Trong tiểu luận quan trọng "Châu Á sau Việt Nam" (Asia After Vietnam) đăng trên tạp chí uy tín Foreign Affairs tháng 10/1967, Richard Nixon cho rằng song song với việc giải quyết chiến tranh, phát triển kinh tế trong khu vực cũng quan trọng không kém. Theo tác giả, nói đến Châu Á không thể bỏ qua vai trò của bốn quốc gia ảnh hưởng gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và Hoa Kỳ (cường quốc Thái Bình Dương). Tất cả nên được bắt đầu bằng việc thiết lập quan hệ với Trung Quốc (1).
Ảnh minh họa : Ngày 22/8/2016 này, nhóm ủng hộ "Một Trung Quốc" cầm cờ Trung Quốc và biểu ngữ ghi "Chào mừng Tôn Xuân Lan (Sha Hailin)" bên ngoài địa điểm tổ chức tiệc tối do Thị trưởng Đài Bắc Ke Wen-je tổ chức, cho Tôn Xuân Lan, Trưởng Ban Công tác Mặt trận Thống nhất của Ủy ban Thành phố Thượng Hải của Đảng cộng sản Trung Quốc, tại Đài Bắc, Đài Loan
Khi được bầu vào tòa Bạch Ốc, Tổng thống Nixon tiến hành hai mục đích nầy. Chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon, kết thúc bằng Thông cáo chung Thượng Hải, 27/2/1972, đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế chưa từng có tại Châu Á.
Theo nội dung của Thông cáo chung Thượng Hải, Trung Quốc khẳng định :
1) Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc ;
2) Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc ;
3) Việc giải phóng Đài Loan là việc nội bộ của Trung Quốc mà không nước nào có quyền can thiệp ; và
4) Tất cả các lực lượng và cơ sở quân sự của Hoa Kỳ phải được rút khỏi Đài Loan".
Phía Hoa Kỳ :
1) Thừa nhận Đài Loan là một phần của Trung Quốc ;
2) Khẳng định mối quan tâm của Hoa Kỳ đối với việc giải quyết vấn đề Đài Loan một cách hòa bình bởi chính người Trung Quốc ;
3) Đồng ý mục tiêu cuối cùng là việc rút tất cả các lực lượng và cơ sở quân sự của Hoa Kỳ khỏi Đài Loan (2).
Đòi hỏi của Trung Quốc rất rõ ràng nhưng đáp ứng của Hoa Kỳ lại khá mơ hồ.
Năm 1979, chính phủ Jimmy Carter bước thêm một bước nữa trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc khi thừa nhận "Chính phủ Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất". Điều này có nghĩa Trung Hoa Dân Quốc không phải là một quốc gia có chủ quyền độc lập. Tổng thống Jimmy Carter tuyên bố ý định thiết lập quan hệ ngoại giao hoàn toàn với Trung Quốc vào ngày 1/1/1979 và hai nước sẽ trao đổi đại sứ vào ngày 1/3 cùng năm.
Đặng Tiểu Bình viếng thăm thiện chí Hoa Kỳ vào tháng 1/1979. Đặc biệt, ngoài việc thảo luận các quan hệ giữa hai nước, họ Đặng tiết lộ cho Tổng thống Carter biết Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam. Tổng thống Carter thuyết phục Đặng Tiểu Bình không nên dùng biện pháp võ lực, nhưng không thành công.
Trong văn kiện tái lập quan hệ ngoại giao 1979, Hoa Kỳ thừa nhận quan điểm của Trung Quốc khi Trung Quốc cho rằng chỉ có một Trung Quốc và Đài Loan là một phần của Trung Quốc. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chính phủ Hoa Kỳ công nhận Trung Quốc có chủ quyền trên Đài Loan. Nguyên văn tiếng Anh của mệnh đề quan trọng này : "The government of the United States of America acknowledges the Chinese position that there is but one China and Taiwan is part of China".
"Thừa nhận" (acknowledge) khác với "công nhận" (recognize). Chính phủ Hoa Kỳ "thừa nhận" quan điểm của Trung Quốc cho rằng Đài Loan là một phần của Trung Quốc nhưng không hàm ý "công nhận" Đài Loan là một phần của Trung Quốc. Chính phủ Hoa Kỳ mong muốn tranh chấp giữa Trung Quốc và Đài Loan được giải quyết bằng phương pháp hòa bình.
