Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

14/09/2023

Thấy gì qua việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ ?

Lê Thùy Dương, Trường Sơn

Triển vọng và thách thức sau khi Việt - Mỹ nâng cấp quan hệ

Lê Thùy Dương, RFA, 14/09/2023

Trong chuyến thăm lịch sử cấp nhà nước tới Hà Nội, Tổng thống Biden đã cùng với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nâng cấp quan hệ Mỹ-Việt lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, tăng cường sức mạnh và động lực cho quan hệ Mỹ-Việt trong bối cảnh hai nước phối hợp để đạt được mục tiêu chung là hòa bình, thịnh vượng và phát triển bền vững.

viengtham0

Tổng thống Mỹ Joe Biden nâng cốc cùng Chủ tịch Võ Văn Thưởng tại bữa tiệc cấp nhà nước ở Hà Nội hôm 11/9/2023 - AFP

Tổng thống Biden đã phát biểu trong khi gặp Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chiều ngày 10/9 là từ nay, quan hệ Việt - Mỹ sẽ bước sang một chương mới.

Triển vọng mở rộng hợp tác song phương

Việc nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược không chỉ tạo điều kiện hợp tác kinh tế mà còn khiến hợp tác trong lĩnh vực quân sự sâu sắc hơn. Theo quan điểm của Việt Nam, việc nâng cấp này có thể báo hiệu sự chấm dứt những hạn chế trong hợp tác, mở ra khả năng mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực vốn dĩ nhạy cảm như chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc phòng và chia sẻ thông tin tình báo. Việc tiến tới quan hệ đối tác chiến lược đòi hỏi phải vun đắp thêm "lòng tin chiến lược", vốn sẽ thiết lập nền tảng vững chắc và tạo niềm tin cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam để theo đuổi sự hợp tác đa dạng và rộng rãi hơn với Washington.

Cả hai bên đều đồng ý rằng lợi ích an ninh quốc gia của Việt Nam và Mỹ phần lớn gắn kết với nhau. Những lợi ích gắn kết này bao gồm : 1) sẵn sàng thúc đẩy một Việt Nam mạnh mẽ, độc lập ; 2) cam kết đối với một trật tự quốc tế dựa trên quy tắc ; và 3) sự hiện diện lâu dài của Mỹ trong khu vực.

Hai nước có chung lợi ích trong việc đảm bảo rằng các lực lượng vũ trang Việt Nam ngày càng hiện đại và có khả năng tự vệ. Đối với Mỹ, một đối tác mạnh mẽ và có năng lực sẽ góp phần ngăn chặn và bảo vệ trước hành vi cưỡng ép của Trung Quốc. Hà Nội và Washington cũng có chung lợi ích trong một trật tự dựa trên quy tắc, chống lại các hành vi thay đổi nguyên trạng một cách đơn phương, cưỡng ép và sử dụng vũ lực. Nhờ có chung thái độ ủng hộ việc tuân thủ luật pháp quốc tế và nền tảng hợp tác an ninh song phương và đa phương liên quan đến pháp quyền, quan hệ an ninh Việt-Mỹ có thể trở nên có nguyên tắc và hấp dẫn đối với người dân ở cả hai nước. Điều đó có nghĩa là các mối quan hệ an ninh chặt chẽ hơn nên được xây dựng dựa trên một tập hợp các nguyên tắc và lý tưởng chung, chứ không chỉ dựa trên ý tưởng chống lại Trung Quốc như một hệ quả của sự cạnh tranh giữa các cường quốc. Nó cũng có nghĩa là củng cố các thể chế khu vực để bảo vệ tốt hơn các quy tắc và chuẩn mực quốc tế. Thứ ba, Mỹ cho rằng sự hiện diện của mình trong khu vực có ý nghĩa trọng yếu đối với việc bảo vệ các lợi ích chung trong khu vực và toàn cầu, và Việt Nam không tỏ thái độ thù địch với sự hiện diện đó. Nhiều người trong giới tinh hoa Việt Nam cho rằng sự hiện diện như vậy của Mỹ giúp duy trì sự ổn định trên Biển Đông.

Về mặt quân sự, Hoa Kỳ và Việt Nam đã từng bước tăng cường hợp tác, đặc biệt tập trung vào an ninh biển. Mặc dù vẫn còn hạn chế về phạm vi, Hoa Kỳ đã cung cấp cho Việt Nam các thiết bị quân sự thiết yếu và đào tạo để nâng cao năng lực hàng hải của Việt Nam. Điều này được chứng minh bằng việc bàn giao hai tàu tuần tra lớp Hamilton cho Việt Nam vào năm 2017 và 2021, với đợt chuyển giao thứ ba đang chờ đợi, và dự kiến bàn giao 12 máy bay huấn luyện mới từ năm 2024 đến năm 2027. Ngoài ra, việc dỡ bỏ lệnh cấm vận của Hoa Kỳ đối với vũ khí sát thương bán vũ khí cho Việt Nam vào năm 2016 đã tạo ra một con đường mới để Việt Nam mua vũ khí của Hoa Kỳ nhằm đa dạng hóa nguồn cung vũ khí của mình khỏi Nga. Sau hội chợ quốc phòng của Việt Nam vào tháng 12 năm 2022, các công ty quốc phòng lớn của Mỹ, bao gồm Lockheed Martin và Boeing, được cho là đang đàm phán với chính phủ Việt Nam về việc bán máy bay trực thăng và máy bay không người lái tiềm năng (1).

