Cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa Bùi Diễm qua đời là 'mất mát to lớn không gì thay thế'
Quốc Phương, BBC, 25/10/2021
Tin cho hay ông Bùi Diễm, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, vừa qua đời hôm 24/10/2021 tại nhà riêng ở thành phố Rockville, tiểu bang Maryland, ở tuổi 98.
Bùi Diễm, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa qua đời ngày 24/10/2021, hưởng thọ 98 tuổi.
Chia sẻ cảm tưởng với BBC News tiếng Việt về biến cố này, hôm 25/10 từ Washington D.C., nhà báo Phạm Trần, cựu ký giả của VOA, người từng có thời gian cộng tác trực tiếp về mặt báo chí, truyền thông với ông Bùi Diễm nhiều thập niên trước đây ở Sài Gòn trước 30/5/1975, nói với BBC :
"Điều đầu tiên là tôi rất buồn khi nghe tin cụ Bùi Diễm đã qua đời. Nhưng mà tôi không ngạc nhiên là bởi vì mấy tháng trước đây cả hai cụ, tức là cụ ông và cụ bà đều phải vào một viện phục hồi, sau khi cụ bị ngã, và cụ Bùi Diễm cũng đã vào nhà thương một số lần trong mấy năm qua, hơn nữa là cụ đã lớn tuổi, cụ năm nay đã 98 tuổi, nhưng mà tới tuổi ta là cụ đã 99 tuổi rồi, và Trời, Phật ban cho cụ một cuộc sống hết sức là tốt đẹp.
Thành ra một mặt là tôi rất buồn, bởi vì giữa cụ Bùi Diễm và tôi có sự quan hệ mật thiết với nhau trong rất nhiều năm, đặc biệt là trong thời gian mà tôi có làm một trong những biên tập viên, phóng viên cho tờ Sài Gòn Post do cụ lập ra, và do người em có quan hệ bà con của cụ là ông Bùi Phương Thề làm chủ nhiệm, thành ra giữa chúng tôi có sự liên hệ mật thiết về vấn đề tình cảm, cũng như trong vấn đề liên hệ việc làm.
Hơn nữa, tôi nhớ là mỗi lần cụ từ Hoa Kỳ về để phúc trình những diễn biến về tình hình chính trị giữa Hoa Kỳ, thế giới cũng như tình hình Việt Nam về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cụ đều về Tòa soạn và hỏi anh em chúng tôi để cụ có một buổi nói chuyện nhỏ để cho một số anh em nòng cốt của tờ báo biết về tình hình, thì đấy là cảm nghĩ của tôi về sự ra đi tuy là buồn, nhưng mà không bất ngờ đối với cụ Bùi Diễm, thưa quý đài".
Cũng hôm thứ Hai, từ Khoa sử Đại học Maine, Hoa Kỳ, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, sử gia và nhà nghiên cứu Việt Nam học nói với BBC :
"Đối với riêng tôi thì khi hay tin ông Bùi Diễm qua đời tôi cảm thấy bùi ngùi, xúc động.
Tôi đã được biết ông từ cuối năm 1967, đã cùng với một số bạn người Việt đến gặp ông tại Đại sứ quán Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Thịnh Đốn để trình thỉnh nguyện thư kêu gọi ngưng chiến để đem lại hoà bình cho Việt Nam, và đã cùng nhau trình bày ở các hội thảo về Việt Nam sau đó cho đến năm 1990.
Và có ít nhất là hai cuốn sách đã đăng các bài của ông và tôi từ các hội thảo đó".
Ông Bùi Diễm, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ (giai đoạn 1967-1972) trong một bữa tiệc tại New York
Đâu là dấu ấn lớn nhất ?
Về dấu ấn được cho là lớn nhất của cựu Đại sứ Bùi Diễm, sử giả Ngô Vĩnh Long nói :
"Cựu Đại sứ Bùi Diễm là đại sứ lâu đời nhất của Việt Nam Cộng Hòa ở Mỹ và đã rất tích cực vận động chính phủ Mỹ giúp chính quyền Sài Gòn.
Sau chiến tranh ông đã tiếp tục tích cực vận động Mỹ chống chính quyền mới ở Việt Nam. Ông là người cố vấn rất tín cẩn của ông Nguyễn Cao Kỳ, nhưng không biết ông có thay đổi cách nhìn của ông đối với Hà Nội khi ông Kỳ thay đổi và trở về Việt Nam thăm như là một thượng khách hay không".
Nhà báo Phạm Trần từ góc nhìn của mình nói :
"Điều đầu tiên chúng ta cũng nên biết là cụ Bùi Diễm là vị Đại sứ từ năm 1967 tại Hoa Kỳ của Việt Nam Cộng Hòa cho đến năm 1972, thì trong suốt thời gian đó, tức là tiếp sau 2 năm mà quân đội Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam năm 1965, thì năm 1967, lúc đó, Thủ tướng, Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương là Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ của chế độ quân nhân đã bổ nhiệm ngay cụ Bùi Diễm làm Đại sứ tại Hoa Kỳ.
