Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Bất cập trong xây dựng chính sách của Việt Nam : nhìn từ việc huy động vốn trong dân

Báo VnExpress ngày 13/10 đưa tin, khi Thường vụ Quốc hội nghe Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, người thay mặt Chính phủ trình bày tờ trình kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế 2021/2025 thì Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và bà Nguyễn Thị Thanh, Trưởng ban Công tác đại biểu Quốc hội cho rằng tiền trong dân còn nhiều nên chính sách của kế hoạch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2021/2025 phải làm sao khơi thông được nguồn lực này, bên cạnh vốn công, FDI.

huydongvon1

Tình hình thay đổi, kế hoạch vẫn không đổi ?

Bản kế hoạch 5 năm giao đoạn 2021 – 2025 này đã được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII thông qua, Hội nghị Ban chấp hành trung ương kỳ 4 Khoá XIII một lần nữa thông qua. Vì vậy, nội dung cơ bản của nó đã được chuẩn bị từ ít nhất là trước năm 2019, trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát khoảng một năm.

Trong khi đó, đại dịch Covid 19 đã hủy hoại nặng nề cả tinh thần lẫn vật chất của nhân loại. Việt Nam không là ngoại lệ.

Vậy mà bản kế hoạch này không tính gì đến sự tàn phá của đại dịch Covid 19 cả trước mắt cũng như lâu dài, cả trong nước và thế giới.

Rất nhiều câu hỏi cần được đặt ra : Việt Nam có còn giữ mục tiêu kinh tế xã hội đề ra cho 2025 (và cả 2030, 2045) nữa không ? Nếu giữ nguyên mục tiêu thì giải pháp đột phá là gì ?

Chỉ cần đối chiếu nhanh bản kế hoạch vừa công bố thì thấy các giải pháp giữ nguyên như những gì soạn thảo từ trước khi bùng phát đại dịch COVID-19.

Với cách làm chính sách bất chấp thực tế như vậy, đường hướng và kế hoạch phát triển của Việt Nam sẽ đi về đâu ?

Việt Nam : Chính phủ đã mượn nợ trong dân rất lớn

Ngay cả khi giờ này dân còn tiền, dân vẫn rất lo ngại nếu đưa tiền cho Chính phủ và doanh nghiệp nhà nước, bởi lẽ xét về cả hai mặt nguyên lý hoạt động và chứng minh qua thực tiễn hoạt động, chi tiêu của nhà nước và doanh nghiệp công rất kém hiệu quả.

Khi doanh nghiệp nhà nước thua lỗ thậm chí phá sản thì chỉ còn cách in tiền mà trả ? Lúc dó lạm phát sẽ tăng cao. Tiền trả cho dân trở thành giấy lộn.

Việt Nam cần mạch lạc trong tư duy, xác định rõ là thu hút tiền dân để làm gì. Có phải là qua phát hành trái phiếu Chính phủ để tăng chi tiêu Chính phủ ?

Theo tôi tìm hiểu, hiện nay Việt Nam là một trong số ít quốc gia đang phát triển, đã mượn nợ trong nước (qua trái phiếu trong nước) để chỉ tiêu hết sức lớn.

Trên thực tế, Việt Nam đã dựa vào thị trường trái phiếu trong nước để tài trợ phần lớn thâm hụt kể từ năm 2012. Hình dưới đây cho thấy kể từ năm 2012, khi số liệu lần đầu tiên được Bộ Tài chính Việt Nam cung cấp, cả trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính phủ trong nước đã tăng trưởng nhanh chóng, gần 23% mỗi năm.

huydongvon2

Nguồn : Bộ Tài chính và Ngân hàng Phát Triển Châu Á 2021 (see AsianBondsOnline – Data Portal)

Chính sách "đàn áp tài chính"

Nợ công trong nước của Việt Nam bao gồm chứng khoán kho bạc và nợ của các doanh nghiệp nhà nước.

Vào cuối năm 2020, theo số liệu của Bộ Tài chính và Ngân hàng Phát triển Châu Á, Việt Nam có khoảng 130 tỷ USD (48% GDP) trái phiếu trong nước đang lưu hành, khoảng 36% trong số đó được phát hành bởi các doanh nghiệp và phần còn lại là của Chính phủ.

Như vậy, số tiền nợ trong nước và nợ nước ngoài của Việt Nam gần như ngang nhau.

Lãi suất của cổ phiếu nợ đang tồn đọng này ở mức thấp. Do đó, Việt Nam đã dựa vào "đàn áp tài chính" (financial repression) trong nước để tài trợ cho thâm hụt ngân sách.

Nếu số tiền này được dùng vào việc để phát triển kinh tế như đầu tư vào hạ tầng cơ sở, giúp đỡ các doanh nghiệp tư phát triển, huấn luyện lao động có tay nghề cao vv…thì tốt nhưng cho đến nay không thấy như vậy.

Nếu Chính phủ lấy tiền để dành của dân bằng cách trả tiền lời thấp trên các công khố phiếu, như Việt Nam đang làm, điều này chứng tỏ có "đàn áp tài chính" và làm nản lòng tư nhân muốn để dành cũng như Chính phủ cạnh tranh với việc dùng vốn của tư nhân dẫn đến làm giảm đầu tư và giảm mức tăng trưởng của kinh tế.

"Đàn áp tài chính" là cách một chính phủ làm lũng đoạn thị trường tài chính và tiền tệ, hầu có thể mượn tiền với tiền lời thấp từ lãnh vực tư vào cho ngân sách, thí dụ, giữ lãi suất cho thật thấp để bán trái phiếu kho bạc cho nhiều mà không phải trả nhiều tiền lãi.