Về phần mình, Việt Nam đang đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, mong muốn học hỏi kinh nghiệm tiên tiến của Mỹ trong lĩnh vực thể chế, giáo dục và đào tạo, thiết bị và vũ khí…, và đã nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Mỹ. Việc sử dụng máy bay huấn luyện của Mỹ và áp dụng hệ thống đào tạo phi công kiểu Mỹ không những giúp Việt Nam nâng cấp thiết bị và vũ khí, mà còn giúp đổi mới phương pháp huấn luyện.

vietmy2

Tàu CSB 8021 do Mỹ chuyển giao cho Việt Nam. Hình chụp tàu lúc ở Seattle, Mỹ. Hình : Đại sứ quán Mỹ

Về mặt kinh tế, Hoa Kỳ và Việt Nam có thể hợp tác trong các lĩnh vực then chốt như chuyển giao công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng và năng lượng xanh. Vị thế của Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á duy nhất trong số 10 đối tác thương mại hàng đầu của Hoa Kỳ (với tư cách là một khối, ASEAN đứng thứ ba cùng với Trung Quốc và EU) làm nổi bật sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà sản xuất Mỹ đang tìm kiếm các lựa chọn thay thế cho Trung Quốc. Hoa Kỳ có thể hỗ trợ nỗ lực đa dạng hóa kinh tế của Việt Nam bằng cách khuyến khích các công ty Mỹ chuyển đến hoặc kết hợp chuỗi cung ứng của họ với Việt Nam.

Thương mại song phương giữa hai nước đã phát triển vượt bậc trong ba thập kỷ qua và đầu tư song phương lên tới hàng tỷ USD. Hoạt động thương mại hàng hóa của Việt Nam-Hoa Kỳ vượt quá 138 tỷ đô la vào năm 2022, một sự mở rộng đáng chú ý từ gần như không có liên kết kinh tế nào khi các mối quan hệ được thiết lập 28 năm trước. Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của hàng hóa Việt Nam, bao gồm dệt may, giày dép và điện tử. Việt Nam mua các sản phẩm của Hoa Kỳ như bông và đậu nành, đồng thời tiếp nhận đầu tư của các công ty lớn của Hoa Kỳ. Là một trong 14 đối tác triển khai Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vì Thịnh vượng (IPEF), Việt Nam và Hoa Kỳ hiện đang đạt được tiến bộ trong việc hoàn thiện văn bản về cả bốn trụ cột của IPEF.

Sau khi nâng cấp quan hệ, hai nước sẽ tập trung vào những lĩnh vực như hợp tác chuỗi cung ứng, phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyển đổi năng lượng, kinh tế số, kinh tế xanh và phát triển công nghiệp chế tạo.

Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ là lĩnh vực hợp tác mang tính đột phá. Hai nước sẽ tập trung vào việc tạo nền tảng công nghệ số, hệ sinh thái bán dẫn, hay ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Đồng thời, chuyển đổi năng lượng, công nghệ sinh học, y tế, dược phẩm cũng sẽ được chú trọng.

Hợp tác phát triển khu vực Mekong

Tại tiểu vùng Mekong, Hoa Kỳ ủng hộ hợp tác xuyên biên giới nhằm giải quyết kết nối kinh tế, quản lý tài nguyên thiên nhiên, an ninh phi truyền thống và phát triển nguồn nhân lực trong khuôn khổ Mekong-Hoa Kỳ. Quan hệ đối tác (MUSP). Kể từ năm 2009, Hoa Kỳ đã viện trợ và hỗ trợ 5,8 tỷ USD để hỗ trợ tiểu vùng sông Mê Công. MUSP hợp tác với hơn 14 cơ quan chính phủ Hoa Kỳ để cung cấp cho người dân Việt Nam và tiểu vùng sông Mekong. Ngoài ra, theo MUSP, Quan hệ đối tác năng lượng Nhật Bản-Hoa Kỳ-Mekong (JUMPP) tạo điều kiện triển khai năng lượng sạch, thương mại điện khu vực và kết nối điện, cũng như phát triển thị trường điện quốc gia và khu vực (2). Chính vì vậy, nâng cấp quan hệ với Mỹ, Việt Nam có thể tìm thấy sự hỗ trợ đáng kể trong việc thúc đẩy sự phát triển ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Hợp tác ở Biển Đông chống lại sự đe dọa từ Trung Quốc

