Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

17/11/2019

Trao đổi giữa chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam và Trung Quốc về Biển Đông

Nghiên cứu quốc tế

Trao đổi giữa chủ tịch Hội Luật Quốc tế Việt Nam và Trung Quốc về Biển Đông

Nguyễn Bá Sơn, Hoàng Tiến, Nghiên cứu quốc tế, 17/11/2019

Lời giới thiệu : Trong sự kiện tàu thăm dò Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc cùng các tàu liên quan xâm phạm phi pháp các vùng biển của Việt Nam trong thời gian từ ngày 02/07/2019 đến ngày 24/10/2019, Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Việt Nam Nguyễn Bá Sơn đã gửi hai thư ngỏ tới Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Trung Quốc Hoàng Tiến (Huang Jin) để phản đối các vi phạm của Trung Quốc cũng như trao đổi về các vấn đề liên quan đến tranh chấp Biển Đông. Bức thư đầu tiên đề ngày 24/08/2019, bức thư thứ hai đề ngày 29/10/2019, trong đó bức thư thứ hai là nhằm hồi đáp một thư ngỏ phản hồi từ Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Trung Quốc đề ngày 19/09/2019. Nhận thấy đây là một tài liệu hữu ích đối với các nhà nghiên cứu về sự kiện trên cũng như tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc nói chung, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu ba bức thư trên để bạn đọc tham khảo.

—————

hoi1

Thư ngỏ của Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam gửi Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc (bản tiếng Anh)

Hà Nội, Ngày 24 tháng 8 năm 2019

Kính gửi : Giáo sư Hoàng Tiến (Huang Jin),

Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc (Chinese Society of International Law-CSIL),

Toàn thể Hội viên Hội Luật quốc tế Việt Nam (Vietnamese Society of International Law-VSIL) hết sức lo ngại về những diễn biến căng thẳng gần đây do phía Trung Quốc gây ra trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở Nam Biển Đông. Những hoạt động của tàu Hải Dương 8 (HD8) và các tàu thuyền của Trung Quốc ở khu vực nói trên vi phạm nghiêm trọng Luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) và đi ngược lại những thỏa thuận giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc.

Thưa Giáo sư,

VSIL và CSIL là hai tổ chức tập hợp những chuyên gia luật quốc tế hàng đầu của nước mình, đều được thành lập với mục đích nghiên cứu, phổ biến, ứng dụng và phát triển luật quốc tế. Nhận thấy CSIL xác định trong Điều lệ của mình nhiệm vụ "thúc đẩy việc trao đổi giữa các giới học thuật trong và ngoài nước, phục vụ các vấn đề đối ngoại", tôi cho rằng hai Hội của chúng ta có thể trao đổi một cách chân thành, có lý có tình về những sự kiện đang xảy ra trên Biển Đông.

Trong Thư ngỏ này tôi sẽ không nói về vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa, điều đã được Chính phủ Việt Nam khẳng định nhiều lần, mà chỉ tập trung trao đổi dưới góc độ pháp lý quốc tế những hoạt động hiện nay của Tàu khảo sát địa chấn HD8. Với những quy định đầy đủ và hoàn chỉnh của UNCLOS nói riêng và của Luật pháp quốc tế nói chung, tôi tin rằng chúng ta sẽ đạt được nhận thức chung dựa trên căn cứ khoa học và pháp lý khách quan, từ đó góp phần làm giảm căng thẳng, đóng góp vào việc phát triển hòa bình, ổn định trên Biển Đông, đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân hai nước cũng như của tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

1. Khu vực mà tàu khảo sát địa chấn HD8 đang hoạt động nằm hoàn toàn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định trên cơ sở Điều 57 và Điều 76 của UNCLOS. Đây hoàn toàn không phải là khu vực chồng lấn hoặc có tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Căn cứ quy định của UNCLOS, Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp lý thiết lập phạm vi và chế độ pháp lý tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Theo đó, Việt Nam thực thi các quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật, tài nguyên không sinh vật của cột nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình ; nghiên cứu khoa học biển ; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình.

Theo quy định của UNCLOS, quyền của quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa có tính đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển không thăm dò hay khai thác tài nguyên ở các vùng này thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động này nếu không được phép của quốc gia ven biển. Mọi hoạt động thăm dò, khai thác, khảo sát, nghiên cứu đối với tài nguyên ở đó đều phải được sự chấp thuận rõ ràng của quốc gia ven biển.

Hoạt động của tàu HD8, bất chấp sự phản đối của phía Việt Nam, đã vi phạm nghiêm trọng quy định của UNCLOS và luật pháp Việt Nam liên quan đến quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Hoạt động của các tàu Trung Quốc khác nhằm cản phá hoạt động chấp pháp của các tàu cảnh sát biển Việt Nam vi phạm nghiêm trọng các quy định trên và tạo ra nguy cơ mất an toàn hàng hải trong khu vực này.

2. Một số chuyên gia luật quốc tế Trung Quốc thường viện dẫn "đường chín đoạn" để biện minh cho yêu sách về "các quyền lịch sử" hay "một danh nghĩa lịch sử" của Trung Quốc tại các vùng biển nằm bên trong "đường chín đoạn" này. Mặt khác,Trung Quốc cũng dựa vào UNCLOS để đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa mở rộng tính từ các quần đảo ở Biển Đông mà Trung Quốc là một trong các bên yêu sách chủ quyền. Với những viện dẫn nêu trên, Trung Quốc cho rằng khu vực biển mà tàu HD8 và các tàu khác của Trung Quốc đang hoạt động là vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc.

Điều này hoàn toàn phi lý. Không có bất cứ cơ sở pháp lý nào theo luật pháp quốc tế và UNCLOS cho "đường chín đoạn", Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới cũng chưa từng công nhận bất kỳ một hàm ý về phạm vi quyền đối với vùng biển được gán cho "đường chín đoạn" này. Cũng không thể coi vùng biển mà HD8 đang hoạt động là vùng biển của quần đảo Trường Sa vì quần đảo Trường Sa không phải là một quốc gia quần đảo, do đó không đáp ứng tiêu chuẩn mà UNCLOS quy định để có thể vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh toàn bộ Trường Sa và từ đó yêu sách các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quần đảo.

Kể từ khi có Phán quyết ngày 12/07/2016 của Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc thì những tranh luận trên đã được làm sáng tỏ. Phán quyết khẳng định rằng : i) không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại vùng biển bên trong "đường chín đoạn" ; (ii) căn cứ vào tình trạng tự nhiên của các thực thể luôn nổi tại quần đảo Trường Sa, không thực thể nào có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng ; (iii) luật pháp quốc tế không cho phép Trung Quốc vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh quần đảo Trường Sa và xem quần đảo Trường Sa là một thực thể đơn nhất có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng ; (iv) các thực thể lúc chìm lúc nổi (và các thực thể ngầm) không phải là đối tượng yêu sách chủ quyền.

Mặc dù Trung Quốc không tham gia vụ kiện và bác bỏ giá trị ràng buộc của Phán quyết nói trên, nhưng theo quy định của luật pháp quốc tế và UNCLOS, phán quyết có tính chung thẩm và ràng buộc đối với hai Bên của vụ kiện. Các quốc gia đều mong muốn Phán quyết được tôn trọng và thực thi một cách thiện chí.

3. Tôi cũng được biết, có những chuyên gia luật quốc tế Trung Quốc sử dụng một đoạn trong lời mở đầu của UNCLOS "Khẳng định rằng, các vấn đề không quy định trong Công ước sẽ tiếp tục được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung" để biện minh cho các lập luận về yếu tố lịch sử và các yêu sách mập mờ nhằm tạo nên các vùng biển chồng lấn của Trung Quốc với các quốc gia ven Biển Đông.

