Covid-19 đẩy lùi tham vọng của Trung Quốc trong Sáng kiến Một vành đai một con đường
Chỉ mới cách đây một năm, tại một cuộc họp vào tháng 5/2019 ở Bắc Kinh, tập hợp lãnh đạo các nước trên thế giới đã tham gia vào Sáng Kiến Một Vành Đai Một Con Đường (Belt and Road Initiative-BRI), chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình còn phô trương đề án hạ tầng cơ sở to lớn của Bắc Kinh.
Toàn cảnh công trường xây cầu Peljesac nối liền Dubrovnik với phần còn lại của Croatia, do công ty Trung Quốc China Road and Bridge Corporation xây dựng. Reuters/Stringer
Thế nhưng một con virus nhỏ xuất hiện tại Vũ Hán mà Bắc Kinh thoạt đầu muốn che giấu, đã bắt đầu gây hại tại Trung Quốc trước khi lan rộng ra toàn thế giới, gây nên những thiệt hại không kể xiết.
Hậu quả, theo một phân tích của tuần báo Anh The Economist ngày 04/06/2020 vừa qua, là nhiều đề án của cái được gọi là Con Đường Tơ Lụa Mới của Trung Quốc đã bị dừng lại, nhiều nước tham gia đề án đang phải vật lộn để trả các khoản vay của Bắc Kinh, bản thân kinh tế Trung Quốc cũng đang suy yếu. Trong bài viết : "Đại dịch gây hại lớn cho Sáng kiến Một vành đai một con đường của Trung Quốc", tuần báo Anh nhận định, Con Đường Tơ Lụa lẽ ra phải mượt mà đã trở nên gập ghềnh hơn.
Theo The Economist, Sáng kiến Một vành đai một con đường là yếu tố trung tâm trong chính sách ngoại giao của ông Tập Cận Bình, được đưa vào cương lĩnh của Đảng cộng sản Trung Quốc vào năm 2017, được guồng máy tuyên truyền đồng loạt tán dương. Hoàn Cầu Thời Báo chẳng hạn cho rằng "Hợp tác trong khuôn khổ sáng kiến đã đạt đến cấp độ phát triển thượng thặng", còn Nhân Dân Nhật Báo Bắc Kinh thì khẳng định : "Nhất Đới Nhất Lộ sẽ trở thành chất xúc tác cho việc vực dậy kinh tế toàn cầu".
Từ năm 2013, khi sáng kiến này bắt đầu khởi động, Trung Quốc đã cấp phát hay cam kết hàng trăm tỷ đô la tín dụng hay viện trợ để xây dựng hàng loạt nhà máy điện, cảng biển, đường sắt, đường bộ và các cơ sở hạ tầng khác ở Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Đông Nam Á, Trung Á và Châu Âu.
Tuy nhiên, theo The Economist, với dịch Covid-19, bão tố đã nổi lên dọc theo 2 trục trên bộ và trên biển của Con Đường Tơ Lụa Mới.
Sau khi bị đại dịch Covid-19 quét qua, công trình xây dựng nhiều đề án đã bị đình chỉ, một số đã bị bỏ hẳn, một số khác mà lợi ích thực thụ đã bị nghi ngờ ngay từ trước khi có dịch, giờ đây đã bị coi là cồng kềnh, tốn kém mà lại vô ích. Nhiều khoản vay đáo hạn sắp lâm vào tình trạng không khả năng thanh toán, và các nước con nợ, bị Covid-19 đánh quỵ, đang tìm cách khất nợ đến hạn.
Vào tháng Hai vừa qua, Ai Cập đã dời lại vô thời hạn công trình xây dựng nhà máy nhiệt điện chạy bằng than ở Hamrawein do Trung Quốc tài trợ. Qua tháng 3, đến lượt Bangladesh hủy bỏ kế hoạch xây một nhà máy điện than ở Gazaria. Đến tháng Tư, Pakistan yêu cầu Trung Quốc nới lỏng thời hạn trả 30 tỷ đô la cho các đề án về năng lượng.
Nhiều quyết định hủy bỏ cũng kèm theo những lời đả kích cách Trung Quốc cho vay.
