Việt Nam đã bỏ qua bao nhiêu cơ hội kiện Trung Quốc ?
Phạm Chí Dũng, VOA, 29/07/2019
Chỉ tính từ năm 2011 khi nổ ra vụ tàu Bình Minh 2 của Việt Nam bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp - một cách côn đồ và mặt lạnh không kém cái cách cả hai chính quyền độc đảng độc trị này luôn thẳng tay đàn áp dân chúng và những tiếng nói phản đối, cho tới nay Hà Nội đã bỏ qua rất nhiều cơ hội để có thể kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế về các vụ xâm nhập ‘vùng biển chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam’.
Tàu thám hiểm "Hải Dương Địa Chất 8" của Cục Khảo sát Địa chất Trung Quốc (Ảnh : China Geological Survey)
‘Tổng tịch’ nói gì ?
Mùa mưa bão tháng 7 năm 2019, một lần nữa cơn sóng lừng mang tên Hải Dương của Trung Quốc lại chực chồm lên ‘thuyền nan đòi ra biển lớn’ của Hà Nội, áp thể chế này vào cái thế một lần nữa phải tính đến việc kiện Trung Quốc, hoặc ít nhất cũng lấp ló khả năng kiện tụng ra trước công luận nhằm xoa dịu phản ứng của dư luận xã hội về một chế độ chỉ biết ‘hèn với giặc, ác với dân’.
Thêm một lần nữa trong nhiều lần, một ít chuyên gia và cũng chỉ một ít tờ báo nhà nước - thật sự sốt ruột trước cảnh ‘trùm mền’ của giới chóp bu Việt Nam - đã phải liệt kê hàng nửa tá cơ sở cho triển vọng ‘Việt Nam sẽ chắc thắng nếu kiện Trung Quốc’.
Người ta cũng không khỏi xót ruột khi chứng kiến hình ảnh ‘tái xuất’ của nhân vật ‘tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng vào đúng thời điểm tàu thăm dò địa chất Hải Dương - 8 và nhiều tàu hải cảnh hộ vệ của Trung Quốc vẫn vờn qua vờn lại ngay trong vùng lãnh hải Việt Nam ở khu vực Bãi Tư Chính, còn hàng đàn máy bay SU-35 của Trung Quốc thi nhau diễu hành ở Biển Đông, nhưng trên phương diện cần có những phát ngôn công khai để thông tin về cái gì đang xảy ra, hay dù chỉ để trấn an dư luận, thì Trọng lại tuyệt đối nín lặng.
Thay vào đó, ‘bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo’ gặp gỡ ‘100 cán bộ công đoàn tiêu biểu’ với lời nhắc nhở "Tuyệt đối không để các thế lực thù địch lợi dụng lòng yêu nước chân chính của công nhân, người lao động, kích động, lôi kéo biểu tình, tụ tập gây rối, làm mất an ninh, trật tự, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc".
Dù không một lời dám đả động đến vụ Hải Dương - 8 và cái cách mà Tập Cận Bình đang chễm chệ ngự ngay trong ngôi nhà Việt Nam không cần phải xin phép, Nguyễn Phú Trọng rõ ràng đã đủ can đảm ám chỉ đến vụ gây rối mang tính bạo động của công nhân - được dẫn dắt và chỉ huy bởi những kẻ giang hồ không rõ danh tính và có thể chẳng bao giờ được công an tiết lộ danh tính - hung hãn lao vào đập phá các nhà xưởng của nhiều doanh nghiệp ở hai tỉnh Bình Dương và Đồng Nai vào tháng 5 năm 2014, như một cách phản ứng có bàn tay ngầm chỉ đạo, nhưng không rõ là thuận hay nghịch với vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc lao vào vùng hải phận của Việt Nam trên Biển Đông như một cái tát tai nảy lửa vào mặt toàn bộ Bộ Chính trị và Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Sau đó, mọi thứ chìm vào im lặng… Một không khí im lặng của bất lực trước kẻ thù nhưng bất cần trước dân chúng.
Người Philippines quỳ hay đứng ?
Trong vụ Hải Dương 981, Bộ Chính trị Việt Nam - nghe nói đã họp nhiều lần về Biển Đông và về ý định liên kết với người Philippines theo một đề nghị của Manila về cùng đối phó Trung Quốc - vẫn như gà mắc tóc. Thậm chí kỳ họp giữa năm 2014 của Quốc hội Việt Nam đã khiến hàng chục ngàn người đổ ra đường biểu tình phản đối Trung Quốc ở Sài Gòn và Hà Nội phải phẫn nộ : ở mức độ tối thiểu cần có một bản nghị quyết về Biển Đông, Quốc hội Việt Nam vẫn tuyệt đối câm nín.
Song hiện thực ngược ngạo là không phải "láng giềng gần" Trung Quốc mà chính những "bà con xa" như người Mỹ và những quốc gia đồng minh quân sự với Mỹ như Nhật Bản và Philippines lại trở thành giá đỡ cho tinh thần suy sụp của giới lãnh đạo Việt Nam. Vào tháng 7 năm 2014, không phải Quốc hội Việt Nam mà chính Quốc hội Hoa Kỳ lần đầu tiên tung ra một nghị quyết mạnh mẽ về Biển Đông như một đòn dằn mặt tham vọng của Trung Quốc.
Cũng kể từ giữa năm 2014, Philippines bắt đầu đạt được tiến bộ khả quan tại Liên hiệp quốc trong vụ kiện đường lưỡi bò của Trung Quốc. Tháng 8 năm 2014, Philippines mạnh tay đưa 12 ngư dân Trung Quốc ra tòa để tuyên phạt nhiều năm tù vì đánh bắt hải sản trái phép trong vùng biển thuộc chủ quyền của nước này. Sau sự kiện chấn động đó, Bắc Kinh đã không hề lồng lộn lên như vẫn thường đối xử với Hà Nội.
Bản lĩnh vượt mặt Việt Nam ấy không phải mang tính đột biến mà được tích lũy qua thời gian. Sau vụ "bắt Trung Quốc" trên, Manila đã có một hành động pháp lý vượt hơn hẳn cao vọng "kiện Trung Quốc" của giới đảng, nhà nước và chính phủ Hà Nội : Philippines đã chính thức kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế và đã giành được thắng lợi.
Nhưng hoàn toàn tương phản với thế đứng dũng mãnh của người Phi, từ đó tới nay giới chóp bu Việt Nam đã không có bất cứ động tác đủ kiên quyết nào kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế về "Đường lưỡi bò". Về thực chất, Việt Nam đã lỡ mất cơ hội và gần như vẫn nằm nguyên trong mớ lục đục tủi hổ.
Giờ đây, sự thể đang dồn lên vai chính thể Việt Nam tất cả những gì tối thiểu thuộc về danh thể. Mãi cho tới gần đây, điều đáng phẫn nộ là xã hội Việt Nam vẫn phải thưởng thức món ăn từ ngữ "tàu lạ" của loa tuyên giáo mà không thoát nổi cơn nghẹn họng. Không có bất cứ động tác truy xét nào mà từ đó tìm ra được dung nhan kẻ gây hấn giết hại ngư dân, các cơ quan hữu quan Việt Nam đã quỳ mọp trong nỗi xấu hổ và tự ti vô cùng tận trước thế đứng thẳng người của đất nước Philippines.
‘Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu…’
Khi không khí "kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế" đã dần lịm tăm, những tin tức về ngư dân Việt Nam bị phá sản lại càng lan truyền khắp nơi. Không một vũ khí trong tay và còn chưa được vay vốn với lãi suất thấp để đóng tàu vỏ sắt như lời hươu vượn của giới quan chức cao cấp lẫn các đại gia ngân hàng "ngồi mát ăn bát vàng", nhiều gia đình ngư dân Việt đang phải bó gối nhìn tôm cá lũ lượt chui vào lưới tàu Trung Quốc.
Rất nhiều lần người dân phải gào lên : Quân chủng Hải quân Việt Nam đã đầy "dũng khí bám bờ" như thế nào, trong lúc đồng bào ngư dân của họ vẫn phải kiên trì bám biển. Cái cách mà thỉnh thoảng chính quyền lại tặng/phát cờ đỏ sao vàng cho ngư dân bị xem là hình ảnh bôi bác nhất về tinh thần ‘bảo vệ Tổ quốc’.
Vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014, vụ Bãi Tư Chính các năm 2017, 2018 và giờ đây là 2019…, nhưng vẫn chẳng có bất kỳ dấu hiệu đáng được tin cậy nào cho thấy ‘đảng em’ Việt Nam dám lôi bộ hồ sơ từ ngăn kéo đầy bụi để đệ trình ra tòa án quốc tế để kiện ‘đảng anh’ Trung Quốc. Trong lúc đó, ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ ở phương Bắc - như cách ca tụng ngút ngàn mây xanh của giới chóp bu Việt Nam cùng phụ họa bởi những quan chức ‘cõng rắn cắn gà nhà’ nhưng luôn giấu biệt mặt mũi, vẫn không ngớt hành hạ tinh thần và thể xác của ‘đứa con hoang đàng’ - một cụm từ miệt thị khinh bỉ mà Ủy viên Quốc Vụ Viện Trung Quốc là Dương Khiết Trì đã dùng để đặc tả những kẻ chỉ biết đi và nhận thức bằng đầu gối ngay tại Hà Nội vào năm 2014.
