Lễ khai mạc kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIV, ngày 20/7/2016.
Cuộc nội chiến Quốc - Cộng tại Việt Nam đã kết thúc 41 năm (1975-2016), đã đến lúc Việt Nam cần chuyển đổi "Quốc hội của đảng" thành "Quốc hội của nhân dân".
"Quốc hội của đảng" là một quốc hội mà tất cả các đại biểu, dù là đảng viên hay người ngoài đảng, đều do đảng Cộng sản Việt Nam cử ra cho dân bầu. Quốc hội này có nhiệm vụ thực hiện các chủ trương, chính sách cai trị của đảng về mặt pháp lý, bằng cách thể chế hóa các nghị quyết của đảng, mà chúng tôi gọi là "nghị luật", thành pháp luật, được đảng sử dụng như những công cụ pháp lý (làm ra hiến pháp, các luật lệ...), để cai trị nhân dân một cách độc đoán, vì lợi ích cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng luôn ngụy trang (hay ngụy biện) là "cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân". Nói tóm gọn, đó là một "Quốc hội của đảng, do đảng và vì Đảng Cộng sản Việt Nam".
"Quốc hội của dân" là một quốc hội mà tất cả những đại biểu dù là do các chính đảng cử ra hay thường dân tự ứng cử, được chính nhân dân hội đủ tư cách cử tri bầu ra trong một cuộc phổ thông đầu phiếu tự do, trực tiếp và kín. Quốc hội này chỉ có nhiệm vụ soạn thảo ra hiến pháp (quốc hội lập hiến) và làm ra luật pháp (quốc hội lập pháp) theo đúng ý nguyện của nhân dân, để các nhà cầm quyền căn cứ theo đó mà thực hiện quyền quản lý đất nước, vì lợi ích tối thượng của nhân dân, những người chủ thực sự của đất nước. Nói tóm gọn, đó là "Quốc hội của dân, do dân và vì dân".
Vì sao đã đến lúc Việt Nam cần chuyển đổi ‘Quốc hội của đảng’ thành ‘Quốc hội của dân’ ?
Đã đến lúc Việt Nam cần chuyển đổi "Quốc hội của đảng" thành "Quốc hội của dân" là vì :
1. Thời gian 4 thập niên Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền độc tôn, trong một chế độ độc tài toàn trị áp đặt trái với ý muốn của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam, đã quá đủ cho một tiến trình chuyển đổi hòa bình từ chế độ độc tài đảng trị qua chế độ dân chủ pháp trị.
2. Trong thời gian quá dài ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có cơ hội thử nghiệm mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng đã thất bại hoàn toàn, đưa đến hậu quả nghiêm trọng về đối nội cũng như đối ngoại cho nhân dân và đất nước. Chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã nhận ra sự thất bại này và trong thâm tâm các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã ngộ ra rằng "Chủ nghĩa cộng sản chỉ là không tưởng".
Tuy không dám công khai thú nhận thất bại, những việc làm thực tế đã cho thấy "Đảng Cộng sản Việt Nam đã phản tỉnh tập thể" qua việc cố gắng "đổi mới" (1985-1995) không thành công. Kết quả là Việt Nam đã phải "mở cửa" (1995-2015) đón mời cựu thù "Đế quốc Mỹ" và các nước tư bản "không giãy chết" vào đầu tư giúp nến kinh tế xã hội chủ nghĩa Việt Nam "vừa giãy chết" kịp sống dậy trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nhưng vì "bưng bít sự thật" vốn là cố tật của các chế độ cộng sản, nên "đảng và nhà nước ta" bao lâu nay vẫn phải nói láo là nhờ làm ăn theo "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" nên kinh tế Việt Nam mới phát triển, đời sống nhân dân mới đỡ khổ như hôm nay.
