Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Mỹ cấm nhập cảnh nhiều quan chức Trung Quốc vì "đàn áp" người thiểu số

Anh Vũ, RFI, 22/03/2022

Theo AFP hôm 21/03/2022, Washington đã quyết định cấm nhiều quan chức Trung Quốc nhập cảnh Mỹ do đã tham gia vào "đàn áp" những cộng đồng thiểu số sắc tộc hay tôn giáo, chủ yếu là đối với người Duy Ngô Nhĩ theo Hồi giáo.

mytrungquocnghatnga1

Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken phát biểu tại Washington, Hoa Kỳ, ngày 21/03/2022.  AP - Kevin Lamarque

Trong một thông cáo, ngoại trưởng Hoa Kỳ, Antony Blinken cho biết đã áp đặt các hạn chế về visa đối với nghững quan chức của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa "bị nghi ngờ có trách nhiệm hoặc có dính líu đến những chính sách đàn áp các giới chức tôn giáo, thành viên của các nhóm sắc tộc thiểu số, các nhà ly khai, bảo vệ nhân quyền, nhà báo, nhà hoạt động công đoàn, xã hội dân sự và người biểu tình hòa bình ở Trung Quốc cũng như ở nước ngoài".

Washington không nêu chi tiết có bao nhiêu người hay thực thể bị cấm. Ngoại trưởng Mỹ kêu gọi chính quyền Trung Quốc chấm dứt "ý đồ bịt miệng những nhà đấu tranh người Mỹ gốc Duy Ngô Nhĩ" bằng cách gây sức ép lên gia đình họ ở Trung Quốc.

Ông Antony Blinken kết luận, "chúng tôi kêu gọi chính phủ Trung Quốc chấm dứt hành động diệt chủng và những tội ác chống nhân loại đang diễn ra ở Tân Cương, chấm dứt chính sách đàn áp ở Tây Tạng và chính sách bóp nghẹt các quyền tự do cơ bản ở Hồng Kông, cũng như các vi phạm nhân quyền, đặc biệt xâm phạm quyền tự do tôn giáo ở trong nước".

Thông cáo trên được đưa ra vào lúc tổng thống Mỹ Joe Biden đang gây áp lực để Trung Quốc phải có tác động khiến Nga dừng cuộc xâm lược Ukraine, hoặc ít nhất là không giúp Moskva lách các trừng phạt của phương Tây với Nga.

Anh Vũ

*********************

Nhật Bản phản đối Nga từ bỏ đàm phán hòa bình

Phan Minh, RFI, 22/03/2022

Ngày 22/03/2022, Nhật Bản đã "phản đối mạnh mẽ" quyết định của Nga từ bỏ các cuộc đàm phán về hiệp ước hòa bình giữa hai nước vì theo Moskva, Tokyo có "lập trường không thân thiện" trong hồ sơ Nga xâm lăng Ukraine hôm 24/02. 

mytrungquocnhatnga2

Tổng thống Nga Putin và thủ tướng Nhật Abe tại Diễn đàn Kinh tế phương Đông, Vladivostok, Nga, ngày 4-6/09/2019.  AP - Mikhail Klimentyev

Hôm 21/03, Nga tuyên bố từ bỏ các cuộc đàm phán hòa bình với Nhật Bản, với lý do "không thể thảo luận với một quốc gia công khai lập trường không thân thiện và tìm cách làm tổn hại đến lợi ích" của Nga. 

Phát biểu trước Quốc hội, thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida cho rằng đây là "hậu quả của việc Nga tấn công Ukraine". Lãnh đạo Nhật nói thêm : "Nỗ lực của Nga nhằm lái vấn đề này sang quan hệ Nga-Nhật là hết sức phi lý và hoàn toàn không thể chấp nhận được". 

Trong những tuần gần đây, Nhật Bản đã cùng các nước phương Tây áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế mạnh mẽ đối với Moskva.   

Nhật Bản và Nga đã có một mối quan hệ phức tạp trong nhiều thập kỷ qua. Hai nước đã không ký hiệp ước hòa bình sau Thế chiến thứ hai do có tranh chấp 4 hòn đảo nhỏ tại quần đảo Kuril. 

Moskva cũng thông báo sẽ chấm dứt việc miễn thị thực cho phép người Nhật đến các đảo tranh chấp nói trên và rút khỏi các cuộc đàm phán về hoạt động kinh tế chung giữa hai nước tại đây. 

Phan Minh

Additional Info

  • Author Anh Vũ, Phan Minh
Published in Châu Á

Chuyến thăm của Nixon cách đây 50 năm là hợp lý, nhưng chính sách sau này của Mỹ thì không, vị học giả nói.

sailam01

John Mearsheimer, giáo sư tại Đại học Chicago và là học giả về quan hệ quốc tế, nói rằng Hoa Kỳ đã 'ngu ngốc' xây dựng Trung Quốc thành một cường quốc đối thủ. (Ảnh do Trường Kinh tế London cung cấp)

Mỹ đã "dại dột" theo đuổi chính sách can dự với Bắc Kinh sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc – trả lời phỏng vấn của Nikkei – giáo sư John Mearsheimer của Đại học Chicago cho rằng chính sách sai lầm này đã góp phần mở đường cho sự trỗi dậy về kinh tế và quân sự của Trung Quốc.

Được biết đến là một nhà hiện thực về lý thuyết quan hệ quốc tế, Mearsheimer đã khẳng định trong cuốn sách năm 2001 của mình, Bi kịch của Chính trị Cường quyền (The Tragedy of Great Power Politics), rằng cách tiếp cận can dự của Mỹ sẽ thất bại, khi một Trung Quốc mạnh hơn về kinh tế bắt đầu tìm kiếm bá quyền khu vực.

Theo quan điểm của ông, việc Mỹ tin rằng Trung Quốc sẽ trở thành một nền dân chủ khi nước này phát triển hơn là một tính toán hoàn toàn sai lầm. Không chỉ Mỹ, mà cả Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc đều giúp Trung Quốc trở thành một gã khổng lồ về kinh tế, theo đó tự tạo ra mối đe dọa địa chính trị cho chính họ.

