‘Phe thờ địch’ kết hợp với địch chống ‘thế lực thù địch’ ?
Hoàng Trường, VOA, 30/04/2021
Liệu ‘bộ phận thờ địch’ có kết hợp được với địch để chống lại các ‘thế lực thù địch’ ?
Quan hệ Việt – Trung từ bao đời nay nằm trong phức cảm yêu và ghét, được định hướng lẫn lộn giữa lực hút của "bộ phận thờ địch" (một bộ phận trong chính quyền) và sức đẩy từ "thế lực thù địch" (đại bộ phận người dân trong nước hiện nay).
Ông Nguyễn Xuân Phúc tiếp Ngụy Phượng Hòa tại Hà Nội ngày 26 tháng Tư.
Soi vào lịch sử bang giao Việt – Trung, nhìn từ phía Việt Nam, những trải nghiệm của đất nước này đối với nhà cầm quyền Trung Quốc dường như nằm trong phức cảm yêu – ghét lẫn lộn, hay đúng hơn là nằm ở sự pha trộn giữa lực hút và sức đẩy. Thực tế ấy tồn tại suốt hàng ngàn năm nay, qua các triều đại phong kiến cho đến thời hậu cộng sản. Nhưng vào thời điểm hiện nay, lực hút và sức đẩy ấy được quyết định bởi nhân tố nào : tình cảm, tiền bạc, hay quyền lực ?
Lực hút bởi "bộ phận thờ địch"
Ngày 27/4/2021, báo chí Bắc Kinh đưa tin, trong buổi tiếp Bộ trưởng Quốc phòng Ngụy Phượng Hòa trước đó một ngày, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, Việt Nam "sẽ không theo các nước khác chống lại Trung Quốc". Phát biểu được cho là của lãnh đạo Việt Nam gây chú ý ở trong nước lẫn quốc tế giữa bối cảnh các phản ứng của Hà Nội đang bị coi là chậm trễ trước sự kiện hàng trăm tàu cá của Trung Quốc từ tháng ba đến nay đang án ngữ khu vực Ba Đầu, thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền (*).
Chậm trễ ở đây là so với thái độ đàng hoàng hơn của chính quyền của Tổng thống Duterte (Philippines). Lập tức các ý kiến bình luận chia thành hai nhóm. Loại thứ nhất, có học giả quả quyết rằng không thể có chuyện ông Phúc "hớ hênh" đến nhường ấy. Loại thứ hai, một số phân tích khác lại cho rằng, có thể ông Phúc chỉ nói đến việc Việt Nam nâng cao cảnh giác cách mạng một cách chung chung, song truyền thông Trung Quốc, vốn có truyền thống "bơm vá" và "lộng ngôn", đã phóng đại thành như thế.
Nhưng tờ "Nhân Dân" còn đưa tin rất rõ, Chủ tịch Nguyễn Xuân Phúc "mong muốn quân đội hai nước tiếp tục tăng cường xây dựng vững chắc lòng tin chiến lược", không để "các thế lực thù địch phá hoại" quan hệ hai nước. Còn Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thì "mong muốn hai đảng, hai nước tiếp tục nỗ lực để giữ gìn môi trường hòa bình, hợp tác trên cơ sở tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau". Những ngày này mà hai ông trong "Bộ tứ" nhấn mạnh "lòng tin chiến lược" và "môi trường hòa bình" trên Biển Đông thì quả thật, lực hút tạo ra từ "bộ phận thờ địch" trong dàn lãnh đạo mới ở Hà Nội có ảnh hưởng ghê gớm.
Bởi vì, ông Trọng và ông Phúc đâu phải là những "tân binh" trong đảng và nhà nước ! Và điều này chứng tỏ "bộ phận thờ địch" ấy đâu phải mới có từ hôm nay. Nếu không, khi tiếp những người trong đoàn đại biểu Trung Quốc, tại sao ông Trọng và ông Phúc không thể tuyên bố, ít nhất là : Trung Quốc cần kiềm chế và tránh có những hành động đơn phương làm phức tạp tình hình, gia tăng căng thẳng và phải giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 ?