Tới năm 1972, chúng ta đều biết sau cuộc tấn công Mậu Thân năm 1968 thì bắt đầu cuộc Hội đàm Paris diễn ra bí mật giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ và sau đó có bốn bên, tức là gồm có Hoa Kỳ, phía Bắc Việt, phía Mặt trận Giải phóng Miền Nam - tức là Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam mà vẫn được gọi là Việt Cộng và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Và cho đến trước khi Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973, chúng ta thấy rằng giai đoạn đó là giai đoạn hết sức gay go về vấn đề đàm phán, cũng như là về tình hình chiến tranh tại Việt Nam và cụ Bùi Diễm là một con thoi đi giữa Hoa Thịnh Đốn, sang Paris, Pháp và trở về Sài Gòn.
Thường thường cứ hàng tháng hay một vài tháng, cụ lại có mặt ở Sài Gòn để báo cáo tình hình mà cụ đã thu thập được về phía Hoa Kỳ, bởi vì chúng ta cũng nhớ rằng trong giai đoạn đầu Hoa Kỳ giấu diếm nhiều lắm, không có cho Việt Nam Cộng Hòa biết những chuyện mà Hoa Kỳ nói chuyện với phía Bắc Việt.
Thành ra cụ về sau khi đã tìm hiểu, có một lần tôi đã nói chuyện với cụ ở tại Hoa Kỳ mà cụ có tiết lộ với tôi rằng trong thời gian hòa đàm đó, thì cụ rất là vất vả, phải tìm những nguồn tin ở bên ngoài, từ bạn bè người Mỹ, từ những viện nghiên cứu của Hoa Kỳ, cũng như những viên chức cảm tình với Việt Nam Cộng Hòa tại Bộ Ngoại giao Mỹ dưới thời ông Henry Kissenger..., để mà tìm hiểu xem rằng đường đi nước bước của Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt Nam ra làm sao và liệu Việt Nam Cộng Hòa có được đặt ở trong vị trí quan trọng, cùng ngang hàng với phía Bắc Việt hay không, hay là lại đứng phía sau và lại bị giấu diếm.
Thành ra vai trò của cụ hết sức là quan trọng và hơn nữa sự bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong giai đoạn mà cụ làm Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1967-1972 có nhiều những biến cố quan trọng, mà biến cố chúng ta biết là lớn nhất đó là khi ông Richard Nixon dính líu vào vụ Watergate và phải từ chức và những áp lực giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ về vấn đề chiến tranh Việt Nam, cũng như là áp lực của Nga Xô, thành ra vai trò của cụ Bùi Diễm hết sức quan trọng.
Và trong nền bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa trong thời chiến tranh, cụ là người đặt nền tảng đó, đặt ra những điều kiện mới và đã giúp cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng như chính phủ Việt Nam Cộng Hòa hồi đó biết đường đi, nước bước của Hoa Kỳ, để mà không chỉ đối phó với phía Bắc Việt, phía Việt Cộng, mà còn phải đối phó với bạn của mình, tức là đồng minh Hoa Kỳ nữa, để làm sao bảo vệ được Miền Nam, làm sao mà giải pháp hòa bình đưa lại sự bền vững, bảo vệ Miền Nam không sụp đổ.
Thế nhưng mà rất tiếc về sau chuyện đáng tiếc đó đã xảy ra, song vai trò quan trọng nhất của cụ Bùi Diễm lẫn trong cuộc đời của cụ, theo tôi, là giai đoạn Hội đàm Paris và trên chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa, cụ đã đặt nền móng ngoại giao trong thời gian chiến tranh giữa Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ".
Cựu Đại sứ Bùi Diễm là tác giả của một số sách vở, biên khảo như 'Gọng kìm lịch sử' hay 'Kinh tế Việt Nam và chuyển đổi sang hệ thống thị trường mở'
Để lại khoảng trống thế nào ?
Khi được hỏi, sự ra đi của cựu Đại sứ Bùi Diễm để lại khoảng trống gì không và nếu có thế nào, đặc biệt với cộng đồng Việt Nam di tản chiến tranh và hậu chiến tại hải ngoại, ở Hoa Kỳ, cũng như với những ai quan tâm, nghiên cứu lịch sử cận hiện đại Việt Nam, từ Đại học Maine, sử gia Ngô Vĩnh Long nói :
"Tôi không thể trả lời về khoảng trống gì đối với cộng đồng người Việt Nam vì có rất nhiều nhóm và nhiều người có chính kiến khác nhau trong đó.
Đối với giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam về cuộc chiến tranh thì mất đi một người, mãi đến gần đây, vẫn kiên quyết cho là Việt Nam Cộng Hòa bị Hoa Kỳ bỏ rơi nếu không thì đã thắng cộng sản".
Còn từ Washington D.C., nhà báo Phạm Trần nêu quan điểm với BBC :
"Về phương diện ngoại giao và lịch sử, cụ Bùi Diễm theo tôi là một nhân vật duy nhất của Việt Nam Cộng Hòa mà mới đây còn sống với chúng ta mà ở hải ngoại, không còn có ai nữa, mà đây là một tài sản rất quý giá về các phương diện nói trên, cũng như về phương diện nhân chứng biến cố trong cuộc Hội đàm tại Paris, thành ra đây là một sự mất mát rất to lớn mà không ai có thể thay thế được".