Từ năm 2014, lãi suất ngắn hạn không quá 5% so với 14% trước năm 2012. Chính phủ khi mượn nợ qua công khố phiếu được trả tiền lời hết sức thấp, trong khi các doanh nghiệp tư phải trả hơn 3-4 lần mức tiền lời này.

Nếu Chính phủ trả bằng tiền lời của thị trường thì số tiền mượn nợ càng ngày càng tăng lên một cách nguy hiểm. Do đó tư duy "tiền để dành của dân chúng còn nhiều và Chính phủ nên mượn" là sai.

Mượn nợ trong nước không khác gì đi mượn nợ ở ngoài. Việt Nam cần phải dùng số tiền nợ một cách cẩn thận và có hiệu quả chứ không thể xài ẩu được, nếu không sẽ làm cho dân chúng mất tin tưởng như một số nước ở Nam Mỹ và sẽ dẫn đến khủng hoảng tài chính vv…

Con số nợ công thực tế của Việt Nam

Theo định nghĩa của Bộ Tài chính :

Nợ chính phủ : Là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ.

Nợ được Chính phủ bảo lãnh : Là khoản nợ do doanh nghiệp, ngân hàng chính sách của Nhà nước vay được Chính phủ bảo lãnh.

Nợ chính quyền địa phương : Là khoản nợ phát sinh do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vay. Nợ Chính quyền địa phương bao gồm nợ do phát hành trái phiếu chính quyền địa phương ; Nợ do vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài ; Nợ của ngân sách địa phương vay từ ngân hàng chính sách của Nhà nước, quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh, ngân quỹ nhà nước và vay khác theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.

Nợ của chính phủ trung ương : 121.1 tỷ US (2019).

Nợ chính phủ bảo lãnh : 17. 4 tỷ US.

Nợ của chính quyền địa phương : 1.9 tỷ

Như vậy, nợ "công" là 140.4 tỷ US vào năm 2019.

Đây là 3 khoản riêng biệt, vì thế Bộ Tài chính tính rằng Nợ công bằng 55% GDP.

Nợ Chính phủ : 48% GDP (121 tỷ US)

Nợ do Chính phủ bảo lãnh 6.7% (17. tỷ US)

Nợ của chính quyền địa phương : 0.7%

Nợ "công" theo kiểu định nghĩa của Việt Nam chỉ là nợ của chính phủ cộng nợ của doanh nghiệp do chính phủ bảo lãnh.

Nhưng nợ công mà Bộ Tài chính đưa ra con số chưa bao gồm nợ của doanh nghiệp nhà nước.

Nếu tính thêm nợ của doanh nghiệp nhà nước theo đúng định nghĩa quốc tế, nợ công của VN sẽ gấp đôi số trên.

Tôi vẫn còn nhớ, ngay từ năm 2016, theo tính toán của chuyên gia Vũ Quang Việt, nợ của doanh nghiệp phi tài chính nhà nước bằng nợ của "công nói trên" (không tính doanh nghiệp tài chính vì nợ của họ là để tạo nợ cho khu vực khác.)

Như vậy tổng nợ công có thể lên tới 280 tỷ USD năm 2019, và như thế sẽ bằng 110% GDP, chứ không phải 55%.

Việc đúng phải làm

Theo tôi, Việt Nam muốn huy động được tiền vốn trong dân, thì cần ba giải pháp thực chất :

(1) Quốc hội phải sửa lại các đạo luật về tín dụng, cơ chế huy động trái phiếu, quan hệ thương mại, quan hệ dân sự, quan hệ hành chính… với những cam kết cụ thể, đủ sức ràng buộc giữa nhà nước (bên huy động) và người dân (bên cho vay) cùng với chế tài rõ rằng, minh bạch.

(2) Người đứng đầu các cơ quan nhà nước, nhất là Chủ tịch Quốc hội cần phải cam kết các đạo luật được sửa đổi theo hướng đó, và sẽ được thực thi nghiêm minh, bảo đảm củng cố được niềm tin của người cho vay, nhà đầu tư.

(3) Việt Nam phải bằng hành động cụ thể để chứng minh sự cam kết trong các văn bản pháp lý và tính chịu trách nhiệm của người đứng đầu của chính quyền ở các cấp. Nếu không như vậy, người dân sẽ không an tâm bỏ tiền ra, bởi họ đã bị lừa nhiều lần rồi !

Lời kết

Ông Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nói vốn trong dân còn nhiều là đúng. Nhưng trách nhiệm của nhà nước kiến tạo là có chính sách để tạo môi trường cho dân sử dụng vốn của mình làm giàu cho bản thân, cho xã hội, chứ không phải là tìm cách huy động, thu gom, để rồi làm nó tan biến giống như nguồn vốn khổng lồ của nhà nước.

Tô Văn Trường

Nguồn : https://usvietnam.uoregon.edu/bat-cap-trong-xay-dung…/, 13/10/2021

Published in Diễn đàn

Báo cáo công nhân ở Sài Gòn giảm đình công : thực chất hay tô hồng ? (RFA, 13/11/2019)

Công nhân biểu tình giảm mạnh

Tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 22 của Chính quyền thành phố Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng quan hệ lao động giữa người lao động với doanh nghiệp, do Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày 13/11, một báo cáo được công bố cho thấy từ năm 2008 đến năm 2018, số vụ đình công của công nhân trên toàn phạm vi của thành phố giảm mạnh.

vn1

Công nhân Công ty Pouyuen biểu tình, ngày 11/06/18 phản đối Dự luật Đặc khu. RFA

Số liệu cụ thể được đưa ra trong báo cáo ghi nhận trong một thập niên qua đã xảy ra tổng cộng 1.022 vụ công nhân đình công ở Thành phố Hồ Chí Minh, với gần 392 ngàn người tham gia. Trong đó gồm hai giai đoạn, từ năm 2008 đến năm 2013 có 737 vụ đình công (chiếm hơn 73% tổng số vụ) và từ năm 2014 đến năm 2018 số vụ đình công giảm xuống còn 285 vụ (chiếm 26% tổng số vụ). Số công nhân tham gia đình công cũng được ghi nhận giảm nhiều : hơn 289 ngàn người trong giai đoạn 1 (74%) và xấp xỉ 102 ngàn người trong giai đoạn 2 (26%).