Sức đẩy từ "thế lực thù địch"
"Thế lực thù địch" ở đây không ai khác là nhân dân trong con mắt của những người cầm quyền. Người dân và trí thức trong nước đang hết sức để ý tới mọi động thái của giới lãnh đạo. Bởi vì một khi "bộ phận thờ địch" kết hợp với địch để chống lại "thế lực thù địch" thì chắc chắn nhân dân không thể để yên. Sóng ngầm bao giờ cũng mạnh hơn sóng nổi trên bề mặt ! Thật ra, người dân biết rất rõ rằng, ngay cả "bộ phận thờ địch" trong chính quyền cũng chẳng yêu gì Trung Quốc và quá hiểu dã tâm của họ. Vốn đã lăn lộn bao lâu nay trong "bãi lầy" Ba Đình, hơn ai hết, lãnh đạo là người biết rõ "tim đen" của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Những người giả danh xã hội chủ nghĩa từ lâu đã không còn tin vào cái "lá nho" ý thức hệ che đậy dã tâm và hành động trong thế giới cộng sản. Như trong một khảo luận trên RFA, thì ngay trong cuộc nội chiến ở Việt Nam, hệ tư tưởng cũng chỉ là lớp vỏ bên ngoài. Việt – Trung – Xô, giữa các đồng chí cùng "phe" ngay từ thời bấy giờ, đã lãnh đủ mọi hệ lụy của cái gọi là "chủ nghĩa quốc tế vô sản".
Sau chiến tranh, những tưởng ý thức hệ rồi sẽ chết. Nhưng không ! Cứ mỗi thập kỷ qua đi, dưới lá bài "cùng chung vận mệnh", mỗi lần thúc đẩy hệ tư tưởng trá hình, Bắc Kinh lại đạt thêm được những bước tiến mới trên con đường độc chiếm Biển Đông và bành trướng xuống toàn Đông Nam Á. Lãnh đạo Việt Nam cũng biết, cái "vỏ" bốn tốt và mười sáu chữ vàng không thể cứu vãn họ thoát khỏi gọng kìm của Trung Quốc trên cả đất liền lẫn ngoài mãi các đảo xa, nên nhiều lúc cũng buộc phải nghĩ đến những bước "giãn Trung" nhất định.
"Giãn" nhưng không "thoát" được nên họ đâm ra sợ dân và coi dân là thù địch. Nếu ai đó có tham vọng (được hiểu là sự khát khao) tìm đến cùng sự thật về các "thế lực thù địch" thì mới hiểu được sự phản kháng quyết liệt của con dân nước Việt qua mọi thời đại, trước sự áp chế của cả Trung Quốc lẫn Liên Xô trước đây cũng như chủ nghĩa Đại Hán ngày nay. Không hoàn toàn ngẫu nhiên mà ông Trần Quốc Vượng thuở còn làm Thường trực Ban Bí thư đã phát được một câu có cánh : "Ta không làm tốt thì tự ta lật đổ ta thôi". "Tự ta" ở đây là ông Vượng muốn ám chỉ : Nhân dân sẽ lật đổ chính quyền !
Về "nhận thức luận", chỗ này ông Vượng khá hơn ông Trọng. Nhưng nhận thức được như vậy thì đáng ra phải đi với nhân dân, phải trở về với nhân dân mà "kháng Tàu cứu nước", chứ không phải là kết hợp với Trung Quốc để đàn áp nhân dân khốc liệt và toàn diện như hiện nay. Tại sao nhận thức thì được mà hành động thì không ? Đó là vì họ "khát" tiền và "khát" quyền lực. Mà nguồn mạch của tiền và của quyền thì chỉ có thể đến từ Thiên triều. Do đó, họ không thể để nhân dân "trỗi dậy kháng Tàu" ở mức độ đáng ra cần có. Vì vậy, họ đành tận dụng "bộ phận thờ địch", kết hợp với địch để chống lại các "lực lượng thù địch".
