Kết quả cuộc bầu cử vừa qua ở Mỹ hẳn đã tạo ra một chấn động "kinh hoàng". Kinh hoàng đến độ ở cách nửa vòng trái đất và bình lặng như Úc Đại Lợi mà, bên cạnh rất nhiều người vỡ òa vì vui mừng "ăn theo" cũng không thiếu người thật sự đau buồn. Đã hơn hai tuần rồi mà nhà tôi vẫn còn cảm thấy bần thần. Riêng tôi, đây là lần thứ hai trong cuộc đời sắp đến ngày tàn của mình, tôi cảm được thế nào là nỗi đau buồn nhức nhối vì thời cuộc.
Nghị Viện Âu Châu công bố Nghị Quyết 1481 để quăng chủ nghĩa cộng sản vào sọt rác của lịch sử
Lần thứ nhứt, dĩ nhiên, đó là ngày Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản Bắc Việt. Ngày hôm đó tôi cảm thấy như trời sập đến nơi. Phải nói là "buồn muốn chết được". Chỉ có điều tôi không có đủ khí tiết và dũng cảm của một số tướng lãnh và sĩ quan trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa để tự kết liễu cuộc sống của mình. Nhưng có lẽ cũng nhờ sống lây lất dưới chế độ cộng sản hơn 7 năm mà năm 1982, khi đặt chân đến Pháp, tôi đã tự hào tuyên bố với bất cứ người Pháp nào mà tôi được dịp tiếp xúc và trao đổi rằng tôi đã "sờ" được (toucher du doigt) ý thức hệ và chủ nghĩa cộng sản. Nó chẳng là cái quái gì cả.
Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ vào năm 1989 và nhứt là năm 2006, sau khi Nghị Viện Âu Châu công bố Nghị Quyết 1481 để quăng chủ nghĩa cộng sản vào sọt rác của lịch sử, thế giới và nhứt là nước Pháp, nơi tôi được đón nhận làm người tỵ nạn, mới nhận ra rằng các chế độ độc tài cộng sản trong thực chất chỉ là một bọn dối trá, lừa bịp, thù hận, độc ác và nhứt là tham tàn và trong suốt hơn 70 năm qua, tất cả các lãnh tụ cộng sản từ Lenin, Stalin đến Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và ngày nay Tập Cận Bình, Kim Jong Un và các lãnh tụ chóp bu ở Việt Nam, tất cả đều là những tên bịp bợm, độc ác và tham lam.
Ngày nay, khi những người bạn Úc tỏ ý muốn tìm hiểu về ý thức hệ hay chủ nghĩa cộng sản, tôi thường bảo họ hãy dẹp sách vở qua một bên và nhìn thẳng vào những gì đang diễn ra trong chính trường Việt Nam. Chắc chắn họ sẽ thấy rằng chẳng có đấu tranh giai cấp, chẳng có cái búa nào của công nhân hay cái liềm nào của nông dân như lúc nào cũng được in trên những lá cờ đỏ nhuộm mọi góc trời Việt Nam. Và dĩ nhiên nếu có bình đẳng thì đương nhiên các lãnh tụ và các đảng viên "bình đẳng hơn" thường dân ! Còn chuyện "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu" có lẽ chỉ có trong "thiên đường mù". Thực tế trước mắt mà mọi người đều có thể thấy được là : "ông quan" cộng sản nào cũng có xe hơi hạng sang, biệt phủ "hoành tráng", lương tháng thua cả tiền trợ cấp được chính phủ Úc dành cho một người già như tôi, vậy mà vẫn thừa tiền để gởi con cái du học ở các nước dân chủ Tây phương. Tầng lớp lãnh đạo hiện nay đã trâng tráo hiện nguyên hình là một bọn cướp ngày.