Giờ đây, trên khắp rẻo đất ‘lệ tuôn hình chữ S’ chỉ còn sôi réo câu vè dân gian ‘Chống giặc bằng cờ, chống ngập bằng lu, đứa nào nói đảng ngu là thằng phản động’…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 29/07/2019
******************
Tư Chính : Trung Quốc ngoan cố khiến Việt Nam phản ứng mạnh
Hoàng Dũng, RFI, 30/07/2019
Trước sự kiện Trung Quốc cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 cùng với nhiều tàu hải cảnh cỡ lớn xâm phạm bãi Tư Chính thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam đã ra Tuyên bố về Biển Đông. Cho đến sáng hôm qua 29/07/2019 đã có 14 tổ chức và khoảng 750 người ký vào tuyên bố.
RFI Việt ngữ đã trao đổi với phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng, trường đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc nhóm chủ trương bản tuyên bố trên, về vấn đề này.
Sơ đồ hoạt động của tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 35111 (màu đỏ) sách nhiễu tàu Việt Nam ở bãi Tư Chính, thời gian từ 16/06-10/07/2019.AMTI(CSIS)
RFI :Kính chào Phó giáo sư Hoàng Dũng. Như vậy là một lần nữa Trung Quốc lại xâm phạm biển đảo Việt Nam, và một lần nữa các tổ chức xã hội dân sự lại phải ra tuyên bố…
Hoàng Dũng : Sở dĩ chúng tôi đề nghị phải lên tiếng tố cáo trước Hội Đồng Bảo An, trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế về việc Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và thềm lục địa của Việt Nam, vì khi có trộm cướp xâm nhập, thì điều đầu tiên là chủ nhà phải la làng. Nếu không la làng, không chỉ rõ là ai xâm phạm nhà anh một cách bất hợp pháp, chính anh không kêu lên thì ai có thể cứu anh được. Làm sao thuyết phục người khác là anh có chính nghĩa.
RFI : Bên cạnh đó còn đề nghị chuẩn bị kiện Trung Quốc. Không ít người cho rằng Philippines tuy thắng kiện nhưng vẫn không làm gì được Trung Quốc, vậy Việt Nam đi kiện liệu có lợi gì không, ông thấy ý kiến này như thế nào ?
Hoàng Dũng : Ý kiến đó không đúng đâu, vì kiện chỉ là một khâu trong những việc cần phải làm. Nếu coi kiện là khâu cuối cùng, đến đó là xong, suy nghĩ này mới là sai lầm ; còn nếu coi kiện chỉ là bước khởi đầu thôi, thì rất đúng. Đây là việc cần phải làm. Không thể để kẻ cướp vào nhà mà không chịu la lên, không đưa ra trước công luận. Mà tên cướp này cũng đặc biệt, người ta đã la làng đến như thế mà vẫn cố cãi !
Trước mặt công luận Trung Quốc khó lòng biện bạch được, khi đã có phán quyết của một tòa án quốc tế rằng việc làm của họ là sai trái. Trung Quốc càng cố cãi, càng mất uy tín trước công luận.
RFI : Thưa ông, không chỉ tố cáo trước quốc tế, có lẽ còn cần tuyên truyền rộng rãi hơn. Bản tin của các hãng thông tấn thường gọi là vùng tranh chấp, trong khi đây là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam chứ không phải là vùng tranh chấp…
Hoàng Dũng : Đúng, đặt vấn đề như vậy rất chính xác. Nếu nói vùng tranh chấp tức là chúng ta rơi vào cái bẫy của Trung Quốc. Họ muốn biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp, và khi đã có tranh chấp thì phải có nhân nhượng. Đương nhiên là chủ nhà nhân nhượng, thành ra thằng ăn trộm ít nhiều cũng vơ được cái gì đó.
Trước hành động của Trung Quốc thì Việt Nam lần này đã hành xử khác với tất cả những lần trước. Một là đi đến động thái được coi là mạnh mẽ trong ngoại giao : trao công hàm phản đối. Thứ hai là nêu đích danh Trung Quốc. Chắc là những người có trách nhiệm ở Việt Nam cũng đã trải qua giai đoạn phân vân.
Lúc đầu thì lên tiếng nói đó là vùng biển của Việt Nam, lên án mọi sự xâm phạm nhưng không hề nhắc đến Trung Quốc. Nhưng đến lần thứ hai sau đó vài ngày thì thái độ rất khác, nói thẳng tên Trung Quốc, một điều hiếm có. Và điểm đáng lưu ý là theo tin của chính đài RFI, Trung Quốc đề nghị Việt Nam rút các giàn khoan ở bãi Tư Chính về, thì họ sẽ rút tàu Hải Dương Địa Chất đi. Thế nhưng bằng hành động, Việt Nam đã dứt khoát bác bỏ. Việt Nam đã công bố gia hạn thời gian làm việc của các giàn khoan ở bãi Tư Chính. Đó là điều chưa từng có.
Một mặt chính quyền không thể nào không lên tiếng, nếu không sẽ mất đi tính chính danh với nhân dân. Anh là người quản lý đất nước, ăn lương từ tiền thuế dân đóng góp, thế nhưng khi có kẻ cướp vào nhà anh im tiếng thì rõ ràng sẽ mất uy tín.
Tuy nhiên qua nhiều lần như vậy người dân phản ứng bằng cách đi biểu tình. Mà biểu tình không chỉ ở một số nơi, mà lan rộng trên phạm vi cả nước. Chính cái đó làm nhà nước sợ. Nhà nước một mặt cần nhân dân ủng hộ trong động thái mạnh mẽ đối với Trung Quốc, nhưng mặt khác lại sợ sự ủng hộ đó biến thành hành động biểu tình, dẫn đến nhiều chuyện không kiểm soát được. Chính vì thế trong nội dung tuyên bố, chúng tôi cũng đặt ra những vấn đề về dân chủ.
Phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng.DR
RFI : Nhưng cho tới nay vẫn chưa có lời kêu gọi biểu tình nào, có lẽ người dân bất mãn vì những lần xuống đường chống Trung Quốc trước đây đã bị chính quyền trấn áp ?
Hoàng Dũng : Đúng, chúng tôi thấy điều đó rất đáng suy nghĩ. Người dân yêu nước phải theo cách nhà nước quy định. Đi biểu tình thực ra phù hợp với Hiến pháp, nhưng không được nhà nước cho phép. Yêu nước không có giấy phép thành yêu nước « lậu », và « lậu » thì người ta trừng trị. Trong việc trừng trị tội yêu nước « lậu » ấy, nhà nước rất nặng tay. Chúng ta thấy không hiếm những hình ảnh người đi biểu tình bị đánh.
Tôi nhớ một anh bạn là kỹ sư Trần Bang trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã bị đánh máu me đầy mặt trên đường phố Sài Gòn. Chính những cái đó làm cho khi nhà nước lên tiếng mạnh mẽ như vậy, chỉ có báo chí lề phải nói thôi, còn người dân im lìm không có một động thái nào cả. Điều đó người nào có trách nhiệm quản lý đất nước phải suy nghĩ, và tôi cho rằng họ phải duyệt xét lại toàn bộ chiến lược đối với người dân trong mối liên quan đến chống Trung Quốc như thế nào.
RFI : Có lẽ cần phải ban hành luật biểu tình, một đạo luật cần thiết mà lâu nay vẫn chưa ra được ?
Hoàng Dũng : Trong một chế độ như ở Việt Nam nếu có luật biểu tình đi nữa thì thực chất đó là luật chống biểu tình, tức là họ làm thế nào hạn chế được biểu tình nhiều nhất. Chính vì họ chưa tìm được cách làm sao cho hiệu quả nên người ta không công bố được. Chứ nếu luật biểu tình thực chất là tạo điều kiện cho người dân biểu tình, thì tôi cho là đơn giản hơn rất nhiều.
RFI : Thưa ông vì sao lại đòi hỏi tăng cường hợp tác quốc phòng với Hoa Kỳ ?
Hoàng Dũng : Ngày nay một nước mạnh như Mỹ còn phải đặt vấn đề hợp tác, huống gì một nước nghèo và yếu như Việt Nam. Ai cũng thấy rằng một bên là Việt Nam, một bên là Trung Quốc, thì sức mạnh hết sức chênh lệch. Cho nên việc hợp tác với các quốc gia khác là điều dễ hiểu và tất yếu.
Trên thực tế nếu liên minh được với Hoa Kỳ sẽ là sức mạnh răn đe tốt nhất đối với Trung Quốc. Bởi vì Hoa Kỳ có quyền lợi trực tiếp ở Biển Đông và có đủ sức mạnh để Trung Quốc phải kiêng dè. Các nước khác đương nhiên cũng cần phải hợp tác, nhưng mạnh mẽ nhất phải là với Mỹ. Vì thế trong tuyên bố ở điều số 3, quốc gia đầu tiên chúng tôi nhắc đến là Mỹ. Còn các nước khác dùng cụm từ chung hơn, là các nước tôn trọng luật pháp quốc tế.
RFI : Có nhiều ý kiến cho rằng có lẽ chính quyền Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng hợp tác với Mỹ vì sợ phản ứng của Trung Quốc ở sát bên cạnh ?
Hoàng Dũng : Tôi không thấy như vậy. Tôi thấy Việt Nam bắt đầu có xu hướng xích gần lại với Mỹ, ngay cả trong lãnh vực quốc phòng. Mới gần đây thôi Việt Nam tiếp nhận một số tàu cho cảnh sát biển, việc này có ý nghĩa biểu tượng lớn chứ không phải nhỏ đâu. Tuy mình cho rằng việc hợp tác như vậy là quá chậm so với yêu cầu, nhưng không thể không khẳng định xu hướng hợp tác ngày càng mạnh hơn so với trước.
