Chuyên mục Carta Academica - "Tự do học thuật dưới áp lực ở Bỉ : cánh tay nối dài của Bắc Kinh"
Mỗi tuần, Le Soir (báo tiếng Pháp có trụ sở tại Bruxelles - Bỉ) phát hành một chuyên mục của một thành viên Carta Academica về một chủ đề thời sự. Chủ đề tuần này là "Chế độ Trung Quốc đang làm mọi cách trong khả năng của mình để hướng nghiên cứu học thuật có lợi cho mình. Ngay cả khi nó có nghĩa là gây áp lực lên giới học thuật...
Trung Quốc cai trị bởi bàn tay sắt của Tập Cận Bình dùng mọi thủ đoạn để kiểm soát hình ảnh của chế độ ở nước ngoài – Reuters
Nỗ lực thao túng diễn văn học thuật của nhà nước Trung Quốc đã làm đổ nhiều giấy mực trong giới nghiên cứu. Can thiệp vào chương trình của các ban và ủy ban xuất bản tiếng Trung Quốc, kiểm duyệt và tự kiểm duyệt trong cơ sở dữ liệu của các tạp chí học thuật nổi tiếng quốc tế, sự can thiệp của các đại sứ quán Trung Quốc và hiệp hội sinh viên liên quan đến họ để ngăn chặn các hoạt động liên quan đến Tây Tạng hoặc đối với người Uyghur trong khuôn viên trường, đe dọa các học giả đến tận nhà của họ, công cụ hóa các nhà nghiên cứu không phải là chuyên gia về Trung Quốc bị dụ dỗ bởi gã khổng lồ kinh tế, đe dọa không cấp thị thực... Những sự cố này tiếp tục nhân lên và gây ra những rào cản đáng kể đối với nghiên cứu học thuật về Trung Quốc, bao gồm cả ở Châu Âu và Bỉ.
Cách làm ngấm ngầm của Bắc Kinh cố gắng cản trở quyền nghiên cứu độc lập và tự do này không được công chúng biết đến nhiều, mặc dù đó là cuộc sống hàng ngày của các nhà Hán học. Dưới đây là một vài ví dụ.
Chấp nhận "thực tế khách quan" của Bắc Kinh
"Chúng tôi hiểu rằng bà có thể hiểu sai. Lần tới khi bà tổ chức một hoạt động học thuật, chúng tôi sẽ giúp bà tìm những giáo sư có thể đến giải thích cho công chúng Bỉ về thực tế khách quan của Trung Quốc. " Đây là cách mà hai tùy viên của Đại sứ quán Trung Quốc ở Bruxelles ngỏ lời với tôi trong một bữa ăn trưa mà họ đã vui lòng mời tôi. Trong suốt hai giờ đồng hồ quanh chiếc bàn trong một nhà hàng Trung Quốc không xa khuôn viên trường đại học, mời tôi những món ăn ngon nhất, họ đã cố gắng hết sức để thuyết phục tôi rằng tôi đã làm sai công việc của mình với tư cách là một nhà nghiên cứu và giáo sư, rằng Đại sứ quán sẵn sàng hỗ trợ tôi hoàn toàn nếu tôi chấp nhận "thực tế khách quan" của họ. Các nhà ngoại giao cũng đã nhắc đi nhắc lại cho tôi biết mối quan hệ với Trung Quốc quan trọng như thế nào đối với trường đại học của tôi, rằng việc duy trì nghiên cứu "láo" về các chính sách của Trung Quốc đối với các dân tộc sẽ có hại cho quan hệ đối tác của chúng tôi. Đó là vào đầu năm 2016, ngay sau khi vị đại sứ rao giảng tôi một cách gay gắt, trước mặt các nhà chức trách của trường đại học của tôi, vì đã mời "những kẻ khủng bố" tham dự một hội nghị học thuật về người Uyghur - trong trường hợp này là một ủy ban hỗ trợ Nhà nghiên cứu người Uyghur Ilham Tohti, bị bắt và bị kết án chung thân vào năm 2014, người được Nghị viện Châu Âu trao Giải thưởng Sakharov về Nhân quyền vào năm 2019. Vài tuần sau các cuộc tấn công rạp Bataclan ở Paris, công thức đó đã có hiệu ứng.
Sau đó, tôi đã từ chối những "lời mời uống trà" thường xuyên này, như cách nói bằng tiếng Trung Quốc, hay nói cách khác là những lệnh triệu tập trá hình do chính quyền đưa ra, nhằm mục đích dụ dỗ hoặc đe dọa (và đôi khi để lấy thông tin hoặc để tạo trung gian) trong các phiên họp không chính thức. Thực tiễn phổ biến này, hiếm khi được tiết lộ, có thể có những ảnh hưởng rất cụ thể đối với các học giả (hoặc nhà báo), những người đang lo lắng về sự nghiệp của họ, phản ứng của cấp trên hoặc khả năng tiếp cận thực địa ở Trung Quốc : tự kiểm duyệt, rút lui khỏi "đề tài nhạy cảm" hoặc thỏa hiệp.
Đe dọa
Nhưng sự can thiệp của nhà nước Trung Quốc vào giới học thuật (hay báo chí) Châu Âu không kết thúc ở đó. Một cách làm khác của các đại sứ quán Trung Quốc, khi học giả (hoặc nhà báo) không trả lời yêu cầu hoặc đe dọa của họ, là gửi cho nhà tuyển dụng những bức thư bị xúc phạm để yêu cầu một cách nghiêm túc, "nhân danh tình hữu nghị Trung-Bỉ", việc thu hồi các bài báo hoặc trang Internet chỉ trích chính sách của Trung Quốc. Trong những bức thư này, thường được chuyển bằng tay bởi một người biệt phái từ đại sứ quán để củng cố tính nghiêm túc của lệnh và gây ấn tượng với người nhận, ngôn từ một lần nữa giữa việc dỗ dành và khuyên nhủ.
Áp lực đối với giới học thuật và cộng đồng hải ngoại
Các đại sứ quán Trung Quốc cũng thường liên hệ với các phòng quan hệ quốc tế để lấy danh sách "để biết thông tin" về các quan hệ đối tác với Trung Quốc hoặc danh sách của sinh viên Trung Quốc, đặc biệt là người Duy Ngô Nhĩ, trong các đại học Bỉ. Khi nhà nghiên cứu hoặc cơ sở giáo dục của họ không đáp ứng các yêu cầu của chế độ Trung Quốc, chế độ cố gắng tiếp cận họ thông qua các sinh viên trong cộng đồng của họ. Sinh viên Trung Quốc có thể làm chứng, với điều kiện giấu tên, về các cảnh báo hoặc nỗ lực của Đại sứ quán Trung Quốc trong việc tuyển dụng họ để thu thập thông tin về các phong trào trong cộng đồng hải ngoại và trong cộng đồng chuyên môn về Trung Quốc ở Bỉ. Nhiều người trong số họ phụ thuộc vào đại sứ quán cấp học bổng của họ và không có lựa chọn nào khác ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ được giao với mức độ nhiệt tình khác nhau. Thực tế này đặt nhà nghiên cứu vào một tình thế khó xử tột độ: làm thế nào để tiến hành công việc học tập trung thực mà không gây nguy hiểm cho sinh viên và đồng nghiệp Trung Quốc
Công cụ hóa
Ngoài ra, đại sứ quán cũng không ngần ngại tiếp cận các sinh viên Châu Âu để yêu cầu họ "báo cáo" về lời nói và hoạt động của các đồng đội, bao gồm người Hong Kong, người Tây Tạng và người Uyghur. Vào năm 2018, đại sứ quán Trung Quốc tại Bruxelles thậm chí đã cố gắng thuê sinh viên từ các khuôn viên trường đại học Bruxelles để thể hiện sự không đồng tình với một cuộc biểu tình của người Duy Ngô Nhĩ. Mục đích là để quảng bá một nhóm nhỏ những người Châu Âu và Trung Quốc trẻ tuổi, những người "không bị lừa" bởi các chiến dịch nói láo của "những kẻ khủng bố" người Uyghur, và công khai tuyên bố các ưu điểm của các chính sách của Trung Quốc bằng các áp phích "chống lại bạo lực và vì hoà bình". Do đó, các sinh viên được mời tham gia phản đối với một mức lương không nhỏ, một cách đáng lo ngại dùng họ như công cụ. Một cử chỉ gợi nhớ đến cuộc biểu tình giả do chính quyền Trung Quốc tổ chức ở Canada ủng hộ giám đốc tài chính của tập đoàn Huawei, Meng Wanzhou, bị bắt và chờ dẫn độ sang Hoa Kỳ vì tội lừa đảo. Những người Canada tưởng được thuê để làm vai phụ trong một bộ phim đã đến bên ngoài tòa án Vancouver để hỗ trợ việc phóng thích giám đốc của gã khổng lồ viễn thông Trung Quốc - với các bảng tiếng Anh, chữ viết tay, tất cả dường như từ cùng một bàn tay, và những thông điệp lạ lùng như "đừng bắt nạt chúng tôi nữa!" ". Như ở Bỉ, lời kêu gọi được đưa ra trên truyền thông xã hội dưới dạng quảng cáo tuyển dụng mà không có thêm thông tin chi tiết, và tiền lương được trả bởi một hiệp hội mù mờ, một cửa hàng của đại sứ quán Trung Quốc địa phương.