Cựu Đại sứ Bũi Diễm sinh năm 1923, nguyên quán ở Hà Nam, Bắc Việt Nam ; theo các tư liệu, ông hoạt động chính trị từ thời còn đi học ở trường Bưởi, tại Hà Nội, gia nhập Đảng Đại Việt năm 1944, năm 1945 có thời gian tham gia Trường Lục quân tại tỉnh Yên bái.
Ông từng có thời gian làm việc tại tờ báo Vietnam Post xuất bản ở Sài Gòn bằng Anh ngữ (1954-1963), tờ báo tiếng Anh đầu tiên ở Việt Nam.
Khi thủ tướng Phan Huy Quát lãnh đạo nội các, ông giữ chức Tổng trưởng Phủ Thủ tướng (1965), còn trong Nội các của Ủy ban Hành pháp Trung ương, ông là Ủy viên Ngoại giao (1965-1967), ông cũng là đảng viên Đảng Đại Việt.
Thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam ông được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Washington, D.C., thay thế đại sứ Vũ Văn Thái, và đảm nhiệm từ năm 1967 đến năm 1972 thì chuyển làm đại sứ lưu động cho đến năm 1975. Sau năm 1975, ông tị nạn tại Hoa Kỳ.
Nhà ngoại giao trở thành người viết sách
Bùi Diễm là tác giả cuốn hồi ký chính trị 'Gọng kìm lịch sử', cuốn sách ấn bản đầu tiên bằng tiếng Anh với tựa 'The Jaws of History' rồi sau đó được dịch ra tiếng Việt, và cuốn sách thứ hai là cuốn Vietnamese Economy and Its Transformation to an Open Market System (Nền kinh tế Việt Nam và sự chuyển đổi sang hệ thống thị trường mở) xuất bản năm 2004.
Một trong những trả lời phỏng vấn cuối cùng với BBC News tiếng Việt, hôm 23/8/2021 từ Mỹ, khi bình luận về bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' gồm 15 tập do Viện sử học Việt Nam công bố, xuất bản tại Hà Nội, trong đó có chi tiết thay đổi cách gọi cũ từ trước mà các sử gia Hà Nội vẫn gọi Việt Nam Cộng Hòa là 'ngụy quân, ngụy quyền, cựu Đại sứ Bùi Diễm nói :
"Nhà cầm quyền Việt Nam bây giờ có nói đến vấn đề nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa, điều đó tôi nghĩ cũng là một sự thực lịch sử không ai chối cãi được. Có lẽ bây giờ những nhà cầm quyền ở Việt Nam cần đến những điều đó để nói cho rõ rằng Hoàng Sa hay là Trường Sa là của Việt Nam để có thể... tranh đấu với những người Trung Quốc, Trung Cộng về những vấn đề đó, cho nên mới trở lại nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa".
Phản ứng về một phát biểu của Tổng chủ biên bộ sách nói trên cho rằng các soạn giả bộ sách chỉ thay đổi cách gọi tên, còn bản chất cách hiểu về chính quyền Sài Gòn 'vẫn không thay đổi' mà khi đó vẫn được coi là một chính quyền 'đánh thuê cho Mỹ'... ông Bùi Diễm nói :
"Mình phải nhìn Việt Nam trong bối cảnh của Chiến tranh Lạnh thời bấy giờ, người Mỹ mà can thiệp vào vấn đề Việt Nam là do chính sách gọi là 'be bờ' chống lại sự lan tràn của cộng sản xuống miền Nam Việt Nam.
Nếu mà nói tới sự giúp đỡ của người Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, thì người ta cũng phải nói tới sự có mặt của những quân đội Trung Cộng ở miền Bắc trong suốt cuộc chiến tranh, những quân đội đó không tham gia vào trận chiến đối với miền Nam, nhưng đã giúp những người ở miền Bắc có tất cả sự dễ dàng để người miền Bắc có thể mang quân đội để mà tấn công miền Nam Việt Nam.
Vì vậy cho nên những lời buộc tội rằng miền Nam Việt Nam dưới quyền, dưới ảnh hưởng của người Hoa Kỳ, thì chúng ta cũng phải nhìn lại vấn đề dưới khía cạnh một cuộc Chiến tranh lạnh một bên là Mỹ quốc và một bên kia là thế giới cộng sản, có cả Liên Xô và có cả Trung Cộng lúc bấy giờ", cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa khi đó nói với BBC News tiếng Việt.
VOA, 25/10/2021
Ông Bùi Diễm, cựu đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ, qua đời sáng nay, 24/10/2021, tại tư gia ở thành phố Rockville, bang Maryland, Mỹ, hưởng thọ 98 tuổi, theo tin từ gia đình.