Phái đoàn Trung Quốc muốn sửa lại nội dung văn kiện để thay từ "thừa nhận" thành "công nhận" nhưng phái đoàn Hoa Kỳ không đồng ý. Vì muốn thỏa hiệp được ký kết nhanh, phái đoàn Trung Quốc không tiếp tục giằng co với trò chơi chữ của Mỹ (3).
Trong thời điểm đó, Dân biểu Clement John Zablocki, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ Viện Hoa Kỳ là người có quan điểm chống cộng sản cứng rắn thuộc đảng Dân chủ, quận 4 tiểu bang Wisconsin. Ông rất nhạy bén khi hình dung viễn ảnh không sáng sủa của Đài Loan nên đã bảo trợ một dự luật nhằm bảo vệ an ninh của Hoa Kỳ và quyền lợi kinh tế Đài Loan sau này. Dự luật là một hợp tác lưỡng đảng và được hoàn thành trong một thời gian rất ngắn. Dân biểu Zablocki giới thiệu dự luật ngày 28/2/1979.
Đạo luật có tên là Đạo luật Quan hệ Đài Loan (Taiwan Relations Act) ra đời. Mặc dù Mỹ đã đóng tòa đại sứ tại Đài Loan nhưng đạo luật này cho phép thiết lập Viện Hoa Kỳ tại Đài Loan, một hình thức khác của tòa đại sứ. Đạo luật này yêu cầu Tổng thống phải tức khắc thông báo với Quốc hội mọi biến cố có ảnh hưởng đến an ninh của Đài Loan. Quan trọng nhất, đạo luật nhấn mạnh Hoa Kỳ sẽ cung cấp cho Đài Loan võ khí có đặc tính phòng thủ và sẽ duy trì khả năng của Hoa Kỳ chống lại bất cứ biện pháp nào dùng vũ lực hay hình thức cưỡng bách nào khác có thể gây nguy hiểm cho an ninh hay hệ thống xã hội hoặc kinh tế của nhân dân Đài Loan" (4).
Dĩ nhiên Trung Quốc phản đối Đạo luật Quan hệ Đài Loan và xem đó là hành động đơn phương của Mỹ, vi phạm các nguyên tắc ngoại giao quốc tế và nhất là "vi phạm những cam kết của Hoa Kỳ với Trung Quốc".
Hoa Kỳ không vi phạm các cam kết với Trung Quốc. Các lãnh đạo Trung Quốc quên rằng, bộ máy độc tài chuyên chính tập trung cộng sản không chạy giống như bộ máy của các nền dân chủ phân quyền. Trong chính trị Mỹ, ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp hoạt động độc lập, sinh động, chẳng những không mâu thuẫn nhau mà có tác dụng bổ khuyết nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền dân chủ để đáp ứng mọi tình huống trước mắt cũng như lâu dài.
Cơ chế dân chủ Mỹ là cánh đồng phì nhiêu có nhiều thảo mộc, cây trái, hoa màu. Trên cánh đồng đó từng có một George F. Kennan, một viên chức cấp thấp làm việc tại tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Xô đã trở thành cha đẻ của "lý thuyết ngăn chặn" kéo dài 45 năm qua nhiều thời tổng thống. Nếu làm việc dưới chế độ quan liêu cộng sản, các đề nghị của anh cán bộ George F. Kennan đã đi vào ngăn kéo hay thùng rác.
Nếu không có Đạo luật Quan hệ Đài Loan, số phận Đài Loan ngày nay cũng chẳng khác gì Hong Kong. Đạo luật này mở ra nhiều cánh cửa cho quan hệ giữa Đài Loan và Hoa Kỳ đồng thời dự phòng nhiều trường hợp để các chính phủ Hoa Kỳ sau đó có thể giải thích và áp dụng tùy theo tình huống.
Nhắc lại, trong Thông cáo chung thứ ba giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày 17/8/1982, Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng "Hoa Kỳ không tìm kiếm một chính sách dài hạn bán vũ khí cho Đài Loan". Tuy nhiên, Tổng thống Ronald Reagan lại gởi riêng cho Tổng thống Tưởng Kinh Quốc "sáu bảo đảm" trong đó khẳng định Hoa Kỳ chỉ giảm việc bán vũ khí cho Đài Loan với điều kiện Trung Quốc cam kết theo đuổi một giải pháp hòa bình cho xung đột Eo Biển Đài Loan. Lần nữa, Tổng thống Reagan áp dụng Đạo luật Quan hệ Đài Loan. Văn bản của Tổng thống Reagan gởi Tưởng Kinh Quốc đã được giải mật năm 2020.