Thế nhưng "giấu đầu lòi đuôi". Mới đây, trước chuyến đi thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama vài tuần, nhà cầm quyền Việt Nam đã công khai bày tỏ sự mong muốn được Hoa Kỳ và các nước tư bản công nhận Việt Nam đã hội đủ tiêu chuẩn của một thị trường tự do tư bản chủ nghĩa. Phải chăng đã đến lúc đảng và nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Việt Nam phải nói thật "kinh tế thị trường tất yếu định hướng tư bản chủ nghĩa" chứ không thể "định hướng xã hội chủ nghĩa" được ; mà nếu đã "định hướng tư bản chủ nghĩa thì tất yếu dẫn đến chế độ dân chủ, đa đảng". Như vậy, nếu được công nhận hội đủ tiêu chuẩn của một thi trường tự do tư bản chủ nghĩa thì Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu thứ nhất của chiến lược toàn cầu mới của các cường quốc tư bản : kinh tế thị trường tự do hóa ; còn yêu cầu thứ hai - chính trị dân chủ hóa - nay sau 20 năm "Mở cửa" cho thấy Việt Nam cũng đã hình thành được những điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là hành động thức thời của nhà cầm quyền Việt Nam.
3. Như vậy là sau hai thập niên "Mở cửa" (1995-2015) đã hình thành những điều kiện cần đi vào giai đoạn cuối cùng, khởi sự bằng sự chuyển đổi cơ chế quốc hội, vốn được coi là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân.
Thiện Ý
Nguồn : VOA tiếng Việt, 11/01/2017
Từ trái sang : Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại Đại hội XII, ngày 28/1/2016.
Phải đến một năm sau Đại hội XII của đảng cầm quyền, những nhân vật mà trước đó đã nằm trong "phương án nhân sự của Tổng Bí thư trình ra Ban Chấp hành Trung ương" mới có vài dấu hiệu thoát ly dần khỏi quỹ đạo "cầm tay chỉ việc" của đảng. Trong số những nhân vật này có bà Nguyễn Thị Kim Ngân và ông Nguyễn Xuân Phúc.
Vũ Huy Hoàng có hy vọng thoát ‘cửa tử’ ?
Biểu hiện rõ nhất cho đến nay đã xuất hiện vào những ngày cuối năm. Tại phiên họp thứ 5 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 19/12/2016, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết có 3 nội dung bị rút khỏi chương trình nghị sự, trong đó một nội dung được dư luận chú ý là dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ công chức đã nghỉ hưu. Bà Kim Ngân cho rằng "đây là nội dung quan trọng cần có thêm thời gian để nghiên cứu thấu đáo nên Chính phủ chưa kịp chuẩn bị để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong tháng 12 này như dự kiến".
Vũ Huy Hoàng - cựu bộ trưởng ngành công thương bị dư luận xem là tội đồ về đủ thứ chuyện bê bối liên quan đến nhập khẩu phi mã từ Trung cộng, để các nhóm đầu cơ xăng dầu và điện lực tự tung tự tác trong quá nhiều năm, để các đập thủy điện xả lũ giết chết dân, các công trình đầu tư ngàn tỷ và đắp chiếu - trớ trêu thay, lại đang manh nha có cơ hội thoát án tù.
"Quốc hội phê phán thế đã đủ đau chưa !" – phát biểu có vẻ hả hê của Tổng Bí thư Trọng trong một cuộc tiếp xúc với cử tri Hà Nội ngay sau kỳ họp Quốc hội cuối năm 2016 lại đang có nguy cơ bị thu hồi. Thậm chí khi nêu vấn đề rút dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ công chức đã nghỉ hưu, bà Kim Ngân còn chẳng nêu ra một thắc mắc hay đưa ra một phê phán nào trước sự chậm trễ và thái độ không "nhiệt tình cách mạng" của phía Chính phủ.