Tuy nhiên, các vấn đề về phạm vi và quy chế của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, đặc biệt là vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, cũng như vấn đề quốc gia quần đảo, vùng nước quần đảo đều là những vấn đề đã được UNCLOS quy định rõ ràng, hoàn toàn không phải là "các vấn đề không được quy định". Việt Nam và Trung Quốc đều là các quốc gia thành viên của UNCLOS, tự nguyện chấp nhận sự ràng buộc của Công ước, nên mọi cách giải thích, áp dụng trái với quy định của Công ước đều không có giá trị. Điều này cũng đã được Tòa Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc xác nhận.

Thưa Giáo sư,

Là những người dành cả cuộc đời cho việc nghiên cứu, phổ biến và thực hành luật quốc tế, chúng ta đều nhớ tới lời thề trang trọng phục vụ cho công lý của mình khi vinh dự được mang danh hiệu cao quý là luật gia. Nhiệm vụ chung của chúng ta, của VSIL và CSIL là bảo vệ công lý, bảo vệ trật tự pháp lý quốc tế, chống lại bất kỳ sự vi phạm nào đối với những nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế.

Với trách nhiệm phục vụ cho các vấn đề đối ngoại mà CSIL đã đề ra, cũng như với sứ mệnh thiêng liêng của người luật gia, tôi mong rằng Giáo sư và các thành viên CSIL sẽ tư vấn cho các cơ quan hữu quan của Trung Quốc những khía cạnh pháp lý quốc tế và kiến nghị Chính phủ chấm dứt ngay những hành động vi phạm luật pháp quốc tế, rút ngay tàu HD8 cũng như các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.

Tất cả các thành viên VSIL nguyện sẽ sử dụng tất cả những biện pháp được luật quốc tế quy định, đặc biệt là UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Tổ quốc mình.

Thay mặt cho tất cả các hội viên VSIL tôi gửi đến Giáo sư và các hội viên CSIL lời chào trân trọng và mong được cùng Giáo sư trao đổi những vấn đề khoa học luật quốc tế với mục đích thượng tôn trật tự pháp lý quốc tế, góp phần vào việc gìn giữ hòa bình ổn định trên Biển Đông, phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc.

Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam

Nguyễn Bá Sơn

—————

Thư trả lời của Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc (bản tiếng Anh)

Ngày 19 tháng 09 năm 2019

Kính gửi Chủ tịch Nguyễn Bá Sơn,

Tôi xin ghi nhận Thư ngỏ của ngài gửi tới tôi được công bố vào ngày 24 tháng 08 năm 2019. Tôi sẵn sàng tham gia trao đổi học thuật cùng ngài về luật quốc tế. Với tư cách là một học giả trong lĩnh vực luật quốc tế, tôi muốn thảo luận các vấn đề sau liên quan đến Thư ngỏ của Ngài.

1. Các mô tả nhận định về Nam Sa Quần Đảo (Quần đảo Nam Sa) được đề cập trong Thư ngỏ là không đúng và một chiều, vậy nên không thể rút ra kết luận khách quan về việc làm thế nào để giải quyết vấn đề.

Trung Quốc có chủ quyền với Nam Sa Quần Đảo. Dựa vào Nam Sa Quần Đảo, Trung Quốc có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Hơn nữa, Trung Quốc có quyền lịch sử tại Nam Hải. Các quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc tại Nam Hải có cơ sở vững chắc theo luật quốc tế, và đã được khẳng định thông qua các văn bản pháp lý của Trung Quốc, bao gồm Tuyên ngôn của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải năm 1958, Luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp năm 1992, Luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm Lục địa năm 1998, và Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Chủ quyền lãnh thổ và Quyền và Lợi ích Hàng hải tại Nam Hải đưa ra vào ngày 12 tháng 07 năm 2016.

Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) không phải là toàn bộ luật biển quốc tế. Chính UNCLOS cũng đã có quy định rõ ràng rằng, các vấn đề không được điều chỉnh trong Công ước sẽ được điều chỉnh bởi các quy định và nguyên tắc luật quốc tế. Vấn đề về quyền lịch sử và quy chế của các quần đảo của quốc gia lục địa là những vấn đề không được điều chỉnh trong UNCLOS, và nên tiếp tục được điều chỉnh theo luật quốc tế nói chung. Quyền và lợi ích của Trung Quốc ở Nam Hải đã được hình thành từ thực tiễn của người dân và chính phủ Trung Hoa qua lịch sử lâu dài, và có cơ sở vững chắc về mặt lịch sử và luật pháp. Nam Sa Quần đảo của Trung Quốc đáp ứng tiêu chuẩn là quần đảo của quốc gia lục địa theo luật quốc tế, và đã được nhìn nhận như vậy trong lịch sử. Trung Quốc có chủ quyền lãnh thổ, và quyền lợi hàng hải dựa trên Nam Sa Quần Đảo như một thực thể thống nhất.

Tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc luôn hoạt động tại vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc, tuân thủ tuyệt đối luật pháp quốc tế bao gồm UNCLOS. Ngược lại, chính Việt Nam đã làm ngơ phản đối của Trung Quốc và đơn phương tiến hành các hoạt động thăm dò dầu khí tại vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc tại Nam Hải, vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc tại Nam Hải, bỏ qua các thỏa thuận song phương liên quan giữa Trung Quốc và Việt Nam, và vi phạm Điều 5 của Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Nam Hải năm 2002.

2. Trong Thư ngỏ, ngài tuyên bố rằng sẽ không đề cập đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Bằng cách đó, ngài thực tế đã lảng tránh cốt lõi vấn đề Nam Hải giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng như các điều kiện tiên quyết để giải quyết vấn đề. Theo đó, cần nhắc lại một nguyên tắc quan trọng của luật quốc tế, cụ thể là nguyên tắc "đất thống trị biển". Chủ quyền lãnh thổ là cơ sở cho các quyền trên biển của một quốc gia ven biển. Nếu không xác định chủ quyền lãnh thổ từ đầu, chúng ta sẽ không thể nào xác định được các quyền trên biển của một quốc gia ven biển liên quan. Từ những năm 1970, Việt Nam đã chiếm giữ một số đảo và bãi đá tại Nam Sa Quần đảo liên tục và trái phép, tạo ra tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Ngoài ra, với sự phát triển của luật biển quốc tế, vấn đề phân định biển cũng đã xuất hiện giữa Trung Quốc và Việt Nam. Bản chất vấn đề Nam Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam là một vấn đề về lãnh thổ. Vấn đề này không nên bị lảng tránh ; thay vào đó, cần được xử lý ngay từ đầu.