Hôm 23/5/2022 tại Tokyo, khi được hỏi liệu Hoa Kỳ có dùng vũ lực để bảo vệ Đài Loan trong trường hợp Đài Loan bị tấn công, Tổng thống Joe Biden trả lời ngay "Yes" và sau đó giải thích thêm cũng trong tinh thần của Đạo luật Quan hệ Đài Loan : "Chúng tôi đồng ý với chính sách ‘Một Trung Quốc’. Chúng tôi ký vào đó, và các bên đồng ý từ đó, nhưng ý tưởng thực hiện bằng vũ lực là không thích hợp".
Điều đó cho thấy quan điểm "Một Trung Quốc" của Hoa Kỳ khác với quan điểm "Một Trung Quốc" của các lãnh đạo Trung Quốc từ Đặng Tiểu Bình tới Tập Cận Bình.
Các tổng thống Mỹ dù Jimmy Carter, Dân chủ, hay sau đó là Ronald Reagan, Cộng hòa, đều xem việc bảo vệ Đài Loan là quan trọng không chỉ về quyền lợi kinh tế mà quan trọng hơn là an ninh tại Châu Á.
Quan điểm lưỡng đảng về Đài Loan đó từ 1979 đến nay không thay đổi.
Mở ngoặc một chút về sinh hoạt lưỡng đảng của Mỹ. Khái niệm đảng trong sinh hoạt chính trị Hoa Kỳ hoàn toàn khác với khái niệm đảng dưới chế độ cộng sản. Tổng thống thuộc đảng Cộng hòa đã đánh gục Liên Xô trong Chiến Tranh Lạnh là Ronald Reagan nguyên là một đảng viên đảng Dân chủ. Nhà chính trị nổi tiếng và từng là ứng cử viên tổng thống đại diện cho đảng Dân chủ là Hillary Clinton, nguyên là đảng viên đảng Cộng hòa. Tổng thống Donald Trump nguyên là đảng viên đảng Cộng hòa, sau đổi sang đảng Cải cách (Reform Party), rồi đổi tới đảng Dân chủ và đổi về lại đảng Cộng hòa. Trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ hai đảng Cộng hòa và Dân chủ từng thay đổi toàn bộ nguyên tắc chỉ đạo (platforms). Đảng Cộng hòa bảo thủ ngày nay trước đây là đảng có tinh thần tự do, cấp tiến. Tổng thống thuộc đảng Cộng hòa Abraham Lincoln là người chủ trương giải phóng nô lệ và bảo vệ người da đen trong khi đảng Dân chủ lại chống đối việc mở rộng quyền của chính phủ liên bang. Chủ thuyết Monroe (Monroe Doctrine) mang tên tổng thống James Monroe do lúc đó là Ngoại trưởng John Quincy Adams soạn, chủ trương "Châu Mỹ của người Châu Mỹ" ra đời năm 1823. Gần 200 năm sau qua nhiều đời tổng thống dân chủ lẫn cộng hòa nhưng mỗi khi có một biến động chính trị ở Châu Mỹ, chẳng hạn khủng hoảng chính trị của Venezuela hiện nay, chủ thuyết này vẫn còn được đem ra bàn. Do đó, một người Việt trong nước hay gốc Việt ngoài nước nếu thật sự quan tâm đến tương lai dân chủ của Việt Nam thì nên tính táo, khôn ngoan để vận dụng mọi chính sách đối ngoại của các cường quốc dân chủ vào cuộc đấu tranh chung và không nên quá đặt nặng việc tổng thống Mỹ thuộc đảng nào.
Trở lại với chuyện "Một Trung Quốc". Đài Loan, về mặt lãnh thổ, có thể là một phần của Trung Quốc (Trung Hoa) nhưng 23,6 triệu người Đài Loan không phải là công dân của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa dưới sự cai trị của Đảng cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tập Cận Bình.
Đất nước không chỉ là núi, đồi, sông, biển, ruộng, vườn, cây, trái v.v. mà trên tất cả là con người với những khát vọng, ước mơ và lý tưởng của thời đại họ. Và do đó, không ai có quyền định đoạt sinh mệnh của 23,6 triệu người dân Đài Loan ngoài chính họ.