Các chuyên gia Việt Nam và Mỹ đều công nhận tầm quan trọng của an ninh hàng hải đối với lợi ích quốc gia của hai bên. Trong thập kỷ qua, sức ép "vùng xám" mà Bắc Kinh gây ra đối với Hà Nội ở Biển Đông đã có sự gia tăng đều đặn về tần suất và cường độ. Sau khi hoàn thiện hầu hết các cơ sở hạ tầng chính trên các căn cứ đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa vào cuối năm 2017, Trung Quốc đã có thể triển khai một số lượng lớn tàu hải quân, tuần duyên và đặc biệt là tàu dân quân cách bờ biển Trung Quốc 800 dặm. Điều này đã làm thay đổi hoàn toàn nguyên trạng thời bình. Trung Quốc giờ đây có thể duy trì các cuộc tuần tra quy mô lớn và kéo dài đối với các hoạt động đánh bắt cá và khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam nằm trong cái gọi là "đường 9 đoạn".

Với lợi thế về quân số, khả năng chiếm ưu thế về tình báo, giám sát và do thám (ISR) của Trung Quốc cùng thái độ sẵn sàng gia tăng nguy cơ va chạm mang lại cho Bắc Kinh lợi thế đáng kể. Các tàu hải quân, thực thi pháp luật và dân quân của các nước láng giềng, bao gồm cả Việt Nam, không thể đáp trả một cách tương xứng về cách thức và quy mô trước mọi hoạt động triển khai của Trung Quốc. Điều này khiến Việt Nam và các bên tham gia khác ở Đông Nam Á không thể đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư dân sự hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, dẫn đến sự giảm sút chậm nhưng đều đặn của các ngành công nghiệp ngoài khơi, được thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực năng lượng ngoài khơi của Việt Nam. Sự hiện diện ngày càng gia tăng của lực lượng hải quân, lực lượng thực thi pháp luật và dân quân Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế hợp pháp của Việt Nam cho thấy cách thức xúc tiến yêu sách "đường 9 đoạn" của Bắc Kinh và sự suy yếu trong việc thực thi luật pháp quốc tế ở vùng biển Đông Nam Á.

Sau khi quan hệ Việt - Mỹ được nâng cao, Mỹ sẽ có thể giúp Việt Nam nhiều hơn nữa về tăng cường năng lực biển. Mỹ chủ yếu tập trung hỗ trợ xây dựng năng lực tuần tra và giám sát hàng hải của Việt Nam. Mỹ cũng đã hỗ trợ ngoại giao cho Việt Nam và các bên tham gia khác ở Đông Nam Á. Theo các chuyên gia Mỹ, những sự hỗ trợ này là hữu ích nhưng chưa đủ. Trong khi đó, Việt Nam tiếp tục dựa vào ASEAN để quản lý tình hình vốn đang ngày càng tồi tệ. Sự hiện diện và can dự của Mỹ trong khu vực đóng vai trò làm thế cân bằng với Trung Quốc. Việc nâng cao quan hệ Việt- Mỹ sẽ giúp Việt Nam có thêm nhiều lợi thế. Mỹ có thể cho phép Việt Nam tiếp cận các thiết bị quân sự hiện đại của Mỹ trong dài hạn. Chưa kể, Mỹ có thể giúp Việt Nam trong việc hiện đại hóa quân đội, trong đó tập trung vào lực lượng hải quân và không quân.

Hợp tác trong lĩnh vực hạt nhân

Trong tương lai, Việt Nam có thể hợp tác với Mỹ trong lĩnh vực hạt nhân dân sự. Trước đây, Việt Nam đã bày tỏ sự quan tâm đến việc phát triển vượt ra ngoài mối quan hệ nhà cung cấp-khách hàng với Mỹ bằng cách thiết lập các cơ chế hợp tác nghiên cứu công nghệ hạt nhân, phát triển nguồn nhân lực, cũng như pháp luật và thể chế liên quan đến năng lượng hạt nhân. Hai cường quốc khác là Nga và Trung Quốc cũng tỏ ý định sẵn sàng giúp Việt Nam phát triển công nghệ hạt nhân, thế nhưng, đối với Việt Nam, Nga và Trung Quốc có hai nhược điểm tiềm tàng : 1) Nguồn cung cấp từ Trung Quốc và Nga không sở hữu công nghệ an toàn, đáng tin cậy và đảm bảo ; và 2) Hai nhà cung cấp này từng lợi dụng các mối quan hệ như vậy để thao túng chính trị và chính sách. Do đó, điều này có thể làm giảm quyền tự chủ chiến lược của nước tiếp nhận.