Trước kỳ họp Quốc hội cuối năm 2016, đã diễn ra một Hội nghị Trung ương rất quan trọng đối với Tổng Bí thư Trọng về "chống tự diễn biến, tự chuyển hóa", trong đó nhấn mạnh vụ Trịnh Xuân Thanh đào tẩu và ám chỉ Vũ Huy đưa Hoàng phải "chết thế". Sau hội nghị này, cái tên Vũ Huy Hoàng được nhiều tờ báo nhà nước nhắc đi nhắc lại như một lối tuyên truyền đã được đảng quán triệt. Vào thời gian đó, số phận của Vũ Huy Hoàng rất mong manh. Thậm chí có tờ báo còn lấy ý kiến cho rằng "cứ có sai phạm là đi bệnh viện", ám chỉ ông Hoàng đi chữa bệnh dài ngày và như một cách đòi hỏi ngành công an phải khẩn trương "ra tay".
Tuy vậy, tình hình gần đây lại có vẻ "đảo chiều". Sau vụ bỏ trốn mới nhất ra nước ngoài của nhân vật Lê Chung Dũng của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), bầu không khí "chống tham nhũng" của Tổng Bí thư Trọng dường như "xẹp" hẳn. Cũng không thấy báo chí nhà nước còn ồn ào về vụ Vũ Huy Hoàng.
Thái độ có vẻ bàng quan của phía Quốc hội, và đặc biệt của phía Chính phủ đối với vụ "truy tố Vũ Huy Hoàng", đang cho thấy một sức cản ngày càng lớn đối với quyết tâm của ông Nguyễn Phú Trọng. Lực cản đó đã ít nhất một lần được bộc lộ khi Bộ Nội vụ - cơ quan chuyên trách về quản lý nhân sự của Chính phủ - đã có vẻ lần khân khi thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư về làm rõ quy trình bổ nhiệm Vũ Đình Duy của PVN.
Nghị quyết về việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ công chức đã nghỉ hưu chắc hẳn lại được Chính phủ giao cho Bộ Nội vụ soạn thảo. Nếu cơ quan này tiếp tục lần khân, sẽ chẳng có cơ chế nào để xử lý Vũ Huy Hoàng về hành chính và hình sự.
‘Trống đánh xuôi kèn thổi ngược’
Trước khi xảy ra hiện tượng cả Chính phủ lẫn Quốc hội đều không quá mặn mà với việc ban hành Nghị quyết về việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ công chức đã nghỉ hưu, đã có một biểu hiện "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" khác.
Trong khi Nghị quyết 5 của Ban Chấp hành Trung ương, ban hành ngày 1/11/2016, đã "định hướng" cho Quốc hội là sẽ bố trí nguồn lực phù hợp để giải quyết nhanh và dứt điểm nợ xấu trong nền kinh tế, thì tại kỳ họp diễn ra ngay sau đó, Quốc hội lại có một bản nghị quyết khác về kế hoạch tài chính, trong đó chính thức xác định không dùng ngân sách nhà nước để giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước.
Đây là một lần hiếm hoi mà Quốc hội đã không "gật vô thức" như bao nhiêu lần trước, sau khi có ý kiến chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương theo tinh thần "cương lĩnh đảng quan trọng hơn Hiến pháp" như Tổng Bí thư Trọng từng khẳng định.
Câu hỏi cần đặt ra là chính trường Việt Nam sẽ ra sao nếu cả Chủ tịch Ngân lẫn Thủ tướng Phúc đều đang có khuynh hướng tách khỏi cái bóng của Tổng Bí thư và khỏi sự can thiệp quá sâu của các cơ quan đảng ?
‘Kẻ ăn ốc người đổ vỏ’
Cho tới nay, vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy Quốc hội của bà Kim Ngân và chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc đang chuyển sang quan điểm "lấy dân làm gốc". Bằng chứng rất rõ ràng là toàn bộ những khuất tất và hậu quả kinh khủng của vụ Formosa xả thải ở miền Trung đã bị các cơ quan chính phủ giấu biến, còn Quốc hội thậm chí không có một tuyên bố có tính phục thiện nào về biến cố kinh hoàng này.
Do đó, những dấu hiệu của Chính phủ và Quốc hội muốn tách dần khỏi quỹ đạo của đảng chưa có gì có thể được xem là "dân nguyện". Bài học quá cay đắng mà nhiều người dân đã tích lũy được là đã từ lâu Chính phủ và Quốc hội chỉ còn mang danh phận của những nhóm lợi ích và quyền lực cá nhân, đến nay vẫn chưa có gì được cải thiện.
