Như thông lệ, vào trung tuần tháng hai hàng năm, báo chí Việt Nam thường đăng tải những bài viết về chiến tranh Việt-Trung 17 tháng hai năm 1979.
Bia ghi nhớ cuộc thảm sát 43 phụ nữ và trẻ em tại tổng Húp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An do quan Trung Quốc gây ra trong cuộc chiến tranh Việt-Trung 17/02/1979
Trên BBC có đăng lại bài viết của tác giả người Hung, Tiến sĩ Balazs Szalontai, tựa đề "Đàm phán biên giới Việt Trung 1974-1978". Tác giả cho biết nguyên nhân chính đưa đến xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc là vấn đề "tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa" :
"Tài liệu từ văn khố Hungary đã hé lộ cho thấy nguyên nhân chính gây ra cuộc xung đột Việt Trung là một vấn đề mà Liên Bang Xô Viết chẳng có dính dáng gì tới : đó là cuộc tranh chấp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa."
Dữ kiện này (nếu có thật) thì là chuyện ngạc nhiên. Vì nó trái ngược với tất cả các tài liệu (đã được giải mã) của các bên, từ phía Trung Quốc, Việt Nam hay Hoa Kỳ…
Trung Quốc đã mở đầu cuộc chiến khi xua quân tràn qua biên giới ngày 17 tháng hai năm 1979. Quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm từ tháng giêng 1974. Dĩ nhiên Trung Quốc không thể vịn vào "tranh chấp Hoàng Sa" để biện hộ cho hành vi xâm lược. Bởi vì quần đảo này đã yên ổn trong tay họ.
Về phía Việt Nam (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa), nếu xét sâu xa ở phương diện lịch sử thành hình biên giới Việt-Trung, vấn đề Hoàng Sa cũng là chuyện "đã rồi", ít ra trong khoản thời gian từ năm 1958 cho đến đầu thập niên 70 của thế kỷ trước. Ngay cả lúc sau này Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thay đổi lập trường, thì kết luận "tranh chấp Hoàng Sa" là nguyên nhân đưa đến cuộc chiến cũng là điều khó thuyết phục.
Các học giả quốc tế, không ngoại lệ, đều cho rằng nguyên nhân chủ yếu đưa đến cuộc chiến "Đông Dương lần thứ ba" là yếu tố Liên Xô mà Tiến sĩ Balazs Szalontai đã loại trừ.
Cuộc chiến nhìn từ phía Trung Quốc
Tác giả King C. Chen trong "China’s War Against Vietnam" kể lại buổi họp ngày 16 tháng hai 1979 tại Bắc Kinh do Hoa Quốc Phong chủ trì, 17 tiếng đồng hồ trước khi lệnh nổ súng ban ra. Đặng Tiểu Bình có bài thuyết trình cho các lãnh đạo cộng sản Trung Quốc về bản chất và mục tiêu cuộc chiến.
Theo họ Đặng bản chất cuộc chiến là "hoàn kích tự vệ". Cuộc chiến được "giới hạn" về thời gian, không gian cũng như về qui mô. Mục tiêu là dạy cho Việt Nam một "bài học".
Gọi "hoàn kích tự vệ chiến", tức đánh trả để tự vệ, bởi vì Việt Nam đã "trục xuất kiều dân người Hoa" cũng như bộ đội Việt Nam nhiều lần mở các cuộc tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc, chiếm đất của Trung Quốc cũng như gây nhiều thiệt hại về nhân mạng.
Mục tiêu "cho Việt Nam một bài học", bởi vì "Việt Nam cực kỳ ngạo mạn", xâm lược Campuchia, khoa trương thế lực là "cường quốc thứ ba trên thế giới".
Học giả Trung Quốc, Xiaoming Zhang, trong "China’s 1979 War with Vietnam : A Reassessment", dẫn Nayan Chanda của Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông, rằng cấp lãnh đạo Trung Quốc, trong một cuộc họp Bộ Chính Trị hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978, đã ra quyết định "dạy cho Việt Nam bài học" vì thái độ "vô ơn và ngạo mạn".
Theo tác giả này, trong 20 năm Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội trên 20 tỷ đô la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nhưng sau 1975 Việt Nam buộc người Hoa hồi cư đồng thời gia tăng chiến sự trên biên giới. Rõ ràng đây là thái độ phủi ơn và hống hách. Ngoài ra còn có vấn đề can thiệp quân sự vào Campuchia.