Nhà nghiên cứu tự do, không phải "kẻ thù của Trung Quốc"
Do đó, chúng ta có thể thấy rằng chiến lược của Bắc Kinh bao gồm việc nhắm vào giới học giả, đe dọa họ và làm tê liệt toàn bộ cộng đồng để dập tắt bất kỳ cuộc tranh luận nào hoặc để loại bỏ bất kỳ quan điểm nào mâu thuẫn với luận điệu của chế độ Trung Quốc. Đây được gọi là quyền lực sắc bén, một khả năng của các nhà nước độc tài nhằm phá hoại các nền dân chủ từ bên trong bằng cách thông tin sai lệch với mục đích không thân thiện. Cách đối xử như vậy không dành riêng cho các đồng nghiệp nói tiếng Anh trong bối cảnh chiến tranh lạnh Trung-Mỹ lần thứ hai, như chúng ta đôi khi vẫn nghe thấy. Nó áp dụng chính trong các khuôn viên trường đại học của chúng ta, và các trường đại học của chúng ta được chuẩn bị rất kém để đối phó.
Trên thực tế, bằng những cách như vậy, chế độ Trung Quốc "tự tát vào mặt để nó sưng lên và khiến nó trở nên oai phong hơn", một cách diễn đạt của người Trung Quốc có nghĩa là một người tìm cách gây ấn tượng bằng cách giả vờ có quyền lực hơn thực sự. Tuy nhiên, theo lời của bà nghị viên Châu Âu Nathalie Loiseau, trả lời Đại sứ Trung Quốc tại Pháp cách đây vài ngày : trong trường đại học, "không có kẻ thù của Trung Quốc", chỉ có các nhà nghiên cứu yêu cầu đựơc nghiên cứu nghiêm túc mà không bị đe dọa, không khiến sinh viên và đồng nghiệp của họ gặp rủi ro, và vẫn đựơc tự do không tin tuyên truyền của nhà nước Trung Quốc.
Vanessa Frangville
Nguyên tác : La chronique de Carta Academica – "Liberté académique sous pression en Belgique : le long bras de Pékin", Le Soir, 03/10/2020
Đỗ Lê Thường dịch
(08/10/2020)
Ghi chú :
Vanessa Frangville, giáo sư nghiên cứu Trung Quốc, giám đốc trung tâm nghiên cứu EASt * (Đông Á, ULB : Đại học Bruxelles - Bỉ), cho Carta Academica **
(*) EASt : Trung tâm nghiên cứu Đông Á thuộc Đại học Tự do Bruxelles (Bỉ)
(**) Carta Academica : Một nhóm học giả từ tất cả các trường đại học của Bỉ, cam kết tranh luận (xã hội), tất nhiên là tôn trọng quyền tự do tư tưởng của cá nhân.
Tương lai Biển Đông : Căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ tiếp tục
Nguyễn Trường, RFA, 10/09/2020
Kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát vào tháng 3/2020, những căng thẳng tại biển Đông đã gia tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do Trung Quốc tiếp tục tỏ thái độ quyết đoán, cùng với đó là việc quan hệ Mỹ-Trung xấu đi trong một loạt vấn đề, trong đó có vấn đề biển Đông. Những hành động của Bắc Kinh nhằm khẳng định quyền tài phán và thể hiện rằng Covid-19 không làm suy yếu ý chí chính trị hay khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) đã phản tác dụng. Mỹ đã tăng cường sự hiện diện quân sự tại biển Đông cũng như đẩy mạnh việc chỉ trích các hành động của Trung Quốc. Quan trọng hơn cả, để ủng hộ các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền, Washington đã gắn chính sách biển Đông của mình với phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016. Trung Quốc và Mỹ liên tục cáo buộc nhau kích động căng thẳng và quân sự hóa tranh chấp.
Tàu sân bay USS Ronald Reagan của Mỹ tập trận cùng tàu của Lực lượng phòng vệ Biển Nhật Bản ở Biển Đông hôm 31/8/2018 - Reuters
Các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền tại biển Đông cho rằng Bắc Kinh đã lợi dụng đại dịch Covid-19 để thúc đẩy tuyên bố chủ quyền, đồng thời phản ứng bằng lập trường cứng rắn hơn. Các nước này tiếp tục bác bỏ cơ sở pháp lý "đường 9 đoạn" của Trung Quốc và viện dẫn phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016. Mặc dù các quốc gia ven biển tại Đông Nam Á nhìn chung tán thành việc Mỹ ủng hộ họ thực thi quyền hàng hải trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, nhưng các nước này cũng kiềm chế không công khai khẳng định điều này để tránh chọc giận Trung Quốc.
Trong vòng 18 tháng tới, căng thẳng không có khả năng hạ nhiệt. Quan hệ Mỹ-Trung sẽ tiếp tục đi xuống, bất luận ai là người chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2020. Trung Quốc và Mỹ sẽ tăng cường hoạt động quân sự tại biển Đông, làm gia tăng nguy cơ đối đầu. Căng thẳng gia tăng tại eo biển Đài Loan sẽ tác động tới tranh chấp tại biển Đông. Các nỗ lực của Đông Nam Á trong việc bảo vệ quyền chủ quyền bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của luật pháp quốc tế và thông qua đàm phán với Trung Quốc về COC sẽ không làm thay đổi những động lực cốt lõi trong tranh chấp ở biển Đông.
Cạnh tranh chiến lược leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ tiếp tục đổ thêm dầu vào ngọn lửa căng thẳng tại biển Đông. Mối bất hòa giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ gia tăng đáng kể từ nay cho tới cuộc bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11 tới. Với sự đồng thuận lưỡng đảng tại Mỹ về Trung Quốc, chính quyền Mỹ mới nếu do Joe Biden dẫn dắt cũng sẽ không thể thực hiện một chính sách mang tính hòa giải hơn tại biển Đông được. Nếu Tổng thống Trump tái cử, chính quyền của ông sẽ tiếp tục chính sách cứng rắn với Trung Quốc trong vấn đề biển Đông. Vì thế, trong giai đoạn 2020-2021, chúng ta sẽ chứng kiến sự gia tăng tần suất các chiến dịch quân sự của Mỹ tại biển Đông, bao gồm các sứ mệnh hiện diện, các chuyến bay qua, các cuộc tập trận và FONOP. Mỹ nhiều khả năng sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt bổ sung nhằm vào các công ty, cá nhân tại Trung Quốc mà Mỹ cáo buộc thực hiện chính sách của Bắc Kinh tại biển Đông.