Mearsheimer phân biệt giữa sai lầm chính sách thời hậu Chiến tranh Lạnh này và sự can dự của Tổng thống Richard Nixon với Bắc Kinh, được biểu trưng bằng chuyến đi lịch sử của ông cách đây 50 năm. Theo Mearsheimer, việc theo đuổi một hình thức bán-liên minh với Trung Quốc như một biện pháp răn đe chống lại Liên Xô, là hợp lý về mặt chiến lược vào thời điểm đó.

Dưới đây là nội dung đã được biên tập của bài phỏng vấn.

Hỏi : Nhìn lại lịch sử 50 năm giữa Trung Quốc và Mỹ, ông có nghĩ rằng Ngoại trưởng Henry Kissinger và Tổng thống Nixon đã đưa ra quyết định sai lầm ?

Đáp : Không. Tôi nghĩ anh nên phân biệt rõ ràng, giữa chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc trong Chiến tranh Lạnh – giai đoạn cuối thập niên 1970, 1980 – với giai đoạn sau Chiến tranh Lạnh, từ khoảng năm 1990 đến năm 2017.

Trong Chiến tranh Lạnh, theo chính sách của Tổng thống Nixon, Mỹ đã quyết định can dự với Trung Quốc, và thành lập một bán liên minh với Trung Quốc, để chống lại Liên Xô.

Điều đó rất hợp lý. Và Nixon đã đúng khi giúp nền kinh tế Trung Quốc phát triển, vì Trung Quốc càng trở nên hùng mạnh, thì nước này càng làm tốt vai trò đối tác răn đe chống lại Liên Xô. Tuy nhiên, khi Chiến tranh Lạnh kết thúc vào năm 1989, và Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, Mỹ không còn cần Trung Quốc giúp kiềm chế Liên Xô nữa.

Điều người Mỹ chúng tôi đã dại dột làm là tiếp tục theo đuổi chính sách can dự, rõ ràng được thiết kế để giúp Trung Quốc phát triển mạnh mẽ hơn về kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, một khi Trung Quốc phát triển kinh tế, nước này sẽ chuyển hóa sức mạnh kinh tế thành sức mạnh quân sự, và Mỹ, do hậu quả của chính sách can dự ngu ngốc này, đã giúp tạo ra một đối thủ ngang hàng.

Tóm lại thì, theo tôi, chính sách của Nixon-Kissinger, từ đầu những năm 1970 đến cuối những năm 1980, là rất hợp lý. Nhưng sau đó, can dự với Trung Quốc là một sai lầm chiến lược lớn.

Hỏi : Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ có đánh giá thấp sức mạnh tiềm tàng của Trung Quốc trong việc vươn lên thành một cường quốc không ?

Đáp : Tôi không nghĩ điều đó đúng. Tôi cho rằng Mỹ đã tin Trung Quốc sẽ trở nên hùng mạnh về kinh tế, và thực sự là Mỹ muốn giúp Trung Quốc trở nên thịnh vượng hơn.

Mỹ đã nỗ lực để hội nhập Trung Quốc vào nền kinh tế thế giới, và vào các tổ chức quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.

Mỹ không chỉ mong đợi Trung Quốc phát triển mạnh mẽ hơn – mà còn chủ ý giúp Trung Quốc đạt được điều đó. Mỹ đã làm như vậy dựa trên giả định rằng, theo thời gian, Trung Quốc sẽ trở thành một nền dân chủ, và do đó sẽ trở thành một tác nhân có trách nhiệm trong trật tự quốc tế do Mỹ dẫn đầu.

Tất nhiên, điều đó đã không xảy ra. Trung Quốc đã không trở thành một nền dân chủ. Trên thực tế, họ còn thiết lập bá quyền ở Châu Á, và công khai thách thức Mỹ trên khắp hành tinh. Bây giờ chúng ta đang bước vào một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.

Hỏi : Tại sao vào thời điểm đó, Mỹ nghĩ rằng Trung Quốc cuối cùng sẽ trở thành một nền dân chủ ?

Đáp : Mỹ cảm thấy rằng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít không còn là những hình thức chính phủ khả thi nữa, và tất cả các quốc gia cuối cùng sẽ trở thành các nền dân chủ tự do, giống như Mỹ và Nhật. Tất cả những gì người phương Tây phải làm là đẩy nhanh quá trình này và giúp họ trở thành các nền dân chủ tự do.

Trong câu chuyện mà giới tinh hoa phương Tây kể lại sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, cả Trung Quốc và Nga đều nhất định sẽ trở thành các nền dân chủ tự do. Tôi tin rằng điều này được phản ánh rõ ràng trong bài luận rất nổi tiếng của Francis Fukuyama, Sự cáo chung của Lịch sử ? (The End of History ?), xuất bản năm 1989.

Lập luận của Fukuyama đã có tác động to lớn. Tuyên bố của ông cơ bản là thế giới sẽ ngày càng trở nên dân chủ, và khi điều đó xảy ra, thế giới sẽ ngày càng trở nên hòa bình. Khi giới tinh hoa Mỹ giúp Trung Quốc phát triển kinh tế, họ thực sự không nghĩ rằng Trung Quốc sẽ có bất kỳ cơ hội nào để trở thành một đối thủ ngang hàng, và trở thành một mối đe dọa địa chính trị đối với Nhật hoặc Mỹ.

Nhân tiện, đây không phải là một quan điểm chỉ xuất hiện ở Mỹ. Nếu anh đến Tây Âu, Nhật Bản, Đài Loan, quan điểm này cũng phổ biến rộng rãi.

Không chỉ có Mỹ mới giúp Trung Quốc tăng trưởng kinh tế, mà còn Đài Loan, cũng như Nhật Bản, Hàn Quốc, và tất cả các nước Châu Âu, đã ‘ngây thơ’ giúp Trung Quốc phát triển. Tất cả họ đều theo đuổi một chính sách hết sức ngu ngốc.