Con người hôm nay là con người đang bước đi trong thời đại với các giá trị đạo đức và văn minh được chính họ sáng tạo, phát minh hay chọn lựa. Nếu tách rời đặc tính thời đại ra khỏi định nghĩa một dân tộc thì dân tộc đó chẳng khác gì một bộ lạc tiếp tục duy trì đời sống nguyên thủy trong các rừng nhiệt đới ở Ba Tây.
Chính vì phát triển phù hợp với xu hướng thời đại mà Tây Đức trở nên một cường quốc ngay trong thời kỳ bị chia cắt. Thủ tướng Konrad Adenauer, giống như nhiều người dân Đức khác, rất mong được thấy một nước Đức thống nhất sau Thế Chiến Thứ Hai. Tuy nhiên, ông khẳng định nếu thống nhất để rồi nước Đức trở thành một nước cộng sản hay "trung lập dẫn đến cộng sản" đi ngược với xu hướng thời đại thì ông sẽ chống.
Khát vọng của con người xác định cho tương lai họ chứ không phải do ý thức hệ áp đặt từ bên ngoài hay do sức mạnh của một nhóm người từ bên trong giữ chìa khóa nhà tù.
Adenauer nhận ra rằng nước Cộng hòa liên bang Đức chỉ có thể giành lại tự do và thịnh vượng nếu là một phần của Châu Âu rộng lớn hơn với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ. Tây Đức sau 1945 nhận của Mỹ gần 1,4 tỷ dollar trong Kế hoạch Marshall (Marshall Plan)để giúp nước Đức đứng lên từ đống tro tàn nhưng không ai tố cáo Hoa Kỳ là "thực dân mới đế quốc Mỹ" như mấy cái loa tuyên truyền rỉ rả suốt ngày ở Việt Nam.
Chỉ sau một thời gian ngắn phát triển Tây Đức được xem như là một phép lạ kinh tế, trở thành hội viên của NATO và Cộng đồng kinh tế Âu Châu. Konrad Adenauer viếng thăm Liên Xô năm 1955 với tư cách một nguyên thủ quốc gia chứ không phải đại diện cho một nước Đức bại trận hay một chư hầu của Mỹ.
Hai nước Bắc Hàn và Việt Nam cũng bị chia cắt trong thời gian đó. Kim Nhật Thành thăm Liên Xô tháng 3/1949 để cố thuyết phục Stalin cho phép ông ta xua quân chiếm Nam Hàn và thiết lập chế độc tài cộng sản trên toàn cõi Triều Tiên. Cái gật đầu của Stalin ngày 30/5/1950 dẫn đến ít nhất 3 triệu người bị giết. Tương tự, Hồ Chí Minh và Lê Duẩn thăm Trung Quốc và Liên Xô nhiều lần cũng chỉ với mục đích duy nhất là mong Trung Quốc và Liên Xô cung cấp súng đạn để họ đưa quân vào cưỡng chiếm miền Nam và thiết lập chế độ cộng sản trên phạm vi cả nước. Tham vọng cộng sản hóa đó đi ngược lại ước vọng của người dân miền Nam. Hậu quả là nhiều triệu người chết trong chiến tranh và đất nước đi vòng quanh trong ngõ cụt lạc hậu và chậm tiến từ đó đến nay.
Sau khi lệnh "Thiết quân luật" (Martial Law) được hủy bỏ vào tháng 5/1991, chính phủ và người dân Đài Loan đã đưa đất nước vươn lên cao trong nhiều lãnh vực nhất là tự do, dân chủ và nhân quyền.
Theo kết quả xếp hạng của Economist Intelligence Democracy Index 2021, Đài Loan là một trong 21 quốc gia dân chủ toàn diện (full democracy) trên thế giới. Một quốc gia được xếp vào hạng dân chủ toàn diện phải đạt số điểm cao nhất trong 5 lãnh vực :
1) đa đảng và bầu cử tự do,
2) tự do dân sự,
3) chức năng chính phủ,
4) tham gia chính trị, và
5) văn hóa chính trị.
Với kết quả vượt trội đó, Đài Loan còn dân chủ hơn cả Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ và nhiều nước tiên tiến khác.
Cũng theo Economist Intelligence Democracy Index 2021, Trung Quốc cùng với Việt Nam, Bắc Hàn, Lào, Cuba, Afghanistan và một số nước Châu Phi độc tài bị liệt vào nhóm "Chuyên chế" (Authoritarian).