Ông Lã Quy Dũng, con rể của cựu đại sứ, nói với VOA :
"Ông nằm ở nhà gần tháng nay. Ba ngày chót thì sức khỏe rất yếu. Trước đó thì cũng tạm tạm được, ăn uống rất ít. Ông đi trong giấc ngủ của ông sáng nay".
Ông là một người rất nhẹ nhàng, không có đòi hỏi gì nhiều ở đời cả. Chúng tôi rất tiếc là bố đã đi", ông Dũng, chồng của trưởng nữ Lưu Bùi của cựu đại sứ nói với VOA.
Ông Bùi Diễm là đại sứ tại Hoa Kỳ đại diện cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1966 đến năm 1972, và sau đó ông tiếp tục giữ vai trò đại sứ lưu động cho đến khi Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975.
Ông Bùi Diễm quê ở Hà Nam, sinh năm 1923, thân phụ là cụ Phó Bảng Bùi Kỷ. Cô ruột của ông Bùi Diễm là phu nhân của Thủ tướng Đế Quốc Việt Nam, Trần Trọng Kim.
Nhiều người bày tỏ sự đau buồn trước sự ra đi của cựu đại sứ Bùi Diễm.
Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa từ bang California, nói với VOA :
"Cuộc đời của ông ấy gắn bó với lịch sử cận đại của nước Việt Nam vì hoàn cảnh khá đặc biệt trong gia đình của ông, có liên hệ đến cụ Bùi Kỷ và ông Trần Trọng Kim, cũng như những biến động của Việt Nam sau năm 1954 cho đến năm 1975.
Ông ấy là một người tràn đầy tinh thần yêu nước và luôn tìm một giải pháp đỡ tệ hơn cho Việt Nam nhưng cuối cùng nó không thành.
Gia đình tôi và gia đình cụ Bùi Diễm rất thân với nhau. Tôi biết rằng cụ đã ý thức được sự tỉnh giấc của giới trẻ, từ kinh nghiệm của bản thân cho những năm 1942-1945. Và sau này cụ vẫn muốn giúp cho giới trẻ những ý thức, những hiểu biết đó. Và từ đó, cụ kể lại, viết lại một cách khá trung thực, ôn hòa và khách quan từ thời cụ Trần Trọng Kim đến thời cựu hoàng Bảo Đại, cho đến sau này là nền Đệ Nhất và Đệ nhị Cộng hòa".
Cũng từ California, ký giả Đinh Quang Anh Thái, chia sẻ :
"Cụ Bùi Diễm là một người xuất thân từ đảng phái cách mạng là đảng Đại Việt. Sau đó cụ bắt đầu tham gia chính trường của Việt Nam với nhiều vai trò, từ vai trò Bộ trưởng Phủ Thủ tướng cho đến vai trò Đại sứ.
Khi tiếp xúc với cụ Bùi Diễm chúng ta thấy rằng cụ có tấm lòng nhiệt thành của người làm cách mạng, có sự khéo léo cân nhắc, thận trọng của một người làm chính trị và một người làm ngoại giao.
Năm 1975 khi qua Mỹ, cụ tiếp tục là một tiếng nói đóng góp vào dòng chính để cho dòng chính của nước Mỹ hiểu ý nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa ra sao. Đồng thời, cụ đi đây đó để trao truyền bó đuốc cách mạng cho những thế hệ trẻ về sau".
Từ bang Virginia, nhà hoạt động nhân quyền, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt nêu nhận định :
"Trong các vị của Việt Nam Cộng Hòa trước 1975, cụ Bùi Diễm là người được rất nhiều người quý mến. Cụ đóng góp rất nhiều, không những cho công việc chung mà còn từ những kiến thức của cụ. Tôi có nhiều dịp nói chuyện với cụ và tôi rất kính trọng cụ.
Rất tiếc là chúng ta mất một người đã đóng góp rất nhiều trong thời Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975.
Sau 1975, cụ cũng có những đóng góp rất lớn cho cộng đồng hải ngoại. tiếng nói của cụ trong giai đoạn đầu giúp cho cộng đồng người Việt hải ngoại có những sinh khí và sự kích thích để hoạt động. Sau này, cụ Bùi Diễm vẫn tiếp tục đóng góp ý kiến, và có những buổi nói chuyện và xuất bản sách – đó là đóng góp rất tốt cho sinh hoạt cộng đồng hải ngoại".
Ông Hoàng Đức Nhã, cựu Bí thư và cựu Tham vụ Báo chí của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, nói với VOA :
"Đối với tôi, cụ Bùi Diễm là một trong những là đàn anh, cụ lớn hơn tôi khoảng 20 tuổi, nhưng lúc nào cụ cũng coi tôi như một chiến hữu của chính sách Việt Nam Cộng Hòa. Suốt đời cụ đánh trận giặc ngoại giao trong những lúc khó khăn buộc phải thương thuyết, không những với cộng sản mà còn với đồng minh Hoa Kỳ.
Cụ dấn thân từ lúc còn làm Đại sứ tại Washington cho đến khi làm Đại sứ lưu động. Đó là công ơn mà người dân Miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ quên cả.
