Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

15/11/2020

Chừng nào Việt Nam có tư pháp độc lập ?

Nhiều tác giả

Tố tụng tranh tụng và giấc mơ tư pháp độc lập

Lynn Huỳnh, VNTB, 15/11/2020

Với cách sử dụng ngôn từ hết sức dè dặt, một luật sư chia sẻ với biên tập viên trang Việt Nam Thời Báo, rằng ông luôn mơ ước có được sự tranh tụng tử tế tại những phiên tòa liên quan đến cáo buộc về nhóm tội danh "An ninh quốc gia".

tuphap5

Viết blog, phê bình lãnh đạo Nhà nước là xâm phạm "an ninh quốc gia" ? Ảnh minh họa : Phiên xử 5 thành viên của tổ chức phản động mang tên "Liên minh dân tộc Việt Nam"

Dưới đây là lược ghi ý kiến của vị luật sư ‘hết sức dè dặt’ đó, với ẩn tình liên quan đến yêu cầu phân quyền rạch ròi giữa lập pháp-hành pháp-tư pháp.

So với các nước phát triển, ở Việt Nam, người dân ít được hưởng những thành quả của một nền tư pháp độc lập, vì vậy, việc bảo đảm sự độc lập của Tòa án, đặc biệt là sự độc lập của Thẩm phán là chưa hiệu quả.

Bởi lẽ, sự độc lập thực sự của Tòa án về nguyên tắc chỉ có thể trong bối cảnh có sự phân quyền rõ uan giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Về hình thức, tính độc lập của Tòa án, của các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng đã được quy định trong các bản Hiến pháp, trong hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án và trong các văn bản pháp luật về tố tụng từ trước tới nay, tuy nhiên, trên thực tế, tính độc lập của hệ thống Tòa án và các Thẩm phán ở Việt Nam chưa được bảo đảm đúng như các tiêu chuẩn chung trên thế giới.

Nhìn lại thực trạng hoạt động của hệ thống Tòa án và các cơ uant ư pháp của Việt Nam nói chung, mặc dù đã có những thành tựu rất đáng kể, góp phần không nhỏ trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, nhưng thực tiễn cuộc sống cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

Hoạt động tư pháp của Việt Nam không chỉ bao gồm hoạt động của các cơ quan xét xử, mà còn cả hoạt động của các cơ quan điều tra, công tố và những cơ quan hoạt động hỗ trợ tư pháp khác như : Công chứng, giám định, luật sư… Điều này chứng tỏ chúng ta chưa có sự phân quyền rạch ròi giữa hành pháp và tư pháp.

Trên thực tế, mặc dù nguyên tắc về tính độc lập của Toà án và các Thẩm phán đã được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác, song nó chưa được thực sự tôn trọng và tuân thủ,bởi lẽ, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam vẫn phải theo theo nguyên tắc tập quyền.

Nguyên tắc tập quyền này khó có thể là cơ sở cho sự độc lập của Tòa án và các Thẩm phán bởi nó dẫn đến việc xét xử và ra các bản án, quyết định của Tòa án khó tránh khỏi phụ thuộc vào sự chỉ dẫn và can thiệp của các cơ quan nhà nước khác.

Hơn thế nữa, quá trình xét xử của các Tòa án ở Việt Nam chưa thực sự theo nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng theo nguyên tắc thẩm vấn, xét hỏi, luật sư chỉ đóng vai trò thứ yếu.

Thực tế cho thấy, không hẳn là việc chuyển hoàn toàn sang mô hình tố tụng tranh tụng là phù hợp với điều kiện ở nước ta, song việc duy trì quá lâu mô hình tố tụng buộc tội đang tạo ra sự bất bình đẳng lớn giữa các bên tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử.

Kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án ở nước ta hiện vẫn phụ thuộc chặt chẽ vào các cơ quan nhà nước khác, đồng thời phụ thuộc vào các Tòa án cấp trên. Tình trạng này khiến cho các Tòa án khó tránh khỏi sự tác động của các cơ quan nhà nước khác, cũng như khiến cho các Tòa án cấp dưới khó duy trì sự độc lập xét xử với Tòa án cấp trên.