Quyền lực, quyền lợi và cụ thể tiền : đó là "lý tưởng cộng sản" hiện nay. Mới đây, một cặp vợ chồng quen đang nghỉ hưu, nhân dịp qua Úc thăm con, có ghé chơi với chúng tôi. So với với rất đông người Việt Nam khác, họ có một cuộc sống không hơn ai nhưng tương đối ổn định. Về hưu, ngoài lương hưu thì họ cũng có vài căn hộ nhỏ cho thuê mà theo họ là tất cả dành dụm sau khi lo cho con học thành tài. Họ cũng thành thật cho biết cả hai đều đã từng là đảng viên. Đã là đảng viên thì đương nhiên hàng tháng phải đi họp chi bộ và làm theo những chỉ thị của đảng. Thế rồi nghỉ hưu họ cũng nghỉ chơi với đảng luôn. Họ giải thích rằng ở Việt Nam hiện nay vào và ra khỏi đảng cũng dễ như trở bàn tay : chả cần phải tuyên bố trả thẻ đảng gì cả ; rời cơ quan, không họp chi bộ, không khai báo với chi bộ địa phương là xong chuyện.
Họ là điển hình của trên 5 triệu đảng viên cộng sản Việt Nam hiện nay. Đa số vào đảng là vì một chút cơm thừa canh cặn từ bàn ăn quyền lợi của giai cấp lãnh đạo. Ngày nay, có lẽ ngoại trừ ông Nguyễn Phú Trọng, người đã từng ra rả tuyên bố quyết tâm xây dựng xã hội chủ nghĩa cho đến cùng dù có phải mất đến cả trăm năm nữa, có lẽ từ trên xuống dưới chẳng còn ma nào là một người cộng sản nữa.
Thật là mỉa mai khi trong các cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại, nhứt là tại Hoa Kỳ, hễ ghét nhau là người ta chụp lên đầu đối thủ của mình cái mũ cộng sản. Tại cái quốc gia luôn tự hào là vĩ đại này, có lẽ ông thánh tổ của đạo chụp mũ cộng sản không ai khác hơn là tổng thống đắc cử Donald Trump. Vào những dịp lễ nghỉ của Hoa Kỳ như Giáng Sinh, Phục Sinh hay Tạ Ơn, nội dung không bao giờ thay đổi của thông điệp của ông lúc nào cũng là rủa sả cái bọn dân chủ Mác xít, cộng sản... Trong suốt thời gian tranh cử vừa qua, cái mũ to tướng nhứt mà ông chụp lên đầu bà Kamala Harris là hai chữ "đồng chí".
Kỳ thật, ai mới thực sự xứng đáng được tặng cho cái mũ cộng sản cho bằng ông. Ai quán quân về việc nói dối trong chính trường Mỹ ? Ai gọi báo chí và truyền thông trong một thể chế dân chủ là "kẻ thù của nhân dân" ? Ai gọi những đối thủ của mình là "những kẻ nội thù" và đòi đưa họ ra xử bắn ? Ai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với các nhà độc tài ? Ai muốn các cộng sự viên, nhứt là các tướng lãnh trong quân đội, phải tuyệt đối trung thành với mình như các tướng lãnh của Hitler ?... Tôi nghĩ người được đa số dân Mỹ bầu làm nguyên thủ quốc gia của họ hội đủ tất cả những thuộc tính của một người cộng sản như đang hiện hình trong các chế độ cộng sản, nhứt là tại Việt Nam. Và đây chính là điều mà một người đã từng sống dưới chế độ cộng sản và biết thế nào là cộng sản như tôi cảm thấy đau buồn.
Đau buồn nhứt là vì tôi không thể hiểu được tại sao người dân tại một quốc gia đầu tàu và là ngọn hải đăng của nền dân chủ trên thế giới đã đưa lên bệ nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo thế giới một người xét về mọi mặt đều tồi tệ như Donald Trump.
Trong hai tuần lễ vừa qua, ngày nào tôi cũng cố theo dõi các phân tách của báo chí để tìm hiểu lý do tại sao một người như Donald Trump đã chiến thắng và chiến thắng oanh liệt như thế trong cuộc bầu cử vừa qua. Riêng tôi thấy có hai lý do.