Thách thức cho việc nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ

Trong khi những lo ngại về an ninh liên quan đến Trung Quốc là động lực lớn nhất để Mỹ khởi xướng các sáng kiến xây dựng năng lực cho lực lượng vũ trang Việt Nam, nhiều chuyên gia của cả hai nước đều xác định Trung Quốc là nhân tố kìm hãm chính. Cụ thể, các nhà hoạch định chính sách Việt Nam nhận thấy rằng Việt Nam có được lợi ích tối ưu khi mối quan hệ quân sự với Mỹ không làm gián đoạn quá mức mối quan hệ với Trung Quốc. Bất chấp những khác biệt đáng kể và lịch sử đầy biến động, Trung Quốc vẫn là nước có mối quan hệ đối ngoại quan trọng nhất đối với Việt Nam, một phần vì sự gần gũi về địa lý. Việt Nam cũng không muốn "theo phe" Mỹ hoặc bị coi là đứng về bất kỳ phe nào.

Bắc Kinh có thể khai thác sự e ngại của Hà Nội về sự thay đổi chế độ để gieo rắc mối bất hòa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Do vị trí gần Trung Quốc, các tranh chấp song phương phức tạp ở Biển Đông và lịch sử nhiều lần xâm lược từ phương bắc, Hà Nội sẽ thận trọng tránh bất kỳ hành động nào giống như đối đầu với Bắc Kinh (3).

Bởi Trung Quốc vừa là động lực vừa là nhân tố kìm hãm việc phát triển quan hệ an ninh chặt chẽ hơn giữa Việt Nam và Mỹ, nên theo một số chuyên gia, Việt Nam có thể sẽ duy trì hai chính sách đã có từ lâu trong việc xác định mối quan hệ hợp tác với Mỹ trong hiện đại hóa quân sự và xây dựng năng lực : Chính sách đối ngoại "đa hướng" (đa phương hóa) và chính sách quốc phòng "bốn không" của Việt Nam (không thiết lập liên minh quân sự, không liên kết với một quốc gia để chống lại một quốc gia khác, không cho phép đặt căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Với chính sách đối ngoại "đa hướng", Hà Nội nhiều khả năng sẽ không chỉ tiếp cận Washington mà còn tìm đến các bên tham gia lớn khác, đáng chú ý là Tokyo, Moscow, New Delhi, Canberra và Bắc Kinh. Chính sách "bốn không" có nghĩa là nếu có thể, Việt Nam sẽ né tránh việc hợp tác đầy đủ về các khía cạnh được coi là rõ ràng chống lại Trung Quốc trong Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ theo đuổi các mối quan hệ quân sự nhằm tăng cường bảo vệ nền độc lập, chủ quyền và an ninh, đồng thời sẽ hỗ trợ các sáng kiến chiến lược thúc đẩy pháp quyền - đặc biệt là những sáng kiến nhằm đối phó với hành động của bất kỳ quốc gia nào muốn tìm cách làm suy yếu pháp quyền.

Các thách thức đáng kể khác bao gồm chính sách của Mỹ liên quan đến xuất khẩu vũ khí sát thương, vấn đề nhân quyền và tự do dân sự ở các nước được hỗ trợ, các đạo luật Mỹ nhằm vào các nước mua vũ khí của Nga (Đạo luật chống lại các đối thủ của Mỹ thông qua trừng phạt (CAATSA), hạn chế của Việt Nam trong khả năng tiếp nhận công nghệ quân sự của Mỹ, bao gồm chi phí, năng lực tiếp thu, khả năng phối hợp hoạt động với các hệ thống hiện tại (chủ yếu là hệ thống của Nga), và rào cản ngôn ngữ giữa hai bên.

Lê Thùy Dương

Nguồn : RFA, 14/09/2023

Tham khảo :

1. https://www.washingtonpost.com/national-security/2023/09/01/vietnam-biden-partnership-china/

2. https://www.state.gov/the-united-states-vietnam-relationship-celebrating-10-years-of-comprehensive-partnership-and-28-years-of-diplomatic-relations/

3. https://fulcrum.sg/u-s-vietnam-relations-ready-for-a-strategic-partnership-upgrade/

***************************

Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông ra sao ?

Trường Sơn, RFA, 14/09/2023

Quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã trở nên khăng khít hơn bao giờ hết khi hai nước vừa tuyên bố việc trở thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, theo sau chuyến thăm của tổng thống Joe Biden tới Hà Nội. 

biden1

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và Tổng bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại lễ đón ở Hà Nội ngày 10/9/2023. AFP

Việc nâng cấp quan hệ được cho là sẽ mở ra cơ hội lớn để Việt Nam phát triển kinh tế, bằng chứng là trong bản tuyên bố chung của lãnh đạo hai nước, thì việc hợp tác thương mại và kinh tế chiếm phần lớn nội dung. Trong bối cảnh nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, Việt Nam rõ ràng là bên được lợi rất lớn từ việc thắt chặt quan hệ với nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Tuy cả hai nước có vẻ đã cố tình đổ dồn chú ý vào khía cạnh hợp tác phát triển, điển hình là việc cho thêm cụm từ "vì hoà bình, hợp tác, và phát triển bền vững" vào tên gọi của mối quan hệ ngoại giao mới, thế nhưng như vậy vẫn chưa đủ để kéo sự chú ý ra khỏi vấn đề mà cả hai bên đều cho là nhạy cảm - cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung. 