Ngài cũng đã trích dẫn Phán quyết của cái-gọi-là Tòa trọng tài Nam Hải. Tới đây, tôi cảm thấy cần phải nhắc lại một nguyên tắc quan trọng khác của luật quốc tế, cụ thể là nguyên tắc đồng ý, thể hiện trực tiếp nguyên tắc chủ quyền trong giải quyết tranh chấp. Để xác lập thẩm quyền của mình trong một tranh chấp giữa các quốc gia, một cơ quan tài phán hay trọng tài quốc tế trước đó phải nhận được sự đồng ý từ các bên trong tranh chấp. Cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong UNCLOS, bao gồm thủ tục trọng tài tại Phụ Lục VII, cũng tuân theo nguyên tắc đồng ý như vậy. Nếu một cơ quan tài phán hay trọng tài quốc tế bỏ qua phạm vi đồng ý của các Quốc gia, hay ngang nhiên thực hiện thẩm quyền, bất chấp sự phản đối của một bên, đối với vấn đề mà Quốc gia đó phản đối, thì cơ quan đó sẽ vi phạm nguyên tắc chủ quyền và các quyết định của cơ quan đó là vô hiệu. Tranh chấp sẽ ngày một trở nên căng thẳng thay vì được giải quyết. Tòa Trọng tài Nam Hải chính là một ví dụ tồi tệ điển hình như thế. Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần thể hiện rõ lập trường không chấp nhận và không tham gia Tòa Trọng tài Nam Hải cũng như lập trường không chấp nhận và không công nhận các Phán quyết trái luật của Tòa này. Từ góc độ pháp lý, Tòa Trọng tài không có thẩm quyền đưa ra các Phán quyết. Hơn nữa, trong Phán quyết, các chứng cứ của Tòa Trọng tài mang tính một chiều, cùng với các phân tích pháp lý bất nhất, và lập luận tuỳ tiện. Trong rất nhiều kết luận, Tòa Trọng Tài thậm chí còn không thể đưa ra lập luận nào. Nhằm thông tin chính xác và cung cấp hiểu biết đúng đắn về vấn đề này, Hội Luật Quốc tế Trung Quốc đã xuất bản công trình Phán quyết Tòa Trọng tài Nam Hải : Một nghiên cứu phê phán (The South China Sea Arbitration Awards : A Critical Study) vào tháng 5 năm 2018, trong đó liệt kê các sai sót nghiêm trọng trong Phán quyết và chứng minh tính chất trái luật và vô hiệu của nó. Nghiên cứu Phê phán (bản tiếng Trung và tiếng Anh) nói trên hiện đang đăng trên website của Hội Luật Quốc tế Trung Quốc và Tạp chí Trung Hoa về Luật Quốc tế (Chinese Journal of International Law) (2018, ấn bản 2), nếu ngài muốn tham khảo.

3. Các vấn đề xoay quanh tranh chấp biển giữa Việt Nam và Trung Quốc rất phức tạp. Phương thức giải quyết đúng đắn không chỉ đòi hỏi sự tuân thủ luật pháp quốc tế mà còn, quan trọng hơn hết, sự thông thái và kiên trì chính trị. Các nỗ lực chung của Trung Quốc và Việt Nam đã tạo ra các tiền lệ tốt và là vốn kinh nghiệm phong phú trong việc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán và tham vấn song phương. Vào tháng 12 năm 2000, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Hiệp định Phân định Lãnh hải, Vùng Đặc quyền Kinh tế và Thềm Lục địa tại Vịnh Bắc Bộ. Tới năm 2008, Trung Quốc và Việt Nam thông qua đàm phán song phương đã giải quyết hết các tranh chấp về biên giới trên đất liền. Trên thực tế, giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và phân định biển thông qua đàm phán song phương không chỉ là lập trường nhất quán của riêng Chính phủ Trung Quốc, mà còn là nhận thức của hầu hết các Quốc gia, bao gồm Việt Nam. Thỏa thuận về Những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa xã Hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định rõ ràng rằng, đối với các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, hai bên sẽ chỉ giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Quan điểm này cũng được phản ánh đầy đủ trong Tuyên bố về cách Ứng xử của các bên trên Nam Hải.

Biển cả rộng lớn và bao trùm. Nó nên là sợi dây liên kết giữa các bên, hơn là trở thành một vật cản chia cách nhau. Chúng tôi vui mừng được chứng kiến lần rà soát thứ nhất bản dự thảo Bộ Quy tắc Ứng xử Nam Hải đã được hoàn thành ; điều này cho thấy việc đạt được hòa bình và ổn định là mục tiêu chung của mọi Quốc gia ven Nam Hải. Những cuộc đối thoại và thảo luận giữa Hội luật Quốc tế Việt Nam và Trung Quốc, hai tổ chức học thuật nghiên cứu luật quốc tế, không đại diện cho chính phủ mỗi bên, nhưng chúng ta có thể đẩy mạnh trao đổi về các vấn đề trên Nam Hải, cụ thể, về dàn xếp tạm thời trước phân định biển, hợp tác phát triển chung tại Nam Hải cũng như các hình thức hợp tác trên biển khác, nhằm mang lại hòa bình và ổn định trên Nam Hải và quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam. Đến đây, tôi xin trân trọng được mời ngài và các thành viên khác của Hội Luật Quốc tế Việt Nam đến thăm Trung Quốc ở một thời điểm phù hợp nhất đối với cả đôi bên.

Huang Jin

(đã ký)

Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Trung Quốc

—————

Thư của Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam trả lời thư ngày 19/09/2019 của Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc (bản tiếng Anh)

Ngày 29/10/2019

Kính gửi : Giáo sư Hoàng Tiến,

Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc

Trước tiên tôi cám ơn Giáo sư và các thành viên Hội Luật quốc tế Trung Quốc (CSIL) đã có Thư phản hồi Thư ngỏ của Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL) gửi CSIL liên quan đến những vi phạm của nhóm tàu Hải Dương 8 tại khu vực biển hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Trên tinh thần nghiêm túc, khách quan khoa học, tôn trọng sự khác biệt quan điểm giữa chúng ta về các vấn đề pháp lý và cả các khía cạnh chính trị liên quan đến tranh chấp giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc tại Biển Đông, tôi xin phản biện lại những ý kiến mà Giáo sư đã nêu ra trong Thư ngày 19/9/2019 như sau :

1. Trong Thư trả lời, Giáo sư phê phán tôi "lảng tránh" đề cập đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa và cho rằng vấn đề đó "phải được giải quyết trước tiên". Đây là một sự hiểu lầm hoàn toàn.

Thứ nhất, như tôi đã nhấn mạnh trong Thư ngỏ ngày 24/8/2019, vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa không phải là chủ đề chính của Thư ngỏ. Lý do rất rõ ràng và không thể hiểu khác được, điều mà tôi cũng sẽ làm rõ dưới đây, đó là vấn đề chủ quyền đối với quần đảo này không hề có sự liên quan gì, cả về pháp lý hay địa lý đối với khu vực biển nơi Trung Quốc đang có những hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.

Thứ hai, như tôi đã đề cập trong Thư ngỏ ngày 24/8/2019, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa "đã được Chính phủ Việt Nam khẳng định nhiều lần". Khẳng định của Chính phủ Việt Nam là dựa trên những chứng cứ lịch sử – pháp lý vững chắc như đã được trình bày trong các Sách trắng về Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, xuất bản trong các năm 1975, 1979, 1981, 1988. Chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng đã được nhiều luật gia, sử gia quốc tế phân tích và công nhận, ví dụ như cuốn sách "Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands" của Giáo sư Luật quốc tế người Pháp Monique Chemillier-Gendreau xuất bản lần đầu bằng tiếng Pháp năm 1986 (bản dịch tiếng Anh năm 2000), hay cuốn sách "The South China Sea. The Struggle for Power in Asia" của nhà nghiên cứu người Anh Bill Hayton xuất bản năm 2014.

Thứ ba, tôi hoàn toàn không thể đồng ý với việc Giáo sư cho rằng từ những năm 1970’ Việt Nam "từng bước chiếm đóng một cách phi pháp một số đảo và bãi ngầm" thuộc quần đảo Trường Sa và đó là "nguyên nhân gây ra tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam".

Từ thế kỷ 17, các Chúa Nguyễn đã thực thi chủ quyền của Việt Nam thông qua việc cử các đội Hoàng Sa – Bắc Hải ra khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tiếp theo, các Hoàng đế Nhà Nguyễn đã cử các đội hải quân ra vẽ bản đồ, cắm cột mốc chủ quyền trên hai quần đảo này… Trong giai đoạn chủ nghĩa thực dân thống trị, nước Pháp thay mặt cho Việt Nam quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Việt Nam Cộng hòa tiếp quản và quản lý hai quần đảo này từ nước Pháp theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Việc tiếp quản quần đảo Trường Sa vào Mùa Xuân 1975 và những hoạt động bình thường của Việt Nam trong khu vực quần đảo Trường Sa sau khi đất nước đã hòa bình, thống nhất là hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế và không có một quốc gia nào phản đối, kể cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, thì sao có thể nói là "phi pháp" được.