Không khó lý giải việc Quốc hội ra nghị quyết về không dùng ngân sách để xử lý nợ xấu : một khi ngân sách đã chẳng còn kết dư nào, những gì còn lại phải ưu tiên cho kế sinh nhai của các cơ quan đảng và nhà nước. Nếu ra nghị quyết dùng ngân sách để mua nợ xấu trong khi ngân sách đã cạn kiệt thì chỉ càng khiến công luận phẫn nộ và chĩa mũi dùi vào trách nhiệm của Quốc hội.
Cũng không loại trừ vụ Vũ Huy Hoàng manh nha thoát "cửa tử" lại là một ưu ái của những nhóm quyền lực và lợi ích nào đó. Bứt dây động rừng !
Lý do còn lại khiến Chính phủ và Quốc hội muốn tách dần quỹ đạo của đảng thuộc về ý thức hệ. Nhiều người cho rằng rất có thể trong bộ máy đảng chỉ còn mình Tổng Bí thư Trọng là còn đủ lạc quan để hy vọng "không biết đến cuối thế kỷ này có được chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay không". Nhưng thực tiễn vô cùng phũ phàng lại phản ánh một thực tế gần như trái ngược : tham nhũng "vẫn ổn định", nợ công và nợ xấu vượt mặt, chi ngân sách vẫn "nâng lên một tầm cao mới" nhưng thu ngân sách lao dốc, ô nhiễm môi trường lan rộng, phản kháng xã hội tràn ngập, nền đạo đức xuống đáy… Chưa kể cái họa phương Bắc treo lơ lửng. Tất cả đều bế tắc !
Người phải chịu trách nhiệm khốn khổ nhất là chính là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Hớn hở nhận lẵng hoa chúc mừng từ cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong buổi bàn giao quyền lực, có lẽ ông Phúc đã không thể ngờ về hậu vận "kẻ ăn ốc người đổ vỏ" dành cho ông hiện nay và những năm tháng mệt nhoài sắp tới.
Trong tình thế quá khẩn trương như vậy, việc hô hào về chủ nghĩa xã hội hay "đất nước mình có bao giờ được thế này không" hẳn đã được tuyệt đại đa số giới quan chức kim tiền nhận chân là không thể ảo tưởng hơn. Chỉ có điều, vẫn chưa ai dám nói thẳng ra sự thật trắng trợn ấy.
Vụ Nguyễn Bá Thanh vào nửa cuối năm 2014, vụ Phùng Quang Thanh vào nửa cuối năm 2015, vụ Trịnh Xuân Thanh nửa cuối năm 2016, nhưng ghê gớm hơn cả là vụ "cả ba bị bắn" tại Yên Bái ngay sau khi Quốc hội và Chính phủ mới tuyên thệ… Nhiều chỉ dấu về giai đoạn cuối cùng đã lộ ra quá rõ. Nếu cứ khư khư ôm ấp quá khứ, làm sao để tìm ra lối thoát ?
Lối thoát cho chính thể, nhưng trên hết là lối thoát cá nhân.
Giờ đây là năm 2017 chứ không phải là 2007. Có lẽ cả ông Nguyễn Xuân Phúc lẫn bà Nguyễn Thị Kim Ngân đều thấy rõ những gì mà họ sẽ phải đối mặt trong những ngày tháng đang cận kề.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA tiếng Việt, 09/01/2017
Ông Phan Diễn (phải) thời còn trong tổ giúp việc cho Tổng bí thư Trường Chinh - Ảnh : Vnexpress.net
Ngày thứ bảy, 17/12/2016, trang Vnexpress.net đăng những chia sẻ của ông Phan Diễn, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên thường trực Ban bí thư, về thời kỳ bao cấp và việc "sắp xếp lại giang sơn" trước ngày đổi mới cách đâu 30 năm.
