bè có đứa giàu đứa nghèo
đứa ngụy đứa cách mạng
đứa của tiền ăn tiêu mấy không hết
đứa không có được một cái áo lành
đứa đi kinh tế mới ba bốn bảy tám năm
                            trở về xách một cái bị lát
 mặt cắt không có một hột máu
đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn
                            chờ khách ở bến xe
đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm
có đứa râu tóc dài che kín mặt
có đứa tàn không nhớ mình tên chi
có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam
                                             ăn chợ ngủ đường
mỗi lần gặp nhau mở to mắt cười hút một điếu thuốc
hết chuyện nói

hai đứa con đi chơi về cười nói
đứa nhỏ bắt tôi đánh trống
             cho nó làm ông địa múa thiên cẩu

7.
cái trống lon mặt ni lông và hai chiếc đũa tre
tôi đánh
múa đi các con
này đây cái nón gãy vành làm đầu thiên cẩu
và sợi dây chuối treo ngọn lá làm tiền
múa đi các con  
cái bụng ông địa to tròn giơ lỗ rún gài nút áo không được
ông địa chống tay vỗ bụng ngửa mặt lên trời cười ha ha
tôi vỗ tay hoan hô
và không biết mình có nhớ ra được
                             cái mặt ông địa không

Tháng chín 1984

Bài này chỉ tự sự, "miêu tả rất thật cảnh sống lặng lẽ của mình mà cũng đủ khiến nhiều kẻ quyền hành bất an và ra tay bịt miệng ông", cây bút Uyên Vũ từ Sài Gòn từng bình luận trên một bài viết về những vần thơ 'đau đớn' của Trần Vàng Sao gửi BBC.

tvs3

           Nhà thơ Trần Vàng Sao không còn nữa

Tên tuổi ông được để ý hơn từ năm 2005 với bài Bài thơ của một người yêu nước mình" và nhất là khi mạng talawas đăng tập hồi ký "Tôi bị bắt", kể về những năm tháng ông "bị bắt rồi được thả ra và sống như trong tù" (chữ của Trần Vàng Sao).

Còn nhà thơ Trần Mạnh Hảo thì gọi Trần Vàng Sao là 'nhà thơ bị cầm tù trong sự thật' Facebook cá nhân. Ông Hảo nhớ lại :

"Thỉnh thoảng ra Huế, tôi lại ghé ngôi nhà ở Vĩ Dạ thăm Trần Vàng Sao. Anh có gương mặt cổ quái, già nua như người của thế kỷ thứ 17, 18 còn sót lại. Thông qua cuốn sách anh viết : "Tôi bị bắt"... tôi tìm thấy ngôi nhà tù vĩ đại trùm lên cả thế hệ chúng tôi. Đó là những tù nhân được thả rông đã bị cầm tù tư tưởng, thậm chí tâm hồn bị nhốt trong tù mà lại cảm thấy tự do".

Theo tiểu sử của nhà thơ Vàng Sao được Trần Mạnh Hảo đăng ở bài viết trên trang cá nhân, Vàng Sao là con liệt sĩ. Ông "tham gia phong trào thanh niên sinh viên đấu tranh theo Việt Cộng" và từng sống năm năm tại "chiến khu rừng Thừa Thiên Huế" để "viết báo viết văn phục vụ đảng".

Nhưng "miền Bắc xã hội chủ nghĩa năm 1970 nghèo đói" khiến ông "thất vọng".

"Ông bắt đầu viết nhật ký để thoát khỏi những ẩn ức thực tại có thể làm anh tuyệt vọng đến vỡ tim mà chết vì cái xã hội cộng sản bánh vẽ kia…", nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết.

"Từ một nhà thơ dùng tên lá cờ làm bút hiệu, ông đã bị đấu tố, bị coi là kẻ phản động, nói xấu lãnh tụ, đả kích chế độ. Ông đã bị trù dập, cô lập, và bị hành hạ đến sống dở chết dở trở thành một kẻ bị mọi người khinh bỉ, xa lánh", theo tác giả Uyên Vũ từ Thành phố Hồ Chí Minh.

'Vĩnh biệt thi sĩ Trần Vàng Sao'

Lời tiễn biệt thi sĩ Trần Vàng Sao cũng được nhiều cây bút đăng tải trên mạng xã hội ngày 10/5.

Facebooker Dũng Trung kể lại : "Tháng 9/2013, tôi và Lê Minh Phong ghé Huế thăm ông, uống với ông vài chai bia, nghe ông kể chuyện bị đoạ đày kinh khiếp…".

"Chẳng biết sao lúc đó tôi lại hứng thú lấy bút giấy ra ký hoạ chân dung và nụ cười của người đàn ông khốn khổ này".

"Hôm nay ông đi. Ông đi thanh thản !"

"Cầu mong ông đến được nơi nào đó vui vẻ hơn, hạng phúc hơn... Đỡ đói, rét hơn nơi này".

"Hy vọng ở nơi mới, đất nước mới, đồng bào mới, các "đồng chí" mới... sẽ ăn ở, đối xử với ông tử tế hơn !"

Nhà thơ Trần Mạnh Hảo cảm thán : "Anh đã đi theo cha mình là liệt sĩ, nguyện đứng dưới ngọn cờ đỏ sao vàng mãi mãi nên mới có bút danh Trần Vàng Sao…"

"Ngôi sao vàng kia không chấp nhận anh, không cho phép anh nhìn và viết ra sự thật. Ngạn ngữ Pháp có câu : "Với chữ nếu, ta có thể bỏ tháp Eiffel vào cái chai". Vâng, nếu sống lại, trở về thời 20 tuổi, Trần Vàng Sao chắc chắn sẽ lấy bút danh là Trần Vàng… Vĩnh biệt ngôi sao của ảo tưởng đã bị sự giả dối nuốt sống, cũng như cuộc đời anh đã bị lý tưởng kia nuối sống và nhả ra một cái bã người tội nghiệp, khổ đau uất hận đến chết . Trần Vàng… Sao, thương anh vô cùng ! Anh một nhà thơ đã bị sự thật cầm tù…".

Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1942 ở Thừa Thiên, Huế.

Năm 1962 ông thi đỗ tú tài rồi dạy học ở Truồi, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha.

Từ 1965 đến 1970, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao.

Sau tháng 4 năm 1975, Trần Vàng Sao xung phong về quê công tác nhưng ông bị gạt khỏi danh sách như một kẻ "có vấn đề".

Ông tự trở lại Huế làm liên lạc ở xã, sau đó được bố trí công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế rồi được điều về làm liên lạc ở xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), Huế cho đến khi nghỉ hưu năm 1984.

Nguồn : BBC, 10/05/2018

Published in Văn hóa