RFI : Hiện nay thông tin về xung đột ở Biển Đông trên báo chí quốc tế không nhiều, hầu hết tập trung vào Trung Đông. Phải chăng Trung Quốc có tính toán đến khi xâm phạm vùng biển Việt Nam vào lúc này ?
Hoàng Dũng : Việc chọn lựa thời cơ thì Trung Quốc là nước trong quá khứ được coi là bậc thầy. Chẳng hạn xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, họ chọn thời điểm đối với Việt Nam rất bất lợi. Cho nên lần này việc họ chọn lúc các cường quốc trên thế giới phải lưu tâm đến nhiều chuyện khác để phân tán sự chú ý tới Biển Đông, là chuyện rất dễ hiểu.
Tôi hoàn toàn tán thành suy nghĩ Trung Quốc khi đưa tàu đến bãi Tư Chính là họ đã chọn thời điểm. Có điều thời điểm đó là một sự lăng nhục Việt Nam, vì ta nhớ rằng vụ bãi Tư Chính nổ ra đúng lúc chủ tịch Quốc Hội Việt Nam đang thăm Trung Quốc. Một nước luôn luôn nói rằng « 4 tốt 16 chữ vàng » với Việt Nam, nhưng lại lợi dụng đúng lúc người ta đến thăm cấp cao, lại đi xâm phạm đất đai của vị thượng khách ấy. Tôi cho rằng điều đó là hết sức trơ tráo !
RFI : Việt Nam cho tới bây giờ đã làm tất cả những gì có thể làm được, nhưng đến hôm nay tàu Trung Quốc vẫn tiếp tục hoạt động ở bãi Tư Chính. Trong thế giới đảo điên ngày nay, đành để cho luật của kẻ mạnh ngự trị ?
Hoàng Dũng : Tất nhiên Trung Quốc là kẻ mạnh, nên khi Việt Nam hô hoán trước công luận thế giới, Trung Quốc vẫn ngang nhiên bỏ qua. Nhưng vấn đề là Việt Nam rút ra kinh nghiệm gì để đối phó với Trung Quốc. Tôi cho rằng đây là điều may cho Việt Nam, khi Trung Quốc quá ngoan cố như vậy ! Trong khi Việt Nam đã dùng tất cả những biện pháp hòa bình mà vẫn không đạt được mục tiêu, thì đó là một sức ép đẩy lãnh đạo Việt Nam phải dùng những biện pháp như hợp tác mạnh mẽ hơn nữa với các nước khác, nhất là Mỹ. Kẻ mạnh chỉ sợ khi nào đối thủ của họ tỏ ra mạnh hơn.
RFI : Và một điều không thể thiếu khi muốn chống ngoại xâm là lòng dân ?
Hoàng Dũng : Đúng, ngay đề nghị đầu tiên của chúng tôi là như thế. Là phải tăng cường nội lực của đất nước làm chỗ dựa cho quốc phòng, thực hiện kế sách giữ nước của Đức thánh Trần Hưng Đạo khoan sức dân…Như vậy việc đầu tiên chúng tôi đặt ra là nội lực hợp tác nước này nước kia nhất định phải làm nhưng không chỉ trông cậy vào đó quan trọng là thực sự anh có mạnh không chỉ có thể làm được nếu có chính sách nội trị tốt cho nên việc nhà nước đứng ra chống chọi với Trung Quốc sẽ cảm thấy tự tin vì sau lưng là cả một đất nước cả một dân tộc
RFI : RFI Việt ngữ xin chân thành cảm ơn phó giáo sư tiến sĩ Hoàng Dũng đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của chúng tôi hôm nay.
Thụy My thực hiện
Nguồn : RFI, 30/07/2019
***********************
Bãi Tư Chính : Việt Nam nên để ngỏ khả năng kiện Trung Quốc
Carl Thayer, RFI, 29/07/2019
Sau khi cho tàu khảo sát Đại Dương Địa Chất 8 được tàu hải cảnh và dân quân hộ tống vào thăm dò trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Bãi Tư Chính, phía nam Biển Đông, gần quần đảo Trường Sa từ đầu tháng 07/2019, Trung Quốc vẫn bám trụ tại chỗ, bất chấp những tuyên bố công khai phản đối và lời kêu gọi rút đi của Việt Nam.
Báo chí Việt Nam lên tiếng về vụ tàu Trung Quốc xâm phạm bãi Tư Chính. Ảnh minh họa
Theo ghi nhận của giáo sư Ryan Martinson, trường Hải Chiến Mỹ, người đầu tiên tiết lộ hành động này của Bắc Kinh, thì cho đến ngày 28/07, tàu khảo sát Trung Quốc vẫn hoạt động trong khu vực, thậm chí còn có thêm tăng viện là chiếc tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 3901.
Tại sao Trung Quốc lại gây sự với Việt Nam vào lúc này ? Phản ứng của Việt Nam có đủ mạnh hay chưa và phải làm thêm những gì ? Tình hình có thể diễn biến ra sao ? Đây là một số câu hỏi mà Ban Việt Ngữ RFI đã nêu lên với giáo sư Carl Thayer, chuyên gia kỳ cựu về Biển Đông, giáo sư danh dự tại Học Viện Quốc Phòng Úc, thuộc Đại Học New South Wales.
Sau đây là toàn văn phần hỏi-đáp của RFI với giáo sư Thayer.
RFI : Tại sao Trung Quốc lại gây sự với Việt Nam vào lúc này ?
Carl Thayer : Có thể nhìn dưới hai góc độ để trả lời cho câu hỏi này : Hành động của Trung Quốc xuất phát từ những quyết định của cấp điều hành công việc thường nhật, hoặc là xuất phát từ quyết định mang tính chiến lược của giới lãnh đạo cao cấp.
Việc cho triển khai tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 xuống Biển Đông có thể là quyết định của cấp điều hành công việc thường nhật, xuất phát từ lý do thương mại. Năm 2012, tập đoàn Dầu Khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) đã quy định một số lô khai thác dầu khí nằm bên trong đường chín đoạn của Trung Quốc, nhưng chồng lấn trên các lô dầu khí của Việt Nam trong khu vực. Cho đến nay, không có công ty dầu khí nước ngoài nào đáp ứng lời gọi thầu của CNOOC.
Lầm tưởng là Việt Nam đã bị khuất phục sau vụ Repsol
Lần lượt vào tháng 07/2017 và tháng 03/2018, Việt Nam đã lùi bước trước sức ép của Trung Quốc và đình chỉ hoạt động thăm dò dầu khí tại hai lô trong khu vực Bãi Tư Chính. Rất có thể là các quan chức dầu khí Trung Quốc đã kết luận rằng họ có thể yên tâm tận dụng tình trạng này. Chỉ có hai tàu hải cảnh Trung Quốc hộ tống tàu khảo sát, khác hẳn với số lượng 80 chiếc hoặc nhiều hơn nữa, đã tháp tùng theo giàn khoan Hải Dương 981 (HYSY-981) vào vùng biển tranh chấp vào năm 2014.
Sự kiện một chiếc tàu hải cảnh Trung Quốc rời vùng Bãi Tư Chính, rồi sau đó di chuyển vào trong vùng biển Malaysia là dấu hiệu cho thấy là quyết định (đưa tàu vào sách nhiễu Việt Nam) được đưa ra ở cấp điều hành.
Tổ chức Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Châu Á cho rằng Trung Quốc tìm cách "trừng phạt" vì Việt Nam đã bật đèn xanh cho chi nhánh tập đoàn Nga Rosneft tại đây tiếp tục thăm dò tại lô 06.1. Tuy nhiên, cho đến giờ, giả thuyết này vẫn chỉ là suy đoán vì chưa được bằng chứng công khai nào xác nhận.
Muốn gây sức ép trên Việt Nam để phá Mỹ
Nhìn từ góc độ chiến lược, Trung Quốc có thể là đang tìm cách chống lại thái độ quyết đoán mới của Mỹ bằng cách gây áp lực lên các quốc gia trong khu vực để phá Hoa Kỳ.
Thái độ quyết đoán mới của Mỹ bao hàm việc tăng cường các chiến dịch tuần tra vì tự do hàng hải, tăng cường sự hiện diện và các chuyến tuần tra của oanh tạc cơ, của tàu hải quân, và bán vũ khí cho Đài Loan. Ngoài ra, Ngoại trưởng Mike Pompeo đã xác nhận rằng Hiệp Ước Phòng Thủ Hỗ Tương năm 1951 với Philippines bao gồm Biển Đông trong phạm vi áp dụng, trong lúc một đô đốc Mỹ cao cấp tuyên bố rằng một cuộc tấn công của dân quân biển Trung Quốc sẽ bị Mỹ coi như là một cuộc tấn công bằng lực lượng Hải Quân.
Kể từ khi công bố Chiến Lược Ấn Độ-Thái Bình Dương vào giữa năm nay, Hoa Kỳ đã ưu tiên nhiều hơn cho việc tranh thủ Việt Nam làm đối tác an ninh. Một số nguồn tin quân sự và ngoại giao đã cho biết riêng là Hoa Kỳ đã đề nghị với Việt Nam nâng cấp quan hệ song phương từ hàng đối tác toàn diện lên hàng đối tác chiến lược và Việt Nam đã đồng ý cho hàng không mẫu hạm Mỹ ghé cảng Việt Nam hàng năm.