Bằng chứng là trong cuộc họp báo của tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden sau cuộc hội đàm với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, hầu hết các câu hỏi được nêu ra đều xoáy vào mối quan hệ Mỹ và Trung Quốc, trong khi nước chủ nhà Việt Nam thì hầu như không được nhắc đến. 

Hoa Kỳ và Trung Quốc đang ở trong một mối quan hệ mà giới học giả cho là cuộc cạnh tranh của các siêu cường. Do vậy, cũng dễ hiểu khi việc Mỹ nâng cấp mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam lại được liên hệ với cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung, khi mà Việt Nam có vị trí địa chính trị vô cùng quan trọng ở khu vực mà Trung Quốc vốn coi là sân sau của họ. 

Tuy sự chú ý được đổ dồn vào cuộc đối đầu giữa hai siêu cường, nhưng điều đó không có nghĩa là Việt Nam đứng ngoài bức tranh an ninh khu vực. Trên thực tế thì vấn đề an ninh ở khu vực Châu Á-Thái Bình dương được coi là ảnh hưởng đến lợi ích cốt lõi của Việt Nam. Cụ thể là ở trên khu vực Biển Đông nơi mà Việt Nam đang phải đối diện với sự bành trướng về mặt lãnh thổ và quân sự của Trung Quốc. 

Câu hỏi đặt ra ở đây là Biển Đông nằm ở đâu trong sự tính toán của giới lãnh đạo Việt Nam khi họ quyết định nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ ? 

Trao đổi với đài Á Châu Tự do, thạc sĩ Hoàng Việt, chuyên gia nghiên cứu vấn đề Biển Đông, cho biết dù phía Việt Nam không đả động gì đến Trung Quốc hay tình hình Biển Đông, nhưng hàm ý của việc nâng cấp quan hệ với Mỹ lại rất liên quan đến những vấn đề này : 

"Mặc dù trong tất cả các tuyên bố chung của Việt Nam không hề nhắc một chút nào tới Trung Quốc, Mỹ cùng vậy. Nhưng mà giống như câu chuyện Harry Potter, có một cái người mà không ai nhắc tới nhưng ai cũng biết đấy là ai, tức là cái bóng của Trung Quốc đằng sau, và càng không nhắc tới thì người ta càng thấy cái điều đó". 

Ông này cũng chỉ ra rằng trước thềm chuyến thăm của tổng thống Hoa Kỳ tới Việt Nam thì Trung Quốc đã liên tiếp có những động thái gây căng thẳng trên Biển Đông, điển hình là việc tàu nghiên cứu của nước này đã hoành hành trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam liên tiếp trong 28 ngày hồi tháng 5 và tháng 6 năm nay. 

Nhận định về mối liên hệ giữa việc Trung Quốc gây áp lực trên khu vực Biển Đông và sự kiện nâng cấp quan hệ Việt-Mỹ, ông Nguyễn Thế Phương, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại trường đại học New South Wales chuyên ngành an ninh hàng hải, cho rằng ở đây có mối liên hệ trực tiếp : 

"Cái vấn đề Biển Đông với vấn đề Việt-Mỹ nâng cấp quan hệ nó có một mối quan hệ nhân quả. Chính vì những gì Trung Quốc làm ở Biển Đông mới đẩy Việt Nam tới cái mức phải nâng cấp quan hệ với Mỹ, như là một biện pháp để cân bằng lại. Đặt ngược lại câu hỏi là nếu như Trung Quốc không làm gì ở Biển Đông thì Việt Nam cũng chẳng nâng cấp quan hệ với Mỹ làm gì. 

Cái vấn đề ở đây là cái việc nâng cấp quan hệ là sự lựa chọn của Việt Nam, và bởi vì chính sách hung hăng của Trung Quốc ở khu vực, nên Việt Nam mới nâng cấp quan hệ với Mỹ". 

Như vậy, yếu tố Trung Quốc, đặc biệt là vấn đề Biển Đông, đằng sau việc Việt Nam quyết định đưa quan hệ của mình với Hoa Kỳ lên tầm cao mới, theo như các học giả là mang tính mấu chốt. 

Nhưng vấn đề là trong bối cảnh khi mà Trung Quốc đang coi Hoa Kỳ là đối thủ số một của họ, liệu việc Việt Nam trở nên gần gũi với Mỹ có khiến Trung Quốc phản ứng tiêu cực hơn, và giới lãnh đạo Việt Nam đã tính toán điều này thế nào trong quá trình đàm phán nâng cấp quan hệ với Mỹ ? 