Ngược lại, vào các năm 1974 và 1988, với những hành động bị luật quốc tế nghiêm cấm, phía Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng một số đảo và thực thể (đảo đá, bãi cạn) trong khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc chiếm đóng, rồi từ đó đến nay, từng bước xây dựng các đảo nhân tạo và quân sự hóa một cách bất hợp pháp một số đảo đá và bãi cạn thuộc khu vực quần đảo Trường Sa mới chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình căng thẳng, đe doạ hòa bình và ổn định tại Biển Đông và trong khu vực. Chẳng lẽ những hành động bị các quốc gia trên thế giới và Việt Nam lên án đó lại có thể gọi là hợp pháp và tạo thành cơ sở cho phía Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo và rồi sử dụng nó để đòi hỏi một vùng biển rộng lớn chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS).

2. Tôi đồng ý với việc nhấn mạnh "nguyên tắc chấp thuận" của quốc gia trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế và nguyên tắc "đất thống trị biển" để xác định các quyền trên biển của quốc gia mà Giáo sư nêu trong phần 2 Thư trả lời. Nhưng sự đồng ý đó không thể làm cho tôi chia sẽ những luận giải của Giáo sư về hai nguyên tắc này.

Thứ nhất, với việc từ chối tham gia vụ kiện trọng tài Biển Đông với Philippines và tuyên bố không công nhận giá trị ràng buộc của Phán quyết của Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS, chính phía Trung Quốc đã vi phạm nguyên tắc chấp thuận mà quốc gia với tư cách là thành viên UNCLOS cần tuân thủ. Bằng việc phê chuẩn UNCLOS, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã thể hiện sự chấp thuận của quốc gia mình đối với các nghĩa vụ pháp lý quốc tế được quy định trong Công ước, bao gồm việc chấp nhận thủ tục tài phán bắt buộc, công nhận và thực hiện Phán quyết mang tính chất chung thẩm và ràng buộc ngày 12/7/2016 mà Tòa Trọng tài đã tuyên.

Thứ hai, liên quan đến việc áp dụng "nguyên tắc đất thống trị biển", Tòa Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông, trên cơ sở phân tích một cách khách quan và khoa học, đã đưa ra kết luận rằng không có bất kỳ thực thể luôn nổi nào tại khu vực quần đảo Trường Sa đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 121 UNCLOS để có quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của riêng mình. Điều này có nghĩa rằng các thực thể luôn nổi thuộc quần đảo này chỉ có thể có tối đa lãnh hải 12 hải lý. Các thực thể giữa biển, nằm dưới mặt nước biển khi thủy triều lên không phải là đảo, không có vùng biển xung quanh.

Hơn nữa, Tòa Trọng tài cũng đưa ra kết luận rằng không một quốc gia nào có quyền yêu sách vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh quần đảo Trường Sa và xem quần đảo Trường Sa là một thực thể đơn nhất có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng, vì nhóm đảo này không đáp ứng các điều kiện để có đường cơ sở quần đảo theo quy định tại Điều 47 của UNCLOS hoặc đường cơ sở thẳng theo quy định tại Điều 7. Khu vực mà Trung Quốc gọi là "Bãi Vạn An" hoàn toàn chìm dưới mặt nước biển, thuộc thềm lục địa Việt Nam và không liên quan gì đến quần đảo Trường Sa, nơi các thực thể không có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế như Tòa Trọng tài đã phán xử.

Như vậy, việc tồn tại tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa không thể dẫn đến việc phát sinh bất kỳ sự chồng lấn nào giữa vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được tính từ bờ biển lục địa của Việt Nam, với lãnh hải của bất kỳ thực thể luôn nổi nào thuộc quần đảo Trường Sa. Nói một cách khác, "nguyên tắc đất thống trị biển" mà Giáo sư nêu ra không có "đất" để áp dụng cũng như không có vùng biển chồng lấn để giải quyết.

Để biến Biển Đông thành "sự kết nối tất cả các bên" như Giáo sư đề xuất, thì mỗi bên khi tiến hành những hoạt động trên biển phải tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của các bên đối tác khác, trân trọng lịch sử quan hệ hữu nghị mà các bên đã dày công vun đắp và tuyệt đối tuân thủ luật quốc tế.

3. Liên quan đến hai văn kiện chính trị song phương và đa phương là "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" và "Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc" (DOC), tôi cho rằng "đàm phán và hiệp thương hữu nghị" là biện pháp ưu tiên trong việc giải quyết hòa bình mọi tranh chấp, bất đồng giữa các quốc gia. Là một cựu quan chức của Bộ Ngoại giao Việt Nam và đã nhiều năm tham gia đàm phán với Trung Quốc về vấn đề biên giới lãnh thổ, bao gồm cả tranh chấp Biển Đông, tôi thành tâm mong muốn hai nước chúng ta có thể thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị để giải quyết các tranh chấp bất đồng còn tồn tại. Tuy nhiên, với tư cách là một chuyên gia luật quốc tế, tôi có thể khẳng định rằng không có bất kỳ nội dung nào trong hai văn kiện này, cũng như trong bất kỳ thoả thuận nào giữa Việt Nam và Trung Quốc có thể được giải thích như là sự hạn chế quyền của mỗi nước chúng ta được tự do lựa chọn bất kỳ biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp nào khác đã được luật pháp quốc tế công nhận và cho phép một cách rõ ràng, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc (Điều 33) và UNCLOS.

Cuối cùng, tôi có một niềm tin vững chắc là các cuộc trao đổi khoa học nghiêm túc, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau sẽ góp phần làm cho nhân dân hai nước và cộng đồng quốc tế có cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về nguyên nhân cũng như biện pháp giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay trên Biển Đông. Là hai tổ chức phi chính phủ, CSIL và VSIL không thể thay mặt cho chính phủ. Nhưng với vai trò là hai tổ chức tập hợp các chuyên gia và giới nghiên cứu về luật quốc tế, tôi tin rằng thông qua những cuộc trao đổi quan điểm một cách khoa học và khách quan, CSIL và VSIL có thể có những đóng góp tích cực vào việc vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, xây dựng niềm tin, củng cố hòa bình, ổn định trên Biển Đông và trong khu vực, đáp ứng lòng mong đợi của tất cả các quốc gia trên thế giới.

Tôi chân thành cám ơn lời mời thăm Trung Quốc vào thời điểm thích hợp cho cả hai bên của Giáo sư. Tôi cũng hân hạnh được mời Giáo sư và các thành viên CSIL sang thăm Việt Nam vào thời gian Giáo sư có thể thu xếp được. Tôi nhất trí với Giáo sư về việc hai Hội chúng ta có thể cùng nhau tổ chức các cuộc tọa đàm hoặc hội thảo về những vấn đề pháp lý quốc tế trên Biển Đông mà hai bên cùng quan tâm và đề nghị hai Hội nên sớm thực hiện việc này.

Xin gửi tới Giáo sư và tất cả các thành viên CSIL lời chào trân trọng.