Nhìn dưới góc độ chiến lược, thì có vẻ như là Trung Quốc đang sử dụng áp lực ở mức độ thấp đối với Việt Nam để phá hoại những nỗ lực của Hoa Kỳ muốn hình thành mạng lưới các đồng minh và đối tác chiến lược trong khu vực để đối phó với Trung Quốc.
RFI : Tình hình tại Bãi Tư Chính sẽ diễn biến ra sao ?
Carl Thayer : Không có khả năng Trung Quốc sẽ giữ tàu Hải Dương Địa Chất 8 trong khu vực sau khi hoàn thành công việc khảo sát. Vào năm 2014, Trung Quốc đã rút giàn khoan Hải Dương 981, trên cơ sở là giàn khoan này đã hoàn thành công việc và một cơn bão nhiệt đới đang đến gần.
Do Bãi Tư Chính nằm ở cực nam Biển Đông, Trung Quốc không có khả năng triển khai một hạm đội hùng hậu xuống tận nơi, như trường hợp đội tàu từ 80 đến 100 chiếc mà họ đã tung ra vào năm 2014.
RFI : Giáo sư nhận thấy phản ứng của Việt Nam về vụ Trung Quốc gây hấn ở Bãi Tư Chính như thế nào ? Có đủ mạnh hay không ?
Carl Thayer : Việt Nam đã công khai tuyên bố rằng họ sử dụng nhiều kênh khác nhau, trong đó có việc phản đối bằng công hàm ngoại giao, để yêu cầu tàu Hải Dương Địa Chất 8 dừng hoạt động và rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.
Đấy là bước cần thiết đầu tiên để giải quyết tình huống này, nhưng có thể là chưa đủ nếu Trung Quốc từ chối rút tàu khảo sát.
RFI : Điều tốt nhất mà Việt Nam có thể tiến hành để đuổi Trung Quốc là gì ?
Carl Thayer : Việt Nam nên tiếp tục làm những gì đã làm. Việt Nam cần tiếp tục yêu cầu tàu Hải Dương Địa Chất 8 rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và phải đòi Trung Quốc đàm phán ở cấp độ thích hợp.
Việt Nam nên vận động các thành viên ASEAN khác hỗ trợ cho mình và xúc tiến các biện pháp thiết thực như tổ chức hoạt động chung giữa các lực lượng bảo vệ bờ biển, đặc biệt là với Malaysia và Philippines.
Việt Nam nên tìm hiểu những lợi thế và bất lợi trong quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ. Đồng thời, lực lượng Cảnh Sát Biển Việt Nam nên đẩy mạnh các hoạt động chung với Nhật Bản và Hoa Kỳ, còn Hải Quân Việt Nam cần tăng cường hợp tác với các cường quốc để nâng cao năng lực bảo vệ chủ quyền.
Cuối cùng, Việt Nam nên để ngỏ khả năng sử dụng biện pháp pháp lý quốc tế chống lại Trung Quốc theo Phụ lục VII của UNCLOS theo tiền lệ mà Philippines đã đặt ra. Điều này sẽ gây áp lực trên Trung Quốc, buộc nước này hành động phù hợp hơn với luật pháp quốc tế.
Trọng Nghĩa thực hiện
Nguồn : RFI, 29/07/2019
*****************
Ấn Độ coi Việt Nam là 'đối tác tự nhiên' chống bành trướng Trung Quốc
Hoài Hương, VOA, 30/07/2019
Kể từ khi Ấn Độ áp dụng chính sách ‘hướng Đông’, New Dehli đã dần dà tăng sự hiện diện, nâng cao hợp tác với các nước trong khu vực, và từng bước can dự nhiều hơn vào các vấn đề Biển Đông. Trên cơ sở chính sách đối ngoại này, New Dehli trong nhiều năm qua đã tạo lòng tin, tăng cường hỗ trợ và hợp tác với Hà nội.
Chiến hạm INS Satpura và INS Kirsch cùng 580 thủy thủ của Hải quân Ấn Độ đã cập cảng Cam Ranh thăm hữu nghị Việt Nam từ ngày 30/5 đến 3/6/2016.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam hôm 29/7 thông báo cho Ấn Độ những diễn biến tại bãi Tư Chính, khi Trung Quốc đưa tàu Hải Dương Địa chất 8 cùng với 35 tàu hộ tống vào vùng biển "thuộc khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam hôm 4/7", báo Economic Times của Ấn Độ trích lời một quan chức Việt Nam nói Việt Nam đã thông báo cho Ấn Độ về tình hình căng thẳng leo thang tại nơi này, và những khó khăn mà Việt Nam vấp phải trong việc tiếp cận các nguồn tài nguyên trong lãnh hải của mình xung quanh bãi Tư Chính, nơi mà Tập đoàn dầu khí quốc gia của Ấn Độ (ONGC) từng có các dự án thăm dò dầu khí với Việt Nam.
Báo Economic Times dẫn lời quan chức Việt Nam không nêu danh tính nói :"Chúng tôi đã thông báo cho Ấn Độ về tình hình hiện nay ở Biển Đông, vì Ấn Độ là một trong các bên có lợi ích gắn liền với vùng biển này và là một tác nhân quan trọng trong khu vực."
"Ấn Độ chắc chắn đang trở thành một tác nhân ngày càng hùng mạnh có những quyền lợi gắn liền với khu vực và thân thiện với Việt Nam...
Josh Kurlantzick, chuyên gia về Đông Nam Á của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại
Các hành động của Trung Quốc làm gián đoạn các dự án thăm dò dầu khí của Việt Nam bên trong lãnh hải Việt Nam, đã châm ngòi cho cuôc đối đầu gay gắt nhất giữa hai nước cộng sản láng giềng, tính từ năm 2014, khi Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào lãnh hải của Việt Nam, dẫn tới các cuộc biểu tình bạo động nhất chống Trung Quốc, và củng cố quyết tâm muốn bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng tuyên bố các hành động của Trung Quốc ‘vi phạm luật pháp quốc tế’ và ‘xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam’.
Ấn Độ từ trước tới giờ vẫn hậu thuẫn quyền tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông, cũng như quyền của các nước trong khu vực được tiếp cận các nguồn tài nguyên trong các vùng biển thuộc chủ quyền của các nước dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS 1982).
Báo Ấn Độ dẫn các nguồn tin từ Việt Nam cho biết Hà nội đã nêu vấn đề này lên các cấp chính quyền Trung Quốc và sẽ xét tới một "giải pháp pháp lý", nếu Bắc Kinh không rút ra khỏi lãnh hải Việt Nam.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho VOA-Việt ngữ qua email hôm 29/7, ông Josh Kurlantzick, chuyên gia về các vấn đề Đông Nam Á thuộc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Hoa Kỳ (CFR), nói New Dehli muốn trở thành một lực đối trọng với Trung Quốc trong khu vực, và coi Việt Nam là một đối tác ‘tự nhiên’.
Ông Kurlantzick nói :
"Ấn Độ chắc chắn đang trở thành một tác nhân ngày càng hùng mạnh có những quyền lợi gắn liền với khu vực và thân thiện với Việt Nam. Theo tôi thì từ góc nhìn của New Dehli, các lợi ích của Ấn Độ là thứ nhất, phóng ra xa sức mạnh và ảnh hưởng của mình, và thứ hai, xây dựng một mạng lưới các đối tác có khả năng đoàn kết lại với nhau để chống lại sự bành trướng của Trung Quốc trong khu vực."
Các nhà ngoại giao Việt Nam được Economic Times dẫn lời nói rằng tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc hoạt động gần nhiều lô dầu nằm trong phạm vi 200 hải lý ngoài khơi bờ biển Việt Nam, và như vậy rõ ràng Trung Quốc đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Josh Kurlantzick tránh trả lời câu hỏi liệu ông có đồng ý với nhận định đó hay không.
Nhưng ông cho rằng trong tương lai Việt Nam và Ấn Độ sẽ là những đối tác an ninh ngày càng quan trọng của nhau, bởi vì theo lời ông, ngoài Hoa Kỳ thì Ấn Độ là đối tác an ninh ‘tự nhiên nhất’ của Việt Nam, xét Nhật Bản, tuy cũng là một đối tác quan trọng, nhưng còn bị giới hạn vì hiến pháp chủ hòa của nước này.
Truyền thông Ấn Độ tường thuật rằng ngoài Ấn Độ, Việt Nam cũng đã tiếp xúc với nhiều nước khác như Hoa Kỳ, Nga, Úc và nhiều nước khác để bày to lo ngại về hành động hung hăng của Trung Quốc, đe dọa các hoạt động thăm dò, khai thác dầu hỏa của Việt Nam ngay trong lãnh hải và thềm lục địa của mình.
Hoài Hương
Nguồn : VOA, 30/07/2019
******************
Đối đầu trên Biển Đông : Cơ chế nào để xử lý ?
Ngọc Lễ, VOA, 30/07/2019
Hiện không có nhiều kỳ vọng vào các cơ chế cũng như biện pháp kiểm soát hành vi của những bên tranh chấp để đảm bảo hòa bình và ổn định cho Biển Đông, các chuyên gia quốc tế nhận định.