Thông qua việc triển khai tàu hải quân tại EEZ của Malaysia cũng như qua tuyên bố của Pompeo, Mỹ đã cho thấy ý định gia tăng sự hỗ trợ dành cho các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền. Sự hỗ trợ này có thể bao gồm việc chuyển giao trang thiết bị như radar, thiết bị không người lái và tàu tuần tra để các nước có thể giám sát chặt chẽ hơn các hoạt động của Trung Quốc trong EEZ của họ, nhất là việc đánh cá trái phép và sự hiện diện của các tàu của Chính phủ Trung Quốc. Pompeo cũng ám chỉ rằng Mỹ có thể sẵn sàng hỗ trợ pháp lý cho các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền.
Trung Quốc sẽ đẩy mạnh các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và quyền tài phán tại biển Đông và gia tăng sức ép với Đài Loan nhằm thúc đẩy tư tưởng dân tộc chủ nghĩa của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình và chuyển hướng sự chú ý khỏi các khó khăn kinh tế của Trung Quốc. Vì thế, quy mô và tần suất các cuộc tập trận của Hải quân PLA tại biển Đông cũng sẽ gia tăng. Các hoạt động quân sự của Mỹ, trong đó có FONOP, sẽ không ngăn cản được Trung Quốc. Nếu như tần suất FONOP tại biển Đông gia tăng, Hải quân PLA có thể áp dụng cách tiếp cận đối đầu hơn nhằm phản ứng trước việc các tàu hải quân Mỹ đi qua các quần đảo Trường Sa hay Hoàng Sa, làm gia tăng nguy cơ đụng độ trên biển mà có thể châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng quân sự-chính trị trong quan hệ Mỹ-Trung.
Dự báo trong năm tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục triển khai tàu khảo sát tới EEZ của các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền, cũng như quấy rối các tàu tiến hành khai thác và thăm dò dầu khí theo thỏa thuận với các nước này. Mục đích của Trung Quốc là ép buộc chính phủ các nước Đông Nam Á ký thoả thuận khai thác chung với Trung Quốc, đồng thời cản trở các tập đoàn năng lượng quốc tế tham gia các dự án khai thác dầu khí ngoài khơi cùng các công ty năng lượng Đông Nam Á khi không được Bắc Kinh chấp thuận.
Tàu hải cảnh Trung Quốc nhìn từ tàu cảnh sát biển của Việt Nam ở Biển Đông hôm 14/5/2014 – Reuters
Các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền tại biển Đông quyết tâm bảo vệ tuyên bố về chủ quyền lãnh thổ và quyền chủ quyền trong EEZ của họ. Các nước này cũng không kém phần quyết tâm để không bị lôi kéo vào tranh cãi giữa Mỹ và Trung Quốc tại các vùng biển tranh chấp. Do sự bất cân xứng về sức mạnh, các nước Đông Nam Á không thể sử dụng hải quân hay lực lượng bảo vệ bờ biển để đối đầu với Hải quân Trung Quốc (PLA) hay lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc, mà chỉ có thể giám sát các hoạt động của họ. Trong tương lai, năng lực của họ trong hoạt động này có thể còn suy giảm vì các chính phủ phải cắt giảm chi tiêu quốc phòng do khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ đại dịch Covid-19 và phải điều chuyển bớt năng lực cảnh sát biển và hải quân vốn đã hạn chế nhằm đối phó với tình trạng cướp biển đang ngày càng gia tăng trong và ngoài các vùng lãnh hải. Do đó, các nước Đông Nam Á còn lại 2 lựa chọn chính sách, và không lựa chọn nào có thể ngăn cản Trung Quốc hành động quyết đoán.
Lựa chọn thứ nhất là tiếp tục nhấn mạnh rằng các quyền trên biển của họ được xác định theo UNCLOS, và được phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016 bảo vệ. Tuy nhiên, Trung Quốc cho rằng các quyền lịch sử của họ tại biển Đông phải được ưu tiên so với UNCLOS và phán quyết của Tòa trọng tài là vô giá trị. Chiến lược của các nước Đông Nam Á nhằm làm cho Trung Quốc phải hổ thẹn và điều chỉnh các tuyên bố chủ quyền theo UNCLOS sẽ không thành công và Bắc Kinh sẽ sẵn sàng chấp nhận việc uy tín bị suy giảm.
Lựa chọn thứ hai là đàm phán COC giữa ASEAN và Trung Quốc, với hy vọng rằng nó sẽ điều chỉnh cách hành xử của Trung Quốc và làm giảm căng thẳng. Tuy nhiên, do đại dịch Covid-19, từ đầu năm tới nay, các quan chức 10 nước thành viên ASEAN và Trung Quốc chưa thể gặp nhau để tiếp tục đàm phán. Tháng 7/2019, các quan chức đã nhất trí về dự thảo thứ nhất của COC. Cuộc gặp gần đây nhất của Nhóm làm việc chung (JWC) ASEAN-Trung Quốc về COC diễn ra tại Đà Lạt, Việt Nam vào tháng 1/2019. Hai cuộc gặp của JWC dự kiến diễn ra vào đầu năm 2020 – tại Brunei vào tháng 2 và tại Philippines vào tháng 5 – đều đã bị huỷ do đại dịch Covid-19. Tính chất nhạy cảm của các cuộc đàm phán này không cho phép tiến hành thông qua hình thức họp trực tuyến. Tình hình có thể thay đổi vào cuối năm nay và các nội dung ít nhạy cảm của COC có thể được đàm phán trực tuyến. Bắc Kinh có vẻ muốn nối lại đàm phán. Tuy nhiên, ngay cả khi các cuộc thảo luận được nối lại, sự ngắt quãng trong công việc của JWC có nghĩa là mục tiêu hoàn tất COC trong năm 2021 mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố sẽ khó có thể đạt được. Ngay từ trước khi đại dịch xảy ra, nhiều nước thành viên ASEAN đã bày tỏ nghi ngờ về khả năng đạt được mục tiêu này khi xét tới tính phức tạp của các vấn đề thảo luận. Vì thế, có thể phải tới năm 2022 hoặc 2023 thì COC mới được ký kết, và vào thời điểm đó, Trung Quốc hẳn đã củng cố vững chắc hơn đáng kể vị thế của mình tại biển Đông.
Không có nhiều lý do để tỏ ra lạc quan rằng căng thẳng sẽ lắng dịu tại khu vực biển Đông trong giai đoạn 2020-2021. Cạnh tranh Mỹ-Trung, động lực trung tâm của tình trạng này, chắc chắn sẽ leo thang. Đối mặt với thực tế khó khăn này, các nước Đông Nam Á sẽ không có sẵn nhiều công cụ để hạ nhiệt tranh chấp ngoài việc viện dẫn luật pháp quốc tế và chủ nghĩa đa phương. Như vậy, tranh chấp tại biển Đông sẽ vẫn đứng đầu nghị trình an ninh của Đông Nam Á trong tương lai sắp tới.
Năm nay là năm Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã rất hy vọng đẩy mạnh vấn đề biển Đông và tiến trình đàm phán COC trong nghị trình của ASEAN cũng như tại Hội nghị Đông Á (EAS) và Diễn đàn khu vực ASEAN. Tuy nhiên, với sự bùng phát của đại dịch Covid-19, các nỗ lực của Việt Nam bị giảm đi rất nhiều.
Chúng ta còn nhớ mới đây, hồi tháng 7 năm nay, phía Việt Nam đã phải tiếp tục rút khỏi việc thăm dò tại Lô 06.1 do lo ngại sức ép từ phía Trung Quốc và sự chưa sẵn sàng của lãnh đạo Việt Nam trong việc đối mặt với đe doạ từ Trung Quốc. Trước đó, năm 2017 và 2018, Việt Nam đã phải yêu cầu công ty Repsol rút khỏi các Lô 136.3 và 07.3.
