Tại sao Hà Nội không cho dạy lịch sử về chiến tranh 1979 ?
Tuấn Khanh, RFA, 18/02/2022
Trước sự phản đối dai dẳng của người dân, Việt Nam miễn cưỡng đưa một ít thông tin về cuộc xung đột năm 1979 vào sách giáo khoa lịch sử, sau khi đã im lặng kéo dài hàng chục năm.
Ở Việt Nam, kỳ thi tại các trường trung học thường rơi vào cuối tháng Giêng, một vài tuần trước khi kỷ niệm chiến tranh Trung-Việt, hay còn gọi là Chiến tranh biên giới trong tiếng Việt. Vì vậy, cuối học kỳ "sẽ là thời điểm hoàn hảo để suy ngẫm về cuộc chiến năm 1979, nhưng tôi không thể dẫn dắt sinh viên của mình thảo luận về nó", Hằng, giảng viên môn chính trị quốc tế tại một trường cao đẳng ở Hà Nội cho biết.
Để đối phó với việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia và ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô vào năm 1978, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc xâm lược vào Việt Nam vào tháng 2 năm 1979 và chiếm được một số thành phố biên giới. Các mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước Cộng sản trước khi trở thành "hữu nghị" đã gặp rất nhiều trắc trở.
Từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 16 tháng 3, cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn binh sĩ Trung Quốc và Việt Nam, nhưng con số thương vong chính xác vẫn còn đang tranh cãi. Quân đội Trung Quốc rút lui sau ba tuần, thông báo rằng sứ mệnh "trừng phạt" của họ đã hoàn thành.
Trong hơn bốn thập niên kể từ khi chiến tranh kết thúc, các trường học của Việt Nam bị ngăn cản một cách kỳ lạ về việc giảng dạy cuộc xung đột này. Hằng, người đã yêu cầu thay đổi tên trong bài, nói đã không thể đưa sự kiện này vào bài kiểm tra cho học sinh của mình hoặc thậm chí vào giáo trình của riêng mình. Sự im lặng về cuộc chiến tranh trong khuôn viên trường giờ đây nặng nề hơn, so với thời kỳ cô còn là sinh viên năm thứ hai đại học, vào năm 1979.
"Giáo viên của tôi đã từng nói rằng một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ không thể xảy ra bởi vì hai nước là đồng chí và anh em. Nhưng vài ngày sau bài giảng đó, Trung Quốc bắt đầu pháo kích vào biên giới. Nhưng tới nay nội dung rao giảng ấy vẫn không thay đổi. Và cũng không ai dám thốt lên lời nào về chuyện đó ", chị Hằng nói. Trong khi đó, ở Trung Quốc đại lục, người ta đề cập đến cuộc chiến này như là một cuộc chiến tự vệ chống lại Việt Nam, cụ thể nó được mô tả trong bộ phim nổi tiếng năm 2017 "Fanghua" ("Tuổi trẻ")..
Trên thực tế, chính phủ Việt Nam cũng đã miễn cưỡng cho vào sách giáo khoa ở tất cả các cấp học về Chiến tranh Việt-Trung – và đây là một điều lại gây tò mò thêm, vì học sinh Việt Nam đã quen thuộc với lịch sử vốn đầy rẫy chiến tranh chống quốc gia phương Bắc.
Từ lớp 6 đến lớp 7, học sinh tìm hiểu về gần một thiên niên kỷ dưới sự chiếm đóng của Trung Quốc cho đến năm 938, cho đến các cuộc chiến nhỏ giữa các triều đại khác nhau chống lại Trung Quốc. Các cuộc chiến tranh đó được nghiên cứu sâu hơn từ lớp 10 đến lớp 11. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia cộng sản "hữu nghị" năm 1979 lại bị che khuất trong các bài lịch sử.
Phiên bản năm 2001 của sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 ở Việt Nam kể lại cuộc chiến này trong 24 dòng ở cuối sách, trong khi phiên bản năm 2018 giảm phần miêu tả chỉ còn 11 dòng. Những lời kêu gọi của các chuyên gia về cải cách sách giáo khoa lịch sử, đặc biệt là cung cấp các bản tường thuật chi tiết về cuộc đụng độ năm 1979, cho đến nay vẫn bị làm ngơ. Mặc dù Hà Nội có thể cho phép các cuộc thảo luận cởi mở hơn về cuộc chiến trên các phương tiện truyền thông nhà nước, nhưng việc giáo dục) toàn diện về cuộc chiến này vẫn chưa được thực hiện và không ai biết khi nào thì sẽ có được. Việc viết lại và ghi nhớ cuộc chiến sẽ đòi hỏi một cuộc đại tu các sách giáo khoa lịch sử do Đảng Cộng sản chỉ đạo.
Cuộc chiến ngắn và quan trọng mà cô Hằng nói đặt cô vào một tình thế khó khăn, vì cô ấy không thể thực hành những bài giảng. "Tôi đã bảo học sinh thảo luận và đặt câu hỏi trong lớp, nhưng sau đó tôi không thể thu hút chúng vào chính chủ đề này", giáo viên nói. Để giải quyết tình huống khó xử, Hằng đề nghị các học sinh của mình đọc "Hồi ức và suy nghĩ", một cuốn hồi ký nổi tiếng và được lưu hành rất nhiều của nhà ngoại giao cấp cao Trần Quang Cơ, được nhiều người coi là tài liệu có thẩm quyền nhất về quan hệ Trung-Việt trong những năm 1980.. Cô cũng khuyến khích học sinh thảo luận cởi mở về cuốn hồi ký ấy với cô. Đây là điều mà nhiều giảng viên ở các trường đại học khác đã và đang làm để lấp đầy khoảng trống kiến thức.
Phạm Kim Ngọc, sinh viên năm 3 ngành Quan hệ quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết cô giáo của cô đã đề cập đến chiến tranh trong một bài giảng ngắn và rất hoan nghênh những câu hỏi sau giờ học. Vậy mà không có sách giáo khoa nào để cô nghiên cứu thêm. Ngọc nói : "Chúng tôi được dạy rằng Trung Quốc là quốc gia quan trọng nhất để tìm hiểu đối với sinh viên Việt Nam, nhưng riêng sự kiện 1979 vẫn còn nhạy cảm".
Nguyễn Ngọc Trâm, giáo viên lịch sử tại một trường trung học tư thục ở Hà Nội, nói cách tiếp cận về cuộc chiến tranh này rất hời hợt. Trong cuốn sách của giáo viên, không có chi tiết về cách dạy nó. "Cuộc chiến tranh biên giới đã được đề cập vào cuối sách giáo khoa, được cho là sẽ được giảng dạy vào cuối năm học. Không ai chú ý đến điều đó", Trâm nói.