Sau khi qua Mỹ cụ vẫn tiếp tục nêu cao chính nghĩa của mình và qua bao nhiêu bài viết, bao nhiêu hội thảo, cụ cũng đều nói lên cuộc tranh đấu của nhân dân miền Nam.
Chúng ta mất đi một chiến hữu chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa".
Cựu Đại sứ Bùi Diễm từng viết nhiều tác phẩm bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt nói về Cuộc chiến Việt Nam, trong đó có hồi ký chính trị Vi ệt Nam trong Gọng kìm lịch sử, xuất bản hồi năm 2000.
Nguồn : VOA, 25/10/2021
**********************
Đọc 'Gọng kìm lịch sử' của Bùi Diễm
Phạm Xuân Đài, VOA, 25/10/2021
Bài này được nhà báo Phạm Xuân Đài viết và đăng lần đầu trên tạp chí Thế Kỷ 21 số 140, tháng 12 năm 2000, khi 'Gọng kìm lịch sử của tác giả Bùi Diễm vừa được xuất bản. VOA, được sự đồng ý của tác giả Phạm Xuân Đài, đăng lại bài này nhân ngày cựu Đại sứ Bùi Diễm qua đời.
Cựu Đại sứ Bùi Diễm (Hình : Trần Triết)
***
NếuĐêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên là một cuốnHồi ký chính trị của một người không làm chính trị từng sống trong lòng chế độ cộng sản, thì 'Gọng kìm lịch sử đích thực là hồi ký của một chính trị gia, đứng trong phía quốc gia. Năm 1987 ông đã cho xuất bản cuốnIn the Jaws of History viết bằng tiếng Anh, và 'Gọng kìm lịch sử, viết xong vào đầu năm 1999, là hậu thân của cuốnIn the Jaws of History, hoàn toàn viết lại bằng tiếng Việt với các tình tiết Việt Nam và thêm một số tài liệu mới tìm thấy.
Ông Bùi Diễm, sinh năm 1923, con trai thứ của học giả Bùi Kỷ, cháu của học giả Trần Trọng Kim, từ tuổi thanh niên, vào đầu thập niên 40, đã tham gia vào phong trào dành độc lập cho Việt Nam. Từ đó ông đi vào cuộc đời hoạt động chính trị, chứng kiến các trôi nổi của lịch sử từ nhiều vị trí đặc biệt : có mặt tại Huế khi nội các Trần Trọng Kim thành lập, yết kiến Quốc trưởng Bảo Đại năm 1949 tại Đà Lạt, theo dõi Hội nghị Genève 1954, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng 1965, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ từ 1967 đến 1972, Quan sát viên đặc biệt tại Hòa đàm Paris 1968, Đại sứ Lưu động 1973-1975.
Tác giả bắt đầu các hồi ức về đời mình ở Chương 2, lúc còn là một học sinh tiểu học nhưng đã mơ tưởng đến những chuyện đi xa, đến những nơi mới lạ để tìm hiểu thế giới rộng lớn, và kết thúc ở Chương 37 với nhan đề "Thay lời kết, Lịch sử còn dài…". Ngay ở Chương 2, ông đã cho thấy ảnh hưởng chính trị đã đến với ông rất sớm khi ông vào học trường trung học tư thục Thăng Long, nơi mà ban giáo sư gồm những tên tuổi như Phan Thanh, Đặng Thái Mai, Hoàng Minh Giám, Trần Văn Tuyên, Võ Nguyên Giáp... và tôi lớn lên trong bầu không khí đó, và dần dần ý thức được rằng dưới bộ mặt phẳng lặng của đời sống học đường là những đợt sóng ngầm đang chuyển động mạnh. Lúc bấy giờ là cuối thập niên 30 của thế kỷ 20, những người yêu nước Việt Nam, dưới nhiều khuynh hướng khác nhau, đang vận động để thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Và từ đó, ông đã từ từ được dắt dẫn tham gia vào một đảng phái quốc gia, đối lập với khuynh hướng cộng sản vào thời đó cũng đang phát triển mạnh.
Lịch sử cuộc đấu tranh cho độc lập nước nhà của người quốc gia Việt Nam trong thế kỷ 20 là lịch sử của sự thất bại. Từ các cuộc khởi nghĩa võ trang và các vận động duy tân hay Đông du của các cụ hồi đầu thế kỷ, đến Việt Nam Quốc Dân đảng của Nguyễn Thái Học, rồi đến các đảng phái quốc gia trong trận thế vừa chống thực dân vừa chống phong trào cộng sản quốc tế quãng giữa thế kỷ, và sau cùng, khi người quốc gia đã có được nửa nước Việt Nam phía Nam lại cũng thất bại khi chống đỡ với cuộc xâm lăng của phe Cộng sản từ phía Bắc tràn xuống. Từ thập niên 40 trở đi thế trận đấu tranh giành độc lập trở nên phức tạp vì sự có mặt của đảng Cộng sản, một đảng cách mạng dày dạn chuyên nghiệp có hậu thuẫn quốc tế và nhất quyết đoạt sự độc tôn, trong khi người quốc gia chỉ tiếp tục các phương thức đấu tranh truyền thống, luôn luôn tỏ ra lép vế trong phương thức và đòn phép, mặc dù tinh thần yêu nước và hy sinh không thiếu.