Nguyễn Bá Sơn

Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam

*****************

Tứ Sa : Chiến thuật pháp lý mới của Trung Quốc ở Biển Đông

Nguyễn Thị Lan Anh, Nghiên cứu quốc tế, 21/06/2018

Tháng 9/2017, báo chí quốc tế đưa tin về lập luận có tên gọi "Tứ Sa" do Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế của Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiết lộ. Theo đó, Tứ Sa được thông báo là một trong các chủ đề của cuộc đối thoại song phương về luật biển giữa Bộ Ngoại giao Trung Quốc và Bộ Ngoại giao Mỹ vào tháng 8/2017. Quan chức Mỹ tham dự phiên đối thoại bày tỏ sự ngạc nhiên về chiến thuật mới của Trung Quốc nhằm kiểm soát Biển Đông và cho rằng nội dung này không được thảo luận trong đối thoại. Trong khi đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ từ chối bình luận về các cuộc thảo luận ngoại giao và nhắc lại lập trường lâu năm của Mỹ rằng nước này không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền đối với các đảo tại Biển Đông.

hoi2

Tàu hải giám Trung Quốc - Ảnh minh họa

Tuy nhiên, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ cũng nhấn mạnh rằng Mỹ có quan điểm rõ ràng và nhất quán rằng các yêu sách biển của tất cả các bên ở Biển Đông và trên thế giới cần được xác định phù hợp với luật biển quốc tế, theo quy định của Công ước Luật biển 1982 của Liên Hợp Quốc (UNCLOS).1 Lập luận Tứ Sa của Trung Quốc bao gồm những nội hàm gì, tại sao lại được đăng tải trên báo chí quốc tế với những nhận định trái chiều và dẫn tới phản ứng của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ như vậy ? Bài viết sẽ tập trung giới thiệu về nguồn gốc, nội hàm của Tứ Sa, đánh giá Tứ Sa dưới góc độ pháp luật quốc tế và tính toán chiến lược của Trung Quốc tại Biển Đông.

Nguồn gốc và nội hàm Tứ Sa

Trung Quốc coi Tứ Sa gồm bốn nhóm đảo Đông Sa, Trung Sa, Tây Sa (tức Hoàng Sa, Trung Quốc đang chiếm giữ trái phép của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam).

Đông Sa có tên gọi quốc tế là Pratas, là nhóm đảo không có dân cư sinh sống, nằm cách Hồng Kong 211 hải lý về phía Nam và cách 240 hải lý về phía Tây Nam của Cao Hùng (Đài Loan). Đông Sa hiện do Đài Loan kiểm soát. Tại đó, Đài Loan đã xây dựng đường băng, cột mốc chủ quyền và công viên biển.

Trung Sa có tên gọi quốc tế là Macclesfield, là một nhóm bãi chìm, không bao gồm Hoàng Nham/Scarborough. Tuy nhiên, Trung Quốc cho rằng Hoàng Nham/Scarborough cũng thuộc Trung Sa.2

Hoàng Sa là nhóm đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Sau khi kiểm soát nhóm đảo An Vĩnh thông qua hành động rải giáp quân Nhật sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, Đài Loan đã chuyển giao trái phép nhóm đảo này cho Trung Quốc vào năm 1956. Đồng thời, Trung Quốc tiếp tục dùng vũ lực bất hợp pháp chiếm đóng nhóm đảo Lưỡi Liềm vào năm 1974. Năm 1996, Trung Quốc tiếp tục vẽ đường cơ sở thẳng bất hợp pháp bao quanh toàn bộ các thực thể của Hoàng Sa.

Trường Sa là nhóm đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trung Quốc đã sử dụng vũ lực bất hợp pháp, lần đầu tiên chiếm đóng một số cấu trúc tại Trường Sa năm 1988. Sau đó, năm 2013, Trung Quốc đã tiến hành cải tạo, xây dựng và quân sự hóa trái phép các cấu trúc này thành các đảo nhân tạo, có các cầu cảng, đường băng và lắp đặt các thiết bị, công trình quân sự trên tổng diện tích lên tới 3.200 hecta.3

Việc nhóm các cấu trúc tại Biển Đông không phải là một lập luận mới, mà đã được Trung Quốc sử dụng trong Tuyên bố về chiều rộng lãnh hải năm 1958. Theo đó, sau khi xác định chiều rộng 12 hải lý với lãnh hải đất liền, Trung Quốc đã tuyên bố xác định lãnh hải 12 hải lý với các nhóm đảo ngoài khơi được ngăn cách với đất liền bởi biển cả, bao gồm bốn nhóm đảo như trên.4 Tuy nhiên, tại thời điểm này, ngoài việc nêu tên bốn nhóm đảo, Trung Quốc chưa xác định phạm vi cũng như chưa xác định đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải cho các nhóm đảo này.

Tháng 6/2012, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã tuyên bố sáp nhập Trung Sa, Hoàng Sa và Trường Sa vào thành phố Tam Sa nhằm củng cố việc quản lý và phát triển của Trung Quốc với ba nhóm đảo này và các vùng nước phụ cận có diện tích lên tới 2 triệu km2.5 Giới hạn cụ thể của vùng nước trực thuộc Tam Sa cũng chưa được Trung Quốc xác định rõ, nhưng nhiều khả năng Trung Quốc muốn ám chỉ vùng nước bên trong đường chín đoạn.

Như vậy, từ lâu Trung Quốc đã có những tính toán và tham vọng chiếm đóng toàn bộ các cấu trúc và vùng biển rộng lớn tại Biển Đông và lập luận Tứ Sa được tiếp tục đưa ra nhằm củng cố mục tiêu này. Ngoài ra, Tứ Sa cũng có thể được sử dụng để biện minh cho các yêu sách thiếu cơ sở pháp lý của Trung Quốc sau khi đã có các kết luận rõ ràng của phán quyết trọng tài trong vụ kiện giữa Phi-líp-pin và Trung Quốc vào năm 2016. Với mục tiêu đó, nội hàm của Tứ Sa gồm hai thành tố thể hiện yêu sách chủ quyền với các nhóm đảo và chủ quyền đối với vùng biển.

hoi3

Bản đồ minh họa chiến thuật Tứ Sa của Trung Quốc tại Biển Đông6

Ở góc độ yêu sách chủ quyền, thông qua Tứ Sa, Trung Quốc tái khẳng định yêu sách chủ quyền với bốn nhóm đảo Đông Sa, Trung Sa, Hoàng Sa và Trường Sa. Mặc dù tên gọi của các nhóm đảo này đã từng được Trung Quốc sử dụng nhưng phạm vi của từng nhóm đảo chưa từng được Trung Quốc xác định cụ thể.

Ở góc độ yêu sách vùng biển, Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế Trung Quốc nêu rõ với báo chí hai loại vùng biển mà Trung Quốc yêu sách từ Tứ Sa gồm vùng lãnh hải lịch sử và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý.7 Trung Quốc chưa công bố chi tiết đường cơ sở để xác định chiều rộng lãnh hải cho Tứ Sa. Tuy nhiên, từ tuyên bố năm 1996 về đường cơ sở của Hoàng Sa, có thể dự đoán, Trung Quốc sẽ tiếp tục thiết lập các đường cơ sở tương tự, bao quanh các cấu trúc thuộc các nhóm đảo, nhằm tối đa hóa yêu sách vùng biển từ Tứ Sa. Từ đường cơ sở đó, Trung Quốc sẽ yêu sách vùng lãnh hải lịch sử và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý cho cả bốn nhóm đảo. Thông tin đưa ra không đề cập đến yêu sách thềm lục địa, tuy nhiên, khi đã yêu sách vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý thì không loại trừ Trung Quốc sẽ tiếp tục yêu sách thềm lục địa từ Tứ Sa.

Đánh giá lập luận Tứ Sa của Trung Quốc từ góc độ pháp lý quốc tế

Đối với yêu sách chủ quyền, lập luận Tứ Sa của Trung Quốc sai về phạm vi và cơ sở pháp lý của một yêu sách chủ quyền theo luật quốc tế.