Ngoài ra, Trâm còn dạy kèm cho học sinh lớp 12 tập trung vào môn Lịch sử để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh đại học quốc gia. Bộ Giáo dục đã cố ý không đưa chiến tranh vào nội dung chuẩn bị thi. "Vì cuộc chiến biên giới sẽ không có trong kỳ thi, học sinh của tôi không có động lực để học nó", Trâm nói. Hướng dẫn ít ỏi này về chiến tranh đã khiến Trâm ngạc nhiên, vì học sinh tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông phải học một cụm cụ thể gọi là "giáo dục về biển đảo" nhấn mạnh chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vốn là một xương của tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Là một sinh viên chuyên ngành lịch sử, Trâm đã có cơ hội tìm hiểu về cuộc chiến tại trường đại học của mình, mặc dù ở một mức độ hạn chế. Tuy nhiên, nhiều bạn bè của cô đã không nhận thức được điều đó.
Đặng Ngọc Oanh, sinh viên ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, em am hiểu về chiến tranh nhờ có cha mình. Oanh đã rất sốc vì cô chưa bao giờ biết gì về nó ở trường. "Cha tôi từng là một người lính. Ông ấy không tham gia vào cuộc chiến đó, nhưng ông ấy đã nói với tôi về điều đó", Oanh, người sau này đã tìm hiểu thêm về cuộc chiến qua sách tiếng Anh.
Mặc dù Trung Quốc ủng hộ Việt Nam trong các cuộc chiến chống lại Pháp và Hoa Kỳ, quan hệ giữa hai nước đã xuống dốc trong những năm 1960. Bằng cách phát động cuộc chiến tranh năm 1979, Trung Quốc đã tìm cách dạy cho "bá chủ nhỏ đầy tham vọng" Việt Nam một bài học, sau khi quốc gia này lật đổ chế độ Khmer Đỏ do Trung Quốc hậu thuẫn sau cuộc xâm lược Campuchia. Sự thù hận của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Trung Quốc sau đó nhiều đến nỗi phần mở đầu của Hiến pháp năm 1980 của Việt Nam đã gọi Trung Quốc là "kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của Việt Nam". Tuy nhiên, cụm từ này đã bị loại bỏ khỏi Hiến pháp 1980 vào năm 1988 để mở đường cho quá trình bình thường hóa song phương, bắt đầu cho một thỏa thuận từ trên xuống để quên quá khứ.
Từ năm 1980 đến năm 1987, Hà Nội đã có nhiều động thái chính thức và bí mật để nối lại đàm phán bình thường hóa với đồng chí phương Bắc, nhưng vô ích. Tháng 3 năm 1988, Trung Quốc cưỡng chiếm các khu vực thuộc quần đảo Trường Sa thuộc quyền tài phán của Việt Nam.
Tuy nhiên, Bắc Kinh, quốc tế bị cô lập sau vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989, đã khởi xướng một cuộc họp bí mật năm 1990 tại Thành Đô, Trung Quốc, nơi hai nước nhất trí "quên đi quá khứ, hướng tới tương lai". Kết quả là, nhà nước Việt Nam đã chọn không kỷ niệm chính thức cuộc chiến năm 1979, và để nó đã rơi vào quên lãng. Các nhà lãnh đạo cao nhất tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ song phương ở cả cấp nhà nước và cấp đảng vào năm 1991. Một thập kỷ sau, hai bên ký Tuyên bố chung về Hợp tác Toàn diện. Năm 1999, trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tới Bắc Kinh, một phương châm hay còn gọi là "16 chữ vàng" đã được thông qua cho mối quan hệ của hai nước : láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài và hướng tới tương lai. Đồng thời, Nguyễn Cơ Thạch, nnhà ngoại giao nổi tiếng với lập trường cứng rắn trong các vấn đề Trung Quốc và thúc đẩy quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ, đã bị loại khỏi Bộ Chính trị và Ủy ban Trung ương, thậm chí mất chức ngoại trưởng.
Trong nhiều bảo tàng, từ "chiến tranh" đã được tránh và "Trung Quốc" thậm chí không được nhắc đến khi đề cập đến sự kiện năm 1979, không giống như những mô tả về "cuộc đấu tranh anh dũng và chính nghĩa chống lại thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và quân ngụy miền Nam Việt Nam".
Trong một thời gian dài, Việt Nam không công nhận những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh biên giới là anh hùng. Những người lính hy sinh trong cuộc chiến chống Trung Quốc chỉ được gọi là "bảo vệ tổ quốc", không đươc vinh danh giống như những người đồng đội của họ trong các cuộc chiến chống Pháp và Hoa Kỳ. Trong khi Việt Nam thành công trong việc buộc Trung Quốc rút lui vào năm 1979, cả phương tiện truyền thông chính thống và sách giáo khoa lịch sử của Việt Nam đều không đề cập đến đây là một chiến thắng quân sự. Và mặc dù Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Hoa Kỳ bồi thường chiến tranh, nhưng Việt Nam đã hoàn toàn im lặng trước những hành động tàn phá dã man của cuộc chiến năm 1979 do Trung Quốc gây ra.
Là một giáo viên, Trâm phải cân bằng giữa việc nói với học sinh về cuộc chiến phần lớn "không có hồi kết" và không vượt qua ranh giới bất thành văn. "Tôi phải huấn luyện mọi thứ bằng ngôn ngữ uyển chuyển", Trâm nói. "Tôi phải dạy từng chút một, nếu không phụ huynh sẽ phàn nàn rằng những gì tôi dạy khác với sách giáo khoa". Cô Trâm tận dụng môi trường sư phạm tương đối cởi mở ở một trường tư thục, cũng cố gắng dạy các học sinh nhỏ tuổi của mình về những dấu mốc quan trọng khác trong lịch sử mà sách giáo khoa còn thiếu. Cô nói : "Điều quan trọng là phải dạy họ rằng Việt Nam vào năm 938 không giống như Việt Nam ngày nay. Tôi vẫn phải dạy cho học sinh của mình rằng có nhiều phần lịch sử về cái mà họ gọi là ‘Việt Nam’ hiện nay, chứ không phải chỉ có một Việt Nam duy nhất được định nghĩa trong sách giáo khoa quốc gia".
Việc viết lại lịch sử của Chiến tranh Trung-Việt cũng sẽ đòi hỏi những trình bày chi tiết hơn về cuộc xâm lược Campuchia năm 1978, mà phía Việt Nam vẫn ám chỉ là "giải phóng Campuchia khỏi Khmer Đỏ". Cuộc xung đột đó được đề cập trong 13 dòng là "cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam" trong sách giáo khoa lịch sử hiện hành.