Đường chín đoạn của Trung Quốc xâm lấn sâu vào vùng đặc quyền của các nước ven Biển Đông
Chỉ trong thời gian ngắn vùng biển này đã liên tục xảy ra các sự cố : tàu hải giám Trung Quốc quấy rối hoạt động thăm dò của tàu Malaysia ở cụm bãi cạn Luconia ở cực nam quần đảo Trường Sa hồi tháng 5 ; tàu cá Trung Quốc đâm chìm tàu cá Philippines ở Bãi Cỏ Rong hồi tháng 6 ; và mới đây nhất, kể từ đầu tháng 7 đến nay, tàu thăm dò của Trung Quốc với sự hộ tống của các tàu hải giám đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam quanh Bãi Tư Chính.
Trong khi đó, các cơ chế kiểm soát xung đột như Bộ Quy tắc Ứng xử (COC), các phương pháp xây dựng lòng tin (CBM), cơ chế tham vấn song phương (BCM) cũng như sự phân xử của tòa trọng tài thường trực (PCA) đều có những trở ngại nhất định, các chuyên gia nhận định tại Hội nghị Biển Đông thường niên lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức ở thủ đô Washington, Mỹ, hôm 24/7.
Hội thảo đã dành hẳn một phiên thảo luận với chủ đề ‘Các con đường quản lý bất đồng’ để nhìn lại những cơ chế và biện pháp này.
Đàm phán COC phức tạp
Trước hết đối với Bộ Quy tắc Ứng xử (COC), vốn đang được đàm phán giữa Trung Quốc và các nước ASEAN từ năm 2014 và được hy vọng sẽ ổn định tình hình Biển Đông khi hoàn tất, con đường đàm phán vẫn còn rất chông gai do lập trường quá khác biệt giữa các bên.
Theo nhận định của ông Ian Storey, chuyên viên cao cấp của Viện Nghiên cứu đông nam Á (ISEAS) ở Singapore thì Trung Quốc có ý đồ riêng khi tham gia đàm phán COC dù trước năm 2014 họ không hứng thú với COC bất chấp lời kêu gọi của các nước.
"Mãi cho đến năm 2016 Trung Quốc mới có thái độ nghiêm túc hơn với các cuộc đàm phán COC mà lý do mặc định là họ muốn đánh lạc hướng sự chỉ trích ra khỏi việc họ bác bỏ phán quyết của tòa trọng tài vốn được công bố vào tháng 7 năm đó," ông Storey phân tích.
Cũng theo nhà nghiên cứu này, một động cơ khác để Bắc Kinh đàm phán COC là để chứng minh ‘luận điệu giả trá’ của họ rằng ‘Biển Đông yên tĩnh và ổn định’ và rằng ‘Trung Quốc và ASEAN đang cùng nhau giải quyết vấn đề vì thế không cần các nước bên ngoài, nhất là Mỹ, can thiệp vào’.
Cuối năm ngoái, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã tuyên bố rằng nước ông muốn có được COC trong vòng ba năm (tức là đến năm 2021). Tuy nhiên, ông Storey cho rằng điều này trái ngược với mong muốn của một số nước tranh chấp là họ ưu tiên vào kết quả đàm phán hơn là thời hạn cứng.
Do những nội dung đàm phán COC hiện vẫn đang trong vòng bí mật, nhà nghiên cứu này đã tiết lộ những bất đồng lớn giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, nhất là Việt Nam.
Hà Nội, theo lời ông Storey, đã nên ra ‘một danh sách dài các hoạt động mà họ muốn COC cấm và không có gì trùng hợp khi danh sách này cũng chính là những gì mà Trung Quốc đã làm trong vòng vài năm qua’, chẳng hạn như chấm dứt xây đảo nhân tạo, không được quân sự hóa các đảo, từ bỏ vũ lực và không được đe dọa dùng vũ lực, chấm dứt tình trạng chặn tàu tiếp tế, không được tuyên bố vùng nhận dạng phòng không (ADIZ).
Ngoài ra, Hà Nội cũng yêu cầu các bên làm rõ đòi hỏi chủ quyền và đòi hỏi này phải phù hợp với UNCLOS (Công ước Quốc tế về Luật Biển). Bắc Kinh cho đến nay vẫn giữ cho yêu sách đường chín đoạn của họ mơ hồ (chẳng hạn như không rõ họ đòi chủ quyền với đảo hay biển hay cả hai) để tự do hơn trong diễn giải. Bản thân đường chín đoạn này trái với UNCLOS và đã bị tòa án quốc tế bác bỏ.
"Việt Nam cùng với Indonesia đã kêu gọi các bên tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải lý của các nước ven biển – thách thức trực tiếp đối với đường chín đoạn của Trung Quốc vốn xâm phạm vào EEZ của tất cả các bên có tranh chấp," ông cho biết và nói rằng Trung Quốc muốn dỡ bỏ tất cả điều khoản này mà Việt Nam nêu ra trong dự thảo thứ nhất.
Bên cạnh đó, Bắc Kinh còn đưa vào những điều khoản mà ông Storey cho rằng ‘gây ra những lo ngại trong phạm vi khu vực và các nước bên ngoài’. Theo đó, Bắc Kinh muốn các dự án hợp tác cùng khai thác dầu khí ở Biển Đông ‘chỉ diễn ra giữa Trung Quốc và các nước có tranh chấp’ – tức loại trừ các tập đoàn dầu khí phương Tây, các cuộc tập trận giữa các nước ASEAN với các nước bên ngoài cần phải có sự đồng ý trước của tất cả 11 nước (10 nước ASEAN và Trung Quốc) – có nghĩa là Bắc Kinh có quyền chặn đứng bất kỳ hoạt động quân sự nào giữa một nước ASEAN với Mỹ, Nhật hay Úc.
Không những thế, phạm vi địa lý (Việt Nam muốn COC bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa nhưng Trung Quốc phản đối), tính ràng buộc về pháp lý cũng là những vấn đề bất đồng trong đàm phán, cũng theo ông Storey.
Hiện tại các nước đang ở giai đoạn đọc dò (reading) lần thứ nhất bản dự thảo và đặt trong ngoặc kép những điểm mà họ không đồng ý cũng như ghi chú lập trường của mình ở mỗi điểm, ông nói và cho biết có ‘rất nhiều chỗ bị đặt trong ngoặc kép’.
"Do mức độ phức tạp của nhiều vấn đề và tốc độ chậm chạp của cuộc đàm phán cho nên mục tiêu có COC vào năm 2021 có lẽ không thể đạt được," ông Storey nói.
Ông cũng đặt nghi vấn vào thời điểm 2021 và 2021 mà khi đó Brunei và Campuchia, những nước được cho là ‘tay trong’ của Bắc Kinh trong khối Asean, sẽ nắm vai trò chủ tịch luân phiên và có khả năng lèo lái lập trường của khối. Nếu cột mốc mà Bắc Kinh đặt ra là 2020, trùng với năm chủ tịch Asean của Việt Nam, thì nhiều người sẽ ‘cảm thấy an tâm’, ông nói.
‘Ngoại giao hai mặt’
Về các biện pháp xây dựng lòng tin (CBM), ông Prashanth Parameswaran, biên tập viên cấp cao tạp chí ‘The Diplomat’ nêu bật điều quan ngại mà ông gọi là ‘tiến trình hai mặt’ (two-track process) của Trung Quốc khi một mặt có hành động thiện chí nhưng mặt khác lại có hành vi gây hấn. Những hành động xây dựng lòng tin và làm xói mòn lòng tin đồng thời này ‘đã diễn ra liên tục’ ở Biển Đông trong thời gian qua, ông nói.
Ông Jay Batongbacal, giám đốc Viện các Vấn đề Hải dương và Luật Biển thuộc Đại học Philippines, nêu ra trường hợp Cơ chế Tham vấn Song phương (BCM) Philippines thiết lập cùng với Trung Quốc sau phán quyết của Tòa trọng tài Thường trực hồi năm 2016 mà ông cho rằng ‘không hiệu quả’.
BCM được lập ra nhằm để tạo một kênh trao đổi và giải quyết những vấn đề tranh chấp về chủ quyền ‘một cách thầm lặng’, ông cho biết.
"Giờ đây đã ba năm trôi qua nhưng BCM vẫn chưa chứng minh được nó là một phương cách hiệu quả để thật sự giải quyết những vấn dề cốt lõi của tranh chấp," ông nói. "Trừ phi hai nước thay đổi cách ứng xử nếu không cơ chế này sẽ không là gì khác hơn là kênh đàm phán thiếu thiện chí."
Ông Batongbacal đưa ra dẫn chứng về việc ngư dân Trung Quốc khai thác ồ ạt sò tai tượng ở bãi cạn Scarborough vốn gây hủy hoại nghiêm trọng hệ sinh thái ở đây – vấn đề mà Manila đã nhiều lần nêu lên với Trung Quốc trong khuôn khổ BCM nhưng Bắc Kinh không hề giải quyết.
Ông cho biết vấn đề đánh bắt sò tai tượng đã được nêu ra trong lần tham vấn hồi năm 2017 vốn được mô tả là ‘sâu sắc, thân thiện, hiệu quả’ nhưng cuối cùng vào tháng 8 năm 2017 hành vi khai thách sò tai tượng của ngư dân Trung Quốc lại tái diễn.
"Cho đến nay chính phủ Trung Quốc chưa có hành động nào để giải quyết tình trạnh đánh bắt trộm sò tai tượng ở Bãi cạn Scarborough và tác động của nó đối với môi trường biển," ông cho biết và nói thêm hành động của ngư dân Trung Quốc diễn ra trước sự có mặt của các tàu hải giám Trung Quốc.