Hoàng Trường (Sài Gòn)
Nguồn : VOA, 30/04/2021
(*) (Chú thích của VOA : Trong bài viết khác, đăng ngày 28 tháng Tư, VOA đặt câu hỏi với phía chính phủ Việt Nam, yêu cầu xác minh tính thực hư trong phát biểu được cho là của ông Nguyễn Xuân Phúc, phía Việt Nam không phản hồi. Trong khi đó, TS. Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cấp cao khách mời thuộc Viện nghiên cứu Đông Nam Á (Iseas) của Singapore khẳng định với VOA dựa theo nguồn tin ông có được từ những người có mặt trong sự kiện, rằng "Ông Nguyễn Xuân Phúc không bao giờ nói câu đấy").
******************
Quan hệ Việt – Mỹ : Sức mạnh của niềm tin
RFA, 01/05/2021
Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, Hà Kim Ngọc, trong một buổi nói chuyện trực tuyến gần đây với giảng viên và sinh viên Đại học Virginia, Hoa Kỳ khẳng định rằng hầu như không có một lĩnh vực chiến lược quan trọng nào mà Mỹ và Việt Nam không thể hợp tác. Trước đó, ông Daniel Kritenbrink, người đồng nhiệm của ông tại Việt Nam cũng từng tuyên bố : Trong quan hệ Việt – Mỹ "chỉ có bầu trời là giới hạn". Vì sao hai vị đại sứ của hai quốc gia cựu thù lại có thể tự tin đến vậy và phải chăng quan hệ giữa hai nước đã hết trở ngại ?
Các sĩ quan Hải quân Mỹ gặp gỡ với các sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam trong chuyến thăm lịch sử của tàu sân bay USS Carl Vinson tháng 3/2018, đánh dấu lần đầu tiên một tàu sân bay Mỹ thăm Việt Nam sau hơn 40 - Ảnh : AFP
Từ cây cầu đầu tiên
Câu chuyện bắt đầu từ những nỗ lực tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến tại Việt Nam. Mặc dù Cơ quan Việt Nam về Tìm kiếm Người mất tích (VNOSMB) được thành lập chỉ ít tháng sau khi Hiệp định Paris được ký kết (1973) và Việt Nam chủ động tìm kiếm và trao hơn 300 bộ hài cốt người Mỹ mất tích cho Chính phủ Hoa Kỳ trong giai đoạn 1973-1988 nhưng những nỗ lực tìm kiếm chung giữa hai nước chỉ thực sự bắt đầu với quy mô nhỏ từ tháng 9/1988.
Theo ông Tim Rieser, trợ lý cao cấp về chính sách đối ngoại của Thượng nghị sĩ Patrick Leahy, tại một cuộc hội thảo về giải quyết di sản chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ tổ chức tháng 7/2020, đã có những khoảng thời gian vô cùng khó khăn để nói về câu chuyện tìm kiếm người Mỹ mất tích ở cả hai nước do hai bên còn thiếu niềm tin và hiểu biết lẫn nhau. Thượng nghị sĩ Leahy, người được xem là một trong những nhân vật có đóng góp quan trọng nhất của phía Hoa Kỳ cho vấn đề khắc phục hậu quả chiến tranh tại Việt Nam đã có "những cuộc gặp không thể kể hết" với các quan chức Chính phủ Hà Nội cũng như quan chức Chính phủ Washington trong nhiều năm để có thể thay đổi cách nói chuyện của hai bên và đưa "những vấn đề của sự giận dữ và phẫn nộ" trở thành những vấn đề mà hai bên có thể hợp tác và giải quyết.