Nhà nước Cộng sản cũng chưa bao giờ thừa nhận miền nam Việt Nam Cộng hòa là một chính phủ hợp pháp. Nói cách khác, Hà Nội chưa bao giờ công nhận hai nước Việt Nam cùng tồn tại trong thế kỷ 20, mà coi Việt Nam là một quốc gia bị chia cắt bởi những kẻ xâm lược và phản bội Việt Nam. Sự thất thủ của Sài Gòn được miêu tả trong sách giáo khoa là đại diện cho sự thống nhất tất yếu của đất nước. Do đó dẫn đến kết quả là, cuộc giao tranh quân sự giữa lực lượng hải quân của Trung Quốc và Việt Nam Cộng Hòa tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974 cũng ít được nhắc tới.
Tất cả các sách giáo khoa lịch sử quốc gia cho học sinh trên toàn quốc đều tập trung vào diễn biến từ miền Bắc Việt Nam. Tại Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã độc quyền xuất bản sách giáo khoa sử dụng trên toàn quốc hàng chục năm nay. Kể từ năm 2019, chính phủ đã cấp phép cho một số nhà xuất bản nữa làm nhiệm vụ này. Các trường học bây giờ có thể chọn những cuốn sách khác để sử dụng. Năm 2021, sách giáo khoa lớp 10 mới được phát hành. Năm 2023, một số phiên bản sách giáo khoa lớp 12 cũng sẽ được lưu hành. Nhưng nếu Đảng Cộng sản không đồng ý nới lỏng việc kiểm duyệt câu chuyện 1979, sách giáo khoa lịch sử mãi sẽ chỉ là chuyện bình mới rượu cũ.
(Bài lược dịch từ nhận định của Travis Vincent, nhà hoạt động xã hội tại Việt Nam, đăng trên trên The Diplomat)
Tuấn Khanh
Nguồn : RFA, 18/02/2022 (tuankhanh's blog)
Nguyên tác : Travis Vincent, Why Won’t Vietnam Teach the History of the Sino-Vietnamese War ?, The Diplomat, 09/02/2022
******************
Trung Quốc huy động 3 triệu người tham gia cuộc chiến biên giới Việt – Trung năm 1979
Hiếu Bá Linh, VNTB, 18/02/2022
Mới đây, một bài báo với tựa đề "Tại sao nói cuộc phản công tự vệ năm 1979 chống lại Việt Nam là cuộc chiến tụt hậu (đi sau thời đại) ?" được đăng tải ngày 6 tháng 1 năm 2022 cho biết trong cuộc chiến "dạy cho Việt Nam một bài học" hồi năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã phải huy động một lực lượng lên tới 3 triệu người. Và bài báo này cũng gián tiếp thú nhận Trung Quốc đã bị tổn thất nặng nề, nhất là về con số tử vong và thương vong, vì quân đội Trung Quốc lạc hậu trên nhiều phương diện. Sau đây là lược dịch bài báo :
Cuộc phản công tự vệ chống Việt Nam năm 1979 đã bộc lộ nhiều vấn đề của quân đội ta, từ việc thiếu trang bị cá nhân và phân bố lực lượng không hợp lý, đến chất lượng đạn không đạt và khả năng chỉ huy chiến đấu của chỉ huy cấp cơ sở. Quân đội ta đã bộc lộ những vấn đề gì trong cuộc phản công tự vệ chống Việt Nam năm 1979 ? được đề cập trong bài báo này.
Bây giờ, hãy phân tích về lý do tại sao nói rằng vào năm 1979, chúng ta đã chiến đấu một cuộc chiến lạc hậu với 3 triệu người.
Tại sao lại có 3 triệu người ?
Quân đội tham gia phản công tự vệ ở Vân Nam và Quảng Tây gồm có 27 sư đoàn từ 10 binh đoàn dã chiến, cộng với 2 sư đoàn độc lập, 6 trung đoàn phòng thủ biên giới và 4 tiểu đoàn phòng thủ biên giới độc lập từ các quân khu Quảng Tây và Vân Nam. Ngoài ra còn có 2 sư đoàn pháo binh, 1 trung đoàn pháo binh, 3 sư đoàn pháo phòng không, một tiểu đoàn pháo phòng không độc lập khác, 2 sư đoàn đường sắt, 4 trung đoàn công binh, 2 trung đoàn thông tin liên lạc, 3 trung đoàn cầu thuyền, 2 trung đoàn phòng thủ hóa học, 3 quân đoàn công binh, 8 trạm quân sự, 22 bệnh viện dã chiến, 11 bệnh xá và ít nhất 15 trung đoàn ô tô thuộc quyền quản lý của Sư đoàn Hậu cần Quân khu 20 Quảng Châu và đơn vị cấp Sư đoàn Hậu cần Quân khu 23 Côn Minh.
Cùng với Lục quân, Không quân tham gia các nhiệm vụ tuần tra biên giới với Không đoàn 7 là chủ lực ; Hải quân thành lập Đội 217 của Hạm đội Biển Hoa Nam (Biển Đông), trực thuộc các Sư đoàn 8 và 12 của Lực lượng Không quân Hải quân, để thực hiện các nhiệm vụ tuần tra ở Vịnh Bắc Bộ và vùng biển Tây Sa (Hoàng Sa).
Tổng cộng có 558.952 lính Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc – PLA (không bao gồm hải quân) đã tham gia vào cuộc chiến năm 1979 chống Việt Nam. Trong đó, có hơn 320.000 quân ở Mặt trận phía Đông và hơn 230.000 quân ở Mặt trận phía Tây. Cùng với 435.000 dân quân và cửu vạn được huy động ở Quảng Tây (215.000 người) và Vân Nam (220.000 người), tổng số binh lính và thường dân tham gia cuộc chiến là gần một triệu người (994.000 người).
Ở phía Nam, cả triệu binh lính và dân thường đã tiến công toàn diện vào miền Bắc Việt Nam, nhưng ít nhất là 8 tiếng đồng hồ trước ngày 17 tháng 2 năm 1979, ở phần phía Đông và phía Tây của biên giới Xô – Trung, tất cả các binh đoàn dã chiến của quân đội ta được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Quân khu Thẩm Dương, Đại quân khu Bắc Kinh, Quân khu Lan Châu và Quân khu Tân Cương, nơi giáp ranh với Liên Xô cũ và Mông Cổ, đã vào trận theo đúng mệnh lệnh. Hơn 2 triệu binh sĩ được huy động trong khu vực này, chủ yếu để ngăn chặn một cuộc tấn công bất ngờ của Liên Xô vào Trung Quốc.