"Hành động của Trung Quốc trong vấn đề này hoàn toàn rõ ràng và là sự đo lường trực tiếp cam kết của họ để giành được lòng tin trong việc xử lý tranh chấp," ông nói.
"Cho nên không có gì là không công bằng khi nói rằng vào lúc này BCM không làm được chức năng là cơ chế chủ động giải quyết bất đồng mà lại trở thành cơ chế gây xao nhãng và làm phức tạp thêm bất đồng," ông nói. "Nó hoạt động một chiều với lợi thế cho một phía (Trung Quốc) và thay vì quản lý tranh chấp nó càng làm cho tranh chấp mở rộng và khó mà giải quyết công bằng trong tương lai."
Đưa ra Liên Hiệp Quốc ?
Về phán quyết của Tòa án Quốc tế, cụ thể là phán quyết của PCA trao thắng lợi cho Manila trước Bắc Kinh đối với các tranh chấp trên Biển Đông hồi năm 2016, cơ chế thực thi phán quyết là lý do chính khiến nó không có tác dụng như mong đợi khi các nước thua kiện không tuân thủ phán quyết.
Bà Lan Nguyen, phó giáo sư thuộc Khoa Luật, Đại học Utrecht, Hà Lan, nhấn mạnh đến các trường hợp tương tự mà các nước nguyên đơn đã đưa vấn đề ra Liên Hiệp Quốc.
Hơn 3 năm kể từ ngày PCA ra phán quyết, Bắc Kinh chỉ tuân thủ có 2 trong tổng số 11 điểm phán quyết, theo phân tích mới đây của Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) của CSIS.
Bà Lan nêu ra ví dụ về vụ kiện hồi năm 1986 của Nicaragua đối với Mỹ đã ủng hộ thành phần nổi loạn chống chính phủ nước này. Mỹ khi đó cũng từ chối tham gia vào vụ kiện cũng như Trung Quốc đối với vụ kiện của Philippines. Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) khi đó đã ra phán quyết Nicaragua thắng kiện nhưng phán quyết này đã bị Washington bác bỏ.
Khi đó, Nicaragua đã viện đến Điều 94 trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc để đưa vấn đề này ra Hội đồng Bảo an để buộc Mỹ phải thực thi phán quyết. Tuy nhiên, do Mỹ là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an nên họ đã phủ quyết. Sau đó, Nicaragua đã tìm đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc nơi họ đã thuyết phục được cơ quan này thông qua bốn nghị quyết lên án Mỹ và yêu cầu Washington phải tuân thủ phán quyết của ICJ.
"Mặc dù nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc không mang tính ràng buộc và không thay đổi nhiều giọng điệu của phía Mỹ nhưng nó thật sự đưa Mỹ vào tầm ngắm của quốc tế và thật sự gây sức ép lên Mỹ để có một số điều chỉnh nhất định trong chính sách đối ngoại của họ," bà Lan phân tích.
Trở lại với phán quyết của PCA đối với Trung Quốc, mặc dù nó chỉ có tác dụng ràng buộc đối với hai bên nguyên đơn và bị đơn, nhưng bà Lan cho rằng các nước có tranh chấp trên Biển Đông có mối liên hệ chặt chẽ và do tính chất mở của vùng biển này mà tất cả các nước tranh chấp, không chỉ Philippines, đều có ‘quyền và nghĩa vụ thực thi phán quyết’.
Từ kinh nghiệm của Nicaragua, bà Lan nói các nước nhỏ có thể sử dụng diễn đàn Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc để gây sức ép lên hành vi sai trái của các nước lớn – điều mà Việt Nam đã từng thực hiện hồi năm 2014 khi họ liên tục gửi thư đến Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc lên án hành việc Bắc Kinh đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Hà Nội và yêu cầu phổ biến những lá thư này trong khuôn khổ các phiên họp của Đại hội đồng.
Một cách khác mà bà Lan đề xuất để cho phán quyết của tòa quốc tế không trở thành một tờ giấy lộn là các nước tranh chấp khi đàm phán phân định biên giới trên biển hay quản lý vùng đánh bắt là ‘dựa trên những luật lệ mà phán quyết của Tòa trọng tài đã vận dụng’.
"Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm 2000 cho thấy các bên không phải là không sẵn sàng từ bỏ quyền lịch sử của mình để đàm phán một thỏa thuận dựa trên luật pháp quốc tế," bà Lan cho biết.
Trung Quốc cũng dựa trên chủ quyền lịch sử để đòi hỏi chủ quyền với hầu hết Biển Đông mặc dù ‘quyền lịch sử’ này đi ngược luật pháp quốc tế. Bắc Kinh lập luận rằng ‘quyền lịch sử’ của họ có từ trước khi Luật Biển quốc tế ra đời.
"Mặc dù những hành động này có thể vô vọng trước sự hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, chúng vẫn quan trọng nhìn từ góc độ luật pháp quốc tế vì bởi vì theo luật quốc tế không có cái gọi là cảnh sát quốc tế mà từng quốc gia phải là cơ quan thực thi pháp luật," bà nói.
Tuy nhiên, trên vấn đề này, ông Ian Storey lưu ý rằng ASEAN ‘chưa từng nói một lời nào về phán quyết của PCA’ kể từ khi nó được công bố.
"Ngay cả Philippines cũng không nắm bóng trong chân thì tại sao các nước khác phải làm thế chứ," ông nói.
Ngọc Lễ
Nguồn : VOA, 30/07/2019
***********************
Việt Nam vẫn cần một đồng minh thực sự
Nguyễn Hiền, VNTB, 30/07/2019
Việt Nam cần đồng minh, và không ít lần, Việt Nam Thời Báo cũng đăng các nội dung kêu gọi liên kết với Mỹ, hợp tác toàn diện và sâu hơn về mặt quân sự. Quan điểm này càng trở nên giá trị, khi Bắc Kinh, trong động thế mới đây nhất đã tìm cách tăng cường tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông với việc giao tàu nghiên cứu mới đi biển (lên đến 4.600 tấn).
Việt Nam vẫn cần một đồng minh thực sự
Trung Quốc vẫn "kiên trì" lập trường thăm dò đối với Bãi Tư Chính (thuộc chủ quyền của Việt Nam), và trong một tin đồn trên mạng xã hội, dường như cả hai quốc gia đã huy động máy bay chiến đấu ra khu vực này. Nếu tin này chính xác, đồng nghĩa Bắc Kinh đã bắt đầu vung cây gậy nhỏ ở Biển Đông.
James R. Holmes, người đứng đầu Chiến lược Hàng hải của JC Wylie tại Đại học Chiến tranh Hải quân trong một bình luận với The Hill, đã cho rằng, tranh chấp Biển Đông sẽ kéo theo hậu quả nghiêm trọng, tương tự như những gì xảy ra ở Vịnh Ba Tư, mặc dù, tính chất tranh chấp giữa Iran-Anh Quốc xoay quanh tàu chở dầu đang làm lu mờ sự kiện Bãi Tư Chính.
Trong khi Iran tuyên bố kiểm soát eo biển Hormuz, thì Trung Quốc đang cố gắng củng cố quyền kiểm soát 80 đến 90% Biển Đông, bao gồm cả các vùng biển thuộc chủ quyền các quốc gia trong khu vực ASEAN, theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Cả hai trường hợp này đều cho thấy, tự do thương mại đã bị tấn công. Riêng vùng Biển Đông, Bắc Kinh tuyên bố đây là một phần mở rộng của lãnh thổ Trung Quốc.
Cần nhắc lại, Bãi Tư Chính là khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đặc quyền nghĩa là chỉ duy nhất Việt Nam là quốc gia được hưởng thụ tài nguyên từ vùng nước, và vùng đáy biển (nơi chứa khoảng 45 triệu thùng dầu và 172 tỷ mét khối khí đốt).
Bắc Kinh – Hà Nội đã đưa các lực lượng thiên về dân sự để "đối đầu" nhau. Tại sao không phải là tàu chiến (hải quân) - để phát đi thông điệp chủ quyền ? Điều này có thể được lý giải, lực lượng hải quân chiến đấu trong vùng tranh chấp, nhưng tại sao lại phải thừa nhận tranh chấp khi đó là vùng đặc quyền kinh tế ?
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn nắm giữ lợi thế rõ rệt trong câu chuyện này, dưới hình thức một máy bay và tên lửa trên bờ và hải quân hỗ trợ. Bắc Kinh nắm chặt một cây gậy lớn, trong khi Việt Nam thì không - và các nhà lãnh đạo Việt Nam biết rõ điều đó. Và Trung Quốc, có lựa chọn leo thang quân sự. Và nếu Trung Quốc vung cây gậy nhỏ của mình, trong khi thủ sẵn cây gậy lớn thì vấn đề có thể sẽ được đẩy đi xa. Để duy trì các quyền của mình, Việt Nam cần các đồng minh.
Như vậy, Việt Nam cần đồng minh, và không ít lần, Việt Nam Thời Báo cũng đăng các nội dung kêu gọi liên kết với Mỹ, hợp tác toàn diện và sâu hơn về mặt quân sự. Quan điểm này càng trở nên giá trị, khi Bắc Kinh, trong động thế mới đây nhất đã tìm cách tăng cường tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông với việc giao tàu nghiên cứu mới đi biển (lên đến 4.600 tấn).
Với tốc độ tối đa 16 hải lý /giờ và tầm hoạt động khoảng 14.000 hải lý, Da Yang Hao (Đại dương) có khả năng thực hiện thăm dò tài nguyên dưới biển sâu ở bất kỳ đại dương nào trên thế giới, truyền thông Trung Quốc đưa tin. Tàu này được quản lý bởi Bộ Tài nguyên Trung Quốc, và nó sẽ "giúp duy trì lợi ích của Bắc Kinh trong khu vực biển quốc tế".