Tháng Tư vừa qua, tổng thống Tanzania John Magufuli tuyên bố sẽ hủy bỏ một đề án xây hải cảng trị giá 10 tỷ đô la ở Bagamoy, với lý do là người tiền nhiệm của ông đã ký kết đề án với những điều kiện mà chỉ có "người say rượu" mới chấp nhận – chủ yếu là việc Trung Quốc sẽ hoàn toàn kiểm soát, sử dụng cảng, với hợp đồng thuê nhượng trong 99 năm.
Trong tháng Năm, các nghị sĩ Nigeria cũng bỏ phiếu thông qua việc rà soát lại toàn bộ các khoản vay từ Trung Quốc cho những đề án mà Trung Quốc tài trợ, trong bối cảnh quan ngại nổi lên chung quanh việc các phần tài trợ này kèm theo những điều khoản không thuận lợi.
Công trình cũng bị đình hoãn do các biện pháp cách ly, an toàn y tế liên quan đến dịch Covid-19, trong đó có việc một số quốc gia hạn chế không cho nhân công Trung Quốc về nước nhân dịp Tết Nguyên Đán được trở lại làm việc.
Ví dụ được The Economist nêu bất là trường hợp Việt Nam. Các biện pháp an toàn cấm người từ Trung Quốc đã ảnh hưởng đến việc chạy thử tuyến đường metro mới ở Hà Nội. Hơn 100 chuyên gia Trung Quốc tham gia công trình đã không trở lại Việt Nam được. Bản thân dự án này cũng đã bị chậm trễ đến 4 năm so với dự kiến và với cái giá bị đội lên thành 800 triệu đô la cho 8 dặm đường ray, vượt xa ngân sách dự kiến.
Đối với The Economist, các tình huống này tạo ra nhiều vấn đề cho lãnh đạo Trung Quốc về mặt kinh tế, ngoại giao và chính trị, vì BRI gắn chặt với uy tín của chủ tịch Tập Cận Bình.
Trước tiên, sẽ có thua lỗ về tài chính. Nhiều quốc gia dùng tiền thu được nhờ xuất khẩu hàng hóa để chi cho các đề án Con Đường Tơ Lụa. Thế nhưng dịch Covid-19 đã làm giảm đáng kể nhu cầu về các hàng hóa này. Vấn đề đối với Trung Quốc là có nên giảm nợ, như một số quốc gia chủ nợ đôi khi làm, hay là vẫn giữ nguyên số nợ và duy trì các dự án trong khuôn khổ BRI càng nhiều càng tốt, bằng cách hoãn lại việc chi trả và kéo dài thời hạn, điều mà Trung Quốc vẫn làm ?
Đối với các chuyên gia, dẫu sao thì việc không trả được nợ cho Trung Quốc là điều không thể tránh khỏi. Và vấn đề đặt ra ở đây là trái với các thành viên Câu Lạc Bộ Paris, tập hợp các quốc gia chủ nợ lớn, không đòi thế chấp khi cho vay để phát triển, thì theo bà Carmen Reinhart, kinh tế trưởng sắp tới đây của Ngân Hàng Thế Giới, các ngân hàng Trung Quốc lại đòi thế chấp trên khoảng 60% tín dụng mà họ cấp cho các quốc gia đang phát triển.
Trên nguyên tắc một quốc gia chỉ có thể được hoãn nợ khi Trung Quốc giành được quyền kiểm soát một khu mỏ, một cái cảng hay khoản tiền đã thế chấp. Đấy chính là lý do vì sao các ngân hàng Trung Quốc chỉ muốn đàm phán lại các khoản nợ một cách song phương và kín đáo vì như vậy họ có phương tiện gây áp lực để chọn cách xử lý có lợi cho mình.
The Economist nhận định : Đó chính là yếu tố gây nên không ít rủi ro ngoại giao cho Trung Quốc vì đòi lấy tài sản từ những quốc gia vỡ nợ sẽ dẫn đến phẫn nộ.
Điều đó sẽ làm xấu đi hình ảnh của Trung Quốc tại những nước mà sáng kiến BRI muốn giúp đỡ, và càng làm tăng mối nghi kỵ trong giới diều hâu phương Tây là Trung Quốc sử dụng chiêu bài Con Đường Tơ Lụa để bắt chẹt các nước con nợ và qua đó giành quyền kiểm soát hạ tầng cơ sở phục vụ Trung Quốc trên mặt chiến lược.