Chừng nào lực lượng phía Bắc còn chiến đấu, lực lượng phía Nam sẽ ứng chiến càng lâu càng tốt. Năm 1979, tổng quân số cả nước Trung Quốc là 6,1 triệu người, hồi tháng 2 và 3 năm 1979, gần một nửa quân số này đã tham chiến hoặc trong tình trạng ứng chiến.
Tuy nhiên, cuộc chiến tranh hồi năm 1979 mà có tới 3 triệu người tham gia và ứng chiến thực sự là một cuộc chiến tranh đi sau thời đại (tụt hậu).
Sự tụt hậu này chủ yếu thể hiện ở các khía cạnh sau :
1. Tổ chức lạc hậu
Sau giữa những năm 1970, quân đội ta được tổ chức lại theo quy chế thành lập sư đoàn, chia thành sư đoàn A và B. Các sư đoàn loại A là đội quân được biên chế đầy đủ (quân số và thiết bị đầy đủ), trong khi sư đoàn loại B chỉ có nửa quân số với cơ sở vật chất bị cắt giảm.
Năm 1979, việc tăng quân số sau giai đoạn chuyển từ thời bình sang thời chiến là điều hiển nhiên, nhưng thiếu sức mạnh chiến đấu.
Lấy sư đoàn loại B phía Nam làm ví dụ, quân số khoảng 5.000 đến 6.000, gồm 3 trung đoàn bộ binh, trung đoàn pháo binh, tiểu đoàn pháo phòng không, tiểu đoàn thông tin liên lạc và tiểu đoàn công binh ; …
Sau khi triển khai chiến lược phản công tự vệ chống Việt Nam được ban hành, các bộ đội tham gia đã ngay lập tức tiến hành các bước chuẩn bị khác nhau, trong đó quan trọng nhất là nâng cấp các sư đoàn loại B lên sư đoàn loại A và hoàn thiện đội hình, nhân sự và thiết bị. Về tổng thể, mở rộng trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 2 thành 5 đại đội trực thuộc ; mở rộng tiểu đoàn bộ binh thành 3 đại đội bộ binh, đại đội súng máy và đại đội pháo binh ; …trung đoàn pháo binh được mở rộng thành 4 tiểu đoàn pháo binh, các đơn vị trực thuộc sư đoàn cũng được tổ chức lại phù hợp với yêu cầu mở rộng. Đồng thời, bổ sung, điều chỉnh đội ngũ cán bộ có liên quan, trang bị và làm phong phú thêm các loại quân nhu kỹ thuật, bổ sung, điều chỉnh vũ khí, trang bị, khí tài, phương tiện.
Sau khi nâng cấp theo cách này, các sư đoàn quân tham chiến từ 5.000 đến 6.000 sẽ tăng lên thành 11.000 – 12.000 binh sĩ, đều đạt tiêu chuẩn binh chủng loại A đủ biên chế, đáp ứng cơ bản nhu cầu chiến đấu.
Năm 1979, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc (PLA) huy động tổng cộng 29 sư đoàn lục quân, trong đó 21 sư đoàn ban đầu là sư đoàn loại B và cần được nâng cấp tạm thời. Lấy Sư đoàn 149 thuộc Binh đoàn 50 của Quân khu Thành Đô làm ví dụ, toàn bộ sư đoàn được mở rộng thành 1 sở chỉ huy tiểu đoàn và 36 đại đội, điều chỉnh nâng cấp 836 cán bộ, thăng cấp 1.350 đại đội phó, bổ sung 2.539 cựu chiến binh và 3.108 tân binh (tổng cộng bổ sung 5.647 người), đồng thời bổ sung, điều chỉnh số lượng lớn vũ khí trang bị, vật tư.
Bây giờ mọi người đều có thể nhìn ra vấn đề trong nháy mắt. Hơn 70% trong số 29 sư đoàn tham chiến là sư đoàn loại B. Nếu tất cả chúng được nâng cấp cho phù hợp với Binh đoàn 50 và sư đoàn 149, có nghĩa là 21 sư đoàn loại B sẽ phải bổ sung 50.000 cựu chiến binh và 60.000 tân binh, và nhiều sư đoàn có thể có tỷ lệ tân binh cao hơn.
Có quá nhiều tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng và tiểu đội trưởng trong một sư đoàn, một nửa số người trong một đại đội không biết nhau, và gần 30% là tân binh. Làm thế nào để đánh trận đây ?
Lực lượng huy động chiến tranh tốt nhất thế giới hồi đó là Israel, quân số thường trực ít, quân dự bị được huấn luyện quân sự hoàn chỉnh còn đông hơn gấp nhiều lần, khi tập hợp lại thì có thể thành lập các đội quân và tham gia chiến đấu, và các binh sĩ đã quen thuộc với nhau.
Như Zhuge Liang đã nói sau khi xem xét thực tế, chúng ta có thời gian chuẩn bị gần hai tháng (Quân ủy Trung ương đã phát lệnh phản công tự vệ chống Việt Nam vào ngày 8 tháng 12 năm 1978), nếu dùng thời gian này để gọi lại những cựu chiến binh đã được giải ngũ trong hai năm qua, thì thương vong của chúng ta sẽ giảm ít nhất hai phần ba. Bởi vì tỷ lệ thương vong đáng kể là những tân binh.
Vì vậy, vào chiều ngày 16 tháng 3, khi cuộc phản công tự vệ chống lại Việt Nam kết thúc, Đặng Tiểu Bình, lúc đó là Phó Chủ tịch Quân ủy kiêm Tổng tham mưu trưởng, đã chỉ ra vấn đề này trong bài phát biểu của mình :
"Một sư đoàn phải bổ sung vài nghìn người, nhưng một đội hình ban đầu chỉ gồm hai binh sĩ, nay cần bổ sung bảy hoặc tám người, và họ sẽ đi ra tiền tuyến mà không được huấn luyện gì cả. Họ nên được huấn luyện trong một tháng thì tốt hơn. Hệ thống này chưa tốt và vẫn còn nhiều vấn đề cần tổng kết".
Sư đoàn loại B được gọi là sư đoàn rút gọn. Rút gọn trong thời bình, và mở rộng trong thời chiến, nhưng không có hệ thống dự bị hoàn hảo tương ứng, chỉ có thể bổ sung tạm thời một số lượng lớn quân nhân mới nhập ngũ, thiếu huấn luyện, chưa biết trận mạc là gì và phải trả giá bằng xương máu trong thực chiến.
Sau này, quân đội ta đẩy mạnh tốc độ xây dựng hiện đại hóa và khởi công xây dựng quân dự bị động viên.