Báo cáo ghi rõ một trong những nguyên nhân chính khiến cho tình hình đình công của công nhân giảm mạnh là nhờ vào đối thoại giữa công nhân và doanh nghiệp, góp phần xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa và ổn định.

Bên cạnh đó, Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh còn đưa ra một số nguyên nhân tác động đến tình hình quan hệ lao động trong phạm vi thành phố chuyển biến tích cực do bởi chính quyền làm tốt công tác trong vấn đề quan hệ lao động đối với doanh nghiệp và cả giới công nhân, như quan tâm chăm lo đời sống vật chất lẫn tinh thần cho người lao động hay tạo nền tảng xây dựng quan hệ lao động ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp.

Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh còn khẳng định trong báo cáo rằng kết quả đạt được do hoàn thiện dần hệ thống pháp luật, vai trò của tổ chức công đoàn được phát huy, đặc biệt là tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã giúp cho giải quyết tranh chấp lao động có hiệu quả và ổn định tình hình lao động.

Giảm mạnh do tăng cường đàn áp ?

Liên quan kết quả báo cáo vừa nêu của Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh, Đại diện của Phong Trào Lao Động Việt, một tổ chức công đoàn độc lập, ông Đoàn Huy Chương, trong cùng ngày 13/11 lên tiếng với RFA về nhận định của ông :

"Thực chất ra không phải như họ nói. Những gì họ nói chẳng qua là họ ca ngợi về sự lãnh đạo tài tình của họ thôi, chứ công đoàn hiện nay không bảo vệ quyền lợi gì cho người công nhân hết.

Nguyên nhân số vụ đình công giảm ở Thành phố Hồ Chí Minh không phải là do điều kiện thay đổi, mà họ thành lập cả trăm chi bộ, gọi là công đoàn cơ sở. Những công đoàn cơ sở này không nhằm mục đích bảo vệ cho công nhân mà gồm có những công an, mật vụ, những người của Đảng cài cắm vô để kiểm soát công nhân, cho nên công nhân không có cơ hội để đình công. Những người nào tổ chức đình công thì họ tìm cớ để đuổi việc hay bắt bớ".

vn2

Ảnh minh họa : Một buổi đối thoại giữa doanh nghiệp và đại diện của công nhân trong năm 2019. Courtesy : VGP News

Theo ghi nhận của Phong Trào Lao Động Việt thì kể từ sau ngày biểu tình phản đối hai Dự luật Đặc khu và An ninh mạng nổ ra hồi tháng 6 năm 2018, hàng trăm công nhân trên cả nước tham gia đợt biểu tình này đã bị bắt và truy tố. Ông Đoàn Huy Chương nhấn mạnh :

"Họ quy chụp những công nhân là những người ‘gây rối trật tự’ hay những người ‘phá hoại tài sản’ thì không bao giờ họ đăng báo, mà họ âm thầm tới bắt đi. Đặc biệt, ở ngay Công ty Pouyuen, trong Khu công nghiệp Tân Tạo thì có 130 người bị bắt, sau ngày biểu tình vào hôm mùng 10/06/18 kéo dài cho đến đầu tháng 1 năm 2019. Cái mà họ gọi là lập nên công đoàn cơ sở, đó là cánh tay nối dài của Nhà nước để kiểm soát người lao động không được biểu tình mà thôi".

Luật vẫn như cũ !

Thạc sĩ Hoàng Việt, hiện giảng dạy tại Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng để đánh gia báo cáo của Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh chính xác hay không thì cần phải xem xét báo cáo đó có đưa ra nguyên nhân khách quan không, số liệu thống kê có chính xác không ? Trong trường hợp số liệu thống kê chính xác thì giải thích về nguyên nhân của sự thay đổi tình hình đình công giảm mạnh được chính xác hay không ?

Về khía cạnh luật pháp, Thạc sĩ Hoàng Việt phản biện đối với Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh khẳng đinh rằng hoàn thiện dần hệ thống pháp luật cũng như hình thành và dần phát huy hiệu quả một số thiết chế căn bản để xây dựng quan hệ lao động trong doanh nghiệp :

"Luật Việt Nam chưa có gì thay đổi trong lĩnh vực này cả thì lấy đâu ra chuyện doanh nghiệp thay đổi ? Bộ luật Lao động từ năm 2012 đến giờ chưa có gì thay đổi hết, cho nên bảo có thay đổi thì tôi không biết là thay đổi từ đâu. Thế còn hành lang pháp lý của Việt Nam, tức là Bộ luật Lao động mới vẫn còn nằm trong thời gian tranh luận và trao đổi".

Thạc sĩ Hoàng Việt cho biết thêm :

"Theo quan điểm cá nhân thì tôi cho rằng ngay cá nhân tôi được tham dự một số hội thảo của Bộ Lao động-Thương binh & Xã hội của Chính phủ Việt Nam tổ chức cũng như trong trường của tôi tổ chức để bàn luận cho Dự thảo Luật Lao động mới để phù hợp với tinh thần các công ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập và chuẩn bị gia nhập như CPTPP và EVFTA thì cho thấy một điều là vấn đề nổi cộm vẫn là về chất lượng của công đoàn. Đây là vấn đề chưa thể thay đổi được về bản chất. Chính vì vậy mà ngay trong các cuộc tranh luận cũng đã nhìn thấy điều đó và người ta thấy rằng cần có sự thay đổi về công đoàn".