Theo SCMP, Bắc Kinh đã liên tục xây dựng hạm đội thăm dò đại dương như một phần trong lập trường ngày càng quyết đoán ở Biển Đông, và các nhà quan sát cho rằng Da Yang Hao có thể được triển khai đến tuyến đường thủy mà Bắc Kinh cho rằng đang tranh chấp. Giúp tối ưu hóa phạm vi hoạt động dân sự và quân sự - giúp Trung Quốc khẳng định yêu sách của mình.
Sự quyết đoán trong chiến thuật bắt nạt láng giềng của Trung Quốc có thể đưa đến quan hệ song phương hai quốc gia xuống dốc. Và cách ứng xử côn đồ của Bắc Kinh càng minh chứng rằng, Trung Quốc đã không học được bài học nào và dường như quyết tâm thực hiện kế hoạch của mình bằng cách bắt nạt các quốc gia nhỏ hơn. Trung Quốc đã không hiểu rằng một chiến lược như vậy sẽ đi ngược lại lợi ích của họ và có thể thúc đẩy liên minh các lực lượng đối đầu với Trung Quốc bằng một tiếng nói thống nhất, trong đó do Mỹ dẫn đầu.
Bắc Kinh trơ trẽn đến mức, trong buổi họp báo thường kỳ vào ngày 12.7, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao nước này tuyên bố kiên quyết bảo vệ chủ quyền của mình ở Biển Đông và quyền hàng hải, đồng thời duy trì các cuộc tranh chấp với các nước liên quan thông qua đàm phán và tham vấn. Đi xa hơn, chính quyền Trung Quốc còn "mong muốn Việt Nam tôn trọng chủ quyền, quyền và quyền tài phán của Trung Quốc đối với các vùng biển liên quan và không có bất kỳ hành động nào có thể làm phức tạp tình hình."
Tất nhiên, các quan điểm sai trái và đáng hổ thẹn này đã bị Việt Nam bác bỏ. Có thể thấy, Việt Nam sẽ không muốn vượt qua lằn ranh đỏ (xung đột quân sự với Bắc Kinh), nhưng sẽ không dung thứ cho những hành động khiêu khích không mong muốn và sẵn sàng trả đũa nếu Bắc Kinh vượt qua lằn ranh đỏ.
Và tất nhiên, dù tránh lằn ranh đỏ hay không dung thứ, thì Việt Nam vẫn cần một đồng minh thực sự.
Eliot L Engel, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện Mỹ, vào ngày 26.7 đã ra tuyên bố về sự can thiệp của Trung Quốc vào vùng biển do Việt Nam kiểm soát, trong đó ông nói hành động của Trung Quốc cấu thành vi phạm chủ quyền của Việt Nam và quyền của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Ông kêu gọi Trung Quốc ngay lập tức rút tất cả các tàu ra khỏi lãnh hải của Việt Nam và chấm dứt các chiến thuật bắt nạt bất hợp pháp này.
Lý giải cho sự gia tăng tranh chấp, có thể nhận ra được nhu cầu "xuất khẩu bất ổn" của Bắc Kinh ngày một lớn.
Trong nước, Tập Cận Bình đang đối diện với cuộc chiến thuế quan với Washington ; Sáng kiến Vành đai và con đường đang gặp trở ngại ngay tại Châu Phi ; lạm phát của Trung Quốc gia tăng, và tăng trưởng kinh tế chậm lại dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp và biểu tình của công nhân gia tăng ; đã xuất hiện sự công khai chỉ trích chính sách của Tập Cận bình ngay trong hội nghị tham vấn chính trị vào tháng 3.2019.
Tập Cận Bình, vẫn tìm cách hiện thực hóa tuyên bố chủ quyền hơn 3 triệu km2, và đây là trung tâm của những nỗ lực của Trung Quốc. Qiu Shi (16.4), tạp chí lý luận của ĐCSTQ, đã đăng tải bài viết của Phó đô đốc Hải quân Trung Quốc, ông Liu Shijong và Phó Đô đốc Chính trị Qin Shengxiang, tiết lộ rằng Tập Cận Bình đã xúc tiến các dự án xây dựng trên một số đảo và rạn san hô ở Biển Đông nhằm thay đổi tình hình chiến lược của cuộc đấu tranh quân sự trên biển và thể hiện quyết tâm kiên định chiến đấu cho từng cm lãnh thổ và vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Nguyễn Hiền
********************
Biển Đông : Việt Nam thông báo cho Ấn Độ về vụ Tư Chính
Anh Vũ, RFI, 20/07/2019
Trang thông tin mạng thehindu.com hôm nay 30/07/2019 dẫn nguồn tin ngoại giao Hà Nội cho biết, Việt Nam đã thông báo cho phía Ấn Độ việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8, cùng nhiều tàu hải cảnh hộ tống vào hoạt động gần bãi Tư Chính, trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
Bãi Tư Chính nìn từ vệ tinh - @amti.csis.org
New Delhi tỏ lo ngại với những diễn biến căng thẳng trong vùng biển gần nơi tập đoàn dầu khí Ấn Độ ONGC đang có dự án hợp tác khai thác dầu với Việt Nam, theo trang mạng Ấn Độ.
Một quan chức ngoại giao ẩn danh Việt Nam hôm qua cho biết : "Chúng tôi đã thông báo diễn biến tình hình hiện nay tại Biển Đông với Ấn Độ, nước có liên quan và là một tác nhân quan trọng trong khu vực." Nguồn tin này khẳng định với trang tin Ấn Độ là Trung Quốc đã điều tới 35 tàu hải cảnh để hộ tống tàu Hải Dương Địa Chất 8 tiến hành các hoạt động thăm dò địa chấn trong khu vực bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Đòi chủ quyền gần như toàn bộ vùng Biển Đông, Trung Quốc từng phản đối và ngăn cản các dự án hợp tác thăm dò khai thác dầu khí của Ấn Độ trong vùng biển của Việt Nam.
Nguồn tin ngoại giao được trích dẫn nói trên cho biết thêm, ngoài Ấn Độ, Việt Nam cũng đã tiếp xúc với các nước như Mỹ, Nga, Úc và một số nước khác để bày tỏ lo ngại về hành động gây hấn của Trung Quốc đe dọa các hoạt động khai thác thăm dò dầu khí trong vùng biển Việt Nam, trong đó đặc biệt có lô dầu 06.1 là nơi mà tập đoàn Nga Rosneft và công ty Ấn Độ ONGC đã hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam từ gần 17 năm nay.
Quan chức ngoại giao được trang tin Ấn Độ dẫn nguồn khẳng định, các hoạt động của Trung Quốc hiện nay tại bãi Tư Chính là "vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam, theo Công ước Quốc tế về Luật Biển UNCLOS".
Nguồn tin ngoại giao Hà Nội cũng cho biết Việt Nam đã đề cập vấn đề này với nhiều cấp chính phủ Trung Quốc và nếu Bắc Kinh không rút các tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam, Hà Nội sẽ đưa vấn đề ra tư pháp quốc tế.
Thehindu.com nhận định, vụ việc diễn ra ở bãi Tư Chính lần này là sự cố đối đầu nghiêm trọng nhất kể từ sau vụ Trung Quốc đưa giàn khoan nổi Hải Dương 981 vào vùng biển Việt Nam hồi tháng 5/2014.
Anh Vũ
*******************
Hải Quân Hoa Kỳ cần bảo vệ đồng minh khai thác tài nguyên biển Đông
Nguyễn Quốc Khải, VOA, 29/07/2019
Trong vài tuần lễ vừa qua tình hình ở Biển Đông đang sôi nổi vì một tầu thăm dò dầu khí Haiyang Dizhi 8 (Hải Dương 8) của Trung Quốc với một số tầu tuần duyên đi theo hộ tống đã xâm nhập đặc khu kinh tế của Việt Nam quanh Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa. Trong khi đó, tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (CSIS), ở thủ đô Washington đã diễn ra Hội Nghị Hàng Năm lần Thứ Chín về Biển Đông vào ngày 24-7.
Đô đốc hồi hưu Scott H. Swift, cựu Tư lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương.
Hội nghị này đã quy tụ được rất nhiều chuyên viên và học giả về lãnh vực về Châu Á và hàng hải. Trong số này tôi ghi nhận được những một số người từ xa tới như Giáo sư Lan Nguyễn từ Hòa Lan ; ông Liu Xiaobo, Trung Quốc ; ông Evan Laksmana, Nam Dương ; ông Kavi Chongkittavorn, Thái Lan ; Giáo sư Stein Tonnesson, Na Uy ; Giáo sư Bill Hayton, Anh Quốc ; Giáo sư Jay Batongbacal, Phi Luật Tân ; Giáo sư Sarah Kirchbergerm, Đức Quốc ; Giáo sư Toshihiro Nakayama, Nhật Bản ; Giáo sư Bec Strating, Úc ; ông Ian Storey, Singapore.
Được tôi hỏi Hoa Kỳ có nên sử dụng Hạm Đội Số 7 để giúp bảo vệ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước đồng minh ở Biển Đông hay không, Đô đốc (hưu) Scott H. Swift, cựu Tư lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, một trong những diễn giả chính, đã trả lời rằng ông không đồng ý với ý kiến này. Ông nói "Lập trường của Hoa Kỳ rất rõ là chúng tôi không đứng về phe nào đối với tranh chấp về chủ quyền. Đó là những vấn đề về môi trường. Có những bộ khác trong chính phủ thích hợp hơn để giải quyết những thử thách này."