"Không cần biết" Donald Trump có dối trá, kỳ thị, hận thù, ngu dốt và đồi bại cỡ nào, miễn là ông hứa "Maga" : "làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại" là được.
Chiến thắng áp đảo của ông đến từ lá phiếu của 80 phần trăm tín đồ Tin Lành da trắng tại Mỹ. Năm 2016, rồi năm 2020 và năm nay, tỷ lệ ủng hộ ông của thành phần Kitô hữu này không hề thay đổi. Với họ, dù ông có đồi bại đến đâu, ông vẫn là người được Chúa "tuyển chọn" để đưa Kitô giáo, dĩ nhiên của người da trắng, trở lại địa vị thượng tôn và độc tôn. Mặc dù chống Trung Quốc cỡ nào, ông vẫn nhờ nước này in quyển "Kinh Thánh của Trump" (Trump Bible) để phát huy và quảng bá Kitô giáo. Ông cho biết đã đọc và nghiền ngẫm "Kinh Thánh" đến độ khi được hỏi đâu là câu Kinh Thánh ông ưa thích nhứt, ông đã trả lời rằng đó là câu "mắt đền mắt răng thế răng" (Sách Leviticus trong Cựu Ước 24, 19-21). Chúa Giêsu mà có trở lại chắc cũng phải tôn ông lên bậc thầy !
Những người Mỹ vỗ ngực tự xưng "có đạo" đã bầu một người như thế làm tổng thống hai lần. Điều đáng suy nghĩ là ngày nay hầu hết các xã hội phát triển đều ngày càng có khuynh hướng "thế tục" hóa, nghĩa là ngày càng có ít người tuyên xưng hay thực hành một tôn giáo. Nhưng Mỹ là một ngoại lệ. Quốc gia giàu mạnh nhứt thế giới này vẫn có tỷ lệ những người có tôn giáo cao. Có đến 69 phần trăm người dân Mỹ đòi hỏi rằng tổng thống của họ phải là người có niềm tin tôn giáo (Kitô giáo) vững mạnh. Nhưng xét về mặt xã hội, liệu cái quốc gia lúc nào cũng "được Chúa chúc lành" (God bless America) hay "cầu mong Chúa chúc lành" (May God bless America) này có tốt hơn những quốc gia có tỷ lệ "vô thần" cao không ? Điều làm tôi suy nghĩ là những nước như Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy và Hòa Lan, vốn là những xã hội tục hóa và vô thần nhứt thế giới lại là những nước trong đó người dân có tuổi thọ cao, tỷ lệ tội phạm thấp, học vấn cao, bình đẳng giới tính và kinh tế cao, mọi người dân đều được hưởng chăm sóc y tế và giáo dục như nhau, chính trị ổn định, hầu như không có tham nhũng, quảng đại trợ giúp các nước nghèo... (1).
Ngày nay có lẽ ở đâu cũng có những chính trị gia dân túy. Nhưng tôi tin rằng ở những nước Bắc Âu "vô thần" có lẽ người ta sẽ chẳng bao giờ có cái "can đảm" bầu vào vị trí lãnh đạo một người vỗ ngực tự xưng "có đạo" như Donald Trump.
Ngoài tôn giáo, một yếu tố khác đã đưa một người tồi tệ như Donald Trump lên làm nguyên thủ quốc gia đó là thái độ mà một nhà báo Việt Nam nổi tiếng ở Úc là Nguyễn Hoàng Văn gọi là thái độ "không cần biết" của những người theo chủ nghĩa "Maga" (2). "Không cần biết" Donald Trump có dối trá, kỳ thị, hận thù, ngu dốt và đồi bại cỡ nào, miễn là ông hứa "Maga" : "làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại" là được. Như nhà báo Nguyễn Hoàng Văn đã viết : "Triết lý đầu tiên của bất cứ "Maga quân" nào, như cái tên của nó, là "làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại", ngụy tín xây dựng trên nền tảng "không cần biết". "Không cần biết" là nước Mỹ phải quay trở lại với thời kỳ cụ thể nào, đời tổng thống nào, bởi như sử gia Robert Kagan từng nhấn mạnh, nước Mỹ chưa bao giờ có một thời "hoàng kim" như thế để mà hoài cổ hay phục hưng. Chỉ biết Trump đã đưa ra một khẩu hiệu như thế, tất phải hò reo theo như thế".