Việc bổ nhiệm Thẩm phán ở nước ta hiện dựa rất nhiều vào các tiêu chuẩn về chính trị, tư tưởng, trong khi lẽ ra cần nhấn mạnh các tiêu chuẩn về chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.

Nước ta hiện vẫn áp dụng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán theo định kỳ. Các Thẩm phán, mặc dù mức lương có cao hơn so với mức lương chung của các ngành khác, song vẫn thấp so với nhu cầu bảo đảm đời sống và tích lũy cho họ và gia đình. Đây cũng là những yếu tố mà theo kinh nghiệm quốc tế thường có ảnh hưởng lớn đến tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.

Mặc dù ở nước ta, việc phân công Thẩm phán xét xử các vụ việc về nguyên tắc là vấn đề nội bộ quản lý của các Tòa án, tuy nhiên, trong thực tế nguyên tắc này không phải lúc nào cũng được tôn trọng.

Trong hoạt động của các Tòa án, một số quy tắc "bất thành văn" như báo cáo án, thỉnh thị án, duyệt án… vẫn được áp dụng một cách phổ biến, rõ ràng mâu thuẫn với những nguyên tắc và yêu cầu về tính độc lập của Tòa án và của Thẩm phán.

Pháp luật nước ta chưa có những quy định cụ thể về việc giữ bí mật nghề nghiệp và quyền miễn trừ của Thẩm phán. Điều này có thể gây rủi ro cho các Thẩm phán trong hoạt động nghề nghiệp và ảnh hưởng đến việc xét xử độc lập của họ.

Đây cũng là sự bất cập của pháp luật nước ta so với các quy định có liên quan của pháp luật quốc tế. Bởi vậy, muốn cho Tòa án và các Thẩm phán được độc lập trong quá trình xét xử, thì một mặt, cần cụ thể hóa các nguyên tắc đã hiến định trong Hiến pháp năm 2013, mặt khác, cần cụ thể hóa và tôn trọng thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn bằng cách đánh giá đúng vai trò của Tòa án, tạo điều kiện để Tòa án và các cơ uant ư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình một cách độc lập và khách quan và không bị bất kỳ sự can thiệp nào.

Với điều kiện nước ta hiện nay, có lẽ trước hết, cần phải nghiên cứu để cụ thể hóa các nguyên tắc về Tòa án và Thẩm phán độc lập trong quá trình xét xử, đồng thời, tìm ra những biện pháp bảo đảm cho nguyên tắc độc lập được thực hiện trên thực tế. Nghiên cứu và thay đổi các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy, quy chế hoạt động, quan hệ với các cơ quan nhà nước khác… của hệ thống Tòa án để giảm thiểu sự can thiệp, tác động, cả trực tiếp và gián tiếp, của các chủ thể bên ngoài, qua đó bảo đảm tính độc lập thực sự của Tòa án.

Cần có những giải pháp hiệu quả về kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án nhằm bảo đảm các Tòa án không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan nào, kể cả vào các Tòa án cấp trên, về kinh phí hoạt động.

Ở nhiều quốc gia, pháp luật quy định một tỷ lệ phần trăm nhất định ngân sách nhà nước hay ngân sách địa phương đương nhiên phải phân bổ cho hoạt động của Tòa án ; điều này giúp các Tòa án không bị ràng buộc bởi cơ chế "xin-cho" kinh phí, từ đó không phải phụ thuộc vào các cơ quan nhà nước khác hay vào Tòa án cấp trên. Đây có thể là một kinh nghiệm tốt với nước ta.

Lynn Huỳnh

Nguồn : VNTB, 15/11/2020

***********************

Tư pháp độc lập

Triệu Tử Long, VNTB, 14/11/2020

"Đã khẳng định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền thì không còn cách nào khác phải bảo đảm độc lập tư pháp. Hiện độc lập đang hiểu hơi khác nhau. Độc lập với các nhánh quyền lực khác, giữa các cấp xét xử độc lập, độc lập giữa các thẩm phán với nhau. Mọi hoạt động của tòa án đều phải là luật hết, không thể nghị định hay thông tư điều chỉnh được".