Hỏi : Đã hơn 30 năm kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Ông có nghĩ rằng một chính sách ngăn chặn vẫn sẽ hiệu quả trong việc quản lý Trung Quốc ? Liệu nó vẫn còn hiệu quả trong bối cảnh hiện nay ?

Đáp : Rõ ràng là, từ khoảng năm 1990 cho đến khi Tổng thống Donald Trump bước vào Nhà Trắng, Mỹ đã theo đuổi chính sách can dự, vốn được thiết kế để làm cho Trung Quốc trở nên giàu có hơn.

Khi Trump vào Nhà Trắng, ông đơn giản là từ bỏ chính sách can dự và nói rằng, "Chúng ta sẽ theo đuổi một chính sách về cơ bản là ngăn chặn".

Tổng thống Biden đã tiếp bước Trump. Giống như Trump, Biden đang theo đuổi chính sách ngăn chặn. Không có nghi ngờ gì về việc Mỹ và Nhật đang muốn kiềm chế Trung Quốc. Còn đối với câu hỏi, ‘họ có thể kiềm chế Trung Quốc được không ?’ Tôi nghĩ câu trả lời là có.

Hỏi :Một chiến lược cố tình làm chậm tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc khó triển khai đến mức nào ?

Đáp : Ngăn chặn là chính sách gồm hai khía cạnh, trước tiên chúng ta nên tập trung vào khía cạnh quân sự, sau đó mới nói đến khía cạnh kinh tế.

Xét về khía cạnh quân sự, rõ ràng là Trung Quốc quyết tâm làm đảo lộn hiện trạng ở Đông Á. Trung Quốc cho rằng họ thực sự "làm chủ" Biển Đông. Đó là vấn đề số một.

Vấn đề số hai là Trung Quốc quyết tâm lấy lại Đài Loan, sáp nhập nó thành một phần của đại lục.

Thứ ba, họ quyết tâm kiểm soát Biển Hoa Đông, và lấy lại những gì họ gọi là quần đảo Điếu Ngư, mà người Nhật gọi là quần đảo Senkaku.

Không có gì phải bàn cãi về khẳng định rằng Trung Quốc là một cường quốc theo chủ nghĩa phục thù, và Mỹ cùng các đồng minh, bao gồm cả Nhật Bản, đang quyết tâm ngăn cản nước này chiếm Biển Đông, chiếm lại Đài Loan, và thay đổi hiện trạng ở Biển Hoa Đông.

Tiếp đến là khía cạnh kinh tế của chính sách ngăn chặn. Ở thời điểm hiện tại, Mỹ không còn có thể đảo ngược tăng trưởng kinh tế Trung Quốc, theo bất kỳ cách nào có ý nghĩa. Những gì Mỹ sẽ cố gắng làm là hạn chế mức tăng trưởng đó càng nhiều càng tốt, đồng thời đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế ở phương Tây.

Nếu chúng ta xem xét kỹ lưỡng cuộc cạnh tranh, nó sẽ tập trung chủ yếu vào các công nghệ tiên tiến hàng đầu, như điện toán lượng tử, trí tuệ nhân tạo, chất bán dẫn, 5G, … Đó mới là các lĩnh vực mà cạnh tranh thực sự sẽ diễn ra.

Hỏi : Về khía cạnh kinh tế, làm cách nào để Mỹ và các đồng minh có thể làm chậm tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc mà không gây tổn hại cho chính họ ?

Đáp : Câu hỏi trong những trường hợp này luôn là : "Ai sẽ bị thương nhiều hơn ?" Nếu anh có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế Trung Quốc, và chỉ bị thiệt hại tối thiểu cho nền kinh tế Mỹ hoặc nền kinh tế Nhật, hẳn anh sẽ sẵn sàng chấp nhận cái giá đó.

Hỏi : Liệu có khả năng Mỹ và Trung Quốc tham gia vào xung đột vũ trang không ?

Đáp : Trong tương lai gần, chắc chắn sẽ có một cuộc cạnh tranh an ninh căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ, giống như Chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô. Nhưng nó có biến thành một cuộc chiến tranh nóng hay không lại là một vấn đề khác.

Cá nhân tôi tin rằng nó có nhiều khả năng sẽ biến thành một cuộc chiến tranh nóng hơn so với cuộc Chiến tranh Lạnh lần thứ nhất giữa Moscow và Washington.

Lý do khiến tôi lo lắng hơn về chiến tranh nóng ở thời điểm hiện tại phần lớn là vì địa lý. Cuộc Chiến tranh Lạnh lần thứ nhất tập trung ở Châu Âu. Trung Âu là điểm xung đột chính giữa một bên là Mỹ và các đồng minh phương Tây, và một bên là Liên Xô và các đồng minh cộng sản.

Mức độ răn đe ở Trung Âu là rất mạnh, và vì thế khả năng xảy ra chiến tranh là rất thấp, do chi phí sẽ rất cao.

Nếu anh nhìn vào tình hình hiện tại ở Đông Á, với việc Mỹ và các đồng minh chống lại Trung Quốc, anh có thể tưởng tượng ra các cuộc chiến tranh giới hạn trên Biển Đông, Đài Loan, và Biển Hoa Đông. Chỉ nội việc anh có thể tưởng tượng về một cuộc chiến giới hạn, rất khác với kiểu chiến tranh mà chúng ta tưởng tượng ở Trung Âu trong Chiến tranh Lạnh lần thứ nhất, có nghĩa là hôm nay hoặc ngày mai, có thể xảy ra chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc.

Chính thực tế là chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ là một cuộc chiến giới hạn – không giống như cuộc chiến ở mặt trận Trung Âu – khiến nó có nhiều khả năng xảy ra hơn.

Hỏi : Khi đó, khả năng chiến tranh giới hạn dẫn đến chiến tranh tranh hạt nhân là bao nhiêu ? Và điều đó có nhiều khả năng xảy ra hơn so với thời Chiến tranh Lạnh hay không ?