Theo chuyên gia Scott Morris, thuộc Trung Tâm Phát Triển Toàn Cầu (Centre for Global Development), một cơ quan tham vấn tại Washington, thì nếu Trung Quốc tịch thu các tài sản mà các quốc gia con nợ đã thế chấp, phản ứng ngược lại sẽ rất nghiêm trọng.
Đối với ông Morris, rất có thể là Bắc Kinh sẽ xử lý một cách thận trọng, và trước khi kinh tế toàn cầu phục hồi lại, chắc chắn số dự án mới trong Sáng Kiến Một Vành Đai Một Con Đường sẽ ít đi : "Rất khó mà tưởng tượng được là BRI có thể giữ được mức độ tham vọng trước đây".
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI,09/06/2020
Sáu năm về trước (2013), sáng kiến đầy tham vọng của Bắc Kinh mang tên "Một vành đai, một con đường" (BRI) ra đời nhằm kết nối cơ sở hạ tầng dọc con đường tơ lụa trên bộ, nối Trung Quốc với Âu châu, và nguồn tiền được bảo trợ bởi Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (tiếng Anh : Asian Infrastructure Investment Bank - AIIB) của Bắc Kinh.
Đến năm 2017, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tổ chức một tiệc chiêu đãi 28 lãnh đạo các quốc gia nhằm giới thiệu BRI với các nước.
Tại vùng Đông Nam Á, Trung Quốc chi hàng tỷ USD để thuyết phục các nước về sáng kiến này, như một tham vọng của một cường quốc mới nổi.
Ngày 16/12/2018, bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Hợp tác Mekong-Lan Thương lần thứ 4 Lào, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị kêu gọi Việt Nam thúc đẩy việc kết nối sáng kiến Vành đai Con đường của Trung Quốc với kế hoạch BRI của Việt Nam.
Ngày 20/12/2018, tại Diễn đàn Xúc tiến Kinh tế Việt Nam – Trung Quốc, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung trong bài phát biểu cũng cho biết : để triển khai có hiệu quả sáng kiến của Trung Quốc, chính quyền Hà Nội mong rằng, trong thời gian tới sẽ tiếp tục đẩy mạnh hợp tác giữa Hà Nội, các tỉnh, Thành phố của Việt Nam với các tỉnh, Thành phố của Trung Quốc.
Trong tuyên bố chung nhân chuyến thăm của ông TBT Nguyễn Phú Trọng đến Trung Quốc vào đầu năm 2017, cũng khẳng định : Tích cực thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước, bao gồm kết nối khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai" với BRI.
Những dữ kiện nêu trên cho thấy tiến trình gắn kết dài hơi về mặt chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam với BRI.
Tuy nhiên, sáng kiến của Trung Quốc đang vấp phải những phản ứng ngược của các nước trong thời gian gần đây, khi câu chuyện "bẫy nợ từ sáng kiến" đang khiến các quốc gia dè chừng. Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh trong bài viết ngày 16/1 đã đặt câu hỏi "Sáng kiến Tập Cận Bình : Hỗn độn hay nguy hiểm ?", theo đó, sáng kiến Vành đai và Con đường còn bị lợi dụng để triển khai các dự án bất khả thi và tham nhũng.
Và thực sự, sáng kiến này đang trở thành một con đường tham nhũng thực sự, với sự duy trì quyền và tiền từ Bắc Kinh theo hướng "dùng tham nhũng nuôi BRI".
Mới đây nhất, hãng tin FP đã có bài viết sâu về tình trạng này qua trường hợp của Malaysia.
Thủ tướng Malaysia Najib Razak, người từng bắt tay nhiệt thành với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong buổi lễ chào mừng Diễn đàn về BRI tại Bắc Kinh vào ngày 15.5.2017. Và một năm sau, khi ông Najib Razak bị phế truất, chủ thể xuống tinh thần nhất lại là những quan chức ở Bắc Kinh.
Najib Razak – kẻ từng là Thủ tướng và giờ là tên tham nhũng tại Malaysia đã trải thảm đó tối đa cho Trung Quốc vào Malaysia. Các dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ do Trung Quốc hậu thuẫn mọc lên khắp nơi, cho đến khi vụ nổ 1MDB diễn ra.
Najib Razak bị cáo buộc là sử dụng số tiền mà Trung Quốc đổ vào Malaysia để nạp vào quỹ đang cạn kiệt (1MDB - cạn kiệt do ông Thủ tướng tham nhũng).