Cựu thứ trưởng Bộ Tư pháp, ông Hoàng Thế Liên có ý kiến như trên tại hội nghị góp ý dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, do Tòa án Nhân dân tối cao tổ chức hôm 11/11/2020.

tuphap1

Cựu thứ trưởng Bộ Tư pháp : "Kiểm soát quyền lực để chống lạm quyền, vi phạm quyền dân chủ

Ông Lê Hồng Hạnh, cựu viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, cũng cho rằng Nhà nước và xã hội phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của độc lập tư pháp. Các thể chế bảo đảm độc lập tư pháp không chỉ tác động đến ý thức xã hội mà còn là cơ sở pháp lý để thẩm phán thực thi tính độc lập của mình trong xét xử.

"Dự thảo báo cáo chính trị và một số văn kiện khác cần nhấn mạnh nội dung độc lập xét xử. Tòa án là một thiết chế không thể thiếu trong nhà nước pháp quyền nhưng phải độc lập xét xử. Độc lập trong xét xử và chỉ tuân theo pháp luật phải là điểm nhấn của cải cách tư pháp", ông Hạnh nói.

Theo ông Hạnh, dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII cần làm rõ hơn nội dung về cải cách tư pháp, xác định rõ đây là cải cách hệ thống tòa án theo hướng đảm bảo tính độc lập trong xét xử.

Cải cách tư pháp cần hướng tới các giải pháp đảm bảo tính độc lập của tòa án, trong đó chú trọng đến yêu cầu thượng tôn pháp luật trong quan hệ với tòa án, chống mọi sự can thiệp trái pháp luật tố tụng, trái Hiến pháp năm 2013.

Từ Sài Gòn, luật sư Trịnh Vĩnh Phúc đánh giá về những yêu cầu độc lập tư pháp, bằng một nhận xét mà nhiều ‘thầy cãi’ đồng ý rằng còn ‘xưa hơn Diễm’ : "Báo cáo án – Thỉnh thị án – Chỉ đạo án, tên gọi tuy có khác nhau nhưng nội hàm và bản chất giống nhau".

Lý thuyết trên giảng đường đại học luật ở tiết học của giáo sư Nguyễn Đăng Dung, các sinh viên được nhấn mạnh rằng Tòa án chỉ độc lập khi bản thân các thành viên của Tòa án, tức là thẩm phán, phải độc lập.

Tính độc lập của thẩm phán chính là một trong những yếu tố cơ bản của bộ máy tư pháp độc lập. Nếu các thẩm phán có thể bị chính phủ hành pháp hay các cơ quan chính quyền khác can thiệp, thay đổi nhiệm vụ vào bất kỳ thời điểm nào thì tính độc lập của Tòa án về mặt thể chế không thể đảm bảo.

Thẩm phán chỉ có thể hoàn thành tốt vai trò của mình khi hoàn toàn được độc lập trong hoạt động chuyên môn. Chính hoạt động độc lập chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán là nhằm mục đích bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, tránh mọi sự lợi dụng chức quyền.

Độc lập của thẩm phán phải được hiểu là độc lập trên mọi phương diện (độc lập cả bên trong và lẫn độc lập cả bên ngoài).

Độc lập bên trong của thẩm phán được hiểu là mọi phán quyết của thẩm phán Tòa án cấp dưới không chịu sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên, không bị ảnh hưởng bởi các quan hệ nội bộ, quan hệ đồng nghiệp với nhau.

Các bản án, quyết định phán xét sai, sẽ được xem xét lại theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự, dân sự…

Khi xét xử, thẩm phán không bị phụ thuộc vào các quyết định hoặc kết luận của cơ quan điều tra (độc lập với hồ sơ vụ án), độc lập với kết luận của Viện Công tố (độc lập với cáo trạng và quyết định truy tố của Viện Công tố). Bản án của Tòa án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả phiên tòa, đối chiếu với các quy định của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Vẫn cần phải nhắc lại rằng, độc lập không có nghĩa là chỉ khi xét xử, mà còn phải độc lập trong mọi tình huống liên quan đến vụ việc xét xử cụ thể mà thẩm phán thụ lý.

tuphap2

Tính độc lập của thẩm phán chính là một trong những yếu tố cơ bản của bộ máy tư pháp độc lập.