Đáp : Có chứ. Nguyên nhân nằm ở vị trí địa lý, nếu Trung Quốc thua trong cuộc chiến trước Đài Loan, anh có thể tưởng tượng họ sẽ sử dụng một vài vũ khí hạt nhân dưới mặt nước. Hoặc nếu Mỹ thua trong cuộc chiến với Trung Quốc về vấn đề Đài Loan, anh hoàn toàn có thể tưởng tượng họ sử dụng một vài vũ khí hạt nhân để thay đổi thế trận.

Tôi muốn làm rõ hơn ở đây. Tôi không nói rằng sẽ xảy ra chiến tranh hạt nhân, mà tôi chỉ nói rằng xác suất nó xảy ra cao hơn nhiều. Tôi đang cẩn thận lựa chọn từ ngữ. Chúng ta có thể dễ dàng hình dung vũ khí hạt nhân được Mỹ và Trung Quốc sử dụng trong cuộc chiến trên Biển Đông, hơn là trong cuộc chiến trên mặt trận trung tâm, giữa một bên là Mỹ và các đồng minh NATO, và một bên là Liên Xô và các đồng minh Hiệp ước Warsaw.

Hỏi : Liệu Mỹ có thực sự sẵn sàng chiến đấu chống lại Trung Quốc, nếu xảy ra tình trạng khẩn cấp ở Eo biển Đài Loan không ?

Đáp : Tôi khẳng định Mỹ sẽ bảo vệ Đài Loan trong trường hợp Trung Quốc tấn công. Chấm hết. Tôi tin rằng giới tinh hoa chính sách đối ngoại Mỹ, những người phải đưa ra quyết định, sẽ không quan tâm đến dư luận. Họ chỉ quyết định xem việc Mỹ bảo vệ Đài Loan có hợp lý về mặt chiến lược hay không.

Chúng tôi sẽ không bỏ phiếu về việc có nên bảo vệ Đài Loan hay không, nếu Đài Loan bị đe dọa. Các nhà lãnh đạo Nhà Trắng, Bộ Ngoại giao, và Lầu Năm Góc sẽ đưa ra quyết định đó, và chúng tôi sẽ bảo vệ Đài Loan vì hai lý do.

Một là vì Đài Loan có giá trị chiến lược rất lớn. Đài Loan là một phần đất quan trọng cho mục đích kiềm chế lực lượng hải quân và không quân Trung Quốc bên trong chuỗi đảo đầu tiên. Như mọi chiến lược gia Nhật Bản đều biết, việc người Mỹ chúng tôi kiểm soát Đài Loan và không để Đài Loan rơi vào tay Bắc Kinh là điều cực kỳ quan trọng. Đó là lý do chiến lược đầu tiên khiến chúng tôi sẽ chiến đấu và quyết tử cho Đài Loan.

Lý do thứ hai là nếu chúng tôi, nước Mỹ, từ bỏ Đài Loan, điều này sẽ gửi đi một thông điệp khủng khiếp đến tất cả các đồng minh của chúng tôi trong khu vực. Chẳng hạn như Nhật Bản sẽ không còn có thể dựa vào chiếc ô an ninh của Mỹ, đặc biệt là chiếc ô hạt nhân.

Hỏi : Khi nói về Đài Loan, các quan chức Trung Quốc thường nói rằng thời gian đứng về phía họ.

Đáp : Họ có thể đúng. Nếu Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong 30 năm tới, và phát triển với tốc độ nhanh hơn Mỹ, thì trong 30 năm tới, nước này sẽ còn hùng mạnh hơn hiện nay.

Đứng từ quan điểm của Trung Quốc, nếu anh đang nghĩ đến việc chinh phục Đài Loan, tốt hơn hết nên chờ cho đến khi anh phát triển mạnh hơn nhiều, hoặc chí ít là phát triển mạnh hơn so với Mỹ, chứ không phải là mức hiện tại.

Vấn đề mà người Trung Quốc phải đối mặt là : rất khó để biết chính xác điều gì sẽ xảy ra với nền kinh tế Trung Quốc trong 30 năm tới. Và thực sự, cũng rất khó để biết điều gì sẽ xảy ra với nền kinh tế Nhật và nền kinh tế Mỹ.

Hỏi : Hồi năm 1993, ông viết rằng Tổng thống Clinton đã sai khi thúc ép Ukraine trở thành một quốc gia phi hạt nhân. Liệu ông có thấy trước vấn đề mà Ukraine phải đối mặt hiện tại hay không ?

Đáp : Có chứ.

Hỏi : Hiện nay, Nga và Trung Quốc đang vun đắp một mối quan hệ hữu nghị dựa trên việc coi Mỹ là kẻ thù chung. Ông có nghĩ rằng quan điểm của họ về Châu Á sẽ tương thích với nhau ?

Đáp : Mỹ đã quá dại khi đẩy người Nga vào vòng tay của người Trung Quốc. Tôi nghĩ Nga là đồng minh tự nhiên của Mỹ trong việc chống lại Trung Quốc.

Năm 1969, Liên Xô và Trung Quốc suýt xảy ra chiến tranh ở Siberia. Liên Xô và Trung Quốc – và ngày nay là Nga và Trung Quốc – có một lịch sử quan hệ không mấy tốt đẹp, phần lớn là do họ có chung đường biên giới, và mỗi bên đều đang chiếm nhiều lãnh thổ ở Châu Á. Nga nên là đồng minh của Mỹ nhằm chống lại Trung Quốc, và Mỹ cần tất cả các loại đồng minh khả dĩ để kiềm chế Trung Quốc.

Nhưng khi mở rộng NATO về phía đông, người Mỹ đã gây ra một cuộc khủng hoảng lớn với Nga, khiến chúng tôi không thể toàn tâm "xoay trục" sang Châu Á. Chúng tôi không thể xoay trục hoàn toàn sang Châu Á vì chúng tôi quá lo lắng về các sự kiện ở Đông Âu. Đó là hậu quả đầu tiên. Hậu quả thứ hai là chúng tôi đã đẩy người Nga vào vòng tay người Trung Quốc. Điều này chẳng hợp lý chút nào.