Về phạm vi, mặc dù yêu sách của Trung Quốc không xác định rõ phạm vi của từng nhóm đảo trong Tứ Sa, việc khoanh vùng toàn bộ các cấu trúc tương tự như cách xác định đường cơ sở của Hoàng Sa cho thấy Trung Quốc muốn đưa ra yêu sách chủ quyền với tất cả các cấu trúc trên biển, cho dù đó là các cấu trúc chìm, hoặc các cấu trúc lúc nổi lúc chìm nằm ngoài phạm vi 12 hải lý của đất liền Trung Quốc hoặc một đảo mà Trung Quốc có chủ quyền. Việc Trung Quốc đưa tàu đến tuyên thệ, yêu sách chủ quyền với bãi Tăng Mẫu/James Shoal là một hành động như vậy.8 Trung Quốc cũng yêu sách chủ quyền với bãi Vành Khăn, một bãi cạn lúc nổi lúc chìm nằm trong thềm lục địa của Phi-líp-pin theo kết luận của phán quyết trọng tài trong vụ kiện giữa Phi-líp-pin và Trung Quốc.9 Điều 13 của UNCLOS chỉ cho phép quốc gia ven biển sử dụng bãi cạn lúc nổi lúc chìm làm điểm cơ sở để xác định chiều rộng lãnh hải trong trường hợp bãi cạn đó nằm trong phạm vi 12 hải lý từ đất liền. Phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế trong vụ tranh chấp giữa Ca-ta và Ba-ranh đã khẳng định bãi cạn lúc nổi lúc chìm không có địa vị pháp lý ngang bằng với đất liền và không phải là đối tượng để yêu sách chủ quyền lãnh thổ.10 Phán quyết của Tòa Công lý quốc tế trong vụ tranh chấp về chủ quyền của đảo Pe-đra Bran-ca giữa Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po,11 phán quyết của Tòa Công lý quốc tế trong vụ kiện giữa Ni-ca-ra-goa và Cô-lôm-bi-a12 và phán quyết của Tòa trọng tài trong vụ kiện giữa Phi-líp-pin và Trung Quốc cũng xác nhận không thể yêu sách chủ quyền với bãi cạn lúc nổi lúc chìm.13 Vì vậy, việc Trung Quốc đưa ra yêu sách chủ quyền với các bãi cạn lúc nổi lúc chìm nằm ngoài phạm vi 12 hải lý từ lãnh thổ Trung Quốc là trái với các quy định của pháp luật quốc tế.

Về cơ sở pháp lý của yêu sách chủ quyền, mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định đã phát hiện, đặt tên cho các cấu trúc tại Biển Đông từ thời kỳ cổ đại nhưng không có bằng chứng nào được đưa ra để minh chứng cho hành động thực thi chủ quyền của Trung Quốc với các nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa với tư cách nhà nước. Trên thực tế, chính quyền Trung Quốc không có sự hiện diện tại Hoàng Sa cho tới năm 1956 và 1974. Năm 1956, Trung Quốc có được sự kiểm soát với nhóm đảo An Vĩnh của Hoàng Sa là do Đài Loan chuyển giao. Tuy nhiên, việc kiểm soát của Đài Loan với nhóm đảo này không hợp pháp do dựa vào sự ủy quyền giải giáp quân Nhật sau Chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1974, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực trái với nghĩa vụ của Hiến chương Liên Hợp Quốc để thiết lập sự kiểm soát với nhóm đảo Lưỡi Liềm. Tại Trường Sa, Trung Quốc cũng chỉ thiết lập sự kiểm soát với một số cấu trúc dựa trên hai lần sử dụng vũ lực trái với quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc và tập quán quốc tế vào năm 1988 và 1995 với Việt Nam và Phi-líp-pin. Dựa trên những cơ sở không có căn cứ pháp lý, việc chiếm đóng thực tế không tạo ra danh nghĩa chủ quyền hợp pháp cho Trung Quốc với Hoàng Sa và Trường Sa.

Đối với yêu sách vùng biển, từ cách Trung Quốc thiết lập đường cơ sở với Hoàng Sa năm 1996 có thể thấy có hai phương án Trung Quốc sẽ thiết lập đường cơ sở cho Tứ Sa : (i) bao tất cả các cấu trúc ngoài cùng của từng nhóm đảo hoặc (ii) bao quanh toàn bộ bốn nhóm đảo.Việc xác định đường cơ sở như vậy có thể coi là áp dụng phương pháp đường cơ sở thẳng hoặc đường cơ sở quần đảo. Từ các đường cơ sở này, Trung Quốc tiếp tục yêu sách vùng lãnh hải lịch sử, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, thậm chí thềm lục địa mở rộng cho các nhóm đảo. Lập luận này của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý do áp dụng sai phương pháp xác định đường cơ sở (cho dù là phương pháp đường cơ sở thẳng hay đường cơ sở quần đảo), xác định sai vùng đặc quyền kinh tế và yêu sách sai vùng lãnh hải lịch sử.

Thứ nhất, nếu đường cơ sở của Trung Quốc cho Tứ Sa được vẽ theo phương pháp đường cơ sở quần đảo, khái niệm quần đảo được UNCLOS định nghĩa rõ ràng là một nhóm đảo, bao gồm cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau đến mức tạo thành một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay thừa nhận trong lịch sử.14Các nhóm đảo tại Biển Đông, đặc biệt là Đông Sa và Trung Sa có thể không đủ gắn kết để trở thành quần đảo theo quy định tại Điều 46 của UNCLOS. Cho dù Tứ Sa có thỏa mãn là quần đảo theo định nghĩa của Điều 46 của UNCLOS, chỉ có quốc gia quần đảo mới được sử dụng phương pháp đường cơ sở quần đảo.

Quốc gia quần đảo là quốc gia có lãnh thổ chỉ cấu thành từ các quần đảo. Chỉ có quốc gia quần đảo có thể xác định đường cơ sở quần đảo bằng việc nối các điểm ngoài cùng nhô ra xa nhất của quần đảo với nhau và phải tuân theo những điều kiện nhất định về chiều dài của đoạn cơ sở, cũng như tỷ lệ diện tích giữa vùng đất và vùng nước bên trong đường cơ sở quần đảo [1]. Nếu Trung Quốc mượn khái niệm quần đảo được quy định tại UNCLOS để áp dụng cho Tứ Sa, rồi từ đó, áp dụng đường cơ sở quần đảo thì không có cơ sở pháp lý vì Trung Quốc là quốc gia lục địa, không phải quốc gia quần đảo.

Để bỏ qua hạn chế của quốc gia lục địa, Trung Quốc lập luận rằng phương pháp đường cơ sở quần đảo theo quy định tại Điều 47 không chỉ giới hạn cho các quốc gia quần đảo. Trên thực tế, nhiều quốc gia lục địa cũng áp dụng đường cơ sở quần đảo cho các nhóm đảo và tạo thành tập quán quốc tế. Lập luận này không chính xác vì số lượng các quốc gia lục địa áp dụng phương pháp đường cơ sở quần đảo cho các nhóm đảo như vậy rất hạn chế. Trong quá trình đàm phán UNCLOS, vấn đề áp dụng đường cơ sở quần đảo cho nhóm đảo của quốc gia lục địa đã được đề cập và bị bác bỏ [2]. Vì vậy, đây là các thực tiễn áp dụng sai quy định của UNCLOS, không tạo ra tập quán quốc tế như Trung Quốc cố tình diễn giải.

Ngoài ra, cho dù có được áp dụng phương pháp đường cơ sở quần đảo, đường cơ sở ấy phải được thiết lập trên cơ sở tuân thủ các điều kiện về chiều dài của các đoạn cơ sở và tỷ lệ giữa đất và nước trong vùng nước quần đảo theo quy định của Điều 47 của UNCLOS. Theo đó, các đoạn cơ sở có chiều dài không quá 100 hải lý (chỉ có 3% tổng số đoạn cơ sở có thể có chiều dài vượt quá 100 hải lý nhưng không được vượt quá 125 hải lý). Tỷ lệ tổng diện tích các đảo so với tổng diện tích vùng nước nằm trong đường cơ sở quần đảo phải nằm trong khoảng tỷ lệ từ 1:1 đến 1:9. Với diện tích nhỏ và vị trí nằm rải rác cách xa nhau trên một phạm vi vùng biển rộng lớn, không có nhóm đảo nào của Tứ Sa có thể thỏa mãn được điều kiện này [3]. Vẽ đường cơ sở quần đảo cho tổng thể cả bốn nhóm đảo của Tứ Sa càng không thể thỏa mãn điều kiện này.