Đài RFA ghi nhận Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Tự do Thương mại Việt Nam-Châu Âu (EVFTA) mà Việt Nam ký kết, có yếu tố bị ràng buộc là phải chấp nhận cho công đoàn độc lập hoạt động, không trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất hiện nay là sự bất bình đẳng giữa công đoàn của Nhà nước và công đoàn độc lập, theo như phân tích của Thạc sĩ Hoàng Việt :

"Vì ngay trong Hiến pháp Việt Nam quy định là Công đoàn của Nhà nước là một tổ chức chính trị-xã hội, có nghĩa là có yếu tố chính trị trong đó. Thế nhưng, trong Dự thảo liên quan tới công đoàn độc lập thì yêu cầu không được dính dáng đến chính trị. Như thế đã cho thấy một điều không có sự bình đẳng. Vì vậy cho nên việc công đoàn thật sự độc lập và phát triển theo kiểu của phương Tây thì phải mất ít nhất khỏang độ vài chục năm ở Việt Nam mới có thể được như vậy, mà cũng chưa chắc được như vậy ngay".

Về phía người lao động, trong số hầu hết những công nhân từ Bắc vào Nam Đài Á Châu Tự Do tiếp xúc được đều chia sẻ rằng công việc vất vả nhiều, nhưng đồng lương không trang trải đủ vì giá cả tăng cao do lạm phát. Hơn thế nữa, họ đang lo lắng trước đề xuất giảm 4 giờ làm việc trong tuần đối với người lao động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam vì họ được trả lương theo sản phẩm hoặc tính theo giờ công lao động, do đó đời sống có thể khó khăn hơn khi bị bớt giờ làm việc ; mặc dù họ biết rằng đề xuất này "đảm bảo sự bình đẳng" cho người lao động trong khu vực sản xuất so với khu vực hành chính ở Việt Nam.

******************

Huy động vốn trong dân, không dễ… (RFA, 12/11/2019)

Tại buổi thảo luận của Quốc hội hôm 11/11 về dự án Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định nguồn lực kinh tế trong dân còn rất lớn, cần có luật bảo vệ quyền tài sản thì người dân mới dám bỏ vốn ra đầu tư, đó là nhận định của người đứng đầu chính phủ -Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.

vn3

Chính quyền Việt Nam muốn huy động vốn trong dân - Ảnh minh họa. AFP

Sử dụng nguồn vốn như thế nào ?

Theo như nhận xét đó rõ ràng chính phủ Việt Nam biết rằng chỉ Hiến pháp không thì không đủ để bảo vệ quyền sở hữu, tài sản, quyền công dân mà phải cần có luật pháp cụ thể thì nhà đầu tư mới tham gia trong các dự án theo phương thức đối tác công tư (PPP).

Nhìn nhận từ thực tế, chuyên gia kinh tế tiến sĩ Ngô Trí Long phân tích : "Hiện nay nguồn lực nhà nước thì có hạn mà cái nhu cầu phát triển thì rất là lớn về hạ tầng cơ sở nên bây giờ đòi hỏi cần phải ra một luật công -tư mà nói thẳng ra mục tiêu của luật này là nhà nước chia sẻ rủi ro với tư nhân đó là điều quan trọng. Từ trước đến nay nếu không có cơ chế đó thì nhà đầu tư cũng hơi ngại tư nhân nên chính vì vậy luật đầu tư công -tư nhằm giải quyết những vấn đề đó".

Còn chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, người từng là Tổng Thư ký và Phó Chủ tịch của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, thành viên của Ban Nghiên cứu của Thủ tướng cho hay : tại Việt Nam hầu như ai cũng biết đã kinh doanh là phải chấp nhận rủi ro mà khu vực tư nhân còn lớn hơn nhiều so với khu vực nhà nước, mặc dù nhà nước có đổ bể làm sao thì cũng có nhà nước đỡ. Tuy nhiên, bà cũng nói thêm :

"…đừng nghĩ rằng vốn trong dân còn nhiều là có thể huy động được, được hay không phải có niềm tin, niềm tin vào sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế VN, ổn định đảm bảo luật pháp chính sách. Lâu nay ai cũng biết nhiều trường hợp bị thay đổi bất chợt hay có luật đó nhưng việc thi hành luật lại không được đầy đủ thậm chí vi phạm pháp luật… cũng được xã hội nói rất nhiều rồi. Những người làm kinh doanh còn bị dính vào phần đó huống chi là những người không làm kinh doanh mà chỉ có phần vốn của mình, dám bỏ vào những cuộc chơi như vậy là khó rồi. Nên có tiền trong dân nhưng huy động như thế nào là một chuyện khác".

Ngoài ra, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan còn cho biết thêm, đối với nhà nước việc huy động vốn là điều khó vì người dân chỉ dám bỏ vốn vào ngân hàng thay vì đầu tư vào các kênh khác. Tại sao như vậy, theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan vì ngoài việc chính phủ chưa tạo niềm tin trong dân về sự ổn định kinh tế thì Chính phủ còn không chứng tỏ được việc chính phủ/nhà nước có thể sử dụng đồng vốn của dân một cách có hiệu quả hay không, nghĩa là vốn tạo lời chứ không phải "muối bỏ biển"…

"Chứ còn dân thì chỉ huy động theo kiểu phong trào ví dụ như mua trái phiếu cho giáo dục, mua theo số lượng nhỏ vào đó thôi và gần như ai cũng tham gia vào một chút thế thôi, chứ bảo nhà nước đứng ra huy động nguồn vốn lớn của dân vào các dự án lớn của nhà nước thì khó lắm. Vì người ta không có cơ sở để tin liệu các cơ quan nhà nước có sử dụng nguồn vốn của họ một cách có hiệu quả hay không".