Tiểu đoàn cáng dân quân
2. Hậu cần còn lạc hậu
Hậu cần còn lạc hậu, và phương thức tiếp tế của chiến dịch Hoài Hải vẫn được sử dụng.
Như đã nói ở trên, Quảng Tây và Vân Nam đã huy động tổng cộng 435.000 dân quân và cửu vạn, tổ chức tổng cộng 101 tiểu đoàn cáng dân quân (dùng cáng để vận chuyển) và 45 đội vận tải, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giao nhận và di tản.
Ví dụ phần giới thiệu này :
Tổng cộng 4.028 dân quân và cửu vạn được giao cho Sư đoàn 122. Họ đến từ 4 quận Debao, Tianyang, Jingxi và Napo ở Baise. Người lớn nhất 60 tuổi và người trẻ nhất 18 tuổi. Trong thực hiện nhiệm vụ, các đồng chí nêu cao tinh thần dũng cảm, ngoan cường, không sợ hy sinh, không sợ mệt, chiến đấu liên tục, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần tích cực bảo đảm thắng lợi toàn diện cho trận đánh, và phản ánh sức mạnh vô song của chiến tranh nhân dân. Theo thống kê, trong 28 ngày đêm, họ đã vận chuyển 16.930 hộp đạn, 40 tấn vật tư, 1.300 thương binh và 355 liệt sĩ. Trung bình mỗi ngày hành trình khứ hồi của mỗi người khoảng 30 cây số, trong quá trình làm nhiệm vụ đã có 51 đồng chí dân quân bị thương, 9 đồng chí hy sinh !
Quân đội chính quy Việt Nam nằm rải rác, ẩn náu trong rừng núi phía Bắc, thường xuyên tấn công vào tuyến tiếp tế hậu cần của ta, cửu vạn bị thiệt hại rất nhiều.
Ở chiến trường Việt Nam nên sử dụng các phương thức tiếp tế hậu cần hiện đại để bảo đảm cho bộ đội tiền tuyến chiến đấu liên tục.
3. Tư duy trang bị còn lạc hậu
Nhìn vào những bức ảnh về cuộc phản công tự vệ chống Việt Nam năm 1979, có thể thấy phần lớn thời gian đầu, các chiến sĩ Quân giải phóng nhân dân đều đội những chiếc mũ vải của quân phục kiểu 65 trên đầu. Tất nhiên, bộ đội Việt Nam cũng không khá hơn là bao. Những chiếc mũ lưỡi trai đội trên đầu có tác dụng che nắng tốt, không có tác dụng chống đạn và mảnh bom nhưng tốt hơn mũ vải.
Chúng ta không có mũ bảo hiểm bằng thép trong kho của chúng ta sao ?
Có ! Có 700.000 mũ thép Type 90 Nhật Bản, cũng như mũ thép của Mỹ bị quân đội quốc gia thu giữ, quá đủ để cung cấp cho các sĩ quan và binh lính tham gia chiến tranh. Tuy nhiên, vào những năm 1970, quân đội chúng ta nhấn mạnh vào chính trị, nhấn mạnh rằng chiến sĩ Quân Giải phóng không sợ chết, không sợ gian khổ, đội mũ sắt là biểu hiện của sự sợ hãi cái chết.
Kết quả, thống kê sau chiến tranh cho thấy 31% quân ta chết do chấn thương sọ não ! Mũ thép không chống đạn nhưng có tác dụng tốt đối với mảnh bom, và tỷ lệ pháo trong chiến tranh hiện đại từ lâu đã vượt hơn đạn. Đội mũ thép có thể giảm thiểu rất nhiều thương vong mà lẽ ra có thể tránh được. Do đó, trong bài phát biểu ngày 16 tháng 3, Đặng Tiểu Bình nói :
"Chúng ta đã kết thúc trận chiến này, chúng ta phải làm gì ? Việc đầu tiên gọi là tổng kết kinh nghiệm. Về vấn đề này có nhiều điều đáng tổng kết, chẳng hạn về quân đội, có một loạt vấn đề cần quan tâm, bao gồm hệ thống quân đội, đường lối xây dựng quân đội và cách huấn luyện quân đội".
Chỉ 4 ngày sau, ngày 20/3, Quân ủy Trung ương ra "Thông báo tổng kết kinh nghiệm phản công tự vệ trên biên giới Trung – Việt".
Từ ngày 21 tháng 3 đến cuối tháng 5, Viện trưởng Song Shilun của Học viện Khoa học Quân sự dẫn đầu đoàn nghiên cứu gồm 310 thành viên của Ban Giáo dục và Đào tạo Quân ủy điều tra bộ đội tham gia ở Quảng Tây và Vân Nam để tham gia tổng kết kinh nghiệm chiến đấu.
Bây giờ nhìn lại, thật may là 2 triệu quân chuẩn bị chiến tranh ở 3 khu vực phía Bắc giáp biên giới Trung – Xô đã không đánh nhau với Liên Xô, hãy nhớ đoạn trên : Quân khu Thẩm Dương, Quân khu Bắc Kinh, Quân khu Lan Châu và Quân khu Tân Cương giáp ranh Liên Xô cũ và Mông Cổ được lệnh vào trận, các sư đoàn bộ binh loại B của 4 quân khu chủ lực được bổ sung nhân lực, trang bị và nâng cấp thành sư đoàn loại A thời chiến.
Sư đoàn B có bao nhiêu tân binh trong hai triệu đơn vị sẵn sàng chiến đấu cấp một ? Họ đội mũ lưỡi trai giáp mặt với đoàn thiết giáp lớn nhất thế giới với hỏa lực gấp hơn chục lần quân đội Việt Nam, dù dũng cảm đến mấy thì tôi cũng sợ rằng họ sẽ phải trả một cái giá không nhỏ để đánh đuổi quân đội Liên Xô !
May mắn thay, chúng tôi đã đánh trận này vào năm 1979, tìm ra vấn đề với "giá phải trả" tương đối nhỏ và đúc kết kinh nghiệm cũng như bài học. Kể từ đó, chúng ta đội mũ sắt trên chiến trường, khẩu súng bán tự động được thay thế bằng súng trường tự động, sử dụng trực thăng để vận chuyển thương binh và thành lập một lực lượng quân dự bị.
Nguyên tác : 为什么说1979年对越自卫反击战是一场落后于时代的战争?, News ZH, 06/01/2022
Hiếu Bá Linh dịch
Nguồn : VNTB, 18/02/2022
*********************
43 năm cuộc chiến biên giới Việt-Trung. Liệu nhà cầm quyền Việt Nam đã thấm thía những bài học của lịch sử ?