Hỏi : Căng thẳng hiện nay dọc theo biên giới Ukraine đặt ra câu hỏi : liệu Mỹ có khả năng đồng thời giải quyết các vấn đề Châu Âu và Châu Á hay không ?

Đáp : Cho phép tôi lựa chọn từ ngữ của mình một cách cẩn thận. Mỹ có khả năng giải quyết xung đột ở Châu Âu và xung đột ở Châu Á cùng một lúc.

Tuy nhiên, chúng tôi không có khả năng thể hiện thật tốt trên cả hai chiến dịch cùng một lúc. Khi tham gia vào một cuộc xung đột ở Đông Âu, chúng tôi, Mỹ, đang lơ là nhiệm vụ kiềm chế Trung Quốc và khả năng chiến đấu chống lại Trung Quốc, nếu một cuộc chiến nổ ra.

Hỏi : Nhìn sang Châu Á, một số quốc gia như Triều Tiên vẫn tiếp tục sử dụng hạt nhân cho chính sách bên miệng hố chiến tranh. Liệu thế giới có trở thành một thế giới đa cực, bất ổn hơn nhiều không ? Con đường phía trước là gì ?

Đáp : Vũ khí hạt nhân của Triều Tiên là một vấn đề quan trọng đối với Nhật Bản, đối với Hàn Quốc, và thậm chí đối với Mỹ. Miễn là Mỹ duy trì các liên minh chặt chẽ với Nhật Bản và Hàn Quốc, Triều Tiên sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân của mình. Chiếc ô hạt nhân của Mỹ bảo vệ cả Nhật Bản và Hàn Quốc trước một cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân từ Triều Tiên.

Trung Quốc bằng lòng cho phép Triều Tiên giữ vũ khí hạt nhân của mình, bởi họ kết luận rằng vũ khí hạt nhân của Triều Tiên là động lực cho sự ổn định trên Bán đảo Triều Tiên và rộng hơn là toàn Đông Bắc Á.

Tuy nhiên, người Trung Quốc vẫn lo lắng về việc Kim Jong Un thực hiện chính sách bên miệng hố chiến tranh hạt nhân, và họ đã nói thẳng với ông ta rằng điều đó là không thể chấp nhận được. Kết quả là ông ta đã kiềm chế hành vi của mình.

Nếu Kim Jong Un quay trở lại con đường cũ, chính người Trung Quốc sẽ nói với ông ấy rằng ‘đừng làm thế nữa,’ vì họ không muốn xảy ra khủng hoảng hạt nhân.

Hỏi : Chính quyền Biden đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh các nền dân chủ vào năm ngoái. Ông có nghĩ rằng cách tiếp cận này hiệu quả trong việc kiềm chế sự trỗi dậy của các quốc gia độc tài không ?

Đáp : Không. Đây là một cuộc cạnh tranh địa chính trị, và chúng ta nên nghĩ về nó như một cuộc cạnh tranh địa chính trị, chứ không phải một cuộc cạnh tranh ý thức hệ.

Việc Nhật và Mỹ là hai nền dân chủ là điều rất tốt đẹp, nhưng sự thật là, bất kể ý thức hệ của cả hai là gì, họ vẫn nên liên minh chống lại Trung Quốc, vì Trung Quốc là mối đe dọa đối với cả hai nước.

Nếu anh đưa lập luận về ý thức hệ đi quá xa, thì sẽ đến lúc anh nói rằng Nga không thể nằm trong liên minh chống lại Trung Quốc, bởi vì Nga không phải là một nước dân chủ tự do. Tôi tin rằng điều đó là khờ dại. Những gì anh nên làm là thành lập một liên minh với bất kỳ quốc gia hùng mạnh nào có thể, để giúp anh kiềm chế Trung Quốc. Trung Quốc thực sự là đối thủ đáng gờm.

Hỏi : Nhật Bản và các quốc gia không phải là cường quốc khác có thể làm gì để bảo vệ sự ổn định trong khu vực hoặc trên thế giới ?

Đáp : Nhật Bản nên trở thành một bên đóng vai trò quan trọng trong liên minh cân bằng chống lại Trung Quốc, và cần phải tư duy thông minh về cách đối phó với Trung Quốc, cũng như ảnh hưởng đến Mỹ theo những cách tích cực.

Người Nhật nên cố gắng giải thích cho người Mỹ hiểu lý do tại sao chiến đấu với người Nga ở Đông Âu là không hợp lý, và tại sao Mỹ nên tập trung, như một tia laser, vào Đông Á, chứ không nên chú ý quá nhiều đến khu vực Đông Âu.

Masahiro Okoshi (phỏng vấn)

Nguyên tác : U.S. engagement with China a ‘strategic blunder’ : MearsheimerNikkei Asia, 21/02/2022.

Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 05/03/2022

Additional Info

  • Author Masahiro Okoshi, John Mearsheimer, Nguyễn Thị Kim Phụng
Published in Diễn đàn

Việc ngó lơ Campuchia và Lào là một sai lầm chiến lược – nhưng để gắn kết hai nước này đòi hỏi sự cân bằng khéo léo giữa các giá trị và lợi ích.

sansau1

Thủ tướng Campuchia Hun Sen duyệt đội danh dự quân đội với Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường trong lễ đón bên ngoài Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh vào ngày 16 tháng 5 năm 2017. Nicolas Asfouri / AFP via Getty Images

Khi chính quyền Biden bước sang năm thứ hai, rõ ràng là các ưu tiên chính sách đối với khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và việc cạnh tranh địa chính trị chống lại Trung Quốc vẫn chưa được phân bổ một cách cân bằng. Tính đến nay, có hai quốc gia tuy nhỏ nhưng quan trọng về mặt chiến lược đã bị chính quyền này bỏ qua : Campuchia và Lào. Đây có thể là một sai lầm lớn.