'Gọng kìm lịch sử chính là lịch sử của một người quốc gia trưởng thành vào đúng thời điểm gay go nhất mở màn cho sự đụng độ quốc gia - cộng sản, và bị cuốn theo suốt ba mươi năm, luôn luôn ở những vị thế thuận lợi để có thể tham gia vào những hoạt động cao cấp và từ đó có thể có một cái nhìn tổng thể.
Đó là một con người ưu tú và cũng rất nhiều may mắn để có thể sống trọn vẹn trong từng giai đoạn, hoạt động hết mình, gìn giữ đầy đủ tài liệu, để khi kể lại các hoạt động chính trị của đời mình thì những trang hồi ký ấy có thể xem là đặc trưng cho cuộc đời tranh đấu của một con người quốc gia, hoặc một phần của "phe quốc gia". Tác giả dẫn chúng ta đi từ những năm đầu thập niên 40 với quân Nhật và máy bay Mỹ, các biến cố lớn lao năm 1945, đi tản cư và về lại Hà Nội, giải pháp Bảo Đại, hiệp định Genève, miền Nam với Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa, và đặc biệt, hào hứng và căng thẳng nhất là giai đoạn tác giả làm Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ với các liên hệ phức tạp, đa phương với chính giới Hoa Kỳ, cho mãi tới ngày miền Nam sụp đổ. Vì là hồi ký của một cá nhân, tác giả luôn luôn là một "nhân vật" trong đó, nhưng không phải là một nhân vật trung tâm, đó là điều dễ chịu nhất cho người đọc khi theo dõi một cuốn hồi ký loại này. Qua chuyện kể của mình tác giả giúp chúng ta hiểu rõ về tình hình một giai đoạn, về những biến cố hay nhân vật, với mộ t lối trình bày thấu đáo và một văn phong thành thực, trong sáng.
Năm 1949, 26 tuổi, ông đã hai lần được tiếp xúc với Quốc trưởng Bảo Đại, và đã có những nhận xét : ...sau chuyến đi Đà Lạt, tôi không còn nhiều ảo tưởng về ông như trước nữa. Thực ra về phương diện cá nhân, cũng như nhiều người khác có dịp gần ông tôi có rất nhiều cảm tình đối với ông. Ông là một ông Vua, nhưng cách cư xử của ông đối với mọi người thật là giản dị, bình dân (...) Nhưng về phương diện chính trị thì mặc dầu ông không phải là người khờ khạo hay thiếu hiểu biết, ông không có đức tính của một người lãnh đạo tạo được thời thế thuận lợi cho quốc gia dân tộc, mà chỉ là người chịu đựng cho thời thế xoay vần.
Cả cuộc đời chính trị của cựu hoàng Bảo Đại cho đến khi đóng nắp áo quan có lẽ không ra ngoài nhận xét trên đây từ mấy mươi năm trước của chàng thanh niên Bùi Diễm.
Trong chế độ Ngô Đình Diệm, ngay từ đầu, giống như bao người khác đã từng hoạt động trong các đảng phái quốc gia, Bùi Diễm nhận thấy mình bị loại ra khỏi sinh hoạt chính trị. Chỉ sự mô tả sự kiện ấy, tác giả đã cho thấy một đặc điểm của chế độ nàv, mà người ta thường gọi là gia đình trị.
Chế độ Ngô Đình Diệm dần dần được củng cố, thì bên ngoài chính quyền, các phần tử quốc gia có tinh thần độc lập như chúng tôi, bị dồn vào một thế càng ngày càng khó cựa. Mặc dầu có thiện cảm với ông Diệm ngay lúc ông trở về nước, nhiều người nhận thấy khó mà giúp ông vì chính ông cũng không muốn sự hợp tác đó. (...) Ông Diệm vẫn theo chính sách đóng cửa, và giữ thái độ nghi kỵ nếu không nói là khinh rẻ đối với các giới chính trị, trong khi đó thì ông Nhu lặng lẽ xây dựng một bộ máy để củng cố chế độ. Cũng như nhiều người khác, sau bao nhiêu năm hoạt động tôi thành một người ngoài cuộc, bị loại ra khỏi chính trường.
Đệ nhất Cộng hòa là một cơ hội hiếm có và may mắn cho người quốc gia, nhưng tiếc thay, chế độ không những đã không có lòng đoàn kết mọi người mà lại còn tiến hành chính sách cục bộ nhiều màu sắc gia đình và tôn giáo, loại trừ nhiều thành phần ưu tú đã từng dày dạn đấu tranh, nên khi chế độ đó chấm dứt thì phe quốc gia cũng đã bị phân rã, thương tích khá nhiều. Một tiết lộ ít ai ngờ tới, là phimChúng tôi muốn sống, một phim chống cộng có giá trị trong thời kỳ đầu của chế độ này, lại do chính tác giả và bạn bè, trong đó có bác sĩ Phan Huy Quát, thực hiện. Dù có sự giúp đỡ về phương diện kỹ thuật của sở Thông tin Hoa Kỳ và sự yểm trợ một số phương tiện của quân đội, phim này hoàn toàn là một phim thương mại có chủ đề chính trị, mà vốn thực hiện thì dotôi xoay xở, rủ người này người khác, vay mượn nơi này nơi khác.