Đại sứ Hà Kim Ngọc, trong buổi nói chuyện trực tuyến do Đại học Virgina tổ chức ngày 8/4/2021 cũng nói rằng cho tới đầu những năm 1990, vẫn còn có những người Mỹ cho rằng Việt Nam còn giam giữ tù nhân Mỹ và điều này đã làm chậm lại quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước mất một vài năm. Tuy nhiên, những nỗ lực không mệt mỏi của những người như Thượng nghị sĩ Leahy, Thượng nghị sĩ John Kerry, thượng nghị sĩ John McCain, đã giúp cả hai phía "vượt qua giới hạn của chính mình" để tiếp cận và làm việc với phía bên kia.
Theo thống kê của Chính phủ Việt Nam đưa ra tại Hội thảo về Quan hệ Việt-Mỹ và vấn đề di sản chiến tranh diễn ra vào 7/2020, trong giai đoạn từ giữa năm 1988-2020, Việt Nam và Mỹ đã tiến hành hơn 130 đợt hoạt động chung, hồi hương gần 1.000 bộ hài cốt liên quan đến MIA, qua đó phía Hoa Kỳ đã nhận dạng được khoảng 730 trường hợp. Theo Đại sứ Hà Kim Ngọc, chính những kết quả "hữu hình" này và sự đồng cam cộng khổ, thậm chí cả sự hy sinh của cán bộ tìm kiếm hai nước đã giúp Mỹ và Việt Nam bồi đắp niềm tin và mở rộng hợp tác sang các vấn đề di sản chiến tranh khác cũng như sang các lĩnh vực hợp tác khác.
Một buổi lễ đưa hài cốt quân nhân Mỹ về nước tại Đà Nẵng ngày 15/4/2018. Ảnh : AFP
"Đáng lưu ý rằng hoạt động tìm kiếm người Mỹ mất tích đã mở đường cho quá trình bình thường hóa sau đó. Và rồi nước Mỹ đã giúp chúng tôi hỗ trợ những nạn nhân chiến tranh ở Việt Nam, rà phá bom mìn, tẩy rửa dioxin ở sân bay Đà Nẵng và hiện nay là tẩy rửa sân bay Biên Hòa. Và gần đây nhất, phía Mỹ đã tăng cường việc hỗ trợ tìm kiếm hài cốt của quân nhân Việt Nam" – ông Ngọc nói và nhấn mạnh rằng hai nước Việt Nam và Mỹ hoàn toàn có thể tự hào về những nỗ lực của mình. Ông cũng cho rằng câu chuyện thành công trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh của hai nước, đưa hai nước trở thành bạn bè và đối tác toàn diện của nhau không chỉ là hình mẫu về việc hòa giải giữa hai cựu thù mà còn là một hình mẫu về giải pháp đối với nhiều cuộc xung đột khu vực và quốc tế ngày nay.
Cựu Đại sứ Mỹ Daniel Kritenbrink, người vừa hoàn thành nhiệm kỳ công tác của mình tại Việt Nam, cũng nhìn nhận rằng việc giải quyết vấn đề di sản chiến tranh là cây cầu đầu tiên mang đến việc bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam đồng thời là yếu tố nền tảng của quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước ngày nay. Là Đại sứ Mỹ đầu tiên đến thăm và thắp hương Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, nơi quy tập hơn 10.000 ngôi mộ của liệt sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam và cũng đã từng đến thăm nghĩa trang Biên Hòa, nơi chôn cất binh lính sỹ quan của Chính phủ Cộng hòa Việt Nam, ông cho rằng hai nước cần tiếp tục giải quyết các vấn đề của quá khứ một cách có trách nhiệm và đây chính là một con đường để hai nước hướng tới những hợp tác sâu rộng hơn trong tương lai.
"Khi chúng ta tiếp tục xây dựng niềm tin chiến lược bằng việc giải quyết những vấn đề của quá khứ, chúng ta mở ra những cánh cửa cho các hoạt động hợp tác chiến lược lớn hơn trong tương lai" – ông khẳng định trong bài phát biểu của mình trong cùng hội thảo nói trên.