Như vậy, trong tương lai, khả năng Trung Quốc sẽ được đà lấn tới, tiếp tục đe doạ hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam ngay tại EEZ của Việt Nam. Dư luận quốc tế gần đây cũng rộ lên khả năng Việt Nam sẽ theo gót Philippines để sử dụng phương án Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS, nhằm lôi Trung Quốc ra Tòa quốc tế. Tuy nhiên, khả năng này vẫn còn chưa rõ ràng, khi Việt Nam năm nay đang chuẩn bị cho Đại hội đảng cộng sản lần thứ 13, là dịp mà các phe nhóm chính trị giành quyền lực cho nhóm mình. Chính vì vậy, các khả năng có các hành động pháp lý mạnh mẽ tại biển Đông khó có thể xảy ra năm nay.
Việt Nam cũng đặt hy vọng nhiều vào tiến trình đàm phán COC năm nay. Tuy nhiên, với các dự báo như trên, khả năng COC khó mà có thể ký kết được trong tương lai gần. Và đương nhiên, Trung Quốc muốn sử dụng COC để loại Mỹ ra ngoài vùng ảnh hưởng. Và đây cũng sẽ là một trở ngại cho Việt Nam trong việc cân bằng quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc trong vai trò chủ tịch ASEAN năm nay.
Nguyễn Trường
Nguồn : RFA, 10/09/2020
Hoàng Lan, Thoibao.de, 10/09/2020
Trung Quốc ngày càng hung hăng trên các hồ sơ mà nước này có tranh chấp chủ quyền từ Biển Đông, Biển Hoa Đông cho đến Eo biển Đài Loan bằng việc tiến hành hàng loạt các cuộc tập trận. Chính quyền Trung Quốc mới đây đã phát đi thông báo từ ngày hôm 07/09/2020 sẽ tiến hành nhiều cuộc tập trận hơn nữa trên vùng biển phía đông và đông bắc Trung Quốc.
Ảnh : Phái đoàn quân sự Mỹ – Nhật, do hai bộ trưởng Quốc Phòng dẫn đầu, hội đàm tại căn cứ không quân Anderson, Guam, ngày 29/08/2020
Chiến dịch mới nhất này gồm hai cuộc tập trận.
Cục Hải sự Trung Quốc cho hay cuộc tập trận thứ nhất diễn ra ở vùng biển Bột Hải, ngoài khơi thành phố cảng Tần Hoàng Đảo thuộc tỉnh Hà Bắc, vào ngày 07/09.
Cuộc tập trận thứ hai, trong đó có phần bắn đạn thật, sẽ được tổ chức ở khu vực phía nam của vùng biển Hoàng Hải trong ngày 08-09/09. Theo thông báo, tất cả tàu thuyền bị cấm vào khu vực tập trận.
Tháng trước, Trung Quốc đã tiến hành một sự kiện hiếm thấy và bất thường là tổ chức 4 cuộc tập trận kéo suốt từ biển Hoa Đông, Hoàng Hải cho đến Biển Đông.
Trong đợt tập trận nói trên, Trung Quốc đã bắn 2 tên lửa đạn đạo chống hạm, gồm tên lửa Đông Phong 21 (DF-21) và Đông Phong 26 (DF-26) về phía Biển Đông, vào một khu vực giữa tỉnh Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa. Một nguồn tin từ Bộ Quốc phòng Mỹ cho rằng Trung Quốc đã bắn đến 4 tên lửa đạn đạo đến Biển Đông.
Trước đó, hai Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và Nhật Bản đã có cuộc gặp tại căn cứ quân sự Andersen trên đảo Guam ngày 29/08/2020 nhằm thắt chặt hợp tác quân sự song phương.
Lãnh đạo quân sự hai nước lên án mạnh mẽ những nước đơn phương dùng vũ lực để thay đổi nguyên trạng các tuyến lưu thông hàng hải, ám chỉ đến Trung Quốc.
Theo RFI, Bộ trưởng Mark Esper và đồng nhiệm Taro Kono nhất trí duy trì kiểm soát chiến lược hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nhắc đến cam kết Washington bảo vệ Tokyo theo điều 5 của Hiệp ước An ninh Mỹ – Nhật, được áp dụng với trường hợp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, hiện do Nhật Bản kiểm soát, nhưng Trung Quốc đòi chủ quyền.
Về vụ bắn tên lửa của Trung Quốc ra Biển Đông, bộ trưởng Quốc phòng hai nước đều xác nhận đó là nhằm cảnh cáo các máy bay trinh sát của Mỹ hoạt động gần khu vực hải quân Trung Quốc đang tập trận.
Trước mối đe dọa tên lửa từ Trung Quốc, vào tháng 09 này, Nhật Bản có thể sẽ thảo luận những giải pháp phòng thủ thay thế, sau khi từ bỏ dự án triển khai hệ thống chặn tên lửa Aegis Ashore của Mỹ.
Các nước trong khu vực và các nước liên quan đều đã lên tiếng phản đối việc Trung Quốc bắn tên lửa ra Biển Đông.
Ảnh : Thông cáo ngày 27/08 của Bộ Quốc phòng Mỹ về việc Trung Quốc bắn tên lửa ở Biển Đông
Tên lửa DF-26, được bắn thử với tên lửa Đông Phong DF-21 ngày 26/08, có tầm bắn 4.000 km (2.485 dặm), được coi là "loại tên lửa diệt tầu sân bay" và có khả năng mang đầu đạn hạt nhân. Loại hỏa tiễn này nằm trong các loại vũ khí bị cấm trong Hiệp ước về loại bỏ tên lửa tầm trung (INF) được Hoa Kỳ và Liên Xô ký từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh. Do không bị ràng buộc vì Hiệp ước này, Trung Quốc đã triển khai khoảng 2.000 tên lửa liên lục địa hoặc tên lửa hành trình có tầm bắn từ 500 km đến 5.500 km. Đây là lý do được Washington nêu khi giải thích về việc rút khỏi INF.
Vụ thử nghiệm tên lửa diễn ra trong khuôn khổ cuộc tập trận từ ngày 24 đến 29/08 ở phía bắc quần đảo Hoàng Sa.
Bộ Quốc phòng Mỹ phát đi thông cáo ngày 27/08 khẳng định "các hành động của Bắc Kinh, kể cả việc thử tên lửa, càng gây thêm bất ổn cho tình hình ở Biển Đông".
Bộ Quốc Phòng Mỹ cho rằng cuộc tập trận của Quân đội Trung Quốc nằm trong hàng loạt hoạt động của Bắc Kinh nhằm áp đặt các yêu sách hàng hải phi pháp và gây bất lợi cho các nước láng giềng Đông Nam Á tại Biển Đông.
Theo Lầu Năm Góc, Trung Quốc đã đi ngược lại cam kết ghi trong bản Tuyên bố về Cách ứng xử trên Biển Đông (DOC) năm 2002 và đặt ra nghi vấn về động cơ thực thụ của Bắc Kinh trong đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử (COC).
Ngày 26/08/2020, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Thị Thu Hằng cho biết "việc Trung Quốc liên tiếp tiến hành tập trận ở khu vực quần đảo Hoàng Sa vi phạm chủ quyền Việt Nam (…) đi ngược lại tinh thần Tuyên Bố về Ứng Xử của Các Bên ở Biển Đông (DOC)" và khiến tình hình thêm phức tạp, bất lợi cho tiến trình đàm phán giữa Trung Quốc với các nước ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC).
Ba mục tiêu
Các cuộc tập trận ngày càng hùng hậu và trên quy mô lớn của Trung Quốc nhằm ba mục tiêu.