Đứng ở góc độ phân tích về mặt tài chính, chuyên gia tài chính ngân hàng Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu chia sẻ thêm rằng việc đầu tư công hay đầu tư tư nhân như đã nói là đầu tư thì lời ăn lỗ chịu và chắc chắn phải có sự rủi ro, còn không muốn đầu tư mà chỉ gửi tiền vào ngân hàng thì đó không phải gọi là đầu tư ;

"…khi đó luật pháp không thể bảo vệ được cái lợi nhuận mà chỉ bảo vệ được cái tài sản được sử dụng theo đúng pháp luật tức là họ tạo ra một khuôn khổ để tài sản của họ được bảo vệ nên việc đầu tư lời hay không lời, mất vốn hay không thì tùy vào từng dự án và chính phủ không can thiệp vào chuyện đó, đó là đầu tư cá nhân còn nếu đầu tư công thì nó có rất nhiều chương trình và phải theo những quy định của luật đấu thầu và quy định của đầu tư công, trong tất cả mọi chuyện thì đầu tư là có rủi ro nên luật pháp không đảm bảo lợi nhuận cho nhà đầu tư mà họ đảm bảo hành lang pháp lý để nhà đầu tư an toàn".

Thêm luật, nhà đầu tư yên tâm ?

Cũng tại thảo luận Quốc hội, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định rằng, đến nay Đảng và Nhà nước đều nhận thức sự cần thiết phải xã hội hóa nhưng các nhà đầu tư đều đặt vấn đề cho rằng "Các ông muốn chúng tôi đầu tư, vậy có luật pháp gì không ? Các nhà đầu tư họ tin luật, không tin nghị định. Phải có luật thì họ mới làm vì luật mới bảo vệ cho nhà đầu tư, để xã hội hóa, kêu gọi tư nhân đầu tư" (thủ tướng nhấn mạnh tại buổi thảo luận).

Người đứng đầu Chính phủ cho rằng, vai trò của Nhà nước trong một số lĩnh vực cần phải hạ xuống, và đưa vai trò tư nhân lên cao hơn trong một số lĩnh vực không cần thiết đầu tư công. Vì thế, luật PPP để kêu gọi nhiều nguồn lực phát triển là một hướng đi hết sức cần thiết.

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu tỏ ra băn khoăn với điều này khi ông cho rằng :

"…bởi vì trong kinh doanh, quản lý đất nước chính phủ cũng không cần ra quốc hội họ có quyền và được ủy quyền để đưa ra những sắc lệnh, nghị định, quy định cho nó hợp mỗi trường hợp và hoàn cảnh…còn những bộ khung luật hoặc luật ở mức cao nhất thì phải đưa ra quốc hội nên thành ra các nhà đầu tư đòi hỏi phải đưa ra thành luật cả thì không có một quốc gia nào hoạt động được vì vấn đề đưa ra quốc hội, trình thảo luật đưa qua tất cả ủy ban quốc hội rồi quốc hội biểu quyết thì mới thành luật thì những luật như thế rất tốn thời gian và không phù hợp với từng điều kiện và thời điểm".

Còn theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan thì Luật đầu tư theo phương thức đối tác công-tư là điều cần thiết vì nếu không có luật như vây thì khu vực tư nhân khó tham gia vào những dự án mang tính chất công mà nhà nước chia sẻ ra cho xã hội.

"Giai đoạn hiện nay Việt Nam không còn tiếp cận với những nguồn vốn ODA giá rẻ thuận lợi như trước nữa kể từ khi trở thành nước có thu nhập trung bình, giá vốn ODA cao hơn nhiều lần mà cũng không dễ dàng tiếp cận nên huy động vốn từ tư nhân là đúng. Khu vực tư nhân Việt Nam có đủ khả năng tham gia vào được nhưng phải có luật để đảm bảo họ tham gia trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và luật pháp phải hết sức rõ ràng, đảm bảo quyền tài sản cho họ, bảo đảm quyền kinh doanh, một khi mà nhà nước đã ký kết, cam kết với họ tham gia vào các dự án như vậy".

Tuy nhiên bà Lan khẳng định luật là điều cần thiết nhưng có luật rồi phải xem từng điều khoản kỹ trong luật, làm sao có thể tránh kẻ hở làm cho các lợi ích nhóm lẻ xen vào ; đồng thời bà cũng cân nhắc việc thi hành là điều quan trọng không kém và nên có hệ thống giám sát của người dân cũng như các tổ chức ngoài nhà nước.

*******************

Cơ hội làm giàu trên quê hương có đồng đều cho tất cả ? (RFA, 12/11/2019)

Tiếp tục đi nước ngoài vì kinh tế

Nền kinh tế Việt Nam được đánh giá có nhiều thay đổi kể từ khi Chính phủ Hà Nội áp dụng chính sách "Đổi mới" vào năm 1986, dù vẫn theo cơ chế "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".

vn4

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại buổi trả lời chất vấn của Quốc hội chiều ngày 08/11/19. Courtesy : VGP News

Và sau hơn 3 thập niên phát triển cũng như mở rộng hợp tác trong nhiều lĩnh vực với cộng đồng quốc tế, xu hướng người Việt Nam ra nước ngoài sinh sống và làm việc được thế giới ghi nhận là ngày càng gia tăng.

Một thành phần di dân là giới du học sinh và trí thức Việt Nam, mà hiện tượng này được gọi là "tình trạng chảy máu chất xám" không có chiều hướng giảm sút.