Nếu Mỹ muốn thâm nhập vào Campuchia và Lào – được giới quan sát ví như những chư hầu, vệ tinh, hay ‘thuộc địa ảo’ của Trung Quốc – thì điều đó đồng nghĩa với Mỹ sẽ tiến hành cạnh tranh chiến lược ngay tại sân sau của chính Trung Quốc. Quan trọng hơn, hành động này sẽ giúp xóa bỏ ý nghĩ rằng Mỹ chỉ bị động phản ứng lại và chơi trò phòng thủ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trước sự trỗi dậy ‘không thể tránh khỏi’ của Trung Quốc. Ý nghĩ đó, hơn cả các thực tế, vốn là một lực cản đối với chiến lược của Mỹ trong khu vực. Nó làm dấy lên nghi ngờ về chủ trương can dự của Mỹ, ngay cả ở các đồng minh lâu đời như Philippines và Thái Lan.

Đẩy mạnh sự can dự của Mỹ tại Campuchia và Lào — chẳng hạn, bằng ứng phó lại nhiều dự án thuộc Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc, hoặc tăng cường khả năng tiếp cận của Mỹ đối với Căn cứ Hải quân Ream của Campuchia — có thể giúp đảo ngược ‘sự đã rồi’ : rằng Trung Quốc sẽ thống trị, thậm chí khuất phục, toàn bộ Đông Nam Á lục địa. Hợp tác với Campuchia và Lào cũng có thể giúp củng cố quan hệ với nước láng giềng Thái Lan, cũng như đối tác chiến lược của Mỹ là Việt Nam, vốn là hai quốc gia đang có chung nhiều quan ngại về Trung Quốc, trong đó có việc Trung Quốc xây dựng các con đập dọc sông Mekong, huyết mạch kinh tế của cả bốn nước.

Tuy nhiên, cho đến nay, các tương tác của chính quyền Biden với Campuchia là rất ít và rất kém hiệu quả, còn Lào thì hoàn toàn nằm ngoài vùng phủ sóng. Xây dựng quan hệ với cả hai quốc gia, đều không phải là nền dân chủ, đã trở thành thứ yếu trong danh sách mục tiêu chính sách đối ngoại của chính quyền Biden, vốn đặt các giá trị chung lên trên lợi ích chung. Đội ngũ cố vấn của Tổng thống Joe Biden cũng có thể đã kết luận rằng Lào và Campuchia đã nằm sâu trong quỹ đạo của Bắc Kinh, đến mức thời gian và nguồn lực tốt hơn hết nên được dành cho các nước khác trong khu vực, những nước được cho là dễ chấp nhận và hữu ích hơn trong việc hỗ trợ Mỹ cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc.

Vì thế, hai quốc gia này chính là những bài kiểm tra cho thấy liệu một trong những ưu tiên của chính quyền Biden — dân chủ, tự do và nhân quyền — có hay không làm suy yếu một ưu tiên khác : cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc. Thật ra, những mục tiêu này không nhất thiết phải loại trừ lẫn nhau, và hiện đã có một khuôn mẫu hiệu quả có thể giúp chính quyền Biden giữ vững lợi ích quốc gia, mà không hoàn toàn từ bỏ các giá trị. Khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin đến thăm Singapore bán-chuyên-chế, và Ngoại trưởng Antony Blinken đến Ấn Độ ngày-càng-phi-tự-do vào năm ngoái, cả hai đều đã công khai xuống giọng khi nói về giá trị dân chủ, không chỉ bằng cách thừa nhận rằng chính Mỹ cũng đang phải chật vật với những vấn đề dân chủ của riêng mình. Thay vì lên mặt rao giảng về dân chủ, họ đã biến chuyến đi của mình thành một tương tác hai chiều. Ngoài ra, chính quyền Biden cũng có thể nhấn mạnh tầm quan trọng của quản trị tốt và kiểm soát tham nhũng ở Campuchia và Lào — chắc chắn là một phần của chương trình nghị sự về giá trị dân chủ — thay vì chỉ cứng nhắc gắn tương tác song phương với tình hình dân chủ ở các nước này.

Cũng cần lưu ý là tiêu chuẩn dân chủ đã được nới lỏng đối với các quốc gia khác, nhưng điều này lại không được áp dụng cho Campuchia và Lào. Chính quyền Biden, Trump, và Obama đều chủ động hạ thấp các giá trị trong quan hệ của họ với nước láng giềng Việt Nam, quốc gia có thành tích nhân quyền không tốt và đang ngày càng xấu đi, nhưng lại là một quân cờ quan trọng trên bàn cờ chiến lược. Việt Nam chính là bằng chứng thuyết phục nhất rằng người Mỹ có thể —nếu họ muốn —cân bằng giữa các giá trị và việc hợp tác thực dụng ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Phải thừa nhận rằng việc gắn kết với Campuchia và Lào là không hề dễ dàng. Hồi năm 2019, Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ, Donald Trump, đã trao đổi thư từ với Thủ tướng Campuchia Hun Sen trong một nỗ lực tái thiết quan hệ. Trump yêu cầu Hun Sen "đưa Campuchia trở lại con đường quản trị dân chủ", đồng thời cũng tỏ ý chia sẻ những lo ngại của Hun Sen khi nhắn nhủ rằng "chúng tôi không tìm kiếm sự thay đổi chế độ". Hun Sen đã tự viết bức thư hồi đáp của mình. Trong đó, ông nói, "Quan điểm của tôi là chúng ta không nên sống mãi trong những chương đen tối của lịch sử hai nước. Còn rất nhiều chương đẹp đẽ khác đáng được quan tâm, vì những lợi ích cao cả hơn, cho đất nước và con người của cả hai bên". Vì không muốn quyền lực của chính mình bị suy yếu, Hun Sen đã phớt lờ lời kêu gọi quay trở lại dân chủ của Trump.