Thứ nhất là nhằm kích động tinh thần dân tộc trong nước. Thứ hai là để ngăn chặn các lực lượng bên ngoài, đặc biệt là Mỹ, can thiệp vào Biển Đông. Và thứ ba là cảnh cáo các nước láng giềng về các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh.
Nhưng các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ngày càng phản đối mạnh mẽ : Việt Nam thì yêu cầu Bắc Kinh hủy các cuộc tập trận ở Hoàng Sa đồng thời đề nghị tăng cường hợp tác với Ấn Độ vì sự ổn định của khu vực Ấn Đô – Thái Bình Dương, Philippines cho biết sẽ cầu viện Mỹ nếu Trung Quốc tấn công tầu của Philippines ở Biển Đông.
Riêng Mỹ sẽ không từ bỏ các chiến dịch FONOP ở trong vùng. Chiến hạm Mỹ đã thực hiện tuần tra vùng biển Hoàng Sa vào lúc Trung Quốc tập trận bắn đạn thật. Một hôm sau khi Trung Quốc phóng thử tên lửa ở Biển Đông, ngày 27/08, chiếc khu trục hạm USS Mustin (DDG-89) đã đi ngang qua vùng quần đảo Hoàng Sa nhằm "duy trì các quyền hạn, quyền tự do và quyền sử dụng hợp pháp vùng biển được luật pháp quốc tế công nhận".
Phát ngôn viên Mỹ khẳng định là chiến dịch bảo về quyền tự do hàng hải vừa thực hiện cũng nhằm "thách thức yêu sách của Trung Quốc đối với các đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo Hoàng Sa".
Để đối phó với Trung Quốc, Mỹ còn quyết định tổ chức họp "Bộ Tứ kim cương".
Ảnh chụp thông báo của Bộ Ngoại giao Mỹ về việc trừng phạt các công ty Trung Quốc cải tạo Biển Đông
Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Robert O’Brien đã lên án "thái độ rất hung hăng" hiện nay của Trung Quốc khi phát biểu tại tổ chức phi chính phủ Hội đồng Đại Tây Dương (Atlantic Council) ngày 28/08.
Hãng tin Reuters cho biết Hoa Kỳ dự trù tổ chức nhiều cuộc họp cấp cao với các đối tác an ninh Nhật Bản, Úc và Ấn Độ trong "Bộ Tứ" (QUAD). Cụ thể, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo sẽ họp với đồng nhiệm Bộ Tứ vào tháng 09 và 10/2020. Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Robert O’Brien sẽ họp với các đồng nhiệm Bộ Tứ ở Hawaii vào tháng 10.
Ngày 26/08, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố lệnh trừng phạt các công ty Trung Quốc và cá nhân tham gia xây đảo nhân tạo ở Biển Đông và cho biết "Washington sẽ tiếp tục hành động cho tới khi Trung Quốc chấm dứt các hành vi cưỡng ép trên Biển Đông, hướng tới lợi ích chung và cư xử một cách thân thiện, tôn trọng các nước láng giềng".
Một trong những cái tên nổi trội nhất danh sách trừng phạt là Tập đoàn Kiến thiết giao thông Trung Quốc (CCCC). Không chỉ tham gia vào quá trình bồi đắp và xây dựng trái phép các thực thể nhân tạo ở Biển Đông, Mỹ xác định CCCC còn là nhà thầu hàng đầu được Bắc Kinh sử dụng trong sáng kiến "Vành đai, con đường".
Lệnh trừng phạt ngày 26/08 được coi là một trong những nỗ lực đáng ghi nhận sau tuyên bố lập trường mới về Biển Đông và cam kết hỗ trợ các nước bị Trung Quốc xâm phạm chủ quyền.
Hoàng Lan
Nguồn : Thoibao.de, 10/09/2020
Càng gần đến ngày Đại hội đảng lần thứ 13, Trung Quốc càng gây sức ép với nhà cầm quyền tại Hà Nội.
Các cuộc tập trận, bắn tên lửa và đạn thật diễn ra hết sức nguy hiểm trên Biển Đông, chỉ một sơ suất nhỏ sẽ biến thành đám cháy lớn, châm ngòi cho chiến tranh.
Ảnh : Đại sứ Việt Nam Phạm Sanh Châu (bên trái) gặp Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ Harch Vardhan Shringla hôm 21/8. Ảnh : twitter của Đại sứ Phạm Sanh Châu
Cũng chính các hành động quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc trên Biển Đông đã đẩy Hà Nội và New Delhi lại gần nhau hơn trong một mối quan hệ đối tác ngày càng khăng khít về quân sự được xem là để đối trọng với Trung Quốc
Việc Trung Quốc gần đây đưa oanh tạc cơ H-6J ra đảo Phú Lâm, một trong những khu vực tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, khiến Hà Nội tức giận.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao ở Hà Nội Lê Thị Thu Hằng hôm 20/8, như nhiều lần trước đây lên tiếng về các hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc trên Biển Đông, tuyên bố rằng việc triển khai máy bay ném bom H-6J, mà Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc nói là để "trấn áp và ngăn chặc các hoạt động quân sự khiêu khích của Mỹ", là "hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam" và làm "phức tạp tình hình" trong khu vực.
Trong tháng 7 vừa qua, Trung Quốc hai lần công bố tiến hành tập trận tại khu vực Biển Đông và Bộ Ngoại giao ở Hà Nội cả hai lần đều lên tiếng phản đối khi cho rằng hoạt động này của Trung Quốc là "vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo" Hoàng Sa.
Những hoạt động này của Trung Quốc đặt lên hàng đầu trong nghị trình khi Đại sứ Việt Nam Phạm Sanh Châu gặp Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ Harch Vardhan Shringla hôm 21/8, theo truyền thông Ấn Độ.
Phía Việt Nam đã thông báo với Ấn Độ về tình hình căng thẳng leo thang tại Biển Đông trong bối cảnh Trung Quốc tăng cường hiện diện quân sự tại nơi này với việc triển khai tàu, chiến đấu cơ và ít nhất một máy bay ném bom tại vùng biển mà Việt Nam nói thuộc chủ quyền của mình và cũng là nơi hãng ONGC của Ấn Độ có các hoạt động dầu khí.
Theo Giáo sư Carl Thayer của Đại học New South Wales, một chuyên gia về quân sự trong khu vực, đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc điều máy bay ném bom ra quần đảo Hoàng Sa – Trung Quốc đã từng đưa một vài oanh tạc cơ tầm xa H-6K tới khu vực này năm 2018. Tuy nhiên, theo nhận định của Giáo sư Thayer, sự cởi mở của Việt Nam về cuộc gặp của Đại sứ Châu là có ý nghĩa quan trọng.
"Việc Việt Nam thông báo với Ấn Độ phần nhiều cho thấy rằng Việt Nam đang tham gia vào một hành động ngoại giao để nêu ra các hành động của Trung Quốc với mục đích tìm kiếm sự ủng hộ chính trị", Giáo sư Thayer được South China Morning Post trích lời nói.
Truyền thông Việt Nam không đăng tải về cuộc gặp này nhưng Đại sứ Phạm Sanh Châu hôm 21/8 cho biết qua trang Twitter các nhân rằng ông đã gặp mặt Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ để "thảo luận các phương cách nhằm thúc đẩy mối quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam-Ấn Độ".
Trong sự kiện mà các nguồn ngoại giao gọi là cuộc gặp chính thức, Đại sứ Phạm Sanh Châu nói Việt Nam quyết tâm phát triển mối quan hệ hợp tác toàn diện mạnh mẽ với Ấn Độ.
Với việc tiếp cận Ấn Độ, Việt Nam đã cho thấy không chỉ một mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước mà còn cho thấy sự ủng hộ không ngừng của mình đối với tự do hàng hải và hàng không của Ấn Độ trên Biển Đông, theo Thạc sĩ Huỳnh Tâm Sáng của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
"Ấn Độ và Việt Nam giờ đây cùng ở điểm hội tụ về chiến lược", ông Sáng nói với South China Morning Post. "Cả hai bên đều phản đối việc Trung Quốc coi Biển Đông là ao nhà của mình và cùng có lợi ích trong việc gìn giữ hòa bình và ổn định trong vùng biển đầy tranh chấp".