Thông cáo báo chí của Đại sứ quán Việt Nam đăng tải hồi trung tuần tháng 11 năm 2018 cho thấy số lượng du học Việt Nam ở Mỹ tăng năm thứ 17 liên tiếp, tiếp tục đứng thứ sáu trong danh sách những nước dẫn đầu về số lượng sinh viên du học với hơn 24 ngàn sinh viên.

Còn Chính phủ Canada thống kê đến cuối năm 2018, sinh viên Việt Nam sang du học ở nước này riêng trong năm ngoái đã tăng 46% với hơn 20.000 người, đứng vị trí thứ 5 trong số những nước có nhiều học sinh đến học ở Canada nhất.

Đài RFA ghi nhận kết quả một nghiên cứu của Tiễn sĩ Phạm Thị Liên, thuộc Đại học Công nghệ Sydney, Australia được Nhà xuất bản Springer phát hành trong năm 2019, có tựa đề "International Graduates Returning to Vietnam : Experiences of the Local Economies, Universities and Communities", cho thấy năm 2016 có khoảng 130 du học sinh Việt Nam ở nước ngoài. Và Đài BBC Việt ngữ, vào ngày 20 tháng 9 dẫn lời của Tiến sĩ Phạm Thị Liên cho biết qua khảo sát thì 100% du học sinh Việt Nam đều mong muốn ở lại nước họ đến học để làm việc vì cơ hội việc làm, chưa nói đến tiền lương và các mối quan hệ xã hội.

Qua trao đổi với một số các du học sinh đang làm việc ở nước ngoài, họ cũng bày tỏ với RFA rằng trở về nước thì họ không có môi trường làm việc thích hợp, nhất là trong lĩnh vực khoa học kỷ thuật và mức tiền lương không đáp ứng đủ cho một cuộc sống tốt ở quê nhà.

Một bác sĩ trẻ đang làm việc tại Lào chia sẻ với Đài Á Châu Tự Do trong hai năm vừa qua có khoảng vài chục bác sĩ người Việt làm việc tại Lào giống như anh. Người bác sĩ không muốn nêu tên giải bày lý do vì sao không chọn làm việc tại Việt Nam :

"Như tụi em học y ở Việt Nam, nhưng học xong ra trường thì chỉ có bằng đại học mà không được cấp chứng chỉ hành nghề. Không có chứng chỉ hành nghề mà làm việc thì khác nào là làm bất hợp pháp. Ra trường thì phải đi thực tập (không lương) 18 tháng ở những cơ sở có giường bệnh nội trú hoặc bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh trở lên. Thực tập xong mới được xin cấp phép hành nghề. Chỉ mới cấp giấy hành nghề thôi mà đã ‘hành’ giới y, bác sĩ như thế rồi".

Vị bác sĩ ẩn danh này cho biết giới y, bác sĩ ở Việt Nam có 3 lựa chọn là làm việc ở bệnh viện tư hoặc bệnh viện công ; tuy nhiên khâu đầu tiên vẫn là phải có tiền, bởi vì :

"Có giá chung cả rồi. Vào Bệnh viện Bạch Mai thì 700 triệu đồng. Vào Bệnh viện 108 là 1 tỷ. Vào Bệnh viện Quân Đội (103) bây giờ là 1 tỷ. Còn vào bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh thì tùy, nhưng cũng phải vài trăm triệu".

Còn một lựa chọn thứ 3 là mở phòng mạch thì :

"Nếu khởi nghiệp ở Việt Nam thì phải có thế lực, phải có quan hệ thì mới khởi nghiệp được. Thêm nữa là quá nhiều thủ tục và cơ quan, đoàn thể mà người ta gọi là ‘hành’ và tìm cách làm tiền. Doanh nghiệp Việt Nam khổ lắm vì hầu như các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh hay buôn bán…đều phải chung chi".

Đối nghịch lại với giới trí thức Việt Nam là một làn sóng di dân của các "cô dâu Việt". Những phụ nữ Việt Nam trong hai thập niên qua ồ ạt chọn giải pháp lấy chồng nước ngoài để đổi đời, mà chủ yếu là vì mục đích giúp đỡ cho gia đình về kinh tế.

Mặc cho truyền thông trong nước loan tin không ít những câu chuyện thương tâm và đau buồn của một số hoàn cảnh phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài bị bạc đãi, hay thậm chí bị thiệt mạng, nhưng những cô gái Việt Nam vẫn chấp nhận ra đi vì không còn chọn lựa nào khác với hy vọng cho một cuộc sống sung túc hơn.

Vào năm 2016, Cơ quan Thống kê Hàn Quốc công bố số liệu phụ nữ Việt Nam, lần đầu trở thành nhóm cô dâu ngoại quốc đông nhất ở Nam Hàn, chiếm 27,9% vượt qua các nước Trung Quốc và Philippines.

vn5

Hình hai người được cho là nạn nhân trên chiếc xe chở người lậu từ Pháp sang Anh hôm 23/10/2019. Courtesy of Reuters, Facebook, RFA edit

Lao động xuất khẩu Việt

Một thành phần đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, đó là lao động Việt ở nước ngoài. Cục Quản lý Lao động Ngoài nước thuộc Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội vào hạ tuần tháng 6 năm 2018 cho biết tính đến thời điểm đó, Việt Nam có khoảng 500 ngàn người Việt đang làm việc ở nước ngoài và tổng số tiền mà các lao động này gửi về nước mỗi năm khoảng 3 tỷ USD (tương đương hơn 76 ngàn tỷ đồng). Thế nhưng, tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn, kết thúc hợp đồng không quay về nước hoặc ở lại lao động bất hợp pháp đang xảy ra ở một số quốc gia. Đặc biệt là Hàn Quốc với tỷ lệ bỏ trốn lên đến 50%, dẫn đến hậu quả Hàn Quốc ra thông báo tạm thời ngưng chương trình tuyển chọn công nhân Việt Nam ở 40/100 quận/huyện sang nước này làm việc trong năm 2019.