Thứ hai, nếu lập luận rằng đường cơ sở Trung Quốc áp dụng là đường cơ sở thẳng, cơ sở để áp dụng phương pháp đường cơ sở thẳng theo quy định tại Điều 7 của UNCLOS là bờ biển khúc khuỷu, khoét sâu, lồi lõm, có chuỗi đảo nằm sát và chạy dọc ven bờ. Các cấu trúc địa lý của các nhóm đảo thuộc Tứ Sa không hội tụ đủ các điều kiện để vẽ đường cơ sở thẳng bao toàn bộ các thực thể như vậy. Khi đánh giá về đường cơ sở của Hoàng Sa do Trung Quốc công bố vào năm 1996, Bộ Ngoại giao Mỹ đã khẳng định nhiều khu vực của Hoàng Sa không đủ điều kiện vẽ đường cơ sở thẳng mà phải áp dụng đường cơ sở thông thường theo ngấn nước thủy triều thấp nhất [4]. Tại Phán quyết của Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện giữa Phi-líp-pin và Trung Quốc năm 2016, Tòa Trọng tài đã khẳng định việc vẽ đường cơ sở thẳng bao trùm toàn bộ các cấu trúc địa lý của Trường Sa là không phù hợp với các quy định của UNCLOS [5]. Kết luận này có thể áp dụng tương tự để loại trừ khả năng Trung Quốc áp dụng đường cơ sở thẳng cho từng nhóm đảo khác trong Tứ Sa và áp dụng một đường cơ sở thẳng chung cho Tứ Sa.

Thứ ba, các cấu trúc địa lý ở Biển Đông có chung đặc điểm địa lý là các cấu tạo san hô, có diện tích nhỏ và với các điều kiện tự nhiên nguyên sơ ban đầu, không có khả năng cho con người sinh sống và không có đời sống kinh tế riêng. Chính vì vậy, Phán quyết của Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện giữa Phi-líp-pin và Trung Quốc năm 2016 đã khẳng định các cấu trúc địa lý của Trường Sa và Scarborough/Hoàng Nham không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng [6]. Với đặc điểm tự nhiên tương đồng, kết luận này của Tòa trọng tài nhiều khả năng có thể áp dụng với các nhóm đảo khác trong lập luận Tứ Sa, bao gồm Hoàng Sa và Đông Sa (Pratas). Vì vậy, yêu sách vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý cho Tứ Sa, trong đó có Trường Sa, đi ngược lại kết luận của Tòa Trọng tài có giá trị pháp lý ràng buộc với Trung Quốc trong vụ kiện với Phi-líp-pin năm 2016.

Cuối cùng, việc yêu sách vùng lãnh hải lịch sử của Trung Quốc cũng thiếu cơ sở pháp lý. Phán quyết của Tòa Trọng tài trong vụ kiện giữa Phi-líp-pin và Trung Quốc đã tổng hợp các khả năng yêu sách danh nghĩa lịch sử của một quốc gia bao gồm vùng nước lịch sử, vịnh lịch sử và quyền lịch sử. Trung Quốc không yêu sách các danh nghĩa lịch sử này mà lại đưa ra yêu sách lãnh hải lịch sử, một khái niệm chưa có tiền lệ trong luật quốc tế. Tuy nhiên, cho dù Trung Quốc có thể áp dụng khái niệm lãnh hải lịch sử, tương tự như các danh nghĩa lịch sử khác, việc thiết lập lãnh hải lịch sử phải thỏa mãn hai điều kiện : (i) việc thực thi chủ quyền liên tục của Trung Quốc tại khu vực được coi là lãnh hải lịch sử và (ii) sự công nhận (công khai hoặc ngầm định) của các nước liên quan. Nếu Trung Quốc có ý định thiết lập lãnh hải lịch sử tại Tứ Sa trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, thì Việt Nam đã liên tục phản đối các hành động phi pháp của Trung Quốc. Đồng thời, Mỹ và nhiều quốc gia khác cũng đã liên tục thực hiện các hoạt động tự do hàng hải (bao gồm cả quyền qua lại không gây hại qua các vùng lãnh hải) tại Biển Đông nhằm thể hiện rõ lập trường yêu cầu Trung Quốc tôn trọng quyền tự do hàng hải và hàng không [7]. Đây rõ ràng thể hiện sự phản đối của các quốc gia với việc Trung Quốc thiết lập đường cơ sở và lãnh hải nói chung cho Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng và Tứ Sa nói chung. Sự phản đối này sẽ khiến trong yêu sách lãnh hải lịch sử của Trung Quốc không đáp ứng được yêu cầu cần có sự công nhận của các quốc gia khác và do vậy không có cơ sở theo luật pháp quốc tế.

Tứ Sa nhìn từ góc độ chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông

Tương tự như việc ban hành Dự thảo Luật an toàn hàng hải và lệnh cấm đánh bắt cá, Chiến thuật Tứ Sa của Trung Quốc cũng dựa trên việc diễn giải tùy tiện luật pháp quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu kiểm soát toàn bộ các cấu trúc và vùng biển ở Biển Đông.

Việc tái khẳng định yêu sách chủ quyền thiếu cơ sở pháp lý với các nhóm đảo của Tứ Sa với phạm vi yêu sách mập mờ để ngỏ cho khả năng Trung Quốc tùy tiện sáp nhập các cấu trúc mới vào bốn nhóm đảo này. Việc coi Scarborough/Hoàng Nham thuộc Trung Sa và Luconia thuộc Trường Sa là một ví dụ minh họa cho việc Trung Quốc không ngừng mở rộng yêu sách với các cấu trúc nằm gần với bờ biển thuộc các quốc gia ven biển ở Biển Đông. Hơn nữa việc không công bố phạm vi cụ thể của các nhóm đảo cũng khiến Trung Quốc mở rộng yêu sách chủ quyền với các cấu trúc chìm, hoặc cấu trúc lúc nổi lúc chìm (nằm ngoài phạm vi 12 hải lý của một vùng lãnh thổ hoặc đảo), vốn được luật quốc tế xác định là không thuộc đối tượng của thụ đắc lãnh thổ.

Việc đưa ra yêu sách lãnh hải lịch sử và vùng đặc quyền kinh tế cho Tứ Sa một lần nữa thể hiện sự đánh tráo các khái niệm của UNCLOS về quần đảo, đường cơ sở quần đảo, đường cơ sở thẳng, lãnh hải, danh nghĩa lịch sử, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa với sự diễn giải tùy tiện của Trung Quốc để biện minh cho việc mở rộng yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển tại Biển Đông. Đây cũng là chiến thuật Trung Quốc sử dụng nhằm tạo ra "vỏ bọc" tuân thủ UNCLOS nhưng thực chất là tìm cách hợp pháp hóa yêu sách phi pháp đường lưỡi bò, yêu sách đã bị Tòa trọng tài phản bác trong vụ kiện giữa Phi-líp-pin và Trung Quốc [8].

Xét về phạm vi, các vùng biển được coi là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Tứ Sa sẽ tạo ra vùng biển rộng lớn, thậm chí lớn hơn vùng biển bên trong đường lưỡi bò của Trung Quốc tại Biển Đông. Xét về bản chất, việc yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa sẽ đánh lừa dư luận, ngụy tạo cơ sở cho Trung Quốc yêu sách tài nguyên thiên nhiên sinh vật và phi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định phù hợp với UNCLOS của các nước ven Biển Đông. Từ đó, Trung Quốc mưu toan biến toàn bộ Biển Đông thành các vùng biển có tranh chấp và ép các nước hợp tác cùng khai thác tài nguyên với Trung Quốc.