Cùng "mối thâm thù"
Các mối quan hệ quốc tế, trong đó có Ấn Độ, đang giúp cho Việt Nam chống lại được tham vọng chiếm trọn Biển Đông và "nuốt sống Việt Nam" của Trung Quốc từ nhiều đời nay, theo nhà báo Võ Văn Tạo. Người từng chiến đấu trong quân đội nhân dân Việt Nam nói với VOA rằng Ấn Độ sẽ là nước đáng tin cậy để Việt Nam cùng liên minh chống lại Trung Quốc.
"Những quốc gia mà họ không bao giờ xóa được thâm thù với Trung Quốc là Ấn Độ và Nhật Bản và tôi nghĩ (Việt Nam) liên minh được với những quốc gia đó thì mới bền vững được", nhà báo Võ Văn Tạo nói. "Trung Quốc luôn luôn muốn nuốt vùng biên giới ở Kashmir, ỷ mạnh hơn để bắt nạn quân đội Ấn Độ mặc dù Ấn Độ là một cường quốc hạt nhân".
Cùng nhận định trên, ông Mohan Malik của Trung tâm nghiên cứu Chiến lược NESA thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng "cả Ấn Độ và Việt Nam đều nhận thấy Trung Quốc là một cường quốc theo chủ nghĩa bành trướng, không bao giờ có thể thoả mãn về mặt lãnh thổ và do đó là một mối ngụy hiểm rõ ràng và hiện tại". Nhà nghiên cứu của NESA được South China Morning Post trích lời cho rằng Ấn Độ đang tìm cách đối phó với Trung Quốc như Trung Quốc đã làm với Ấn Độ, là "ngăn chặn và bao vây".
Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường các mối quan hệ với Ấn Độ để giải quyết các mối lo ngại chung về hành động tuyên bố chủ quyền ngày càng tăng của Trung Quốc trên khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, theo nhà phân tích quốc phòng cấp cao tại Rand Corporation, Derek Grossman.
"Điều này có thể liên quan đến việc chia sẻ thông tin, huấn luyện quân sự và có lẽ là mua sắm vũ khí", nhà nghiên cứu Grossman nói, đồng thời cho biết thêm rằng quân đội hai nước rất bổ trợ nhau vì cả hai đề chủ yếu dựa vào thiết bị quân sự từ thời Liên Xô hoặc Nga.
Quan hệ quốc phòng và quân sự giữa Ấn Độ và Việt Nam cũng đã gia tăng trong vài năm gần đây. Trong chuyến thăm gần đây nhất của một quan chức cấp cao Bộ Quốc phòng Việt Nam tới Ấn Độ cuối năm ngoái, Thứ trưởng Phan Văn Giang tuyên bố rằng hợp tác quốc phòng là một trụ cột quan trọng của quan hệ Việt Nam-Ấn Độ.
Tuy không phải là một bên tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông nhưng Ấn Độ coi đây là một vùng biển quan trọng khi có tới 55% lượng hàng hóa thương mại của Ấn Độ di chuyển qua ngả này và Ấn Độ cũng tham gia nhiều dự án khai thác dầu khí với Việt Nam trên Biển Đông.
Ảnh : mới đây giàn khoan Repsol phải dời đi dưới áp lực của Trung Quốc ‘khiến Việt Nam mất một tỷ đô la’ ở Biển Đông
Trung Quốc đã phản đối các dự án khai thác dầu khí của Ấn Độ nhưng Ấn Độ nói việc hợp tác khai thác năng lượng với Việt Nam trên Biển Đông là phù hợp với luật pháp quốc tế.
Sự hợp tác nhiều hơn nữa giữa Ấn Độ và Việt Nam trong các hoạt động khai thác dầu khí có thể sẽ diễn ra vì những hành động phát triển cơ sở hạ tầng vượt trội của Trung Quốc ở khu vực tranh chấp với Ấn Độ ở Kashmir, theo nhà nghiên cứu Malik của NESA.
Ấn Độ coi tự do hàng hải trên Biển Đông là trọng tâm trong tầm nhìn chiến lược của họ trong một Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do là rộng mở, và theo nhà nghiên cứu Malik, điều quan trọng hơn đối với Ấn Độ là kiềm chế những tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh trên hầu hết khu vực biển có tranh chấp.
Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu, dù cả Hà Nội và New Delhi đều có thể thấy được lợi ích trong một mối quan hệ nở rộ nhưng cả hai bên sẽ thận trọng, nhất là Việt Nam.
Việt Nam không thể để xảy ra xung đột ngày càng lớn với Trung Quốc vì Bắc Kinh có "sức mạnh đòn bẩy trong tay", đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, an ninh nguồn nước (Mekong) và Biển Đông.
Theo Giáo sư Thayer, mặc dù tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông là nguyên nhân chính gây khó chịu trong quan hệ song phương giữa Hà Nội và Bắc Kinh, "Việt Nam không muốn tranh chấp này trở thành tâm điểm duy nhất trong mối quan hệ giữa hai nước".
Ảnh : Hành trình khảo sát của tàu Hải dương 8 của Trung quốc trong vùng Đặc quyền kinh tế EEZ của Malaysia và vùng biển chồng lấn giữa Việt nam với Malaysia, từ ngày 16-4 đến 16-5-2020. Năm ngoái tàu này quấy nhiễu ở bãi Tư Chính của Việt nam suốt gần 4 tháng (từ đầu tháng 7 tới 25.10.2019)
Và vì Việt Nam hoạt động thông qua khuôn khổ đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ, cũng như thu hút các cường quốc khác như Nhật Bản, Nga và Mỹ nên, theo Giáo sư Thayer, Hà Nội biết rằng họ có "đòn bẩy quan hệ" mà họ có thể dựa vào khi cần hỗ trợ "nếu Trung Quốc trở nên quá hung hăng".
"Không nước nào có thể bắt Việt Nam phải chọn bên !"
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, vào ngày 2 tháng 9 trả lời câu hỏi của phóng viên báo VnExpress về nguyên tắc của nước này "không đứng về phía bên này chống lại bên kia", nêu rõ "không ai và không nước nào có thể bắt Việt Nam phải chọn bên vì chúng tôi độc lập, tự chủ, giành và giữ độc lập bằng sức của mình".
Trong bài phỏng vấn, ông Vịnh cũng tiết lộ về cuộc đối thoại căng thẳng với Trung Quốc thời điểm tháng 6 năm 2011 sau khi tàu hải giám Bắc Kinh cắt cáp thăm dò địa chấn tàu Bình Minh 02 của Việt Nam.
"Đó là cuộc đối thoại với Trung Quốc năm 2011, khi tình hình trên Biển Đông rất căng thẳng. Lúc đó, dư luận, báo chí quốc tế và một số cơ quan truyền thông của Trung Quốc nói rất mạnh. Lãnh đạo giao nhiệm vụ cho tôi cân nhắc đáp trả.
Giữa hai lựa chọn đôi co hoặc giải thích, các cấp lãnh đạo của ta đã chọn giải thích. Tôi cùng các đồng nghiệp lên đường sang Trung Quốc.
Ảnh : Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh với cuốn sách trắng về Quốc phòng Việt nam
Hơn 10 năm làm công tác đối ngoại và nhất là qua chuyến đi đó, tôi nghiệm ra rằng, dù đối đầu nhau đến mấy cũng phải giữ cho được đối thoại. Khi ngồi với nhau rồi thì phải kiên trì, kiên trì và kiên trì.