Một lao động Việt ở Nhật, không muốn nêu tên nói với RFA về tình trạng người Việt Nam vẫn chọn ở Nhật để kiếm sống, dù làm việc ở xứ sở Mặt Trời Mọc bị đối xử bất công :

"Sau một quá trình làm thì họ sẽ thấy ở đây làm có dư hơn ở Việt Nam, dễ sống hơn ở Việt Nam, có thể chu cấp cho gia đình ở Việt Nam thì hầu hết họ muốn ở lại hơn là đi về".

Và mới nhất, tình trạng người Việt ra nước ngoài lao động chui bằng nhiều hình thức ở mức báo động, qua vụ việc 39 người Việt Nam tử nạn trong xe container nhập cư lậu vào Anh hồi ngày 23 tháng 10 vừa qua. Sau khi thảm kịch xảy ra, lần lượt nhiều thông tin của gia đình các nạn nhân cho biết thân nhân của họ bị thiệt mạng trong hành trình tìm kiếm kế sinh nhai bất hợp pháp nơi xứ người với mưu cầu được thịnh vượng.

Lời tuyên bố của ông Thủ tướng

Tại buổi trả lời chất vấn của Quốc hội vào chiều ngày 8 tháng 11, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói rằng "nguồn nhân lực phát triển lớn nhất của đất nước là gần 100 triệu người dân Việt Nam và phải làm sao để mỗi người dân có cơ hội thực hiện khát vọng làm giàu hợp pháp, phát triển khả năng trên chính mảnh đất quê hương mình". Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam còn nhấn mạnh không được để thảm kịch như vừa xảy ra tại Anh tái diễn.

Lời tuyên bố vừa nêu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được dư luận trong và ngoài nước quan tâm. Chuyên gia Kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng chủ trương của Chính phủ Việt Nam luôn nhắm đến "dân giàu, nước mạnh" ; tuy nhiên :

"Nhiều việc khi họ làm, thực hiện các chính sách tốt thường là triển khai rất chậm chạp và không tới nơi tới chốn. Nhiều khi thể hiện có lẽ nhiều nhất ở chỗ là họ lại muốn những cơ hội kinh doanh của người dân để người dân làm giàu thì cũng phải là cơ hội cho họ kiếm chác được ở đấy".

Còn chính người "trong cuộc" là những người Việt đang làm việc ở nước ngoài lên tiếng rằng họ luôn trông chờ một cơ hội để trở về nước, nhưng thời gian chờ đợi cho các cơ hội tốt đối với người dân như họ sẽ là bao lâu ? Một lao động Việt không muốn nêu tên ở Hàn Quốc bày tỏ :

"Thực tình thì chả ai muốn tha phương cầu thực cả, vì hoàn cảnh và cuộc sống đường cùng mà phải ra đi thôi. Tôi nghĩ nếu thay đổi chế độ Việt Nam thì phải mất hàng chục năm bởi vì phải thay đổi từ tư duy nhận thức con người và phải thay đổi về chế độ, thay đổi chính sách. Người Hàn (Hàn Quốc) phải mất mấy chục năm để biến đổi được nền kinh tế như ngày hôm nay. Kể cả Việt Nam cũng vậy. Đâu thể nói là làm được liền đâu".

Còn không ít ý kiến trong giới quan sát tình hình Việt Nam quả quyết rằng lời tuyên bố của Thủ tướng tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng là thêm một khẩu hiệu hô hào của Chính phủ Việt Nam mà thôi, như ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu-Ban Dân vận Trung ương nhận định chỉ có đảng viên và cán bộ mới là thành phần giàu có ở Việt Nam :

"Đồng lương của Việt Nam hiện nay không phải là lương, mà là ‘bất lương’. Cứ tưởng tượng lương của những cán bộ với mức lương từ 15 đến 20 thì làm gì có thể xây những biệt thự, lâu đài nguy nga ? Bọn quan chức từ trong Trung ương Đảng cho đến Chính phủ, cho đến Quốc hội, cho đến Bí thư, cho đến giám đốc ở các tỉnh có thể nói rằng là ‘cả đám ăn cướp trắng trợn của dân, của nước’".

Published in Việt Nam

Trước tình hình nợ công vẫn tiếp tục tăng cao và ngày càng lên đến mức báo động, Việt Nam đang tìm cách huy động nguồn vốn mà người dân đang nắm giữ, được ước tính lên tới 60 tỷ đô la. Nhưng làm cách nào để thu hút được nguồn vốn này vào việc phát triển kinh tế, hôm nay chúng ta hãy nghe ý kiến của chuyên gia tài chính Huỳnh Bửu Sơn, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Sài Gòn.

nangiai1

Một nhà máy dệt may ở Hưng Yên. Làm thế nào để thu hút nguồn vốn trong dân vào việc phát triển kinh tế ? Reuters

Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về vay vốn ODA (viện trợ phát triển chính thức) được công bố gần đây dự báo nợ công của Việt Nam năm 2018 sẽ lên tới 3,5 triệu tỷ đồng (151 tỷ đô la), cao hơn con số 3,1 triệu tỷ đồng của năm 2017. Tỷ lệ nợ dự kiến của năm 2018 sẽ là gần 64% GDP, tiến gần đến mức trần 65%, mà Quốc Hội Việt Nam đã đề ra. Tính bình quân, mỗi người dân Việt Nam sẽ "gánh" 35 triệu đồng (1.500 đô la) nợ công, so với mức 31 triệu đồng năm 2017.