Theo thạc sĩ Hoàng Việt, người vốn theo dõi sát sao nhất cử nhất động về tình hình trên Biển Đông, thì phía Việt Nam chắc chắn đã phải mặc cả với Mỹ để đảm bảo lợi ích của mình trước đe dọa từ Trung Quốc : 

"Cá nhân tôi cho rằng lợi ích của quốc gia sẽ là quan trọng nhất, cho nên Việt Nam sẽ phải ngã giá với phía Mỹ, rằng nếu tôi nâng cấp mối quan hệ lên mức cao nhất thì tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn từ phía Trung Quốc, vậy thì tôi sẽ nhận được gì từ Mỹ đây ? Và phía Mỹ cũng đã chứng minh bằng việc mang lại những lợi ích kinh tế to lớn". 

Muốn nâng cao năng lực quốc phòng để bảo vệ lợi ích của mình trên khu vực Biển Đông, thì trước hết Việt Nam cần phải phát triển về mặt kinh tế và công nghệ, và đây chính xác là những gì mà việc nâng cấp quan hệ với Mỹ sẽ mang lại, theo ông Nguyễn Thế Phương, người đang nghiên cứu về lịch sử hải quân Việt Nam.

Ông này cũng cho rằng duy trì mối quan hệ gần gũi với Hoa Kỳ còn sẽ giúp Việt Nam hiện đại hóa lực lượng quân đội của mình, trong bối cảnh nguồn cung vũ khí cho Việt Nam từ Nga đang gặp vấn đề do cuộc chiến tranh ở Ukraine, và các lệnh cấm vận : 

"Cuộc chiến của Nga ở Ukraine đã làm thay đổi một cách căn bản về nhận thức của Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa quân đội. Ở đây là việc 60 đến 70 phần trăm vũ khí của Việt Nam trước đây là mua từ Nga. Sau cuộc chiến của Nga ở Ukraine thì bắt đầu những lo ngại rất lớn về việc quá trình hiện đại hóa quân đội của Việt Nam sẽ bị chậm đi một cách đáng kể. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, và vấn đề thứ hai là làm thế nào để xây dựng được một nền công nghiệp quốc phòng nội địa đủ mạnh ? Cả hai vấn đề đó không thể nào thành công nếu không có một mối quan hệ tốt với Mỹ".

Ngoài ra, ông Nguyễn Thế Phương cũng cho rằng Việt Nam có thể phối hợp với Hoa Kỳ để cùng tạo ra các sáng kiến nhằm duy trì sự ổn định trên khu vực Biển Đông, nhằm đối phó với chiến thuật vùng xám của Trung Quốc. Tuy nhiên, để có thể phối hợp với Mỹ một cách hiệu quả, thì theo ông này, Việt Nam cần phải trở nên linh hoạt hơn trong chiến lược quốc phòng của mình, cụ thể là cần diễn giải lại chính sách "bốn không".

Trường Sơn

Nguồn : RFA, 14/09/2023

***************************

"Đối tác chiến lược toàn diện" Việt – Mỹ sẽ hết "phong trần " ?

Hoàng Trường Sa, RFA, 14/09/2023

Cuộc vui nào rồi cũng qua. Nhưng khoảnh khắc lịch sử của bang giao Mỹ – Việt bừng nở trong hai ngày ở Hà Nội sẽ còn tác động lâu dài lên quan hệ song phương và cục diện khu vực. CSP có thật sự nhanh chóng thúc đẩy bang giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ "ngày lại thêm xuân" ?

myviet2

Tổng thống Mỹ Joe Biden và Chủ tịch Võ Văn Thưởng bắt tay tại Hà Nội hôm 11/9/2023 - AFP

Sẽ tiếp tục tiến lên bao xa nữa ?

Tại buổi quốc yến trưa ngày 11/9 do Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng chủ trì, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã lẩy hai câu Kiều : 

"Vinh hoa bõ lúc phong trần

Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày"

và cho rằng : "Đây là ngày chúng ta có thể cảm nhận được vinh hoa và ấm áp của những cơ hội vô hạn mở ra trước hai nước" (1). Giữa mùa thu Hà Nội, cuộc tái ngộ trực tiếp giữa Tổng thống Biden với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là "duyên lành" theo góc nhìn văn hóa truyền thống của người Việt Nam, vì cuộc gặp lại ấy mang nhiều điều tốt đẹp cho hai đất nước vốn đã có nhiều thăng trầm trong lịch sử. Nói là gặp lại bởi đây là lần thứ hai, ông Joe Biden gặp Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau lần trên cương vị Phó Tổng thống, ông đã chủ trì cuộc chiêu đãi người đứng đầu Đảng cộng sản Việt Nam thăm Mỹ theo lời mời của Tổng thống Barack Obama năm 2015. Gặp nhau lại sau hơn 8 năm, đáng ra Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nên lẩy một câu Kiều khác để đáp lễ Tổng thống Biden : "Được rày tái thế tương phùng/ Khát khao đã thỏa tấm lòng bấy lâu…" (2).