Bài báo đã gợi trong tôi quãng đời của mình thời trẻ trung, đầy lý tưởng ngây thơ, say mê hoạt động cũng như rất nhiều khó khăn và trăn trở lúc đó. Thật ra đề tài này đã được các nhà lãnh đạo trước ông Phan Diễn nêu lên, trong đó ông Võ Văn Kiệt là một thí dụ. Là người từng lăn lộn trong khó khăn để cởi trói cho Thành phố Hồ Chí Minh, và góp phần lớn cởi trói cho cả nước, vị cố Thủ Tướng đã thốt lên những lời nói lay động tâm tình nhiều thế hệ.
Các dòng in nghiêng dưới đây là trích lời ông Phan Diễn :
"Nhắc lại thời bao cấp, tôi nhớ ngay đến sự thiếu thốn, thiếu từ lương thực, mắm muối cho đến hàng tiêu dùng thông thường như cái khăn mặt, bánh xà phòng, cây kim, sợi chỉ…" và "Ở miền Nam, chúng ta quyết định nhanh chóng cải tạo xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế, xóa bỏ kinh tế tư nhân, đẩy mạnh hợp tác hóa, xây dựng rộng rãi các hợp tác xã nông nghiệp". Bối cảnh xã hội lúc đó là vậy.
Và ông Phan Diễn cho biết quan điểm của mình về những ngày đó :
"Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã quyết định tiếp tục áp dụng mô hình của kinh tế miền Bắc. Thực hiện đường lối trên, những năm tiếp theo, đất nước ngày càng gặp nhiều khó khăn, cuối cùng lâm vào khủng hoảng".
Hiện nay, ai cũng biết rõ và đồng tình với ông Phan Diễn rằng áp dụng "mô hình kinh tế miền Bắc" đã khiến"đất nước ngày càng gặp nhiều khó khăn, cuối cùng lâm vào khủng hoảng". Do đó bài viết này không bàn thêm về những nguyên nhân và hậu quả đó, về những gian khó mà cả xã hội phải chịu đựng, về những tụt hậu mà đất nước phải gánh chịu. Các nhà viết sử sẽ làm công việc tổng kết này.
Bài này xin thảo luận về hai điểm dưới đây :
1) Có nhiều người trong giới cầm quyền đã nhìn thấy sự không hợp lý của đường lối đó. Trong dân chúng, cũng có rất nhiều người thấy được. Những tiếng nói được cất lên… Vậy tại sao những tiếng nói trung thực, đầy tâm huyết, đầy tinh thần dấn thân xây dựng xã hội chung lại không thể ngăn cản được đất nước đi lệch khỏi đường ray phát triển đúng hướng ấm no và giàu mạnh ?
2) Rất sớm sau khi những chính sách đó được ban ra, tác hại lớn của chúng trên sự vận hành đời sống hàng ngày của xã hội được thấy rõ. Một thí dụ là chính sách "ngăn sông cấm chợ". Trên vùng đất Nam Bộ bao la trù phú, nơi từng là vựa trái cây giàu có, vựa lúa quan trọng bậc nhất Đông Nam Á, nơi có thể sản xuất hàng triệu tấn lúa, nuôi hàng triệu con heo, gà… mà người dân đi từ tỉnh này sang tỉnh khác, thậm chí huyện này sang huyện khác, bị cấm đem theo một ký gạo hay vài trăm gram thịt !
Cả một bộ máy kiểm soát khổng lồ được huy động theo dõi sự đi đường của người dân, kiểm tra từng túi xách của họ. Cả một xã hội sản xuất bị đóng băng lại trong ngơ ngác nhìn nhau, chờ xét hỏi ! Lạm phát tăng hai rồi ba con số. Tác hại quá lớn và quá rõ, tại sao các chính sách đó vẫn được tiến hành một thời gian quá dài mặc cho xã hội xôn xao, dân tình bất mãn ?