Kiên trì làm cho đối tượng hiểu điều chúng ta muốn, biết được điều chúng ta không thể bước qua, không thể chấp nhận. Trong đối thoại, bên nào kiềm chế hơn, bên đấy sẽ thắng.
Có người đã hỏi tôi "Các ông có sợ nước lớn buộc các ông phải chọn bên ?". Tôi bảo "Chúng tôi chọn chính chúng tôi. Không ai và không nước nào có thể bắt Việt Nam phải chọn bên vì chúng tôi độc lập, tự chủ, giành và giữ độc lập bằng sức của mình".
Có những nước luôn nói, khi họ sinh ra thế giới này đã là của họ, họ sẽ lãnh đạo, chi phối thế giới, nhưng Việt Nam không như thế. Chúng tôi quan niệm, Việt Nam là của thế giới, Việt Nam vì thế giới, nhưng giá trị của Việt Nam là của Việt Nam và Việt Nam tự bảo vệ lấy.
Một điều quan trọng nữa là sau lưng người làm công tác đối ngoại thì đất nước phải mạnh, quân đội phải vững, đường lối phải rõ ràng. Đất nước yếu, quân đội không có khả năng tốt nhất để bảo vệ Tổ quốc, đường lối lúc thế này lúc thế khác thì đối ngoại sẽ thất bại" – Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh nói.
Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam mới công bố cuối năm 2019 xác định Việt Nam theo đuổi chính sách ba không bao gồm : không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Đồng thời, Sách trắng bổ sung thêm "không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
Với chính sách nhẫn nhịn Trung Quốc như vậy, liệu Bắc Kinh có chịu hài lòng với sự quy phục của Đảng cộng sản Việt Namhay không, điều đó không ai dám chắc.
Chỉ có một điều mà nhiều người đã nhìn thấy, đó là lãnh hải của cha ông để lại cho gần 100 triệu người dân Việt Nam đã bị nhà cầm quyền Hà Nội coi như của riêng họ và sẵn sàng nhượng, cắt để được yên thân, giữ bằng được chế độ độc tài đầy tham nhũng.
Lan Anh
Nguồn : Thoibao.de, 12/09/2020
Trung Quốc muốn chặn phái đoàn Đài Loan dự lễ nhậm chức của ông Trump (Một Thế Giới, 19/01/2017)
Ông Yu Shyi-kun, một cựu quan chức của Đài Loan sẽ dẫn đầu nhóm người Đài Loan mừng lễ nhậm chức của ông Trump
Ngày 18/1, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết rằng Washington không nên cho phép một phái đoàn Đài Loan (Trung Quốc) dự lễ nhậm chức của Tổng thống mới đắc cử Donald Trump vào ngày 20/1.
Tuyên bố của Trung Quốc một lần nữa cho thấy sự rạn nứt trong quan hệ giữa Bắc Kinh với chính phủ mới của Mỹ. Ông Trump đã điện đàm với lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn và tuyên bố muốn đàm phán lại chính sách "một Trung Quốc".
Trung Quốc đáp lại chỉ trích mạnh những động thái của lãnh đạo mới của Mỹ đồng thời nhấn mạnh họ sẽ không đàm phán về vấn đề chính sách "một Trung Quốc".
Một phái đoàn của Đài Loan do ông Yu Shyi-kun, một cựu quan chức của Đài Loan dẫn đầu cùng nhiều nhà lập pháp sẽ dự lễ nhậm chức của Tổng thống mới đắc cử Donald Trump, theo cơ quan Ngoại giao của hòn đảo tự trị.
Việc Đài Loan gửi phái đoàn đến lễ nhậm chức Tổng thống Mỹ là một hành động thường lệ trong nhiều năm qua. Phát ngôn viên của bà Thái cũng cho biết phái đoàn này chỉ đến tham dự sự kiện và không có tiếp xúc với ông Trump cũng như các cố vấn của ông.
Dù vậy, Trung Quốc xem Đài Loan là một tỉnh ly khai nên không có quyền ngoại giao hoặc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước khác.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nhấn mạnh là Bắc Kinh phản đối bất kỳ hành động nào được cho là "can thiệp hoặc gây tổn hại quan hệ Trung - Mỹ".
"Chúng tôi một lần nữa kêu gọi các bên liên quan ở Mỹ không cho phép chính quyền Đài Loan gửi một phái đoàn sang Mỹ tham dự lễ nhậm chức của Tổng thống và không mở các kênh liên lạc chính thức với Đài Loan", bà Hoa Xuân Oánh nói.
"Trung Quốc đã xác định được vị trí chính xác và không nhầm lẫn đi đâu được với chính quyền của Mỹ và nhóm của ông Trump", bà Hoa nói thêm.
Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ Cui Tiankai sẽ đại diện Trung Quốc đến tham dự sự kiện nhậm chức của ông Trump, bà Hoa thông báo.
Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ kế hoạch sử dụng vũ lực để thống nhất lãnh thổ, chiếm lại Đài Loan. Bắc Kinh hiện nghi ngờ lãnh đạo mới của hòn đảo có tư tưởng đòi độc lập cho Đài Loan, động thái được xem là lằn ranh đỏ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
Tuần trước khi quá cảnh tại Mỹ sau chuyến thăm các nước Trung Mỹ, bà Thái nói rằng bà muốn chung sống hòa bình với Trung Quốc.
Trái với ông Trump, chính quyền của Tổng thống Barack Obama đã nhiều lần tái cam kết duy trì chính sách "một Trung Quốc", theo đó Washington thừa nhận Đài Loan là một phần của Trung Quốc.
Ái Vi (theo Reuters)
********************
Trung Quốc yêu cầu Mỹ không cho phái đoàn Đài Loan dự lễ nhậm chức tân Tổng thống Trump (RFA, 19/01/2017)
Tổng thống đắc cử Donald Trump (trái) và Phó Tổng thống đắc cử Mike Pence tại Washington, DC vào ngày 17 tháng một năm 2017. AFP photo
Trung Quốc thúc giục Hoa Kỳ không nên cho phái đoàn đại diện Đài Loan tham dự lễ nhậm chức của Tổng Thống Đắc Cử Donald Trump, sẽ diễn ra vào ngày thứ sáu 20 tháng giêng này.
Yêu cầu vừa nêu được phát ngôn viên Hoa Xuân Oánh của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra trong cuộc họp báo thường lệ ở Bắc Kinh ngày hôm nay, nói rằng Đài Bắc cố ý cử người sang Washington với mục đích can thiệp hay gây ảnh hưởng bất lợi cho mối quan hệ Mỹ-Trung.
Đây không phải lần đầu tiên chính phủ Trung Quốc lên tiếng phản đối và cũng không phải lần đầu tiên Đài Loan cử đoàn đại diện đến Washington để dự lễ nhậm chức của tân tổng thống Mỹ, nhưng lần này chuyện bùng nổ lớn vì sau ngày đắc cử, Tổng Thống Đắc Cử Trump đã nhận điện thoại chúc mừng của Tổng Thống Đài Loan Thái Anh Văn, sau đó ông còn đưa ra phát biểu với nội dung cảnh báo rằng Hoa Kỳ sẽ xem xét lại chính sách "Một Trung Quốc", nếu Bắc Kinh tiếp tục hạ giá đồng bạc để trục lợi khi đưa hàng xuất khẩu sang Mỹ.
Đầu tuần này, Bộ Ngoại giao Đài Loan cho hay phái đoàn sẽ do Cựu Thủ Tướng Du Tích Khôn hướng dẫn. Đoàn còn có một cố vấn an ninh và một số nghị sĩ.
Hôm nay, một viên chức của văn phòng Tổng Thống Đài Loan cũng nói trong thời gian có mặt tại Washington, phái đoàn đại diện Đài Bắc sẽ không gặp viên chức nào trong chính phủ Trump.
***********************
Đài Loan sẽ xiết chặt quan hệ kinh tế với Mỹ (VOA, 18/01/2017)
Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn.