Đại sứ Mỹ Daniel Kritenbrink thắp hương tại Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn ngày 27/8/2019. Ảnh : Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội
Đến những thành công trong hợp tác kinh tế
Là một trong những quốc gia bình thường hóa quan hệ muộn nhất với Việt Nam nhưng trong nhiều năm gần đây, Mỹ liên tục giữ vị trí là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam. Nếu năm 1995, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ mới đạt 169,7 triệu USD thì đến năm 2020, con số này đã lên tới 77 tỷ USD, tăng hơn 450 lần. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Mỹ sang Việt Nam cũng tăng từ mức 130,4 triệu USD lên 13,7 tỷ USD, tăng 105 lần. Cũng trong năm 2020, Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 10 của Mỹ và Mỹ tiếp tục là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Việt Nam sau Trung Quốc.
"Kinh tế và thương mại là lĩnh vực hợp tác đạt kết quả ấn tượng nhất trong quan hệ song phương Việt Mỹ" – Giáo sư Carl Thayer– một chuyên gia nghiên cứu Việt Nam lâu năm tại Đại học New South Wales nhận định trong một cuộc phỏng vấn với RFA. Ông cho rằng lĩnh vực này đã có được một sự phát triển ngoạn mục kể từ sau khi Hiệp định thương mai song phương giữa hai nước có hiệu lực vào tháng 12/2001 đồng thời cho rằng kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước dự kiến sẽ cán mốc 100 tỷ USD trong năm nay, so với mức 90,8 tỷ USD của năm 2020.
Các nhà đàm phán Việt – Mỹ vui mừng khi đạt được thỏa thuận về mặt nguyên tắc cho các điều khoản của Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ - Hà Nội ngày 25/7/1999. Ảnh AFP
Tuy nhiên nhà nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng việc gia tăng mạnh mẽ xuất khẩu của Việt Nam đã khiến cho thâm hụt thương mại của Mỹ ngày càng lớn và điều này đang khiến cho giới chức có liên quan của hai nước phải ngồi lại với nhau để giải quyết.
"Đã có những sự khó chịu và tranh cãi trong quan hệ kinh tế, đặc biệt là dưới thời Chính quyền Trump" – ông Thayer nói và cho biết trong ngày ¼/2021 vừa qua, trước khi chính thức chuyển sang đảm trách cương vị Trưởng Ban Kinh tế Trung Ương, cựu Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh đã có cuộc điện đàm với bà Katherine Tai, Đại diện Thương mại mới của Mỹ và tại sự kiện này, người khi đó đứng đầu bộ phụ trách thương mại của Việt Nam đã đưa ra cam kết "sẽ tích cực hợp tác toàn diện để giải quyết các mối quan tâm [của Mỹ] để duy trì môi quan hệ thương mại hài hòa, bền vững".
Những trao đổi thẳng thắn, thực chất và hợp tác như trong vấn đề thâm hụt thương mại nói trên được xem là diễn ra ngày một thường xuyên hơn giữa hai nước. Liên quan tới cuộc điều tra thao túng tiền tệ của Mỹ đối với Việt Nam vào cuối năm 2020– một vụ việc được xem là mối đe dọa lớn đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam – Đại sứ Hà Kim Ngọc cho biết các cơ quan hữu trách của Việt Nam, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước, đã có hợp tác rất tích cực với Bộ Tài chính và Cơ quan Đại diện Thương mại Mỹ trong quá trình điều tra cũng như đã có một số điều chỉnh phù hợp trong chính sách tiền tệ của mình.
"Chúng tôi hoan nghênh quyết định đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các quốc gia thao túng tiền tệ và mặc dù không còn ở trong danh sách này, chúng tôi hiểu rằng chúng ta vẫn còn một số vấn đề cần phải cùng nhau xử lý" – ông nói tại cuộc một cuộc hội thảo về quan hệ Việt Mỹ do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Mỹ (CSIS) tổ chức đầu tuần này (27/4). Ông đồng thời khẳng định rằng với tinh thần hợp tác và đối tác, hai bên hoàn toàn có thể cùng nhau hợp tác trong vấn đề này.