Tác giả cũng dẫn ý kiến của Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, trong một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu QGPND tháng 9 năm 1978. Nội dung nói về "làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam".
Ý kiến của Châu Đức Lễ (về việc Việt Nam chiếm đất của Trung Quốc) được củng cố nếu ta xét tài liệu "mật" của CIA Mỹ về cuộc chiến 1979 đã được bạch hóa. Theo tài liệu này thì Việt Nam chiếm khoảng 60km² đất của Trung Quốc.
Nhưng ý nghĩa của cuộc "phản công tự vệ chiến" (vì Việt Nam chiếm 60km² đất của Trung Quốc) là không có căn cứ. Theo nghiên cứu của cá nhân, chuyện Việt Nam chiếm 60km² đất của Trung Quốc là chuyện "bịa đặt" để Trung Quốc "lấy cớ" đánh Việt Nam.
Cuộc chiến đã xảy ra đúng như họ Đặng đã nói. Thời gian xung đột chỉ trong một tháng (quân Trung Quốc hoàn tất việc rút quân vào ngày 17 tháng 3 năm 1979). Địa bàn chiến tranh chỉ ở các tỉnh biên giới. Về "qui mô", Trung Quốc cũng giới hạn không sử dụng hải quân và không quân.
Không có một dòng nào để ta có thể nghĩ rằng cuộc chiến biên giới 1979 có mối liên quan với vấn đề tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.
Cuộc chiến nhìn từ học giả nước ngoài
Theo cái nhìn của cá nhân tôi, thuyết phục hơn hết là "nguyên nhân chiến lược", dẫn từ tham luận "Security Issues in Southeast Asia : The Third Indochina War" của học giả Carlyle Thayer, đọc tại Hội Nghị "An Ninh và Kiểm Soát Vũ Khí tại Bắc Thái Bình Dương", Đại học Quốc gia Úc (Canberra) tháng tám 1987.
Theo học giả Carlyle Thayer, Trung Quốc (và cả khối ASEAN) lo ngại sự thành hình của "liên minh chiến lược Đông dương" mà liên minh này thân Liên Xô. Quan niệm của Việt Nam "Đông dương là một đơn vị chiến lược duy nhứt, một chiến trường duy nhứt". Quan niệm này đã thể hiện qua hai cuộc "chiến tranh Đông dương", lần thứ nhứt giữa Bắc Việt với "thực dân Pháp" và lần hai giữa Bắc Việt với "đế quốc Mỹ". Cuộc chiến 1979 được gọi là "cuộc chiến Đông dương lần thứ ba", Việt Nam gọi Trung Quốc là "bọn bành trướng bá quyền".
Nếu khảo sát sơ lược các diễn tiến lịch sử đã qua, ta thấy lý thuyết của học giả Carlyle Thayer được chứng minh. Điều này cũng "ăn khớp" với cái nhìn từ Trung Quốc.
Khúc quanh làm sụp đổ quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ năm 1976, khi Liên Xô hứa hẹn viện trợ cho Việt Nam 3 tỉ đô la. Số tiền này bằng số tiền mà Mỹ hứa sẽ viện trợ, (nếu Việt Nam tôn trọng hiệp định Paris). Việt Nam trở thành "vệ tinh" của Liên Xô từ lúc này.
Từ năm 1965 đến 1975, Liên Xô đã trở thành nhà cung cấp chính yếu các nhu cầu kinh tế và quốc phòng để Việt Nam tiếp tục chiến tranh với Mỹ. Mỹ và Trung Quốc đã có những thỏa thuận quan trọng từ năm 1972. Năm 1973 Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Tất cả những nỗ lực của Trung Quốc giúp cho Việt Nam, trong 20 năm (từ 1950 đến 1970) là 20 tỉ đô la, nhằm mục đích phòng thủ về phía nam. Sau khi đạt thỏa thuận với Mỹ, Trung Quốc hạn chế mọi viện trợ kinh tế và quốc phòng cho Việt Nam.
Nhưng sau đó Liên Xô ảnh hưởng lên Việt Nam, đồng thời với Afghanistan cũng như Mông cổ và Bắc Hàn. Rốt cục Trung Quốc bị bao vây chặt chẽ từ bốn hướng bởi một kẻ thù chiến lược khác, nguy hiểm hơn cả Mỹ, vì Liên Xô có tham vọng về lãnh thổ còn Hoa Kỳ thì không.