Do nhu cầu đầu tư vẫn tăng cao, nhất là đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, để duy trì mức tăng trưởng kinh tế, Việt Nam phải tiếp tục vay vốn của quốc tế. Vấn đề là kể từ khi trở thành quốc gia được xếp vào loại có thu nhập trung bình, Việt Nam không còn tiếp tục được vay với lãi suất ưu đãi nữa, mà nay sẽ phải vay với lãi suất cao hơn. Nhưng nếu cứ vay như thế thì gánh nặng nợ công sẽ càng tăng thêm, vì số tiền dành để trã lãi sẽ ngày càng cao.

Cho nên, Việt Nam sẽ phải bớt vay vốn nước ngoài và phải tìm cách thu hút nguồn vốn từ ngay chính trong nước, từ người dân. Tại Diễn đàn về thị trường vốn - tài chính diễn ra ngày 21/08/2018, ông Alatabani Alwaleed Fareed Alatabani, Chuyên gia trưởng thị trường Tài chính Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (World Bank), cho rằng nền kinh tế Việt Nam có tỷ lệ tích lũy trong dân cao, lên tới khoảng 60 tỷ đôla trong tay của người dân mà chưa huy động hết.

Việc huy động nguồn lực, mà cụ thể là vàng và ngoại tệ, trong dân đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhưng cho tới nay, các chuyên gia tài chính vẫn tranh cãi với nhau về những giải pháp tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh tốt để người dân tin tưởng, sẵn sàng mang vốn từ trong két ra để đầu tư. Hôm nay mời quý vị nghe ý kiến của chuyên gia tài chính Huỳnh Bửu Sơn :

RFI : Thưa ông Huỳnh Bửu Sơn, theo ông thì huy động vốn trong dân có lợi gì hơn so với vay vốn của nước ngoài ?

Huỳnh Bửu Sơn : Một quốc gia khi phát triển thì chắc chắn là có nhu cầu về nguồn vốn rất lớn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Chính phủ thì thường có nhiều chọn lựa : vay vốn nước ngoài, vay trong nước.

Đối với những nước đang phát triển, thì các quốc gia công nghiệp cũng có những chương trình cho vay phát triển kinh tế, gọi là ODA. Nhưng đối với chính phủ thì vay nguồn vốn trong nước vẫn là ưu tiên hơn, vì nó không đặt ra áp lực về thanh toán. Nếu vay trong nước, ví dụ như vay bằng tiền đồng, thì khi cần vẫn có thể dùng nguồn thu trong nước, như thu thuế, để trả. Đối đế lắm thì nhà nước có thể phát hành tiền để trả nợ. Do đó, rủi ro không thanh toán được là hầu như không có.

Ngược lại, nếu vay vốn bằng ngoại tệ của nước ngoài, thì tất nhiên là phải cố gắng cân đối cho được số ngoại tệ, thông qua xuất khẩu, thông qua mở rộng đầu tư nước ngoài, trực tiếp hay gián tiếp, vào trong nước, để có được dự trữ ngoại tệ để thanh toán.

Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển thì thu nhập của người dân cũng không có nhiều, do đó khả năng cho vay của người dân cũng có một mức độ giới hạn nhất định. Do đó, cuối cùng thì các chính phủ phải đi vay nợ nước ngoài. Thông thường thì người ta xem tỷ lệ nợ nước ngoài với GDP của nước đó để biết được mức độ vay nợ nước ngoài có đảm bảo an toàn hay không.

RFI : Nếu huy động vốn trong dân, mà chủ yếu là nguồn vàng, thì chúng ta có thể huy động với những hình thức như thế nào : thu hút gởi tiền tiết kiệm ngân hàng, phát hành trái phiếu hay phát triển thị trường chứng khoán ?

Huỳnh Bửu Sơn : Thật ra việc thu hút nguồn vàng khá phức tạp hơn là huy động nguồn tiền. Huy động nguồn tiền thì chính phủ phát hành công trái, với một lãi suất hấp dẫn nào đó, thì người dân sẽ bỏ tiền ra để mua công trái. Còn huy động vàng lại là một vấn đề khác.

Nếu huy động vàng trên cơ sở là người dân đồng ý bán vàng cho nhà nước và lấy tiền đó gởi vào tiết kiệm ngân hàng hoặc mua công trái là một chuyện, còn nếu huy động vàng rồi sau đó trả lại bằng vàng cho dân, với một lãi suất nào đó, thì vấn đề lại rất là phức tạp. Tôi không chắc là với số vàng đó, dù là với một thời hạn dài, chính phủ có thể sử dụng hoàn toàn số vàng đó, hay là phải duy trì một số vàng để khi cần có thể trả lại cho người dân.

Đồng thời nó cũng đặt ra vấn đề là tăng cường tâm lý thích giữ vàng. Hiện nay, giữ vàng là tâm lý chung của người dân. Tất nhiên, họ biết là giữ như thế thì sẽ không sinh lãi, còn bây giờ nếu giữ vàng mà còn được sinh lãi nữa bằng cách gởi số vàng đó vào ngân hàng và tới thời hạn thì được trả nguyên số vàng đó lẫn cái lãi, thì điều đó tôi cho là không có lợi gì cho nền kinh tế.

Muốn cho người dân có thể đem số vàng mà họ cất giữ để đầu tư, gởi tiền tiết kiệm hay để mua trái phiếu và mua chứng khoán, phải có một giải pháp lâu dài hơn, căn cơ hơn. Hơn là chỉ tổ chức huy động một số vàng.

Thanh Phương thực hiện

Nguồn : RFI, 24/09/2018

Published in Diễn đàn