Quốc phòng – lĩnh vực hợp tác được nhiều mong đợi
Khởi đầu từ hoạt động tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích, hợp tác giữa hai lực lượng trực tiếp chiến đấu ở hai đầu chiến tuyến đã phát triển trên nhiều lĩnh vực và đặc biệt được đẩy mạnh trong thập kỷ gần đây. Những dấu mốc lớn của mối quan hệ này là việc Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam vào năm 2016 ; Mỹ chuyển giao tàu tuần duyên Morgenthau cho Cảnh sát Biển Việt Nam (2017) và dự kiến sẽ chuyển giao hai tàu còn lại trong năm nay. Tháng 3/2018, nhóm tác chiến tàu sân bay USS Carl Vinson cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng, đánh dấu lần đầu tiên một tàu sân bay Mỹ thăm Việt Nam trong hơn 40 năm. Tròn hai năm sau, tháng 3/2020, tàu sân bay USS Theodore Roosevelt của hải quân Mỹ tiếp tục đến thăm Việt Nam. Ngoài ra, một hoạt động hợp tác đáng chú ý khác là việc Mỹ hỗ trợ đào tào phi công quân sự cho Việt Nam, một chỉ dấu mới trong quan hệ quốc phòng giữa hai nước.
Nhóm tác chiến tàu sân bay USS Carl Vinson cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng ngày 53/2018 đánh dấu lần đầu tiên một tàu sân bay Mỹ thăm Việt Nam sau hơn 40 năm. Ảnh : AFP
Giới quan sát cho rằng quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ được đẩy mạnh trong những năm gần đây có một phần tác động không nhỏ từ việc gia tăng tham vọng và thái độ hung hăng của Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt là trên Biển Đông, ảnh hưởng đến lợi ích của cả Việt Nam và Mỹ. Ở bên cạnh ông hàng xóm có những chuẩn bị quốc phòng lớn, luôn có tham vọng bành trướng cùng thái độ thường xuyên o ép, Trung Quốc là nỗi ám ảnh và cũng là sự đe dọa thường trực của Việt Nam – một quốc gia thua kém về tiềm lực nhiều mặt. Sự hung hăng của Trung Quốc ở biển Đông được xem là đang "đẩy" Việt Nam về phía Hoa Kỳ. Sự hiện diện thường xuyên hơn của quân đội Mỹ trong khu vực được trông đợi vì sẽ giúp ngăn chặn các kế hoạch quân sự hóa và tranh chấp chủ quyền được cho là phi pháp của Trung Quốc trong khu vực.
Cũng tại cuộc hội thảo do CSIS tổ chức trong tuần này, Đại sứ Hà Kim Ngọc đã nhấn mạnh vai trò của Mỹ trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, khẳng định Việt Nam tin tưởng những hợp tác mang tính xây dựng và bền vững của Mỹ đóng giữ vai trò "không thể tách rời" đối với hòa bình, an ninh, hợp tác và thịnh vượng trong khu vực. Ông đặc biệt bày tỏ mong muốn Mỹ tiếp tục có những cam kết duy trì các hoạt động tự do hàng hải.
"Trong lĩnh vực hàng hải, Việt Nam và ASEAN hoan nghênh Mỹ tiếp tục cam kết duy trì các nguyên tắc như tự do hàng hải và hàng không, giải quyết toàn diện tranh chấp bằng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển ( UNCLOS 1982), đặc biệt là đối với những diễn biến gần đây tại Đá Ba Đầu - một thực thể nằm trong vùng lãnh hải của đảo Sinh Tồn Đông của Việt Nam tại Trường Sa" – ông Ngọc nói.