Cũng năm 1976, những nhân vật thân Trung Quốc, như Hoàng Văn Hoan, bị loại khỏi Bộ Chính trị và mất hết các chức vụ trong đảng.
Tháng bảy năm 1977 Việt Nam ký kết "Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác" với Lào có nội dung hỗ tương "tăng cường năng lực phòng thủ… chống lại mọi ý đồ và các hành vi phá hoại của đế quốc chủ nghĩa và các lược lượng phản động ngoại lai…".
"Đông dương là đơn vị chiến lược duy nhứt" theo quan điểm của Việt Nam đang được thành hình. Vấn đề là "đơn vị chiến lược" này thân Liên Xô.
Phản ứng của Trung Quốc qua Ngoại trưởng Hoàng Hoa là lên án "chủ nghĩa xét lại Xô Viết" đồng thời công khai cảnh cáo trước Việt Nam về hậu quả của một cuộc xâm lấn Campuchia.
Tiếp tục theo đuổi sách lược (bài Hoa thân Liên Xô) của mình, Việt Nam làm đơn xin gia nhập khối COMECON, là khối tương trợ về kinh tế do Liên Xô đứng đầu.
Hội nghị đảng tháng hai năm 1978, Hà Nội quyết định phát động chiến dịch "đánh tư sản mại bản" ở miền Nam. Có đến 30.000 doanh nghiệp tư nhân ở miền Nam bị "quốc hữu hóa" mà đa số do người Hoa làm chủ. Chiến dịch thanh lọc mà Trung Quốc gọi là "nạn kiều" cũng được phát động cùng thời kỳ. Hàng trăm ngàn người Việt gốc Hoa, phần lớn đã sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, không biết tiếng Hoa, cũng bị "trục xuất". Việc này tạo thành một cuộc "vượt biên" vĩ đại, bán chính thức, vì do chính công an Việt Nam đứng ra tổ chức. Hàng triệu người Việt Nam dùng vàng mua "vé" (trung bình 7 lượng vàng một đầu người) để lên những chiếc tàu đánh cá mong manh với hy vọng thoát thân. Trong khi hàng chục ngàn người Hoa sống ở miền Bắc thì theo đường bộ "vượt biên" trở về lục địa.
Đến thời điểm này nội bộ đảng Trung Quốc đã lên kế hoạch "cho Việt Nam một bài học".
Tháng sáu 1978, Trung Quốc cho đóng cửa hàng loạt tòa lãnh sự ở Việt Nam. Cùng lúc Việt Nam chính thức gia nhập khối COMECON. Tháng 11 hai bên Việt Nam và Liên Xô ký kết hiệp ước an ninh hỗ tương.
Để đối phó, Trung Quốc thiết lập những quan hệ chặt chẽ với Mỹ, Nhật cũng như các nước ASEAN. Hiệp ước "Hòa bình và hữu nghị" giữa Trung Quốc và Nhật cũng được ký kết (tháng tám 1978).
Hai bên Nhật và Trung Quốc (lục địa cộng sản) không hề tuyên bố chiến tranh trong Thế chiến Thứ II. Không có chiến tranh sao lại ký hiệp định "hòa bình" ? Lợi ích chiến lược có đủ lý lẽ để giải thích. Qua cuộc chiến với Việt Nam, Trung Quốc lấy được niềm tin với khối tư bản Mỹ, Nhật… Cũng từ lúc này Trung Quốc "cất cánh" thành công, qua các kế hoạch "tứ hiện đại", nhờ vào tư bản và kỹ thuật của Mỹ, Nhật.
Một tháng sau khi ký hiệp ước hỗ tương với Liên Xô, ngày 25 tháng chạp 1978 Việt Nam xua quân tiến vào lãnh thổ Campuchia.
Tức nước vỡ bờ, cuộc chiến 17 tháng hai 1979 là điều tất yếu phải đến.
Vấn đề là ta không hề thấy yếu tố Hoàng Sa "là nguyên nhân chính đưa đến cuộc chiến" trong bất kỳ lập luận nào của các học giả nước ngoài.