Tứ Sa từ góc độ chiến lược và pháp lý quốc tế thực chất là chiêu bài "bình mới rượu cũ", thay đổi chiến thuật, mượn ngôn ngữ của UNCLOS để diễn giải sai lệch nhằm phục vụ cho mục tiêu không đổi của Trung Quốc là kiểm soát Biển Đông. Động thái Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế tiết lộ với báo giới có thể coi như bước thử dư luận quốc tế về chiến thuật này, từ đó, nếu dư luận quốc tế không lên tiếng, Trung Quốc sẽ viện dẫn như sự ngầm thừa nhận của cộng đồng quốc tế với yêu sách của Trung Quốc. Do vậy, không ngạc nhiên khi một mặt nhấn mạnh không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, nhưng người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ đã nhấn mạnh lại nguyên tắc rằng yêu sách biển của tất cả các bên ở Biển Đông và trên thế giới cần được xác định phù hợp với luật biển quốc tế, theo quy định của Công ước Luật biển 1982 của Liên Hợp Quốc (UNCLOS). Đây cũng là quan điểm mà cộng đồng quốc tế cần lên tiếng để ngăn chặn các hành động bất chấp luật pháp quốc tế, đưa ra các yêu sách chủ quyền và vùng biển không có cơ sở pháp lý, làm tổn hại đến trật tự dựa trên luật pháp quốc tế hiện hành./.

Nguyễn Thị Lan Anh

Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Học viện Ngoại giao, Số 1 (112) Tháng 3/2018.

Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 21/06/2018

Nguyễn Thị Lan Anh, Phó Giáo sư Tiến sĩ Phó Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao Việt Nam. Quan điểm trong bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả.

Tài liệu tham khảo :

1) Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

2) Bill Gertz, "Beijing Adopts New Tactic for S. China Sea Claims". The Washington Free Beacon, ngày 21/09/2017. 

3) Zou Keyan, "Scarbourough Reef : A new Flashpoint in Sino-Philippine Relations ?", IBRU Boundary and Security Bulletin (1999).

4) CSIS, "China Island Tracker", Asia Maritime Transparency Initiative

5) Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải của Trung Quốc (4/9/1958), xem nguyên gốc văn bản tại Dự án Nghiên cứu Biển Đông. "Declaration of the Government of the People’s Republic of China on China’s Territorial Sea (4/9/1958)". 10/8/2016. 

6) "China’s Shansha start forming government". Tân Hoa Xã, 17/07/2012. 

7) Ba Hamzah, "China’s James Shoal Claim : Malaysia the Undisputed Owner". RSIS Commentary, 01/07/2014. 

8) Phán quyết về nội dung của Tòa trọng tài thành lập theo quy định của Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện Phi-líp-pin với Trung Quốc, 12/7/2016.

9) Maritime Delimitation and Territorial Questions between Qatar and Bahrain, Merits, Judgement, ICJ Reports 2001.

10) Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment, ICJ Reports 2008.

11) Territorial and Maritime Dispute (Nicaragua vs. Colombia), Judgment, ICJ Reports 2012.

12) Phán quyết về nội dung của Tòa trọng tài thành lập theo quy định của Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện Phi-líp-pin với Trung Quốc, 12/7/2016.

13) Biên bản chính thức thảo luận UNCLOS III, Doc.A/CONF.62.4/UNCLOSIII, Tập III.

14) Bộ Ngoại giao Mỹ, Báo cáo Các giới hạn trên biển số 117 (1996). 

15) Bộ Quốc phòng Mỹ, Báo cáo thường niên về Tự do Hàng hải năm 2017, 31/12/2017. 

1. Bill Gertz, "Beijing Adopts New Tactic for S. China Sea Claims", The Washington Free Beacon, ngày 21/09/2017.

2. Zou Keyan, "Scarbourough Reef : A new Flashpoint in Sino-Philippine Relations ?", IBRU Boundary and Security Bulletin (1999) : 71.

3. CSIS, "China Island Tracker", Asia Maritime Transparency Initiative

4. Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải của Trung Quốc (4/9/1958), xem nguyên gốc văn bản tại Dự án Nghiên cứu Biển Đông, "Declaration of the Government of the People’s Republic of China on China’s Territorial Sea (4/9/1958)", 10/8/2016.

5. "China’s Shansha start forming government", Tân Hoa Xã, 17/07/2012

6. Bill Gertz, "Beijing Adopts New Tactic for S. China Sea Claims", The Washington Free Beacon, ngày 21/09/2017

7. Bill Gertz, "Beijing Adopts New Tactic for S. China Sea Claims"The Washington Free Beacon, ngày 21/09/2017

8. Ba Hamzah, "China’s James Shoal Claim : Malaysia the Undisputed Owner", RSIS Commentary, 01/07/2014.

9. Phán quyết về nội dung của Tòa trọng tài thành lập theo quy định của Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện Philippines vs. Trung Quốc, 12/7/2016, Đoạn 1030.

10. Maritime Delimitation and Territorial Questions between Qatar and Bahrain, Merits, Judgment, ICJ Reports 2001, tr.40, Đoạn 206.

11. Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment, ICJ Reports 2008, tr.12, Đoạn 299.

12. Territorial and Maritime Dispute (Nicaragua vs. Colombia), Judgment, ICJ Reports 2012, tr.624, Đoạn 26.

13. Phán quyết về nội dung của Tòa trọng tài thành lập theo quy định của Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện Philippines vs. Trung Quốc, 12/7/2016, Đoạn 309.

14. Điều 46(2), UNCLOS.

--------------------

Chú thích :

[1] Điều 47 (1), UNCLOS.

[2] Biên bản chính thức thảo luận UNCLOS III, Doc.A/CONF.62.4/UNCLOSIII, Tập 3 : 81-83.

[3] Trong vụ kiện giữa Phi-líp-pin và Trung Quốc, Tòa trọng tài đã bác bỏ khả năng vẽ đường cơ sở bao quanh Trường Sa có thể đáp ứng được các điều kiện của đường cơ sở quần đảo theo Điều 47 của UNCLOS. Phán quyết về nội dung của Tòa trọng tài thành lập theo quy định của Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện Philippines vs. Trung Quốc, 12/7/2016, Đoạn 574. Trong báo cáo Các giới hạn trên biển số 117 (1996), Bộ Ngoại giao Mỹ cũng bác bỏ khả năng đáp ứng tỷ lệ này của đường cơ sở của Hoàng Sa.

[4] Bộ Ngoại giao Mỹ, Báo cáo Các giới hạn trên biển số 117, năm 1996, tlđd.

[5]Phán quyết về nội dung của Tòa trọng tài thành lập theo quy định của Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện Phi-líp-pin vs. Trung Quốc, 12/7/2016, Đoạn 573-576.

[6] Phán quyết về nội dung của Tòa trọng tài thành lập theo quy định của Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện Phi-líp-pin vs. Trung Quốc, 12/7/2016, Đoạn 646.

[7] Chỉ riêng năm 2017, Mỹ đã thực hiện 4 chiến dịch phản đối trực diện phương pháp xác định đường cơ sở của Trung Quốc ở Hoàng Sa, yêu sách vùng biển ở Trường Sa và Scarborough. Xem chi tiết tại Báo cáo thường niên về Tự do hàng hải năm 2017 của Bộ Quốc phòng Mỹ.

[8] Phán quyết về nội dung của Tòa trọng tài thành lập theo quy định của Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện Phi-líp-pin vs. Trung Quốc, 12/7/2016, Đoạn 278.

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Nguyễn Bá Sơn, Hoàng Tiến, Nguyễn Thị Lan Anh
Read 579 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)