Trong buổi tiếp Tổng thống Biden tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội, ông Thưởng được VietnamNet trích lời nói với người đứng đầu Nhà Trắng rằng, năm tháng sau ngày Việt Nam giành được độc lập vào năm 1946 từ tay người Pháp, Chủ tịch Việt Nam lúc đó, ông Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Tổng thống (Harry) Truman bày tỏ mong muốn thiết lập quan hệ "hợp tác đầy đủ" với Mỹ. Tuy nhiên, theo ông Thưởng, do những điều kiện, hoàn cảnh của lịch sử, mong muốn ấy đã trải quan nhiều thác ghềnh, thử thách. Cũng đưa tin về buổi chiêu đãi, VnExpress cho biết ông Thưởng nói với Tổng thống Biden rằng mối quan hệ Việt – Mỹ "chưa bao giờ phát triển tốt đẹp như ngày nay, từ cựu thù trở thành Đối tác Chiến lược Toàn diện". Chủ tịch Việt Nam gọi đây là "hình mẫu trong lịch sử quan hệ quốc tế về hàn gắn và xây dựng quan hệ sau chiến tranh" (3).

Nhớ lại, cuộc chiêu đãi mà Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden năm ấy dành cho Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, theo tường thuật của báo chí, đã diễn ra hết sức cởi mở, chân thành và để lại ấn tượng sâu sắc khi ông Biden dùng hai câu Kiều để nói về mối quan hệ Mỹ – Việt : "Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời". Lần này, tiếp tục đề cao những nỗ lực chung để "nắm bắt tiềm năng của tương lai", Tổng thống Joe Biden nhấn mạnh, đó là những cơ hội lớn lao về sự thịnh vượng cho người dân mỗi nước. "Đây là một minh chứng cho quãng đường dài mà chúng ta đã đi qua, nhưng quan trọng hơn là chúng ta sẽ tiếp tục tiến lên bao xa nữa trong tương lai. Đó chính là lý do chúng ta xác lập mối quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững để cùng tiến lên phía trước, cùng đối phó với những thách thức, cùng nhau đón nhận tương lai", Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ nhấn mạnh.

Trước khi đặt chân đến Hà Nội, ông Biden đã tuýt "Tôi biết đây sẽ là một chuyến thăm lịch sử". CNN đã liệt kê năm đặc điểm đáng chú ý từ chuyến công du Ấn Độ và Việt Nam của Tổng thống Biden (4). Trong đó, điểm nhấn nổi bật nhất là Tổng thống đã kết nối Việt Nam, một nước láng giềng của Trung Quốc đến gần Hoa Kỳ hơn. Chỉ trong năm tháng qua, Biden đã tiếp đón Tổng thống Philippines tại Nhà Trắng lần đầu tiên sau hơn một thập kỷ ; Biden đã chiêu đãi Thủ tướng Ấn Độ bằng dạ tiệc cấp nhà nước và cũng đón tiếp các đồng nhiệm Nhật Bản và Hàn Quốc tham dự một Hội nghị Thượng đỉnh mang tính biểu tượng tại Trại David, khai sinh ra Bộ Tam mới JAKOUS (Nhật – Hàn – Mỹ).

Theo giới phân tích, trang mới nhất trong chiến lược "Ấn Độ - Thái Dương tự do và rộng mở" (FOIP) của Hoa Kỳ đang được triển khai với việc thiết lập "Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện" (CSP), đưa Hoa Kỳ ngang hàng với các đối tác cao nhất của Việt Nam, bao gồm cả Trung Quốc lẫn Liên bang Nga. Ở Việt Nam, không chỉ Trung Quốc có ảnh hưởng, mà Biden còn phải cạnh tranh với các đối tác lâu đời của Việt Nam. Vì vậy, cùng với "Tuyên bố chung" gồm 10 trụ cột lớn, Mỹ còn công bố "Kế hoạch hành động" tám điểm để triển khai Tuyên bố Hà Nội lịch sử. Một quan chức chính quyền cho biết, đây là "Kế hoạch tổng thể" (Fact Sheeet) thứ ba công bố các bước giúp Việt Nam đa dạng hóa, thoát khỏi sự phụ thuộc quá mức vào Nga và Trung Quốc.

Những trở lực nào CSP phải đối mặt ?

Trung Quốc và Liên bang Nga sẽ không dễ dàng "buông tha" Việt Nam. Sự níu kéo này nếu chỉ là những quán tính từ quá khứ thì cũng đã là một trắc nghiệm nan giải đối với cả Hà Nội lẫn Washington. Nhưng cuộc cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung, Mỹ – Nga sẽ còn xuất hiện nhiều chiều kích mới, do tình hình nội tại trong mỗi nước, đồng thời còn là do "Trật tự quốc tế hậu Ukraine" sẽ vô cùng nan giải đối với ban lãnh đạo Ba Đình. Các cuộc đấu đá nội bộ giữa Dân chủ và Cộng hòa ở Mỹ tuy phức tạp nhưng khó có khả năng đảo ngược tương lai có vẻ đã an bài của CSP. Nhưng đấu đá nội bộ bên trong Việt Nam, giữa các phe cánh vùng miền, giữa các xu thế thân Nga, thân Tàu, thân Mỹ… có thể vẫn là những thách thức không nhỏ. Trong nhiều trường hợp, các phe cánh có thể tung ra một số đòn để phá bĩnh quan hệ CSP Việt – Mỹ. Điển hình là một văn bản do Thứ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam được tiết lộ trước hôm ông Biden đến Việt Nam một ngày, tố cáo, Bộ Quốc phòng Việt Nam vẫn đi cửa sau đàm phán bí mật để mua vũ khí của Nga (5). Cho nên, không loại trừ quan hệ Việt – Mỹ vẫn sẽ có những bước trồi sụt như trong quá khứ. Nhưng khác với trước đây, lần này nhờ những "bảo lãnh" lâu dài về kinh tế và thương mại, an ninh và chiến lược, mà những xáo trộn nếu có sẽ không thể dẫn đến đỗ vỡ trong quan hệ.