Wall Street Journal sau đó đã tiết lộ rằng, trong cuộc họp giữa quan chức Malaysia với các đối tác Trung Quốc, Malaysia lúc đó đề nghị Bắc Kinh tài trợ các dự án cơ sở hạ tầng tại Malaysia với kinh phí đội vốn (tiền mặt). Hàm ý rằng, số tiền "đội" lên này có thể được dùng để giải quyết khoản nợ của 1MDB.
Nếu đúng như những gì bị cáo buộc, thì rõ ràng, Trung Quốc đã khai thác các chế độ tham nhũng để thúc đẩy BRI. Cụ thể là, trình tự và thủ tục của việc cho phép một quốc gia bên ngoài xây dựng cơ sở hạ tầng trên vùng lãnh thổ luôn là một trình tự và thủ tục đặc biệt, nhất là tại các quốc gia đề cao sự minh bạch. Thế nhưng, tại các quốc gia tham nhũng, thì các khoản bôi trơn có thể làm cho mọi chuyện trở nên dễ dãi hơn. Điều này đồng nghĩa, sáng kiến này tương hợp với các chế độ tham nhũng, và mối quan hệ này có lợi hai chiều, khi các nhà lãnh đạo nhận BRI coi đây là cơ hội để duy trì và hợp pháp hóa tham nhũng của chính họ.
Nhiều quốc gia nhận đầu tư BRI phải chịu mức độ tham nhũng cao. Trong Ma trận rủi ro hối lộ của TRACE, hầu hết các quốc gia tham gia BRI đều xếp hạng ở mức dưới 50%. Điều này không khó giải thích, khi các chế độ tham nhũng thường có các quy trình lập pháp mơ hồ, cơ chế trách nhiệm yếu, các tổ chức truyền thông bị trói buộc và chính phủ độc tài không cho phép bất đồng chính kiến (nhằm phản biện).
Đối với các chính trị gia ở các quốc gia này, BRI cung cấp một loạt các công cụ để cho phép tham nhũng : cho phép chuyển đổi tiền mặt dễ dàng, cơ sở hạ tầng hoành tráng để xoa dịu dư luận xã hội, và mối quan hệ tốt với một trong những quốc gia hùng mạnh nhất thế giới.
Malaysia đã thể hiện sự năng động này.
Chẳng hạn, một doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc đã được trả trước 2 tỷ USD cho hai dự án đường ống của Malaysia mà nó mới chỉ bắt đầu xây dựng. Một dự án BRI khác, dự án hỏa xa Bờ Đông (East Coast Railway Link) của Malaysia, đắt đến nỗi các nhà chức trách nghi ngờ chi phí của nó bị thổi phồng một cách giả tạo (20 tỷ USD).
Và như đề cập phía trên, số tiền bị "thổi lên" đã được chính quyền Najib chi trả cho các khoản nợ của 1MDB.
Kazakhstan là một quốc gia nằm trong danh sách các nước hiện diện BRI, quốc gia dầu khí nhưng gắn với chế độ chuyên quyền này là một "mẫu ưa thích" của Bắc Kinh : Chính phủ Kazakhstan, một Chính phủ tham nhũng bậc cao, xếp hạng 3/180 quốc gia (từ dưới lên) theo Chỉ số Nhận thức Tham nhũng năm 2017 của Tổ chức Minh bạch Quốc tế.
Trở lại với câu chuyện Việt Nam, trong một nghiên cứu của Centre for Flobal Development đã cho thấy, 8.000 tỷ USD mà Trung Quốc đổ vào hạ tậng BRI trên khắp Á, Âu và Phi đang cho thấy sự thiếu bền vững trong diện rộng, gia tăng vỡ nợ có chủ quyền ở các nước tương đối nhỏ và nghèo, Việt Nam mặc dù được xếp hạng rủi ro thấp tuy nhiên, việc các nhà lãnh đạo cao cấp Việt Nam trong năm 2017 tuyên bố "hoan nghênh sáng kiến" cũng đã cho thấy những rủi ro tiềm năng đối với đất nước. Đó là vì sao, Việt Nam, bằng cách nào đó cũng đã và đang có khả năng trở thành "mẫu" tiếp theo của Trung Quốc (sau sự đổ vỡ ở các nước như Malaysia) trong triển khai dự án này.
Hoa Nghi
Nguồn : VNTB, 17/01/2019