Thẩm phán không chỉ phải độc lập với bên trong mà còn phải độc lập với bên ngoài, độc lập với các cơ quan, kể cả các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức, cá nhân, đương sự, người thân, bạn bè, quyền lợi tài chính, nhân thân liên quan vụ án, áp lực xã hội…

Thẩm phán không phải chịu bất kỳ sự chỉ đạo, ảnh hưởng nào từ phía họ đối với các phán quyết của mình. Hoạt động xét xử của Tòa án không chỉ dành cho các hành vi vi phạm pháp luật của mỗi cá nhân, kể cả các quan chức cao cấp của nhà nước mà còn mở rộng ra cả hoạt động của các tổ chức, kể cả cơ quan quyền lực nhà nước trung ương…

Như vậy, giả dụ như ai đó có đề xuất rằng cần học hỏi mô hình của "tam quyền phân lập" để có được tư pháp độc lập, thì đó là một ý kiến đáng quan tâm về tính thực tiễn – thay vì vẫn giữ thói quen lâu nay là hễ cứ ai đề xuất "tam quyền phân lập" là người ấy hoài nghi vào sự lãnh đạo của Đảng, nên dứt khoát là phải ‘ra roi’ để trừng trị để tránh mối nguy của thế lực thù địch lợi dụng cho diễn biến hòa bình !

Triệu Tử Long

Nguồn : VNTB, 14/11/2020

*************************

Tổ chức thực hiện quyền hành pháp cần có những thay đổi thích hợp

Nguyễn Nam, VNTB, 13/11/2020

Việt Nam không chấp nhận "tam quyền phân lập", và những vấn đề đặt ra trong việc nhận thức về quyền hành pháp, về triển khai tổ chức thực hiện quyền hành pháp cần có những thay đổi thích hợp.

tuphap3

Hiến pháp năm 2013 bước đầu đặt nền móng cho việc tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam.

Dưới đây là trích ý kiến của ông B.X.Đ., trưởng khoa Luật ở một trường đại học tư thục.

Xác định đúng tính chất vị trí của Chính phủ

Hiến pháp năm 2013 vẫn giữ quy định "Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội" biểu hiện sự quá cẩn trọng, đôi khi lại làm hạn chế tính độc lập của Chính phủ, và không triển khai được lý luận về sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền như chính Hiến pháp đề ra.

Việc Hiến pháp chưa đi đến xác định Chính phủ là "cơ quan hành pháp cao nhất" mà vẫn giữ quy định "Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước", kể cả là cao nhất đi nữa, đã không thể hiện đúng vai trò của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp.

Chỉ khi quy định Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất mới bảo đảm tính độc lập tương đối của Chính phủ, xác định vai trò của Chính phủ trong việc hoạch định và điều hành chính sách của Quốc gia, xác định vị trí trung tâm trong quốc gia của Chính phủ, và cũng là xác định người chịu trách nhiệm chính về sự phát triển của đất nước, tạo cơ sở phát huy hơn nữa tính chủ động, sáng tạo của Chính phủ trong thực thi quyền hành pháp, đặc biệt là tạo cơ sở cho việc hình thành cơ chế kiểm soát của Chính phủ đối với Quốc hội trong việc thực thi quyền lập pháp. Có đủ quyền hành pháp chính là tiền đề để Chính phủ thực hiện nhiệm vụ cơ quan hành chính cao nhất.

Thẩm quyền, trách nhiệm và mối quan hệ qua lại giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với các thiết chế quyền lực khác

Trong quan hệ quyền lực giữa Quốc hội và Chính phủ, mặc dù đã có nhiều đổi mới, tuy vậy vẫn còn những bất cập sau đây :

Một, vấn đề bảo đảm tính độc lập tương đối, tính chủ động, sáng tạo của Chính phủ trong hoạt động quản lý, điều hành.

Một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cho Quốc hội như quyền quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (ở Hiến pháp đã bỏ nhưng Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật vẫn giữ), quyền quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước v.v. đang cản trở tính chủ động, độc lập của Chính phủ.

Hai, vấn đề bảo đảm sự phối hợp, liên đới trách nhiệm cũng như là một hình thức kiểm soát của hành pháp đối với lập pháp của Chính phủ trong hoạt động lập pháp, quyết định chính sách của Quốc hội.