Đài Loan sẽ tìm cách tăng cường hợp tác kinh tế với Mỹ dựa trên nền tảng hiện nay, truyền thông Đài Loan dẫn lời Tổng thống Thái Anh Văn tuyên bố ngày 17/1.
Bà Thái đưa ra phát biểu này trong cuộc họp với Chủ tịch Hội đồng Thương mại Mỹ-Đài Loan, Paul Wolfowits, tại Văn phòng Tổng thống. Ông Wolfowitz dẫn đầu phái đoàn lãnh đạo doanh nghiệp Mỹ sang thăm Đài Loan trong tuần này.
Lưu ý rằng cuộc gặp diễn ra chỉ vài ngày trước khi Tổng thống tân cử Mỹ Donald Trump nhậm chức, bà Thái khẳng định Đài Loan sẽ tìm cách tăng cường các mối quan hệ kinh tế-thương mại song phương trên nền tảng vững chắc mà đôi bên đã gầy dựng.
Tổng thống Thái Anh Văn nói Đài Loan sẽ duy trì là một trong những đối tác quan trọng, đáng tin nhất của Hoa Kỳ.
Vẫn theo lời nhà lãnh đạo Đài Loan, Mỹ và Đài Loan có các mối quan hệ hữu nghị lâu đời và cùng chia sẻ những lợi ích và giá trị chung.
Trưởng đoàn lãnh đạo doanh nghiệp Mỹ thăm Đài Loan, ông Wolfowitz, cho biết sẽ làm mọi cách có thể để hỗ trợ các mục tiêu cải cách kinh tế và tự do hóa thương mại của Đài Loan.
Chuyến thăm Đài Bắc do Chủ tịch Chủ tịch Hội đồng Thương mại Mỹ-Đài Loan dẫn đầu lần này nhằm phát huy các mối quan hệ kinh doanh-mậu dịch với Đài Loan.
Trước đó hôm 13/1, một số dân biểu ủng hộ Đài Loan tại Hạ viện Hoa Kỳ đã cùng nhau giới thiệu dự luật khuyến khích các chuyến thăm qua lại giữa Mỹ và Đài Loan tại mọi cấp nhằm ‘tăng tiến quan hệ đối tác thiết yếu’ giữa đôi bên.
********************
Đài Loan tập trận giả định bị Trung Quốc tấn công (VOA, 18/01/2017)
Máy bay chiến đấu F-16 của Đài Loan.
Đài Loan ngày 17/1 tháng 1 bắt đầu tập trận hai ngày theo kịch bản chống lại một cuộc tấn công của Trung Quốc giữa lúc chính phủ tìm cách trấn an công luận trước các mối quan hệ đang suy thoái với Bắc Kinh.
Các lực lượng vũ trang của Đài Loan tập trung tại trung bộ Đài Loan cho cuộc tập trận hàng năm với các binh sĩ thực tập các kỹ năng chiến đấu bằng xe tăng, trực thăng tấn công và pháo binh.
Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Đài Loan tuyên bố "Quân đội có những biện pháp tích cực để đối phó với tình hình tại eo biển Đài Loan và Biển Đông nên công chúng có thể yên tâm. Chúng ta sẽ củng cố huấn luyện 365 ngày một năm".
Bắc Kinh xem Đài Loan như là một tỉnh ly khai thuộc "một nước Trung Hoa" và có thể thống nhất với Hoa lục bằng vũ lực nếu cần.
Trung Quốc đã gia tăng các cuộc tập trận trong những tuần lễ gần đây sau khi bất bình về cuộc điện đàm giữa Tổng thống Đài Loan, Thái Anh Văn, và Tổng thống tân cử Hoa Kỳ Donald Trump.
Vào năm 1979, Hoa Kỳ chuyển hướng công nhận ngoại giao với Trung Quốc thay vì Đài Loan.
Ông Trump cũng làm Bắc Kinh nổi giận khi cho rằng chính sách "một nước Trung Hoa" có thể trở thành một con bài mặc cả trong các cuộc thương thuyết về thương mại.
Hoa Kỳ là đồng minh hùng mạnh nhất của Đài Loan và là nguồn cung cấp vũ khí cho đảo này.
Cuộc tập trận ngày 17/1 được tiến hành với giả thuyết có một cuộc tấn công của Trung Quốc theo kịch bản là các chiến hạm của Bắc Kinh đã vượt qua đường ranh nằm giữa Eo biển Đài Loan.
Binh sĩ Đài Loan trấn đóng gần hệ thống phi đạn phòng không Avenger do Mỹ chế tạo trong cuộc tập trận tại thành phố Đài Trung trong khi các lực lượng đặc biệt tiến theo đội hình băng rừng với xe tăng bắn bom khói và nghiền nát một chiếc xe.
Sự kiện này diễn ra sau khi tàu sân bay duy nhất của Bắc Kinh vượt qua eo biển hồi tuần trước, một hành động được xem là để biểu dương sức mạnh.
Tàu sân bay Liêu Ninh không vào hải phận Đài Loan nhưng vào một khu vực nằm trong phạm vi vùng phòng không của Đài Loan.
Hôm 10 tháng 12 năm ngoái, máy bay quân sự của Trung Quốc áp sát Đài Loan lần thứ nhì trong vòng chưa đầy một tháng.
Ngoài cuộc tập trận, không quân Đài Loan ngày 17/1 xác nhận là 143 máy bay F-16 của Đài Loan đang được nâng cấp, với những khí tài được công ty hàng không không gian Hoa Kỳ Lockheed Martin chế tạo máy bay này cung cấp.
Dự án do chính phủ tài trợ có tên "Phoenix Rising" với ngân khoản 3,47 tỉ đô la và nhắm mục tiêu hoàn tất trong vòng 6 năm tới.
Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Thế Khoan nói máy bay F-16 V có thể sánh ngang với máy bay tàng hình Thành Đô J-20 của Trung Quốc, dù truyền thông Trung Quốc cho rằng sự so sánh này là "ảo tưởng".
Theo truyền thông địa phương Đài Loan, loại máy bay F-16 V sẽ được trang bị ra-đa để phát hiện máy bay tàng hình, cũng như các hệ thống điện tử hàng không và phi đạn tân tiến hơn.
Bộ trưởng Phùng mới đây cảnh báo về những đe dọa ngày càng tăng từ Trung Quốc và kêu gọi cảnh giác cao, thúc đẩy giới trẻ trên đảo gia nhập quân đội.
******************
Đặc Khu Trưởng Lương Chấn Anh khẳng định Hồng Kong thuộc về Trung Quốc (RFA, 18/01/2017)
Đặc khu trưởng Lương Chấn Anh đọc diễn văn tại Hội Đồng Lập Pháp Hồng Kong ngày 18 tháng 1 năm 2017. AFP photo
Trong bài diễn văn cuối cùng đọc trước Hội Đồng Lập Pháp Hồng Kong, ông Đặc Khu Trưởng Lương Chấn Anh nhấn mạnh Hồng Kong là một phần đất không thể tách rời khỏi Trung Quốc.
Ông nói rõ đừng bao giờ mơ tưởng chuyện Hồng Kong sẽ tuyên bố độc lập hoặc sẽ tách rời khỏi Hoa Lục, nói thêm là cả thế giới đều biết và đều công nhận Hồng Kong thuộc về Trung Quốc.
Ông Đặc Khu Trưởng Lương Chấn Anh cũng kêu gọi người dân đặc khu chấp nhận tiến trình bầu cử do Bắc Kinh soạn thảo, tức cử tri được quyền bỏ phiếu chọn người lãnh đạo theo danh sách ứng cử viên đã được Trung Quốc chấp thuận.
Bài diễn văn được các nhà phân tích chính trị xem là nhắm nhắn gửi những nhà hoạt động dân chủ, đeo duổi mục tiêu Hồng Kong trở thành một quốc gia độc lập.