Công bằng mà nói, chính quyền Biden đã không hoàn toàn bỏ qua Campuchia, họ đã cử hai quan chức cấp cao của Bộ Ngoại giao tới thăm Campuchia vào năm ngoái. Khi Thứ trưởng Ngoại giao Wendy Sherman đến thăm Phnom Penh vào tháng 6/2021, bà đã thảo luận về khoản hỗ trợ phát triển kinh tế trị giá 3 tỷ USD mà Mỹ dành cho Campuchia kể từ khi kết thúc cuộc nội chiến năm 1991. Hai bên cũng thảo luận về quan hệ đối tác trong lĩnh vực y tế và giáo dục, các vấn đề liên quan đến sông Mekong, và việc Mỹ giúp rà phá bom mìn chưa nổ trong Chiến tranh Việt Nam. Sherman còn hứa sẽ hỗ trợ Campuchia khi nước này đảm nhận chức chủ tịch luân phiên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào năm 2022.

Nhưng những diễn tiến tích cực trong quan hệ song phương đã sớm bị lu mờ bởi những điều tiêu cực. Ngay trước khi bà Thứ trưởng đến, một bài xã luận đăng trên một tờ báo nhà nước của Campuchia đã lập luận rằng : thay vì chỉ trích các giá trị của Campuchia, Mỹ nên "tăng cường hợp tác phát triển hơn nữa" và "xem xét việc khuyến khích các nhà đầu tư của mình đầu tư vào Campuchia … giống như những gì Trung Quốc đã làm". Thế nhưng, khi đến nơi, Sherman lại đi gặp các nhà lãnh đạo xã hội dân sự, đồng thời chỉ trích hồ sơ nhân quyền và quản trị của Phnom Penh. Bà cũng đề cập đến kế hoạch của Bắc Kinh nhằm xây dựng một căn cứ hải quân tại Ream ở Campuchia, điều mà Hun Sen liên tục phủ nhận, và thúc giục chính phủ Campuchia hạn chế ảnh hưởng quá lớn của Trung Quốc ở nước này. Chính hành động kiên quyết nhấn mạnh tầm quan trọng của các giá trị hơn là hợp tác thực dụng của Sherman đã khiến chuyến thăm của bà, nhiều khả năng, chỉ đẩy Campuchia sâu hơn vào vòng tay Trung Quốc.

Tham tán Bộ Ngoại giao Mỹ Derek Chollet, người đến Campuchia vào tháng 12 vừa qua trong một bối cảnh còn tiêu cực hơn, cũng đã thảo luận về các chủ đề tương tự. Washington khi ấy vừa áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với hai nhà lãnh đạo cấp cao của quân đội Campuchia, bao gồm cả người đứng đầu lực lượng hải quân, sau các cáo buộc tham nhũng liên quan đến việc Trung Quốc xây dựng Căn cứ Hải quân Ream. Washington cũng thông báo sẽ xem xét lại các đặc quyền thương mại của Campuchia — điều sẽ có ảnh hưởng đáng kể, vì Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Campuchia — và đưa ra lời khuyên cho các doanh nghiệp Mỹ, rằng họ nên tránh giao dịch với các công ty Campuchia liên quan đến tham nhũng, tội phạm, và vi phạm nhân quyền. Sau khi Chollet rời đi, Washington ban hành lệnh cấm vận vũ khí, đồng thời cấm Campuchia mua lại các công nghệ lưỡng dụng để ngăn chúng rơi vào tay chế độ này, hoặc vào tay Bắc Kinh.

Nếu so sánh các tương tác của Washington và Bắc Kinh với Phnom Penh, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được lý do tại sao Campuchia lại thích Trung Quốc. Như các tuyên bố ngoại giao của họ khẳng định, hai nước láng giềng này vẫn còn duy trì "tình anh em khắng khít", tăng cường trao đổi ngày càng sâu sắc trên mọi phương diện. Ví dụ, một hiệp định thương mại tự do Trung Quốc-Campuchia vừa mới có hiệu lực, chắc chắn sẽ nâng tầm quan hệ thương mại của hai bên. Trung Quốc cũng đã hỗ trợ Campuchia rất nhiều trong việc cung cấp vaccine và các hoạt động cứu trợ đại dịch khác. Thêm nữa, các dự án Sáng kiến Vành đai và Con đường của Bắc Kinh cũng giúp phát triển kinh tế, dù chúng cũng tạo ra cơ hội mới cho tham nhũng.

Hun Sen, một đồng minh trung thành của Chủ tịch Tập Cận Bình, đã trở thành nhà lãnh đạo nước ngoài duy nhất đến thăm ông Tập kể từ khi bắt đầu đại dịch Covid-19. Bất chấp các hoạt động xây dựng gần đây của Trung Quốc tại Ream, cả hai bên đều bác bỏ ý tưởng rằng Trung Quốc cuối cùng sẽ đóng quân tại đây. Nhưng thật khó để tin rằng lời phủ nhận này là sự thật, nếu xét đến các chi tiết đã được hé lộ về dự án này, cũng như dự án mở rộng đường băng của sân bay Dara Sakor gần đó do Trung Quốc tiến hành, vốn dường như nhằm trang bị cho sân bay khả năng tiếp nhận các máy bay quân sự.

Lào thậm chí còn là một điểm mù lớn hơn, vì chính quyền Biden vẫn chưa cử một quan chức cấp cao nào đến đây. Trong khi đó, chính quyền Obama đã cử các Ngoại trưởng đến thăm Lào tận ba lần — Hillary Clinton một lần vào năm 2012, và John Kerry hai lần vào năm 2016. Đệ nhất Phu nhân đương nhiệm Jill Biden cũng đã đến thăm chính thức Lào vào năm 2015 khi chồng bà đang là Phó Tổng thống.

Quan trọng nhất, Tổng thống Barack Obama đã từng thăm Lào vào năm 2016, đánh dấu lần đầu tiên một Tổng thống Mỹ đương nhiệm đến thăm nước này. (Obama, hồi năm 2012, cũng trở thành Tổng thống Mỹ đầu tiên và duy nhất từng đến thăm Campuchia). Tuy nhiên, chuyến thăm của ông không nằm trong một toan tính chiến lược nào cả ; đúng hơn, nó phát xuất từ "nghĩa vụ đạo đức", như lời Obama, nhằm giải quyết hậu quả của việc Mỹ ném bom xuống Lào trong Chiến tranh Việt Nam, khiến nước này phải hứng chịu lượng bom tính trên đầu người cao nhất từng được ném xuống một quốc gia. Dù thế, trong chuyến thăm, Obama cũng đã tuyên bố nâng tầm quan hệ với Viêng Chăn lên đối tác toàn diện. Mối quan hệ này gồm nhiều khía cạnh khác nhau của trao đổi song phương, và còn đi kèm 90 triệu đô la trong ba năm, để giúp Lào rà phá bom mìn. Trong vòng 20 năm trước đó, tổng cộng hỗ trợ của Washington cho Lào chỉ ở mức 100 triệu USD.