Sự kiêu ngạo khiến người ta chỉ thấy mình là đúng. Do đó nó góp phần khiến người ta không có đủ sự khách quan và tính khoa học trong việc nghiên cứu, xem xét tất cả các khía cạnh của vấn đề, lắng nghe tất cả các tiếng nói phản biện đa chiều. Điều này khiến người ta dễ mắc sai lầm, mà các điều ông Phan Diễn đã nêu là những thí dụ.
Sự kiêu ngạo còn khiến người ta không thấy mình là sai, hay không chịu nhận cái sai của mình. Hệ quả này của sự kiêu ngạo còn nguy hiểm hơn hệ quả trên. Ở người dân, sự kiêu ngạo khiến họ không thèm nghe ai nói trái tai. Ở chính quyền, sự kiêu ngạo khiến họ không nghe lời dân, không chịu nhìn các thể hiện ý muốn của dân, hay thậm chí dập tắt các tiếng nói phản biện !
Theo ông Phan Diễn, chính quyền đã khắc phục được sự "kiêu ngạo cộng sản". Theo tôi nghĩ, những điều ông Phan Diễn nêu lên mới chỉ là khắc phục những sai lầm của những chủ trương, những chính sách… được quyết định dưới sự "kiêu ngạo cộng cản", chứ chưa nói trực tiếp tới chính tính "kiêu ngạo cộng sản". Tính kiêu ngạo rất khó khắc phục, và cần những tác nhân độc lập với chủ thể kiêu ngạo kiểm soát nó. Thí dụ, cần cơ chế để ý muốn của dân chúng được biểu thị rõ ràng hơn mà không có sự cấm cản. Thí dụ cần có cơ chế để dân chúng có thể chọn lựa hoặc bãi miễn những viên chức cao cấp hay những nhà lãnh đạo đưa ra hay đề nghị những đường lối khiến nhân dân "phải đau đớn trả giá".
Tiếp theo các ý kiến của ông Phan Diễn, có thể cùng nhau suy nghĩ thêm. Nếu không có những "đường lối" khiến "đất nước ngày càng gặp nhiều khó khăn, cuối cùng lâm vào khủng hoảng" thì Việt Nam có phải đợi tới năm 1986 mới có chính sách đổi mới hay không ? Bởi vì nội dung chủ yếu của đổi mới về kinh tế là đưa nền kinh tế đất nước từ "theo kế hoạch tập trung" sang "kinh tế thị trường", mà đó chính là bản chất và nền móng của kinh tế Miền Nam. Nếu lúc đó, thay vì áp dụng "mô hình kinh tế miền Bắc", Việt Nam cứ thử nghiệm mô hình kinh tế miền Nam tại miền Nam, và sau đó áp dụng ra toàn quốc là đất nước thuận đà phát triển nhanh. Nếu đã làm điều đó, Việt Nam trên thực tế đã tiến hành đổi mới và mở cửa từ 10 năm trước. Lúc đó có phải Việt Nam đã phát triển trước Trung Quốc, và do đó có thể tận dụng rất nhiều thời cơ hóa rồng hay không ? Và có phải hiện nay chúng ta có thể có một tư thế tự chủ hơn trên các mặt trận kinh tế, quân sự, ngoại giao… hay không ?
Hoan nghênh những chia sẻ của ông Phan Diễn, tôi cũng đồng ý với ông rằng"cuộc sống không có "giá như"…". Chính vì vậy, bài này không chủ trương phiền trách ai trong quá khứ bởi vì vận mệnh dân tộc đã là vận mệnh chung. "Chúng ta không thể chon lựa lịch sử khi sinh ra, nhưng chúng ta có thể chọn lựa những bài học từ lịch sử" (Barack Obama, bài phát biểu tại Trân Châu Cảng ngày 27/12/2016), bài này chỉ muốn tiếp theo lời ông Phan Diễn, cùng với các độc giả thảo luận và chọn bài học thích hợp từ lịch sử để dân tộc ta trong tương lai giảm tới mức thấp nhất những đường lối khiến đất nước "phải đau đớn trả giá". Và nếu có những đường lối như thế thì chúng ta cũng có thể sửa chữa nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Lê Học Lãnh Vân
Nguồn : Một Thế Giới, 03/01/2017