Economist Intelligence dành một phần khá dài để phân tích trường hợp Trung Quốc. Trung Quốc là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, nhưng nền kinh tế lớn không đem lại hạnh phúc cho con người. Giá trị của một quốc gia khi đem ra so sánh với các quốc gia khác không đặt trên cơ sở nền kinh tế mà là đạo đức và đời sống của người dân. Một con người phải có quyền sống một cuộc đời đáng sống.
Trong tiêu chuẩn "đa đảng và bầu cử tự do", Trung Quốc và Việt Nam đều lãnh ba trứng gà (0.00). Với sỉ nhục quốc tế đó, Trung Quốc không có quyền gì, không có tư cách gì để áp đặt một chế độ phi nhân, lạc hậu lên 23,6 triệu người tự do tại Đài Loan (5).
Ngày 1/8/2022, Chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi thăm Đài Loan. Chuyến viếng thăm ngắn nhưng đã gây nhiều tiếng vang khắp thế giới và phản ứng quyết liệt kèm theo nhiều đe dọa từ phía Trung Quốc. Nhưng ngoài việc gởi một số chiến đấu cơ xâm phạm không phận Đài Loan, Trung Quốc không thể có một hành động trả đũa nào cụ thể.
Trung Quốc làm gì với những chiến đấu cơ đó ? Dám bắn không ? Hình ảnh quân đội Nga đang khốn đốn ở Ukraine là một nhắc nhở hãi hùng cho quân đội Trung Quốc, một quân đội đang mắc "bệnh hòa bình" vì 43 năm chưa ra trận.
Như người viết đã phân tích trước đây, quan hệ và mậu dịch kinh tế chằng chịt, không chỉ giữa Trung Quốc và Đài Loan mà còn Trung Quốc, Đài Loan, Mỹ, Châu Âu và khối các nước đang phát triển. Vì thế, dù có đánh nhau với Đài Loan và ngay cả trong trường hợp Mỹ đứng ngoài, nền kinh tế Trung Quốc cũng sẽ bị thiệt hại nặng nề nếu không muốn nói là phá sản. Bài học Liên Xô cho họ Tập thấy, phá sản kinh tế sẽ tức khắc dẫn tới phá sản cơ chế chính trị.
Nhưng tại sao Tập hung hăng ? Hai lý do. Thứ nhất, Tập muốn tạo một không khí chiến tranh để áp đảo tinh thần các thành phần chống Tập còn mạnh trong nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc trước khi ông ta bước vào nhiệm kỳ 3 tại Đại hội đảng lần thứ 20 vào tháng 11 này. Thứ hai, Tập tiếp tục đun sôi chảo dầu Đại Hán để giữ "niềm tin vào Đảng" và để đánh lạc hướng sự công phẫn của người dân sang phía Mỹ thay vì tập trung vào ông ta.
Việc làm ồn lên của Tập chỉ làm trò cười cho thiên hạ và góp phần quảng cáo cho chuyến viếng thăm Đài Loan của bà Nancy Pelosi. Công ty Aviation-tracking vừa cho biết chuyến bay của bà Pelosi thu hút lượng người theo dõi trực tuyến chưa từng có. Nếu Tập khôn ngoan hơn có lẽ nên im lặng hay lấy một bài bình luận từ một tờ báo cũ ra đăng rồi cho qua.
Tập Cận Bình chỉ giỏi ăn hiếp những nước cô thế, không đồng minh, lệ thuộc tài chính như Việt Nam hay các con nợ nghèo như Sri Lanka, Kyrgyzstan, Pakistan… nhưng với Mỹ thì Trung Quốc chưa phải là đối thủ.
Thời đại ngày nay là thời đại tự do dân chủ và tự quyết. Người dân Ukraine đang chiến đấu vì quyền tự quyết của họ và người dân Đài Loan chắc chắn sẽ đứng lên chiến đấu cho quyền tự quyết của mình nếu bị tấn công.
Các cuộc cách mạng tại Đông Âu và Bắc Phi cho thấy dân chủ là khúc khải hoàn ca đang được phần đông nhân loại cất lên và là xu hướng của thời đại.
Chính sách "Một Trung Quốc" là sản phẩm của Chiến Tranh lạnh và với đà tiến văn minh ngày nay, chính sách đó đã lỗi thời.