Cần bảo đảm cho Chính phủ chịu trách nhiệm đến cùng đối với Dự thảo dự án, đề án do mình chuẩn bị chứ không như hiện nay sau khi chuyển giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội là hết nhiệm vụ ; sự tham gia sát sao của Chính phủ còn bảo đảm không xảy ra việc có thể lạm dụng quyền lập pháp, làm sai lệch nội dung tư tưởng chính sách trong các dự án mà Chính phủ đã soạn thảo.

Việc kiểm soát này cần được thực hiện cả trong quá trình xem xét, thảo luận, thông qua và sau khi dự luật được thông qua, trước khi được công bố.

Trong quá trình Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật do Chính phủ trình, Hiến pháp cần trao cho Chính phủ quyền khi thấy cần thiết thì được rút lại dự án luật đó để hoàn chỉnh lại, cân nhắc thêm. Nếu dự án, chính sách mà Chính phủ trình không bảo vệ được trước Quốc hội thì phải quy trách nhiệm mà ở nước ngoài gọi là bất tín nhiệm.

Ba, đối với thiết chế Chủ tịch nước, trong lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ dưới hình thức : đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ ; giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, nghe báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội) ; trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ theo đề nghị (trình) của Thủ tướng (khoản 3 Điều 28 Luật tổ chức Chính phủ năm 2015).

Trong cơ chế quyền lực nhà nước nói chung, nguyên thủ quốc gia, thực quyền cũng như hình thức, đều được coi là người đứng đầu hành pháp. Điều đó thể hiện ở quyền của nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm Thủ tướng, quyết định chấp nhận hoặc giải tán Chính phủ.

Bình thường, mọi việc của Chính phủ đều do Thủ tướng điều hành, nhưng khi có vấn đề phát sinh cần có sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia thì nguyên thủ quốc gia sẽ nắm quyền điều hành đối với Chính phủ.

Đối với Chính phủ Việt Nam, mặc dù có những nét đặc thù, nhưng cơ bản vẫn mang những đặc điểm chung đó thể hiện qua việc Chủ tịch nước giới thiệu Thủ tướng để Quốc hội bầu, căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ…

Vậy, cần thể hiện nội dung này theo hướng : bình thường, Chủ tịch nước giao hết cho Thủ tướng (thay mình) điều hành công việc của Chính phủ. Chỉ trong các trường hợp thật cần thiết (chẳng hạn khi Thủ tướng bất lực), Chủ tịch nước sẽ dự họp và khi đó Chủ tịch nước sẽ là người chủ tọa phiên họp.

Bốn, đối với quyền tư pháp, sự tham gia của Chính phủ – hành chính, hành pháp – đối với tư pháp không chỉ có một số công việc về điều tra, thi hành án hình sự như nêu ở trên mà cái căn bản là Chính phủ phải đảm nhận lấy công tác quan trọng lâu này quy định cho một thiết chế độc lập là Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố.

Chức năng công tố, xét về bản chất là thuộc hành pháp, tuy đã được Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp trù liệu chuyển thành Viện Công tố và đưa về hành pháp vẫn chưa thực hiện.

Hiến pháp năm 2013 chưa quy định rõ về sự phân công, phối hợp giữa Chính phủ và cơ quan tư pháp, trong đó đặc biệt là Chính phủ phải nắm quyền công tố thay cho Viện kiểm sát và quyền quản lý hành chính đối với tư pháp.

Tại sao phải như vậy ? Quyền công tố về bản chất là một mặt của quyền hành pháp, không thể tách rời sứ mệnh chính trị của Chính phủ với vị trí là cơ quan thực hành quyền hành pháp. Là hoạt động liên quan trực tiếp quyền và nghĩa vụ của công dân và là công cụ để duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý, điều hành, hành pháp phải nắm quyền công tố là quyền phát hiện, điều tra các hành vi phạm tội và truy tố người phạm tội ra trước tòa án.

