Nhà báo, luật sư Đặng Thị Hàn Ni và luật sư Trần Văn Sỹ nhận tội trong phiên tòa hôm 1/3. Sự nhận tội và bản án của hai người này nói lên điều gì?
Luật sư, nhà báo Đặng Thị Hàn Ni, Luật sư Trần Văn Sỹ và Luật sư Đặng Anh Quân (từ trái sang phải) bị bắt liên quan tới vụ bà Nguyễn Phương Hằng
Sau khi bị bắt giữ và khởi tố hình sự về tội danh theo điều 331 Bộ luật Hình sự vì những phát ngôn bị cho là xâm phạm đến cá nhân bà Nguyễn Thị Phương Hằng từ khoảng một năm trước, sáng ngày 1/3/2024, hai luật sư Đặng Thị Hàn Ni và Trần Văn Sỹ đã bị Tòa án Nhân dân TP Hồ Chí Minh đưa ra xét xử và nhận hình phạt, lần lượt mỗi người là 18 tháng và 24 tháng tù giam.
Theo tường thuật từ truyền thông trong nước, tại phiên xét xử, cả hai đều nhận tội. Bên cạnh đó, vẫn theo tường thuật của truyền thông, các luật sư của họ cũng bào chữa theo hướng có tội và đề nghị tòa án xem xét cho họ chịu mức hình phạt tương đương với thời gian tạm giam, tức là 12 tháng.
Đọc dòng tin, có lẽ công chúng sẽ phải tự hỏi: Nếu họ là luật sư và biết rằng họ phát ngôn như thế là vi phạm pháp luật như đã thừa nhận trong phiên tòa, thế tại sao họ vẫn thực hiện ?
Dĩ nhiên, không cần là luật sư, chỉ với sự hiểu biết bình thường thì chẳng có ai dại dột đến mức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của mình một cách công khai, trước hàng ngàn, thậm chí, hàng chục, hàng trăm ngàn người như thế bằng cách livestream trực tiếp trên nền tảng mạng xã hội.
Để rồi họ phải trả giá đắt, không chỉ bằng nghề nghiệp của mình, mà còn là sức khỏe, thời gian, uy tín… vì bản án có tội và những năm tháng tù đày.
Câu trả lời chỉ có một. Rằng họ chưa từng bao giờ đánh giá rằng những phát ngôn của họ là vi phạm pháp luật cả và tôi cũng vậy, đến thời điểm này, sau khi đã nghe kết quả xét xử, tôi vẫn khẳng định rằng những phát ngôn của họ là hoàn toàn hợp pháp, không vi phạm pháp luật. Nếu có, chỉ là lỗi dân sự mà thôi.
Cơ sở để tôi khẳng định không phải bằng sự cảm tính, mà trên cơ sở pháp luật. Luật quốc nội lẫn công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Với luật quốc nội, Hiến pháp, tại Điều 25, quy định về quyền tự do ngôn luận của công dân.
Với công ước quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về các quyền Chính trị và Dân sự năm 1966, chính quyền Việt Nam đã ký kết tham gia công ước năm 1982, tại điều 19 cũng quy định về quyền tự do ngôn luận.
Theo đó, các điều luật 331 và 117 của Bộ luật Hình sự hiện hành chế tài các phát ngôn của công dân đều vi phạm Điều 25 Hiến pháp và Điều 19 Công ước Liên Hợp Quốc.
Thế nên, chúng đều là những điều luật vi hiến và bất hợp pháp. Trong trường hợp đó, tòa án không có quyền vận dụng điều luật vi hiến, bất hợp pháp để kết tội công dân được.
Dĩ nhiên, quyền tự do ngôn luận không phải là một quyền tuyệt đối. Ranh giới của quyền tự do ngôn luận chính là lợi ích của người khác, tổ chức khác bị xâm phạm.
Tham chiếu luật pháp của các quốc gia văn minh trên thế giới, thì sự xâm phạm ấy chỉ bị đánh giá là lỗi dân sự mà thôi. Người bị xâm phạm có quyền khởi kiện vụ án dân sự tại tòa án để yêu cầu bồi thường. Việt Nam là một quốc gia hiếm hoi xem việc “Lợi dụng quyền tự do dân chủ” như là một tội danh hình sự.
Chúng ta cứ thử tìm trên trang tìm kiếm sẽ thấy những người như ông Lý Hiển Long, Thủ tướng Singapore, đã từng rất nhiều lần sử dụng quyền khởi kiện dân sự đối với những người phỉ báng mình để yêu cầu bồi thường danh dự.
Nếu ở Việt Nam, người phỉ báng tương tự đã phải chịu mức phạt hình sự trên mức 10 năm tù giam vì xúc phạm lãnh tụ, lãnh đạo.
Chưa kể rằng, trong các vụ án xét xử về tội danh theo Điều 331 hoặc Điều 117 Bộ luật Hình sự đều phải áp dụng thủ tục giám định tư pháp về nhận thức, quan điểm, tư tưởng của nghi can.
Điều này cũng lại là một “đặc sản” riêng có trong luật pháp hình sự Việt Nam. Trên thế giới, thì nhận thức, quan điểm, tư tưởng đều là các ý niệm tự do. Chính quyền không phán xét nên không có bất kỳ định chế tư pháp nào để giám định về chúng cả.
Ngoài ra, một khi công an và công tố cùng nhau quyết định việc bắt giữ, khởi tố, tạm giam… thì hầu như sự đảo ngược lại quyết định đó là bất khả kháng. Vấn đề còn lại là hình phạt như thế nào mà thôi và đây cũng là dư địa co giãn tùy thuộc vào thái độ của người bị xét xử.
Là người trong nghề, hai luật sư Đặng Thị Hàn Ni và Trần Văn Sỹ cùng các luật sư của họ rất hiểu điều đó và dĩ nhiên, họ cố gắng đạt được lợi ích cao nhất trong vụ án là hình phạt tù giam thấp nhất.
Vì vậy, chỉ bằng giải pháp nhận tội, thậm chí, nhận tội thành khẩn mới là cách thức duy nhất để đạt lợi ích đó và cả hai luật sư đã chọn giải pháp nhận tội.
Vụ án xét xử hai luật sư Đặng Thị Hàn Ni và Trần Văn Sỹ cũng cho thấy sự khác biệt lớn nếu so sánh giữa những người lên tiếng vì mục đích tranh đấu, phản biện làm cho xã hội tốt đẹp hơn.
Một khi họ tự đánh giá rằng mình thực hiện quyền tự do ngôn luận do Hiến pháp công nhận, thì hầu như không ai trong số họ nhận tội khi bị xét xử bao giờ.
Thế nên, hình phạt của họ bao giờ cũng rất nặng nề hơn rất nhiều lần, tuy rằng xét xử với cùng tội danh.
Điều này cho thấy sự nhận tội của cả hai luật sư Đặng Thị Hàn Ni và Trần Văn Sỹ trong phiên tòa xét xử vào ngày 1/3/2024 không phải vì họ có tội, mà chỉ là một sự tính toán thiệt hơn mà thôi.
Đánh giá về vụ án, công chúng nên giữ góc nhìn khách quan như vậy.
Đặng Đình Mạnh
Nguồn : BBC, 02/03/2024