Về phần mình, tuy mới nhận nhiệm sở, nhưng chính quyền của Tổng thống Biden đã xác định Việt Nam là một trong số các đối tác được nhắm tới để "làm sâu sắc hơn" trong hợp tác an ninh khu vực và điều này đã được thể hiện trong tài liệu Hướng dẫn Tạm thời về Chiến lược An ninh quốc gia được Washington công bố ngày 3/3 vừa qua. Không ít người trong chính giới Mỹ cho rằng Việt Nam là đối tác quan trọng đồng thời cùng chia sẻ nhiều mối quan tâm và tầm nhìn trong vấn đề an ninh khu vực với Mỹ.
"Có một khía cạnh chiến lược cho mối quan hệ. Mỹ coi Việt Nam là một nước lãnh đạo chủ chốt trong khu vực. Không nghi ngờ gì việc Việt Nam được đặc biệt tôn trọng trong khu vực" - Ông Edgard Kagan – Giám đốc cấp cao khu vực Đông Á và Châu Đại dương, Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ phát biểu.
Tàu tuần duyên USCGC Morgenthau của Tuần duyên Mỹ được Mỹ chuyển giao cho Cảnh sát biển Việt Nam ngày 25-5-2017 và được đổi tên thành CSB-8020. Ảnh : commons.wikimedia
Cựu đại sứ Mỹ trước khi rời Việt Nam để đảm trách cương vị Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương - một cương vị ngoại giao cao nhất của Mỹ tại khu vực – đã phát biểu trong một cuộc họp báo tại Hà Nội rằng ông rất lạc quan về tương lai quan hệ Việt Nam và Mỹ vì hai nước cùng có một tầm nhìn chung.
"Tôi nghĩ chúng ta cùng chia sẻ tầm nhìn này gần như giống hệt nhau. Ngôn ngữ chúng ta sử dụng để nói về khu vực mà chúng ta mong muốn sống gần như giống hệt nhau" – ông nói và nhấn mạnh cả hai nước đều muốn sống trong một khu vực hòa bình và thịnh vượng mà ở đó các quốc gia vận hành theo luật pháp quốc tế, các nước lớn không bắt nạt các nước nhỏ hơn, các quốc gia đều có thể trao đổi thương mại một cách tự do và tranh chấp được giải quyết bằng con đường hòa bình.
Mặc dù có những lợi ích và mối quan tâm chung nhưng mối nhân duyên quốc phòng giữa Mỹ và Việt Nam không dễ mà thành. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Trung Quốc vừa là động lực thúc đẩy đồng thời là lực cản của mối nhân duyên này. Nếu Việt Nam đi quá xa trong mối quan hệ quốc phòng với Mỹ, Trung Quốc sẽ tìm cách trả đũa và Trung Quốc có thể dễ dàng làm điều này không chỉ bằng hành động quốc phòng mà còn bằng cả kinh tế vì nước này luôn là đối tác thương mại lớn nhất, cung cấp một phần lớn nguyên liệu cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong nhiều năm qua. Ngoài ra, khó khăn còn đến từ việc Việt Nam lựa chọn duy trì chính sách quốc phòng độc lập, không liên minh (nguyên tắc 4 không).
"Quy mô và nhịp độ hợp tác quốc phòng trong tương lai của Việt Nam và Mỹ sẽ phụ thuộc vào những hành xử của Trung Quốc" – Giáo sư Carl Thayer nhận định. Theo ông, nếu Trung Quốc trở nên hung hăng và hiếu chiến rõ rệt hơn ở Biển Đông, Việt Nam sẽ phải xem xét lại chính sách quốc phòng hiện có của mình. Ông cũng cho rằng Việt Nam có thể điều chỉnh chính sách của mình vì ngoài nguyên tắc "4 không", Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 cũng ghi rằng "tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể", Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp với các quốc gia khác.
"Ở thời điểm hiện tại, hợp tác quốc phòng song phương Việt – Mỹ nên tiếp tục quỹ đạo hiện tại với ưu tiên dành cho việc xây dựng năng lực an ninh hàng hải và nhận thức về lĩnh vực hàng hải, đặc biệt là với Cảnh sát biển và Hải quân Mỹ" – nhà nghiên cứu này nhận định.
RFA, 01/05/2021