Việt Nam và Hoa Kỳ đã đã từng những kẻ thù của nhau trong một cuộc chiến tranh tàn khốc để trở thành những đối tác ngày càng thân thiết, ngay cả khi Việt Nam vẫn được/bị điều hành bởi một thế lực toàn trị và độc tài (mang danh cộng sản chỉ để lừa mị). Tuy nhiên, bóng ma của quá khứ, cộng với các "hiệu ứng bóng đè" từ Trung Quốc và Liên bang Nga vẫn đặt CSP trước những thách thức không thể xem thường. Giáo sư Kolotov từ nước Nga vẫn có những nhận định và đánh giá hoàn toàn trái chiều về bước chuyển tuy được cho là ngoạn mục vừa qua trong quan hệ Việt – Mỹ. Theo vị giáo sư này, việc nâng cấp lên CSP chỉ là một ván cờ ngoại giao, trong đó Việt Nam luôn luôn nằm ở "kèo dưới" và bị lợi dụng trong thế cài răng lược giữa các nước lớn tại khu vực (6). Tờ "Hoàn cầu thời báo", một phiên bản của tờ báo Đảng của Trung Quốc cũng đã liên tiếp có những bài xã luận chát chúa phê phán các "âm mưu lý gián của Mỹ" đối với quan hệ Trung – Việt. Tờ báo khẳng định, cho dù có CSP, quan hệ Mỹ – Việt không bao giờ có thể thay thế được quan hệ về mặt đảng giữa Hà Nội và Bắc Kinh (7).

Cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ ở Việt Nam "hậu – CSP" cũng sẽ ảnh hưởng đến tương lai quan hệ Việt – Mỹ. Nếu xã hội dân sự mất phương hướng, đưa ra khẩu hiệu đấu tranh không thực tế, có thể dẫn đến những rối loạn nội bộ, chắc chắn sẽ không có lợi cho CSP. Nếu tư tưởng Phan Chu Trinh thắng thế, cuộc đấu tranh vì dân chủ chống ách độc tài được tiến hành trên cơ sở hòa bình, bất bạo động thì sẽ có lợi cho CSP (8). Nếu trong tinh thần xây dựng, dưới hình thức liên tục và quyết liệt phản biện xã hội, các tổ chức dân sự thúc đẩy quá trình cải cách thể chế chính trị theo hướng dân chủ hóa đất nước, sẽ phù hợp với tiến triển quan hệ Việt – Mỹ. Nếu nó diễn ra theo chiều hướng ngược lại, tình hình sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến CSP. Ngay xã luận báo "Washington Post" cũng đã nêu yêu cầu nhân chuyến thăm Hà Nội, Tổng thống Biden cần đề cập đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Tuy nhiên, phát biểu của ông Biden về vấn đề này đã bị cơ quan kiểm duyệt của Hà Nội thẳng tay cắt bỏ (9).

Hoàng Trường Sa

Nguồn : RFA, 14/09/2023

Tham khảo :

1. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/vinh-hoa-bo-luc-phong-tran-chu-tinh-ngay-lai-them-xuan-mot-ngay-119230911174358452.htm

2. https://www.voatiengviet.com/a/tt-biden-tham-viet-nam-con-duyen-may-lai-con-nguoi-/7252036.html

3. https://vnexpress.net/tong-thong-my-lay-kieu-trong-tiec-chieu-dai-cua-chu-tich-nuoc-4651713.html

4. https://edition.cnn.com/2023/09/10/politics/takeaways-joe-biden-g20-vietnam/index.html

5. https://www.nytimes.com/2023/09/09/world/asia/vietnam-russia-arms-deal.html

6. https://www.youtube.com/watch?v=03XZRoR8Sw0  (Bất ngờ ý kiến của Nga về sụ nâng cấp quan hệ Việt Mỹ !)

7. https://www.globaltimes.cn/page/202309/1297929.shtml

8. https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/phan-chau-trinh-voi-tu-tuong-canh-tan-dat-nuoc.html

9. https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/how-us-support_vn_democracy-human-rights-09042023094206.html

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Lê Thùy Dương, Trường Sơn
Read 192 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)