Cả chính quyền Trump và Biden đều không tỏ ra quan tâm đến việc tận dụng chuyến thăm lịch sử của Obama. May mắn thay, nhiều chương trình dưới thời Obama vẫn được tiếp tục phát triển, bao gồm thúc đẩy kinh tế, hỗ trợ pháp lý, phòng chống buôn người, và dạy tiếng Anh – theo phát biểu gần đây của Đại sứ Mỹ tại Lào. Quan trọng nhất, các mức tài trợ cho hoạt động rà phá bom mìn vẫn ở mức cao dưới thời chính quyền Trump và Biden.

Trong khi đó, Trung Quốc đang xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng vô cùng cần thiết, và đầu tư vào các lĩnh vực hứa hẹn tăng trưởng mạnh nhất của nền kinh tế Lào. Một tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào chuyên chở hành khách và hàng hóa đã được hoàn thành vào tháng trước. Bắc Kinh khoe rằng du lịch từ Trung Quốc đến Lào, quốc gia không giáp biển duy nhất ở Đông Nam Á, đang gia tăng bất chấp đại dịch. Lào cũng được cho là đang hưởng lợi từ các chuỗi cung ứng mới nhờ đường sắt. Trung Quốc còn xây dựng nhiều đập cho Lào trên sông Mekong, nhằm giúp nước này tạo ra lượng thủy điện lớn, và trở thành "bình ắc quy của châu Á". Bắc Kinh khẳng định rằng không có dự án nào trong số này đi kèm với các ràng buộc chính trị – tất nhiên, đó vẫn còn là điều gây tranh cãi. Mà dù điều đó có là sự thật đi chăng nữa, thì ràng buộc bằng tiền bạc và tham nhũng vẫn có thể mạnh hơn bất kỳ trao đổi ‘có qua có lại’ chính thức nào.

Rõ ràng, Trung Quốc đang có lợi thế vượt trội, trước tiên là nhờ ảnh hưởng kinh tế to lớn và vị trí gần kề. Cả ba quốc gia đều độc tài ; Campuchia và Lào do đó trở thành một đối tác kém hấp dẫn hơn đối với chính quyền Biden vốn ưu tiên các giá trị. Nhưng đó không phải là những trở ngại không thể vượt qua.

Chính quyền Biden có thể phối hợp với các đối tác dân chủ – chẳng hạn như Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc – để cùng thúc đẩy các dự án đầu tư và cơ sở hạ tầng ở Campuchia và Lào, cạnh tranh trực tiếp với Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc. Nền tảng cơ sở cho các dự án này đã sẵn có, bao gồm sáng kiến Xây dựng lại Thế giới Tốt đẹp hơn của Biden, cùng với các thỏa thuận khung về thương mại và đầu tư hiện có với Phnom Penh và Viêng Chăn.

Nhưng ngay cả khi có sẵn nền tảng, thì trước tiên, Washington vẫn nên tránh để các quan hệ này xấu đi, đồng thời nên tích cực xây dựng quan hệ thân tình và hiệu quả. Bất kỳ biện pháp trừng phạt nào cũng rõ ràng sẽ phản tác dụng. Chính quyền Biden vẫn có thể thể hiện đúng trọng tâm hướng đến các giá trị, nhưng không phải bằng cách rao giảng và chỉ trích, mà bằng cách tái sắp xếp và điều chỉnh những cuộc đối thoại này, như đã làm với các nước khác trong khu vực. Một cách tiếp cận toàn diện hơn đối với cạnh tranh chiến lược có thể được minh họa bằng việc chính quyền Biden tìm kiếm các trao đổi chính trị cấp cao với Campuchia và Lào, nhằm tạo điều kiện cho các thỏa thuận kinh tế và an ninh mới, chẳng hạn như việc tái lập quyền tiếp cận của Mỹ với Căn cứ Hải quân Ream. Một chiến lược đầy tham vọng như vậy có lẽ sẽ đòi hỏi một sự kiềm chế đáng kể những quan tâm của Mỹ đối với vấn đề giá trị.

Dù bằng cách nào, chắc chắn sẽ có những khoảnh khắc khiến Washington cảm thấy ngần ngại. Chẳng hạn, Hun Sen đã thẳng tay đàn áp các nhóm đối lập ; và tuần trước, ông đã đến thăm Myanmar để gặp gỡ chính quyền quân sự, vốn đang bị hầu hết các quốc gia khác xa lánh. Nhưng sau cùng thì, việc tăng cường can dự với Campuchia và Lào sẽ chỉ mang lại lợi ích ròng cho Mỹ trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc. Một cách tiếp cận thuần túy dựa trên giá trị rõ ràng đã không tiến triển như mong đợi, làm Mỹ bị cô lập trong một khu vực có ít nền dân chủ thực sự, và trao cơ hội mở rộng ảnh hưởng cho Bắc Kinh một cách không cần thiết.

Derek Grossman

Nguyên tác : "Time for America to Play Offense in China’s Backyard"Foreign Policy, 12/01/2022.

Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 14/01/2022

Derek Grossman là chuyên viên phân tích quốc phòng cấp cao tại Rand Corp., giáo sư thỉnh giảng Đại học Nam California, và là cựu báo cáo viên thông tin hàng ngày cho Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ về Các Vấn đề An ninh Châu Á và Thái Bình Dương.

Additional Info

  • Author Derek Grossman, Nguyễn Thị Kim Phụng
Published in Diễn đàn