Song Chi, RFA, 17/02/2022
17/2/1979 – 17/2/2022 : 43 năm sau cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, báo chí truyền thông chính thống Việt Nam vẫn tiếp tục lặng im không nhắc nhở gì đến ngày này. Sách giáo khoa ở bậc trung học cho đến tận bây giờ cũng chỉ đề cập đến cuộc chiến 1979 rất ngắn ngủi, sơ sài. Trái ngược hoàn toàn với việc tưng bừng tổ chức tưởng niệm, ăn mừng chiến thắng hàng năm đối với các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, đây là cuộc chiến mà đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam "kiệm lời" nhất, có thái độ đớn hèn nhất đối với phe bên kia. Họ đường như chỉ muốn quên đi và muốn nhân dân cũng quên đi. Nhưng khổ nỗi thời đại internet không phải dễ mà tẩy xóa những trang sử đã qua.
Lính Trung Quốc xâm lược phá hoại cơ sở hạ tầng các tỉnh biên giới của Việt Nam
Báo chí bên ngoài và trên mạng xã hội đã có cách để giữ lửa, giữ ký ức cho người Việt. Và từ những thông tin, hình ảnh, bài viết nghiên cứu của các nhà bình luận, học giả Việt Nam và quốc tế, ngay cả trên báo chí chính thống thi thoảng cũng có, bất cứ ai muốn tìm hiểu đã có thể có được bức tranh, dù chưa hoàn toàn đầy đủ, về cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979. Về mục đích của Đặng Tiểu Bình khi quyết định đưa quân tấn công Việt Nam, các nguyên nhân trên bề mặt cũng như những nguyên nhân sâu xa phía sau trong mối quan hệ phức tạp giữa Liên Xô-Trung Quốc-Việt Nam-Campuchia suốt một thời gian dài trước khi chiến tranh thực sự nổ ra, mức độ khốc liệt của cuộc chiến thể hiện qua con số thương vong của cả hai bên dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi 27 ngày, sự thâm độc của những người lãnh đạo Bắc Kinh và sự tàn ác, man rợ của binh lính Trung Quốc khi chủ trương giết sạch mọi người dân Việt Nam chúng bắt gặp, phá sạch, mọi cơ sở hạ tầng, cột điện, nhà cửa, cầu cống, trang trại, lợn gà cho tới tải sản của người dân tại những nơi chúng chiếm được, nhằm gây thiệt hại lâu dài về kinh tế cho phía Việt Nam…
Nhà cửa cư dân thành phố Lào Cai bị lính Trung Quốc phá sập
Cuộc chiến ấy, đối với người dân Việt Nam, không bao giờ có thể quên được.
Chiến tranh nào cũng để lại những bài học đắt giá. Cuộc chiến biên giới Việt-Trung cũng vậy. Đó là bài học rằng không có một thứ tình hữu nghị nào cao hơn lợi ích của quốc gia, rằng mọi mối quan hệ bạn hay thù, đồng minh hay đồng chí đều có thể thay đổi theo thời gian, nhưng quyền lợi của quốc gia, dân tộc thì phải cương quyết đặt lên trên hết và không thể nhân nhượng. Một điều chua chát là những mâu thuẫn gay gắt, kể cả chiến tranh đẫm máu chỉ có giữa các nước cộng sản anh em đồng chí như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia… Và ngay cả khi đã ký kết Hiệp ước đồng minh như giữa Việt Nam - Liên Xô, thì khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, Liên Xô cũng chỉ viện trợ vũ khí, lập cầu hàng không giúp chuyển quân chủ lực của Việt Nam từ biên giới Tây Nam lên mặt trận phía Bắc chứ cũng không tham chiến, cho thấy thực chất các mối quan hệ đồng minh của các nước cộng sản cũng không có giá trị gì nhiều.
Bài học thứ hai đó là đừng bao giờ để cho nước mình bị cuốn vào các mối xung đột giữa các cường quốc, lúc đó là giữa Liên Xô và Trung Quốc. Bài học thứ ba là muốn sống yên ổn bên cạnh một nước lớn lại đầy tham vọng bành trướng bá quyền như Trung Quốc thì phải xây dựng đất nước giàu mạnh bằng chính nội lực của mình để không sợ bị bắt nạt, bị tấn công. Như câu tục ngữ tiếng Latin "Si vis pacem, para bellum" ("Nếu bạn muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh"). Điều này chính phủ và người dân Đài Loan đã thực hành tốt hơn ai hết, khi hòn đảo nhỏ bé này suốt bao nhiêu năm qua luôn phải đối phó với âm mưu xâm chiếm và sức ép về mọi mặt từ phía Trung Quốc, trong một vị thế chính trị yếu hơn Việt Nam rất nhiều, nhưng Đài Loan đã tích cực mua vũ khí, xây dựng quốc phòng, xây dựng đất nước cường thịnh cũng như ngày càng có quan hệ tốt với thế giới, và nếu như Trung Quốc tấn công, chắc chắn Đài Loan sẽ không cô đơn. Còn Việt Nam ?
Mặt khác, những bài học từ cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 càng có dư vị chua chát hơn, bởi nó là sự sai lầm của đảng cộng sản chứ không phải của nhân dân Việt Nam. Người Việt Nam chưa bao giờ thực sự có lòng tin vào nhà cầm quyền Trung Quốc, ngược lại, có lẽ không có một dân tộc nào hiểu rõ bản chất cũng như những mưu sâu và tham vọng bành trướng bá quyền từ xưa tới nay của Trung Quốc cho bằng dân tộc Việt Nam. Vì dân tộc chúng ta đã có quá nhiều bài học kinh nghiệm xương máu từ trong lịch sừ hàng ngàn năm vừa chiến đấu bảo vệ tổ quốc vừa học cách sống bên cạnh Trung Quốc.
Chỉ từ khi đảng cộng sản Việt Nam ra đời, thì vận mệnh của Việt Nam bắt đầu trở nên rủi ro do mối quan hệ thăng trầm, bất xứng giữa hai đảng. Suốt một thời gian rất dài, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã tự cột mình vào cái chủ nghĩa cộng sản, tình hữu nghị quốc tế vô sản, cái ảo tưởng về sự tương đồng ý thức hệ, nên đã mê muội không nhìn thấy bộ mặt thật của Trung Quốc. Song đáng nói hơn là ngay cả sau khi đã trải qua cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu giữa hai bên, mà trên thực tế thì những cuộc xung đột vũ trang tại biên giới hai nước vẫn còn tiếp diễn hơn 10 năm nữa, Việt Nam chịu thiệt hại về mọi mặt, bị mất thêm một phần quần đảo Trường Sa vào năm 1988, nhưng sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bị sụp đổ thì những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam khi ấy vì quá hoảng loạn, lại quay đầu hèn hạ xin bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trong thế yếu, để lại bắt đầu một quá trình lệ thuộc nặng nề hơn, trong một mối quan hệ càng bất bình đẳng và nguy hiểm hơn.