Sau chế độ Ngô Đình Diệm là giai đoạn sôi nổi nhất của tác giả. Chủ trương một tờ báo tiếng Anh,Saigon Post, rồi tham chính, làm bộ trưởng trong chính phủ Phan Huy Quát, rồi Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ. Năm 1963 ông vừa bốn mươi, tuổi vừa chín chắn vừa sung sức cho một người nắm giữ những vị trí then chốt trong chính trị. Thời sự trong những năm sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ thật vô cùng phức tạp, các phe quân nhân đảo chính với chỉnh lý liên tục, xung đột Phật giáo Công giáo, vụ Phật giáo miền Trung, Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam, rồi Tết Mậu Thân, rồi hòa đàm Paris... một người trưởng thành có để ý đến tình hình vào thời đó đến nay chưa chắc có thể nhớ rõ từng biến cố, cái nào trước cái nào sau, chưa nói đến nguyên nhân và hậu quả mà chỉ có giới am tường chính trị mới có thể nắm được. Có lẽ chưa có một cuốn sách nào trình bày về giai đoạn này rõ ràng hơn khúc chiết hơn là 'Gọng kìm lịch sử. Từ vụ đảo chính tháng 11/1963 trở về sau, biến cố nào xảy ra trên chính trường Việt Nam cũng đều được tác giả kể lại rất đầy đủ chi tiết cùng nguyên ủy. Nếu thời Ngô Đình Diệm tác giả là người "đứng ngoà i" thì thời kỳ sau đó ông là người "đứng trong", cùng các liên hệ quen biết chằng chịt với mọi giới. Chúng ta sẽ bắt gặp những chuyện mà ta không thể ngờ được, ví dụ những đơn vị quân đội Mỹ đầu tiên đổ bộ Đà Nẵng vào ngày 8 tháng 3, 1965, thì chính quyền trung ương Việt Nam không hay biết gì cả, và ngay tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn cũng bị động, lúng túng.
Cũng với cái nhìn đầy đủ và nhạy bén ấy, tác giả đi vào chính giới Hoa Thịnh Đốn, khi được cử làm Đại sứ tại đây vào năm 1966. So với các vị "được làm vua, thua làm đại sứ" tiền nhiệm thì đại sứ Bùi Diễm mới đích thực là một sứ thần đại diện xứng đáng cho Việt Nam nơi một quốc gia đồng minh đang có liên hệ sống chết với nước mình. Qua các hoạt động được mô tả lại, người ta thấy sự quen biết rộng rãi của ông trong chính giới và giới báo chí Hoa Kỳ, sự nhạy bén, sáng suốt và tinh thần trách nhiệm của ông khi phải đối phó liên tục với tình thế biến đổi không ngừng trên chính trường Hoa Kỳ cũng như chiến trường và chính trường Việt Nam. Là một nhà chính trị, ông còn là một học giả, về cuộc chiến Việt Nam, ngoài việc thường xuyên cọ xát trực tiếp với những nhân vật đầu não trong chính quyền Hoa Kỳ thời bấy giờ, ông đã sưu tầm rất nhiều tài liệu liên quan, để mong có thể hiểu được cuộc chiến tranh mà cho đến giờ phút này nhiều người vẫn thấy là còn nhiều bí ẩn.
CuốnIn the Jaws of History gồm 36 chương, khi viết lại bằng tiếng Việt để thành cuốn'Gọng kìm lịch sử này, tác giả thêm một chương chót, 37, có tựa đề "Thay lời kết, Lịch sử còn dài…". Tác giả cho biết đã viết cuốn trên là để trả lời một số lập luận sai lầm của các nhóm thiên tả hay phản chiến trong dư luận Hoa Kỳ về cuộc chiến tại Việt Nam. Chương viết thêm này là những lời tâm sự của một người Việt Nam quốc gia đã trải qua lịch sử 30 năm từ 1945-1975. Ước vọng của người quốc gia nào cũng là mưu tìm độc lập cho Việt Nam, và rồi xây dựng một đất nước văn minh dân chủ, mà qua hai mươi năm chế độ Cộng hòa ở miền Nam coi như các tiền đề đã tạm đặt xong. Dù phe quốc gia đã thua trong cuộc chiến, lý tưởng của phe quốc gia vẫn đứng vững đến tận ngày nay, và ngày càng trở nên là ước vọng của mọi người Việt Nam chân chính, ngay cả những người một thời đã theo chủ nghĩa cộng sản. Người quốc gia đã tiếp tục giữ gìn truyền thống của dân tộc, nhờ đó mà những giá trị tinh thần còn lưu giữ được đến ngày nay qua cơn hồng thủy điên cuồng của tinh thần vô sản quốc tế mà người cộng sản đã du nhập một cách điên cuồng vào đất nước ta. Phe cộng sản thắng cuộ c chiến vì đã đánh thức được cái phần bản năng cướp giật của một khối người bị trị nghèo đói lâu ngày (bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình - Quốc tế ca), đồng thời cũng che phủ lên cái mặt thú vật ấy một cái khăn choàng lý tưởng rất cao đẹp và cũng rất không tưởng.