Yếu tố hoàng Sa trong quá trình đàm phán về biên giới
Lịch sử thành hình đường biên giới hai nước Việt Trung có nhiều uẩn khúc. "Đường biên giới lịch sử" giữa Việt Nam và Trung Quốc đã thành hình từ thời xa xưa "Nam quốc sơn hà nam đế cư". Nếu chỉ tính đường biên giới "qui ước", tức đường biên giới được tập quán quốc tế nhìn nhận, thì biên giới hai nước đã được phân định theo các công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895. Vấn đề là các công ước này đã nhượng nhiều ngàn cây số vuông đất của Việt Nam cho Trung Quốc.
Theo tài liệu "Sự thật về quan hệ Việt Trung", Nhà xuất bản Sự Thật, tháng 10-1979, đường hướng giải quyết tranh chấp về biên giới giữa hai nước Việt-Trung của Việt Nam được ghi lại khá cụ thể. Tháng 11 năm 1957, lãnh đạo cộng sản Việt Nam đề nghị với Trung Quốc : "hai bên giữ nguyên trạng 2 đường biên giới do lịch sử để lại. Các tranh chấp về biên giới, nếu có, sẽ giải quyết bằng thuơng lượng, theo luật pháp quốc tế".
Cũng theo tài liệu này, tháng 4 năm 1958, phía Trung Quốc trả lời đồng ý đề nghị của Việt Nam.
"Hai đường biên giới do lịch sử để lại" ở đây, dĩ nhiên, một là đường biên giới trên bộ, hai là đường biên giới trên biển (trong Vịnh bắc Việt - Golfe du Tonkin), do Pháp và nhà Thanh phân định năm 1887 (và năm 1895).
Vấn đề Hoàng Sa (và Trường sa) được hai bên đề cập nhân Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 Trung Quốc về hải phận và chủ quyền lãnh thổ của Cộng Hòa nhân dân Trung Quốc. Nội dung Tuyên bố gồm 4 điểm, tóm lược như sau :
Điểm 1 tuyên bố hải phận 12 hải lý áp dụng trên toàn lãnh thổ, kể cả các quần đảo Tây sa và Nam sa (tức Hoàng sa và Trường sa). Điểm 2 tuyên bố hệ thống đường cơ bản trên đất liền và các quần đảo ngoài khơi. Điểm 3 tuyên bố về vùng cấm không phận và hải phận đối với phi cơ và tàu bè quân sự nước ngoài. Điểm 4 khẳng định nội dung các điều 2 và 3 cũng được áp dụng cho các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…
Ngày 14 tháng 9 năm 1958 Thủ tướng Phạm văn Đồng ký công hàm tuyên bố Việt Nam "ghi nhận" và "tán thành" Tuyên bố đơn phương của Trung Quốc.
Công hàm cam kết : "Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển."
Tức là, đến thời điểm này Việt Nam nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Lập trường của Liên Xô (và khối xã hội chủ nghĩa) về chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thể hiện qua Hội nghị San Francisco 1951. Theo đó Liên Xô và các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa ủng hộ lập trường của Trung Quốc. Cả hai bên Trung Quốc, Mao và Tưởng, đều không tham dự hội nghị. Liên Xô là quốc gia "đại diện quyền lợi" cho Trung Quốc tại Hội nghị này.
Trong khi đó đại diện của Việt Nam Cộng Hòa tại Hội nghị là ông Trần Văn Hữu, nhân dịp này đã lên tiếng khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Quan điểm của Liên Xô không thay đổi, cho đến tháng giêng năm 1974. Liên Xô lên án Trung Quốc sử dụng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa. Quân lực Hoa Kỳ không can thiệp vì đã bị các điều ước của Hiệp định Paris 1973 ràng buộc. Trong khi miền Bắc (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) thì "im lặng" còn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từ khước ký vào bản lên án Trung Quốc xâm lăng Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa.
Cũng theo tài liệu dẫn trên, quan điểm của Việt Nam về biên giới trong Vịnh Bắc Việt, cho đến tháng 12 năm 1973 :
"Công ước Pháp-Thanh 1887, điều 2, đã nói rõ kinh tuyến Paris 105°53’ kinh tuyến đông (nghĩa là kinh tuyến 108°3’13’’ kinh tuyến đông Greenwich) là đường biên giới giữa hai nước trong vịnh Bắc bộ. Phía Việt Nam sẵn sàng bàn với phía Trung Quốc để xác định về cửa vịnh Bắc bộ, từ đó đi đến xác định chính thức đường biên giới trong vịnh."