Nhìn lại cuộc chiến biên giới 1979, tương quan lực lượng giữa hai bên khi ấy và bây giờ sau 43 năm, chúng ta thấy gì ?
Công bằng mà nói, cuộc chiến năm 1979 nếu có kéo dài hơn nữa thì Trung Quốc cũng chưa chắc đã thắng được Việt Nam mà chỉ sa lầy. Bởi lúc đó Việt Nam là một quân đội thiện chiến, đầy kinh nghiệm, vừa ra khỏi 2 cuộc chiến tranh lớn với Pháp và Mỹ, vũ khí quân trang tiên tiến phần do Nga cung cấp, phần do Mỹ bỏ lại ở miền Nam còn khá nhiều, trong khi quân đội Trung Quốc thì bao nhiêu năm không đánh trận, thiếu kinh nghiệm, vũ khí lạc hậu… (Chưa kể nếu kéo dài thì Trung Quốc sẽ phải hứng chịu sự chỉ trích và có thể là cả những biện pháp cấm vận kinh tế của thế giới vì là một nước lớn gây chiến với một nước nhỏ yếu hơn). Nhưng cũng từ cuộc chiến với Việt Nam, phía Trung Quốc đã tích cực đổ tiền vào quốc phòng, hiện đại hóa quân đội, nhất là hải quân, đồng thời đã xậy dựng các quần đảo Hoàng Sa, một số đảo nhân tạo trở thành những căn cứ quân sự trên Biển Đông, đường xá giữa hai bên thì được xây dựng dễ dàng tiến thẳng vào Việt Nam, Trung Quốc cũng xây dựng căn cứ quân sự và hải quân ở Campuchia. Có nghĩa là sau hơn 40 năm, tương quan lực lượng mọi mặt giữa hai bên đã khác hẳn. Việt Nam bây giờ bị Trung Quốc kẹp từ trên bở, từ bên hông Campuchia cho tới ngoài biển Đông. Nếu bây giờ lại có một cuộc chiến xảy ra, câu hỏi không còn là ai thắng mà là Việt Nam sẽ trụ được bao lâu ?
Không chỉ có thế, trong những năm qua chủ yếu do tham lam và nghĩ ngắn nên nhà cầm quyền Việt Nam đã để cho Trung Quốc đầu tư rất nhiều công trình thực tế là có hại cho Việt Nam như các nhà máy nhiệt điện với công nghệ lạc hậu, các dự án thuê đất trồng rừng ở những nơi hiểm yếu, những công trình lỗ lã, để lại những món nợ khổng lồ hoặc phá hoại lâu dài về môi trường như vụ bauxite Tây Nguyên, cụm công nghiệp Formosa… Chưa kể những dự án ở những nơi hiểm yếu về mặt an ninh, quốc phòng. Không khác gì tự rước hổ vào nhà.
Một điều có thể gọi là may mắn cho Việt Nam, đó là từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền thì họ Tập, quá tự mãn trước sự phát triển, thay đổi nhanh chóng về mọi mặt của Trung Quốc sau hơn ba thập niên mở cửa, đã từ bỏ chính sách "thao quang dưỡng hối" tức "giấu mình chờ thời" của Đặng Tiểu Bình. Chính sách đối ngoại của Tập Cận Bình và đảng công sản Trung Quốc ngày càng trở nên hung hăng hiếu chiến, ngày càng lộ rõ tham vọng muốn vượt qua Mỹ, áp đặt trật tự mới trên thế giới theo luật chơi của Trung Quốc. Mặt khác, đảng cộng sản Trung Quốc cũng công khai cho thấy họ sẽ không đi theo mô hình của phương Tây, sẽ không dân chủ hóa như mong muốn của phương Tây mà sẽ kiên định với con đường riêng, nghĩa là vẫn độc tài độc đảng, nhưng giàu mạnh về kinh tế. Hoa Kỳ và các nước phương Tây do vậy không còn chút lầm tưởng nào về Trung Quốc, trái lại, ngày càng nhận ra Trung Quốc đã trở thành sự thách thức lớn nhất đối với Hoa Kỳ và là mối đe dọa lớn nhất đối với sự bình yên, ổn định của thế giới nói chung. Trong vài năm gần đây, Hoa Kỳ và các đồng minh từ Âu sang Á đã có những bước đi để đối phó với Trung Quốc, trên thế giới hai phe đã lại được phân chia rõ ràng, lần này là giữa khối dân chủ đứng đầu là Hoa Kỳ và các nước đồng minh, với khối độc tài đứng đầu là Trung Cộng, Nga.
Trước tình thế đó, Việt Nam một lần nữa lại trở nên quan trọng vì vị trí địa-chính trị của mình, Hoa Kỳ và các cường quốc dân chủ ở Châu Âu cũng như trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương đã gia tăng giúp đỡ Việt Nam về mặt kinh tế, quân sự cũng như có những nhân nhượng, bỏ qua hồ sơ nhân quyền tệ hại của nhà cầm quyền Việt Nam vì không muốn đẩy Việt Nam về phía Trung Quốc, và Trung Quốc ngược lại cũng không quá công khai lấn lướt Việt Nam. Nhưng thay vì tận dụng những lợi thế đó để tự mình chuyển đổi theo hướng dân chủ hóa, tích cực thoát khỏi vòng kìm tỏa của Trung Quốc, tiến tới xây dựng những mối quan hệ liên minh, đồng minh chiến lược với các cường quốc dân chủ cũng như tích cực xây dựng nước giàu dân mạnh, thì Việt Nam trong nhiều năm qua vẫn tiếp tục lửng lơ, ù lì với chính sách quốc phòng 3 không, rồi 4 không, tiếp tục đu dây giữa Mỹ và Trung Quốc để thủ lợi về kinh tế đồng thời dựa vào Trung Quốc để giữ chặt quyền lực.
Lòng dân bao năm nay thì đã rõ, nhưng không biết cho đến tận bây giờ những bài học cay đắng từ cuộc chiến biên giới Việt-Trung 1979 và những thiệt thòi, nguy hiểm trong mối quan hệ với Bắc Kinh, liệu đảng và nhà nước Việt Nam đã thấm thía ? Liệu Việt Nam có dứt khoát cho một lựa chọn đúng hay lại tiếp tục chọn lầm đồng minh, chọn sai đường đi ? Và đừng quên rằng một chế độ nào cũng vậy, khi đi ngược với lòng dân, đi ngược với lợi ích của đất nước thì đều không thể tồn tại lâu dài.