Đô đốc Swift cũng nhắc đến tổ chức ASEAN, một diễn đàn đa quốc gia Đông Nam Á để thảo luận những tranh chấp nội bộ với nhau mà Hoa Kỳ không là thành viên. Ông nói tiếp rằng "Những lời bình luận của ông xuất sắc, nhưng sẽ đưa đến tình trạng rằng nếu chúng ta tìm kiếm những giải pháp quân sự, chúng ta sẽ đi vào con đường quân sự. Chúng ta cần phải thật cẩn thận khi chọn lựa những giải pháp này. Sáng kiến của Bộ Ngoại giao ủng hộ những hoạt động bảo vệ tự do hàng hải."
Tiếp theo trình bầy của Đô đốc Swift, bà Amy Searight, Cố vấn cao cấp và Giám đốc Chương trình Đông Nam Á của CSIS, đã lập lại câu hỏi của tôi hơi khác đi. Bà nói "Bộ Ngoại giao [Hoa Kỳ] đã vài lần tuyên bố, bắt đầu với Ngoại trưởng Mike Pampeo tại Manila, rằng Hoa Kỳ ủng hộ quyền của các quốc gia khai thác tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi đặc khu kinh tế. Hải Quân hay Bộ Quốc phòng [Hoa Kỳ] phải đóng một vai trò theo một ý nghĩa nào đó để hỗ trợ lập trường ngoại giao đã được công bố rõ ràng. Nếu một nước cố gắng thực hiện quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên và rõ ràng bị quấy rỗi, một nước đồng minh có vai trò đối với một nước đối tác như Phi Luật Tân hay Việt Nam."
Sau phần phát biểu của bà Amy Searight, Đô đốc Swift đồng ý rằng Hải Quân sẽ đóng một vai trò trong trường hợp chủ quyền rõ ràng được xác định của một quốc gia đối với đặc khu kinh tế. Ông nói "Chúng ta vẫn phải rất cẩn thận khi có những quyết định hành động từ Tổng Tư lệnh Quân đội và phải có sự ủy nhiệm chiến lược rõ ràng. Điều này vô cùng quan trọng."
Hoa Kỳ mới đây đã lên tiếng bầy tỏ quan ngại về việc Trung Quốc quấy phá việc khai thác dầu khí của Việt Nam trong đặc khu kinh tế quanh Bãi Tư Chính được thừa nhận bởi Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea – UNCLOS). Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố "Hoa Kỳ cương quyết chống lại sự áp bức và hăm dọa bởi bất cứ nước nào để giành lãnh thổ hay lãnh hải. Trung Quốc cần phải chấm dứt hành vi bắt nạt và kiềm chế những hành động gây hấn và tạo bất ổn."
Dân quân biển của Trung Quốc. 95 tàu của dân quân biển ngụy trang thành tàu cá bỏ neo gần đảo Thị Tứ của Philippines.
Sau một thời gian dài yên lặng, đến khi Giáo sư Ryan Martinson của Trường Hải Chiến Hoa Kỳ công bố đường đi của tầu Hải Dương 8, Việt Nam đã phải lên tiếng kêu gọi thế giới giúp đỡ và yêu cầu tầu của Trung Quốc rút ra khỏi lãnh hải của Việt Nam nhưng không có kết quả. Lời nói và ngoại giao xem ra không làm Trung Quốc thay đổi tham vọng bành trướng và làm chủ toàn bộ khối năng lượng tại Biển Đông trị giá 2.5 ngàn tỉ Mỹ kim.
Ông Gregory B. Poling, Giám đốc Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Á Châu (Asia Maritime Transparency Initiative – AMTI) thuộc CSIS, nhận định rằng hiện nay Trung Quốc chưa thể kiểm soát được toàn bộ Biển Đông, nhưng Trung Quốc đang tăng cường khả năng để thực hiện điều này, nếu các nước liên quan và đặc biệt là Hoa Kỳ không có phương cách đối phó thích hợp.
Theo ông Poling, Trung Quốc xem ra muốn tránh đụng độ quân sự với Hoa Kỳ và bất cứ nước nào. Trung Quốc sử dụng dân quân biển ngụy trang dưới hình thức những tầu đánh cá. Một hình chụp được vào ngày 20-12-2018 cho thấy 95 loại tầu này vây quanh đảo Thitu của Phi Luật Tân trong nhiều tháng. Trên đảo có khoảng 100 cư dân và một toán binh sĩ đồn trú. Các nước cần phải áp lực Trung Quốc dẹp bỏ lực lượng dân quân biển.
Đáp lại lời kêu gọi của Việt Nam, vào ngày hôm qua, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ viện Hoa Kỳ Eliot L. Engel đã lên tiếng chỉ trích hành vi xâm lăng của Trung Quốc tại vùng Bãi Tư Chính và bênh vực Việt Nam trong cố gắng bảo vệ chủ quyền lãnh hải hợp pháp. Ông Engel nói :
"Sự hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông gần đây chứng minh sự vi phạm công khai luật quốc tế. Theo Công Ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, những hành động của Trung Quốc tạo thành sự vi phạm chủ quyền của Việt Nam và các quyền hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế. Quan trọng không kém, hành vi của Trung Quốc đe dọa quyền lợi của các công ty Hoa Kỳ đang hoạt động trong khu vực."
"Tôi đứng về phía Việt Nam và các đối tác trong vùng của chúng tôi để lên án sự hung hăng này. Cộng đồng quốc tế phải tiếp tục duy trì trật tự dựa trên luật lệ và luật pháp quốc tế. Tôi kêu gọi Trung Quốc lập tức rút tất cả các tầu ra khỏi lãnh hải của những nước láng giềng, và chấm dứt các chiến thuật bắt nạt bất hợp pháp này."
Trong tình thế như hiện nay, vai trò của Hạm Đội 7 sẽ rất quan trọng. Nó sẽ đóng góp một cách tích cực và hiệu quả để bảo vệ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc khu kinh tế 200 hải lý, một khi các nước đối tác của Hoa Kỳ ở Biển Đông như Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương và Brunei đồng ý hợp tác.
Nguyễn Quốc Khải
Nguồn : VOA, 29/07/2019
*******************
Bộ trưởng Quốc phòng Philippines chỉ trích Trung Quốc ‘nói một đằng, làm một nẻo’
VOA, 30/07/2019
Bộ trưởng quốc phòng Philippines ngày 30/7 chỉ trích Trung Quốc về "hành động bắt nạt ở Biển Đông". Ông Delfin Lorenzana nói rằng lời lẽ đảm bảo hòa bình của Bắc Kinh đi ngược lại với hành vi của họ trong vùng biển tranh chấp, theo AP.
Bộ trưởng Quốc phòng Delfin Lorenzana.
Ông Lorenzana nói : "Trung Quốc nói ‘chúng tôi không bắt nạt láng giềng, chúng tôi tuân theo luật pháp quốc tế’, nhưng tôi thì nói rằng các ông không làm như vậy, những điều các ông nói không phải là những gì các ông làm trên thực tế".
Theo Bộ trưởng quốc phòng Philippines, trừ phi Trung Quốc làm đúng những gì họ nói, bằng không những lời nói của họ sẽ luôn bị nghi ngờ, và người Philippines sẽ tiếp tục nhìn về Bắc Kinh với lòng ngờ vực.
Để minh chứng cho nhận định của mình, ông Lorenzana viện dẫn xếp hạng tín nhiệm thấp của Trung Quốc so với Hoa Kỳ, đồng minh của Philippines, trong các cuộc thăm dò dư luận địa phương.
Đại sứ Trung Quốc tại Philippines Triệu Giám Hoa - Ảnh minh họa
Trong khi đó, phát biểu tại Manila vào cuối ngày 29/7 vào dịp đánh dấu ngày kỷ niệm của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Đại sứ Trung Quốc tại Philippines, Triệu Giám Hoa, nói cam kết của Trung Quốc đối với hòa bình đã được ghi trong hiến pháp nước ông, và các nỗ lực tăng sức mạnh quân sự hoàn toàn nhằm mục đích tự vệ.
"Cho dù Trung Quốc có trở nên hùng mạnh đến mức nào, Trung Quốc cũng sẽ không bao giờ theo đuổi mộng bá chủ hoặc thiết lập phạm vi ảnh hưởng", AP dẫn lời Đại sứ Triệu Giám Hoa tuyên bố. "Trung Quốc sẽ vẫn cam kết phục vụ trong tư cách một lực lượng vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng trên thế giới".
Đại sứ Trung Quốc tuyên bố : "Trung Quốc áp dụng chiến lược quân sự phòng thủ tích cực, tuân thủ nguyên tắc phòng thủ, tự vệ và chỉ phản ứng sau khi bị tấn công, nghĩa là chúng tôi sẽ không ra tay đánh trước".
Nói về những tranh chấp lãnh thổ kéo dài với Philippines, Đại sứ Trung Quốc nói cả hai bên nên kiên nhẫn và Trung Quốc sẽ tiếp tục áp dụng chính sách giải quyết tranh chấp trong hòa bình thay vì đối đầu. Theo ông, trong lúc chờ giải pháp hòa bình, hai bên nên đảm bảo rằng các tranh chấp không phương hại cho mối quan hệ chung.