Yêu sách của phía Việt Nam như vậy là hợp lý vì phù hợp với lịch sử và pháp lý.
Nhưng quan niệm của Trung Quốc, năm 1974, sau khi xâm lăng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam : "trong vịnh Bắc bộ xưa nay không hề có đường biên giới, nay hai nước phải bàn bạc phân chia."
Tức là phía Trung Quốc, trong chừng mực, đã "bội ước".
Hai công ước Pháp-Thanh về biên giới 1887 và 1895 đã nhượng cho Trung Quốc các vùng đất quan trọng về kinh tế và chiến lược. Gồm :
Bán đảo Bạch Long, tức khu vực phía đông-bắc Móng Cái, diện tích khoảng 300 cây số vuông. Khu vực này hiện nay vẫn còn có một nhóm "dân tộc Kinh" sinh sống (gọi là Kinh đảo, ngày xưa gồm ba đảo Sơn Tâm, Hà Vĩ và Vu Đầu).
Đất thuộc hai tổng Kiến Duyên và Bát Tràng thuộc tỉnh Hải Ninh.
Tổng Tụ long, thuộc Vị xuyên (Hà Giang hiện nay) diện tích khoảng 700km², là một vùng đất phong phú về quặng mỏ.
Trên lý thuyết Việt Nam có thể "đặt lại" hiệu lực các công ước 1887-1895, vì nhà nước bảo hộ Pháp đã "bội ước" (Dol), lấy đất của Việt Nam nhượng cho Trung Quốc để được lợi ích về kinh tế.
VN đã chấp nhận những thiệt thòi này trên đất liền vì (hy vọng) phía Trung Quốc cũng làm tương tự ở biên giới trong Vịnh Bắc Việt.
Nhưng sau khi Trung Quốc chiếm được Hoàng Sa, lập tức Trung Quốc "phủi sạch" mọi hứa hẹn trước kia (về hai đường biên giới) với Việt Nam.
Dĩ nhiên, thái độ của Việt Nam, sau 1975, là "lật ngược" lại những cam kết của mình trước kia đối với Trung Quốc, như vấn đề Hoàng Sa.
Vì vậy, kết luận của Tiến sĩ Balazs Szalontai, cho rằng "tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa" là "nguyên nhân chính" đưa đến xung đột Việt-Trung năm 1979 là không thuyết phục.
Có thể vấn đề "bội ước" của Trung Quốc là "giọt nước làm tràn ly". Nhưng lý do chính vẫn là Trung Quốc từ khuớc giúp miền Bắc "giải phóng miền Nam" (từ năm 1965), mà điều này mới là mấu chốt khiến Việt Nam "trở áo" với Trung Quốc để "đi" với Liên Xô.
Rốt cục Việt Nam chiến thắng trong cuộc chiến 1979. Quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam mà quân Việt Nam vẫn còn ở Campuchia cho đến mười năm sau.
Còn Việt Nam thì "học" được Trung Quốc một bài học để đời. Hội nghị Thành đô 1991 nói gì đến nay vẫn chưa ai biết. Kết quả thấy được là sau đó Việt Nam chấp nhận tất cả những yêu sách của Trung Quốc về biên giới.
VN mất đất trên biên giới (do các công ước Pháp-Thanh). Việt Nam ký kết Hiệp định biên giới trên đất liền tháng 12 năm 1999 với Trung Quốc, chấp nhận "mất thêm" một số vùng lãnh thổ khác (do cuộc chiến biên giới 1979). Tháng 12 năm 2000 Việt Nam ký kết với Trung Quốc Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ, đường biên giới mới được xác định. Việt Nam chịu lép vế không tính hiệu lực các đảo Bạch Long vĩ và Cồn cỏ đồng thời chấp nhận thiệt hại hàng chục ngàn cây số vuông biển (so với biên giới là đường kinh tuyến 108°3’13’’).
Riêng quần đảo Hoàng Sa thì không có gì để nói. Trung Quốc không chấp nhận bất kỳ đàm phán nào về quần đảo này. Ngoài ra Trung Quốc còn quân sự hóa, biến các đảo "chim ỉa" (nói theo ông Hồ khi nhượng quần đảo này cho Trung Quốc) trở thành những địa điểm trọng yếu về kinh tế và chiến lược.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : nhantuantruong.blogspot.fr, 25/02/2017