Báo Huffpost đã ghi lại một thái độ "không cần biết" điển hình. Một buổi sáng nọ, sau cuộc bầu cử, một cựu nhân công trong ngành xây dựng chỉ mới 45 tuổi, nhìn vào cảnh nghèo tại một thành phố thuộc Tiểu bang Pennsylvania và nghĩ rằng đất nước này cần thay đổi lãnh đạo. Người đàn ông này nói rằng ông không thích khuynh hướng độc tài của ông Trump, nhưng cho rằng đây là cách để giúp cho đất nước khỏi chiến tranh và có thể mang lại hòa bình cho những nơi đang có xung đột như Ukraine. Người công nhân này nói : "Ông ta (Trump) vừa tốt vừa xấu. Người ta nói ông là một nhà độc tài. Tôi tin thế. Tôi thấy ông giống Hitler. Nhưng tôi đã bỏ phiếu cho ông" (3).
Nhắm mắt làm ngơ, dửng dưng trước tội ác cũng là tội ác bởi lẽ chính trị cũng là đạo đức.
Thái độ "không cần biết" của đa số người dân Mỹ trong cuộc bầu cử vừa qua đưa tôi trở về thời kỳ Hitler và Đức Quốc Xã cai trị nước Đức. Viktor Frankl, một chuyên gia tâm lý trị liệu người Áo nổi tiếng đã từng bị giam giữ trong nhiều trại tập trung của Đức Quốc Xã. Được may mắn sống sót và trở về sau Đệ Nhị Thế Chiến, thay vì bỏ nước ra đi, ông đã chọn ở lại để nói cho mọi người biết sự độc ác của Đức Quốc Xã. Những người Áo mà ông đã trở về để sống với họ đã khiến ông ngỡ ngàng khi nói rằng họ không hề hay biết về những điều khủng khiếp đã xảy ra trong các trại tập trung. Nhưng theo ông, không phải họ không biết mà đã "chọn lựa" không biết ! Frankl cho rằng động lực khiến rất nhiều người dân Đức và Áo đã "chọn lựa" không biết những tội ác của Đức Quốc Xã chính là lẩn tránh mọi ý thức trách nhiệm hay tội lỗi về những những tội ác ấy (4).
Theo tôi, nhắm mắt làm ngơ, dửng dưng trước tội ác cũng là tội ác bởi lẽ chính trị cũng là đạo đức. Liệu dồn phiếu cho một kẻ mà mình biết rõ là một tên bịp bợm, dối trá, lừa đảo, kỳ thị, hận thù, độc ác, tồi tệ về mọi mặt... có nên bị xem là một hành vi vô đạo không ?
Còn tôi, tôi có nên "không cần biết" sự thật là "người mà ai cũng biết là ai đó" một lần nữa đã được bầu làm nguyên thủ nước Mỹ và lãnh đạo cả thế giới ?
Chu Văn
(19/11/2024)
Chú thích :
1. Sam Harris, The Moral Landscape, Bantam Press, 2012, trg 188-189
2. Nguyễn Hoàng Văn, Từ Mao đến Trump và lời cảnh cáo của Sakharov, Việt Báo, 15/11/2024
3. Josephine Harvey, "Maga in a nutshell" : voter’s wild explanation for backing Trump goes viral, Huffpost, 13/11/ 2024
4. Victor E.Frankl, Yes to life in spite of everything, Penguin Random House, UK 2019, trg 12-13