Những ngày này, nhìn sang đất nước Ukraine đang phập phồng từng ngày trước những mối đe dọa tấn công từ nước láng giềng lớn mạnh hơn nhiều là Nga, trong lúc Bắc Kinh thì chăm chú theo dõi bàn cờ giữa Putin với Hoa Kỳ và các nước đồng minh NATO trong ván cờ Ukraine để tính toán thế cờ cho mình với Đài Loan, hay biển Đông sau này, không hiểu những người lãnh đạo Việt Nam có biết lo để chuẩn bị đường dài ?
Song Chi
Nguồn : RFA, 17/02/2022 (songchi's blog)
************************
Biên giới tháng Hai & phương Bắc
Trương Huy San, 17/02/2022
Khác với thông lệ, Đại hội Đảng diễn ra đã hơn một năm, chưa thấy các tân lãnh đạo Việt Nam sang thăm Trung Quốc. Trong khi, cả Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch quốc hội đều đã đã đi gần khắp Á, Âu. Tháng Ba tới đây, Thủ tướng cũng có lịch sang thăm Mỹ.
Trước Tết, ngày 26/1/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính dâng hương tại khu tưởng niệm các liệt sĩ Pò Hèn.
Chuyến thăm Trung Quốc gần nhất của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng diễn ra cũng đã từ tháng 1/2017. Kể từ tháng 4/2019, Tổng bí thư rất ít khi ra khỏi Thủ đô. Trong nhiệm kỳ này, ai – trong số "tam nhân" – mở đầu chuyến thăm Trung Quốc sẽ được giới quan sát coi là một chỉ dấu chính trị mở ra rất nhiều suy đoán.
Trong khi đó, ngày 8/12/2021, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã đến dâng hương Nghĩa trang Liệt sỹ Quốc gia Vị Xuyên. Và, trước Tết, ngày 26/1/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính dâng hương tại khu tưởng niệm các liệt sĩ Pò Hèn. Nhân vật đầu tiên trong Bộ Tứ thắp hương trên mộ các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Ông lên Biên giới vào ngày 17/2/2016, gần một tháng sau Đại hội (XII).
Càng nghiên cứu các tư liệu trong quan hệ Việt – Trung kể từ năm 1949 càng buồn. Theo nhà nghiên cứu Trần Việt Phương, thư ký cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, "Trong lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước chưa có thời đại nào ngây thơ, mất cảnh giác như thời đại ngày nay". Trên thực tế, Hà Nội thường đồng hành hăm hở với Bắc Kinh những khi họ rất sai và rất Mao (cải cách ruộng đất, chỉnh huấn, chỉnh quân, hợp tác hóa…) ; và khi Bắc Kinh đúng, Hà Nội lại chọn con đường ngược lại.
Năm 1978, khi Đặng Tiểu Bình chủ trương, "mèo trắng, mèo đen miễn là bắt được chuột", Trung Quốc không còn "mèo đen". Trong khi đó, chiến dịch "đánh tư sản" tháng 9/1975, Việt Nam mới chỉ nhắm vào các nhà "tư sản mại bản" liên quan tới chiến tranh. Hàng vạn các nhà tư sản sản xuất và thương nghiệp vẫn chưa bị đánh.
Cũng năm 1978, khi Đặng sửa những cái sai của Mao, Lê Duẩn đưa Đỗ Mười cầm quân vào Nam, bắt đầu chiến dịch "Cải tạo công thương nghiệp tư doanh". Hàng vạn nhà tư sản bị tịch thu tài sản ; bị đưa đi kinh tế mới và bị đẩy "vượt biên" theo "Phương án II". Hàng vạn đối tác tiềm năng cho dòng vốn từ Hồng Kông, Đài Loan… đến Việt Nam bị "đánh" cho tan tác.
"Ngây thơ, mất cảnh giác, tin vào chủ nghĩa quốc tế vô sản" là niềm tin dễ đổ vỡ nhất. Thay vì hành xử trên nền tảng tư duy chiến lược với bài học lịch sử nghìn năm, những gì chúng ta chứng kiến là phản ứng như sự dao động trả về của con lắc (swing back).
Và, cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới, kéo dài hơn mười năm đã cướp đi sinh mạng hoặc một phần cơ thể của hàng vạn thanh niên thuộc thế hệ chúng tôi (sinh trong các thập niên 1950s, 1960s) ; đồng thời làm khánh kiệt quốc gia và nhấn chìm vị thế của người Việt Nam xuống đáy.
Tôi đã viết đơn nhập ngũ ngay vào sáng 17/2/1979, khi hai anh tôi đang ở trong quân ngũ. Nếu Trung Quốc gây hấn, tôi tin là các thế hệ thanh niên ngày nay cũng sẽ làm như chúng tôi. Trong lịch sử nghìn năm của Việt Nam những anh hùng chống phương Bắc, trong dân, đều bất tử.
Thật là xấu hổ khi kể từ sau Hội nghị Thành Đô, cuộc chiến tranh Biên giới tháng 2/1979 đã dần bị lãng quên. Bài báo đầu tiên trên báo nhà nước, Biên Giới Tháng Hai, nhắc lại sự kiện này, đưa lên Sài Gòn Tiếp Thị chỉ sau vài tiếng đã bị tuyên giáo bắt gỡ xuống (2/2009). Các lễ dâng hương viếng hương hồn các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến tranh vệ quốc này thường bị né tránh. Nhiều 17/2, chúng tôi đi trên các nẻo đường Biên giới mà mồ liệt sĩ không có một nén hương…
Việc các nghĩa trang trên Biên giới phía Bắc đang được trùng tu và các nhà lãnh đạo trong hàng nguyên thủ lần lượt đến dâng hương, dù muộn, cũng an ủi phần nào cho những người đã hy sinh vì đất nước.
Chưa có kẻ nào nhiều tham vọng thôn tính lãnh thổ và nền độc lập của người Việt Nam như Trung Quốc. Nhưng, chúng ta vừa ở gần một mối đe dọa vừa ở gần một nền kinh tế lớn.
Cách ứng xử trong mối quan hệ với Trung Quốc trong nhiệm kỳ này có thể là đang có nhiều cân nhắc.
Dân chúng không bao giờ tha thứ cho những ai hèn hạ. Nhưng dân chúng đã phải trả giá rất đắt với những nhà lãnh đạo chỉ muốn làm người hùng. Dân chúng cần những bộ óc chiến lược, hiểu lòng dân mà không tạo cơ hội cho những âm mưu đến từ phương Bắc.
Trương Huy San
Nguồn : Osinhuyduc, 16/02/2022