Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một hướng đi được coi là ‘đổi mới tư duy quản lý kinh tế’ từ Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, từ ‘bao cấp’ doanh nghiệp nhà nước sang ‘tự chủ và hoạch toán kinh tế’.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (21/11/2018) - Ảnh VGP
Được triển khai từ năm 1990, và có 4 giai đoạn, trong giai đoạn thứ tư – là giai đoạn tiến hành ồ ạt, từ thời điểm ông Nguyễn Tấn Dũng làm Thủ tướng.
Tuy nhiên, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện gặp rất nhiều vấn đề, từ sự thiếu minh bạch, cho đến kiểm soát độc lập, nên nguồn tài sản của nhà nước bị thất thoát (thông qua định giá tài sản sai, bán cổ phần ưu đãi sai ; giao dịch đi kèm hoa hồng ; quỹ hỗ trợ cổ phần hóa lại được cho vay với lãi suất ưu đãi), một số tài sản lớn của doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi trở thành sân sau của một bộ phận không nhỏ chính khách Việt Nam.
Một số trường hợp gặp vấn đề trong cổ phần hóa mà báo chí chính thống Việt Nam nêu ra là Truyền hình cáp Việt Nam (VTVcab) và Truyền hình cáp Saigontourist (SCTV) bị phát hiện hạ giá trị tài sản ; Công ty Cổ phần Vận tải Vinaconex thì cổ phần hóa nhưng bỏ sót một trong những lô đất của nó ở Thành phố Hồ Chí Minh (vốn phải nằm trong các tài sản được liệt kê để cổ phần hóa). Trong khi đó, một số doanh nghiệp nhà nước khác như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Công ty Thuốc lá Thăng Long đã không chuyển ngay số tiền huy động được thông qua cổ phần hóa cho Tổng công ty đầu tư vốn nhà nước (SCIC), theo quy định. Thay vào đó, doanh nghiệp này giữ tiền và sử dụng chúng cho mục đích riêng.
Một số doanh nghiệp nhà nước còn tinh vi hơn khi nhanh chân bán một phần của các công ty con trước trước khi bị cổ phần hóa, và chỉ chuyển vốn huy động từ cổ phần hóa của phần còn lại. Các công ty tham gia vào cách thức này bao gồm Tập đoàn Công nghiệp Dầu thực vật Việt Nam, Công ty Cổ phần Thiết bị Điện Việt Nam...
Ở khía cạnh khác, theo báo cáo của HSBC, cổ phần hóa chỉ thuần túy tạo điều kiện bán, hoặc đóng cửa các khoản lỗ đối với các doanh nghiệp nhà nước cỡ nhỏ, trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn hơn với sự quản lý và sở hữu phức tạp hơn lại thiếu thốn về nghĩa vụ tài chính và nợ đối với các ngân hàng.
Xuất phát từ những hạn chế đó, nên vào ngày 21/11/2018, trong Hội nghị Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã chỉ đạo chống ‘đi đêm’ trong cổ phần hóa. Điều đó cho thấy rằng, cổ phần hóa luôn là một mảnh đất màu mỡ của tham nhũng và chứa đựng những vấn đề nan giải, không thể đáp ứng đúng kế hoạch đề ra là hoàn tất vào năm 2010 hay đẩy mạnh hơn năm vào năm 2019.
Mới đây, tạp chí Forbes cũng đã có bài viết về quá trình cổ phần hóa tại Việt Nam, theo đó, dù cố gắng tái cấu trúc nền kinh tế thông qua tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước, trong bối cảnh CPTPP có hiệu lực trong trung tuần tháng 1/2019, tuy nhiên mục tiêu cổ phần hóa 128 doanh nghiệp nhà nước từ năm 2017–2020 có thể không đạt được. Bởi lợi nhuận từ việc đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi đòi hỏi những yếu tố thuận lợi cố định.
Cụ thể, mặc dù PetroVietnam huy động được 320 triệu USD, hay Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn huy động 244,5 triệu USD thông qua IPO. Tuy nhiên, Kevin Snowball, Giám đốc điều hành PXP Vietnam Asset Managemant cho rằng, các doanh nghiệp nhà nước tiết lộ ít thông tin ra thị trờng, cổ phần được bán chủ yếu qua mối quan hệ thân hữu, và đôi khi cấm nhà đầu tư nước ngoài sở hữu. Sự thiếu minh bạch, công khai, thông tin đã khiến cho cổ phần hóa trở nên lộn xộn. Chính vì vậy, khi Chính phủ Việt Nam lên kế hoạch 135 doanh nghiệp nhà nước thoái vốn trong năm 2017 và 181 thoái vốn trong năm 2018, thì SSI Research cho biết, chỉ có 32 doanh nghiệp nhà nước hoàn tất quá trình cổ phần hóa vào cuối tháng 11.
Trước đó, ông Đặng Quyết Tiến, người đứng đầu Vụ Tài chính – Bộ tài chính trong một cuộc họp vào tháng 11/2018, thừa nhận một thực tế không hề dễ chịu. Theo đó, dự kiến năm 2018, Thành phố Hồ Chí Minh phải cổ phần hóa 39 doanh nghiệp trong khi con số của Thành phố Hà Nội là 11, nhưng đến hết tháng 11/2018, chưa có một doanh nghiệp nhà nước nào từ hai thành phố này được cổ phần hóa.
Còn yếu tố gây cản trở cổ phần hóa liên quan đến minh bạch mà ông Kevin Snowball nhắc đến, cũng chính là yếu tố mà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng chỉ ra, theo đó, ông đặt ra vấn đề, cổ phần hóa phải gắn với niêm yết trên sàn chứng khoán. Tuy nhiên, điều mà ông Thủ tướng chưa chỉ ra lại là, quá trình cổ phần hóa với sự tham gia của nhóm thân hữu. Thành ra, mặc dù một doanh nghiệp nhà nước có cổ phần hóa rồi, nhưng về mặt đóng góp cho tái cấu trúc nhà nước thì rất kém. Bởi bức tranh cổ phần hóa hiện nay là 96,5% số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, nhưng chỉ 8% số vốn Nhà nước được chuyển giao cho doanh nghiệp tư nhân. Trong khi, mục tiêu của cổ phần hóa lại là chuyển ‘nguồn lực quốc gia từ khu vực sử dụng kém hiệu qua sang khu vực sử dụng hiệu quả’.
Hậu quả của việc trì trệ trong cổ phần hóa, hay thậm chí cổ phần hóa nhưng kém hiệu quả (tham nhũng trong chính sách cổ phần hóa) là tác động xấu đến tài chính vĩ mô của Việt Nam, suy yếu triển vọng tăng trưởng, tạo khoản nợ lớn trong khu vực công, theo như Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB). Cụ thể, 2017-2018 nợ công ở mức 65% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tỷ lệ cao nhất được ghi nhận tại Việt Nam kể từ năm 2007.
Và nếu không tích cực nỗ lực cổ phần hóa đây đến hết năm 2020, cũng như chống tham nhũng trong địa vực này thì khoản nợ trong khu vực công sẽ tiếp tục gia tăng, và đây sẽ là một yếu tố xấu trong nền tài chính quốc gia mà Việt Nam đang cố giảm thiểu, cũng như dập tắt niềm vui tăng trưởng 7,08% trong năm 2018 vừa qua của Chính phủ kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc.
Ánh Liên
Nguồn : VNTB, 03/01/2019