Từ đây còn thiết lập cơ chế kiểm soát của cơ quan hành pháp đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp theo các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền hiện đại ; thúc đẩy hơn nữa cải cách tư pháp, hoàn thiện nguyên tắc kiềm chế, đối trọng giữa các cơ quan trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, nhằm bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

Tương tự, trong chức năng của Chính phủ còn có cả việc phải quản lý nhà nước đối với tư pháp là nằm trong vai trò thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Nhà nước.

Về bản chất, quyền quản lý các Tòa án địa phương về cán bộ và cơ sở vật chất là thuộc về hành pháp.

Việc lâu nay giao cho Tòa án nhân dân tối cao – là cơ quan xét xử, không phải cơ quan quản lý – quản lý công tác cán bộ và cơ sở vật chất của các Tòa án địa phương đã tạo ra nguy cơ tách biệt, khép kín của các Tòa án, không bảo đảm nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa hành pháp và tư pháp.

Nguyễn Nam (ghi)

Nguồn : VNTB, 13/11/2020

**************************

Tố tụng tranh tụng và giấc mơ tư pháp độc lập

Lynn Huỳnh, VNTB, 13/11/2020

Với cách sử dụng ngôn từ hết sức dè dặt, một luật sư chia sẻ với biên tập viên trang Việt Nam Thời Báo, rằng ông luôn mơ ước có được sự tranh tụng tử tế tại những phiên tòa liên quan đến cáo buộc về nhóm tội danh "An ninh quốc gia".

tuphap4

Dưới đây là lược ghi ý kiến của vị luật sư ‘hết sức dè dặt’ đó, với ẩn tình liên quan đến yêu cầu phân quyền rạch ròi giữa lập pháp – hành pháp – tư pháp.

So với các nước phát triển, ở Việt Nam, người dân ít được hưởng những thành quả của một nền tư pháp độc lập, vì vậy, việc bảo đảm sự độc lập của Tòa án, đặc biệt là sự độc lập của Thẩm phán là chưa hiệu quả.

Bởi lẽ, sự độc lập thực sự của Tòa án về nguyên tắc chỉ có thể trong bối cảnh có sự phân quyền rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Về hình thức, tính độc lập của Tòa án, của các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng đã được quy định trong các bản Hiến pháp, trong hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án và trong các văn bản pháp luật về tố tụng từ trước tới nay, tuy nhiên, trên thực tế, tính độc lập của hệ thống Tòa án và các Thẩm phán ở Việt Nam chưa được bảo đảm đúng như các tiêu chuẩn chung trên thế giới.

Nhìn lại thực trạng hoạt động của hệ thống Tòa án và các cơ quan tư pháp của Việt Nam nói chung, mặc dù đã có những thành tựu rất đáng kể, góp phần không nhỏ trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, nhưng thực tiễn cuộc sống cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

Hoạt động tư pháp của Việt Nam không chỉ bao gồm hoạt động của các cơ quan xét xử, mà còn cả hoạt động của các cơ quan điều tra, công tố và những cơ quan hoạt động hỗ trợ tư pháp khác như : Công chứng, giám định, luật sư… Điều này chứng tỏ chúng ta chưa có sự phân quyền rạch ròi giữa hành pháp và tư pháp.

Trên thực tế, mặc dù nguyên tắc về tính độc lập của Tòa án và các Thẩm phán đã được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác, song nó chưa được thực sự tôn trọng và tuân thủ,bởi lẽ, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam vẫn phải theo theo nguyên tắc tập quyền.

Nguyên tắc tập quyền này khó có thể là cơ sở cho sự độc lập của Tòa án và các Thẩm phán bởi nó dẫn đến việc xét xử và ra các bản án, quyết định của Tòa án khó tránh khỏi phụ thuộc vào sự chỉ dẫn và can thiệp của các cơ quan nhà nước khác.

Hơn thế nữa, quá trình xét xử của các Tòa án ở Việt Nam chưa thực sự theo nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng theo nguyên tắc thẩm vấn, xét hỏi, luật sư chỉ đóng vai trò thứ yếu.

Thực tế cho thấy, không hẳn là việc chuyển hoàn toàn sang mô hình tố tụng tranh tụng là phù hợp với điều kiện ở nước ta, song việc duy trì quá lâu mô hình tố tụng buộc tội đang tạo ra sự bất bình đẳng lớn giữa các bên tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử.

Kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án ở nước ta hiện vẫn phụ thuộc chặt chẽ vào các cơ quan nhà nước khác, đồng thời phụ thuộc vào các Tòa án cấp trên. Tình trạng này khiến cho các Tòa án khó tránh khỏi sự tác động của các cơ quan nhà nước khác, cũng như khiến cho các Tòa án cấp dưới khó duy trì sự độc lập xét xử với Tòa án cấp trên.

Việc bổ nhiệm Thẩm phán ở nước ta hiện dựa rất nhiều vào các tiêu chuẩn về chính trị, tư tưởng, trong khi lẽ ra cần nhấn mạnh các tiêu chuẩn về chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.

Nước ta hiện vẫn áp dụng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán theo định kỳ. Các Thẩm phán, mặc dù mức lương có cao hơn so với mức lương chung của các ngành khác, song vẫn thấp so với nhu cầu bảo đảm đời sống và tích lũy cho họ và gia đình. Đây cũng là những yếu tố mà theo kinh nghiệm quốc tế thường có ảnh hưởng lớn đến tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.

Mặc dù ở nước ta, việc phân công Thẩm phán xét xử các vụ việc về nguyên tắc là vấn đề nội bộ quản lý của các Tòa án, tuy nhiên, trong thực tế nguyên tắc này không phải lúc nào cũng được tôn trọng.

Trong hoạt động của các Tòa án, một số quy tắc "bất thành văn" như báo cáo án, thỉnh thị án, duyệt án… vẫn được áp dụng một cách phổ biến, rõ ràng mâu thuẫn với những nguyên tắc và yêu cầu về tính độc lập của Tòa án và của Thẩm phán.

Pháp luật nước ta chưa có những quy định cụ thể về việc giữ bí mật nghề nghiệp và quyền miễn trừ của Thẩm phán. Điều này có thể gây rủi ro cho các Thẩm phán trong hoạt động nghề nghiệp và ảnh hưởng đến việc xét xử độc lập của họ.

Đây cũng là sự bất cập của pháp luật nước ta so với các quy định có liên quan của pháp luật quốc tế. Bởi vậy, muốn cho Tòa án và các Thẩm phán được độc lập trong quá trình xét xử, thì một mặt, cần cụ thể hóa các nguyên tắc đã hiến định trong Hiến pháp năm 2013, mặt khác, cần cụ thể hóa và tôn trọng thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn bằng cách đánh giá đúng vai trò của Tòa án, tạo điều kiện để Tòa án và các cơ quan tư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình một cách độc lập và khách quan và không bị bất kỳ sự can thiệp nào.

Với điều kiện nước ta hiện nay, có lẽ trước hết, cần phải nghiên cứu để cụ thể hóa các nguyên tắc về Tòa án và Thẩm phán độc lập trong quá trình xét xử, đồng thời, tìm ra những biện pháp bảo đảm cho nguyên tắc độc lập được thực hiện trên thực tế. Nghiên cứu và thay đổi các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy, quy chế hoạt động, quan hệ với các cơ quan nhà nước khác… của hệ thống Tòa án để giảm thiểu sự can thiệp, tác động, cả trực tiếp và gián tiếp, của các chủ thể bên ngoài, qua đó bảo đảm tính độc lập thực sự của Tòa án.

Cần có những giải pháp hiệu quả về kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án nhằm bảo đảm các Tòa án không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan nào, kể cả vào các Tòa án cấp trên, về kinh phí hoạt động.

Ở nhiều quốc gia, pháp luật quy định một tỷ lệ phần trăm nhất định ngân sách nhà nước hay ngân sách địa phương đương nhiên phải phân bổ cho hoạt động của Tòa án ; điều này giúp các Tòa án không bị ràng buộc bởi cơ chế "xin-cho" kinh phí, từ đó không phải phụ thuộc vào các cơ quan nhà nước khác hay vào Tòa án cấp trên. Đây có thể là một kinh nghiệm tốt với nước ta.

Lynn Huỳnh (ghi)

Nguồn : VNTB, 13/11/2020

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Lynn Huỳnh, Triệu Tử Long, Nguyễn Nam, Lynn Huỳnh
Read 515 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)