Phe quốc gia thấy trước được tất cả nguy cơ làm sa đọa con người và cuộc sống ấy, đã chiến đấu, với tất cả hy sinh cao đẹp cũng như sự yếu kém của mình. Cuộc chiến đấu ấy đã giương cao mãi mãi những ước mơ phải đạt tới của dân tộc, cũng là ước mơ bình thường của cả loài người, đã bị chủ nghĩa cộng sản làm vẹo vọ đi trong gần suốt thế kỷ 20. Dù là sau chiến thắng 1975, Cộng sản Việt Nam tiếp tục dìm đất nước trong lạc hậu, nghèo đói và thiếu tự do, nhưng với tình hình thế giới biến chuyển vào thập niên cuối của thế kỷ 20, tác giả lại lạc quan, thấy Việt Nam đã dần dần hội đủ nhân tố để những "đột biến" có thể xảy ra. Lúc bấy giờ lý tưởng của bao thế hệ người quốc gia sẽ được thực hiện trên mảnh đất mà chỉ vì mấy chữ "độc lập, tự do, dân chủ" đã có không biết bao đau thương và xương máu đổ xuống suốt nửa thế kỷ qua.
'Gọng kìm lịch sử đã tổng hợp được cái nhìn cho một phía, phe quốc gia, phơi bày khá chi tiết các ngóc ngách lịch sử về một giai đoạn gay go nhất. Tác giả hình như đã tự kềm chế rất nhiều tính chất chủ quan thường là có quyền có của thể loại hồi ký, để gắng đem lại sự khách quan cho cuốn sách mà như tên gọi, chính là một phần lịch sử được tái hiện. Phẩm cách của ngòi bút, sự chân thành và uyên bác của tác giả thuyết phục người đọc. Đó là một nhà chính trị có văn tài, bút pháp của ông già dặn mà tươi tắn, khoa học mà tình cảm, phô bày một cái tâm suốt đời thiết tha với nền độc lập của đất nước, đời sống tự do sung sướng cho dân tộc. Hồi ký của ông cho thấy sự dấn thântận nhân lực của một trí thức ưu tú trong quá khứ, và tiếp tục là một lời kêu gọi và biểu dương cho lý tưởng không bao giờ lỗi thời của người quốc gia.
Phạm Xuân Đài
Nguồn : Tạp chí Thế Kỷ, số 140, tháng 12/2000 via VOA, 25/10/2021
Một cựu Đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa cho rằng việc nói chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là 'tay sai' của Mỹ là một sự 'cáo buộc' và cần phải nhìn nhận vấn đề trong một tổng thể khách quan hơn của bối cảnh chiến tranh lạnh mà tại miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến kết thúc vào tháng 4/1975 cũng có sự ủng hộ, hậu thuẫn của nước ngoài.
Ông Bùi Diễm là Đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ trong giai đoạn từ 1967-1972
Ý kiến này được ông Bùi Diễm, Đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ trong thời kỳ 1967-1972 đưa ra khi phản ứng trước quan điểm trên truyền thông quốc tế của nhà chủ biên bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' được Viện sử học, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, công bố trong nước thời gian gần đây.
Trao đổi với BBC Tiếng Việt hôm 23/8/2017, ông Bùi Diễm nói :
"Mình phải nhìn Việt Nam trong bối cảnh của một cuộc chiến tranh lạnh thời bấy giờ, người Mỹ mà can thiệp vào vấn đề Việt Nam là do chính sách gọi là 'be bờ' chống lại sự lan tràn của cộng sản xuống miền Nam Việt Nam.
"Nếu mà nói tới sự giúp đỡ của người Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, thì người ta cũng phải nói tới sự có mặt của những quân đội Trung Cộng ở miền Bắc trong suốt trận chiến tranh, những quân đội đó không tham gia vào trận chiến đối với miền Nam, nhưng đã giúp những người ở miền Bắc có tất cả sự dễ dàng để người miền Bắc có thể mang quân đội để mà tấn công miền Nam Việt Nam.
Cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, ông Bùi Diễm bình luận về bộ sách 'Lịch sử Việt Nam'.
"Vì vậy cho nên những lời buộc tội rằng miền Nam Việt Nam dưới quyền, dưới ảnh hưởng của người Hoa Kỳ, thì chúng ta cũng phải nhìn lại vấn đề dưới khía cạnh một cuộc Chiến tranh lạnh một bên là Mỹ quốc và một bên kia là thế giới cộng sản, có cả Liên Xô và có cả Trung Cộng lúc bấy giờ".
Ý kiến trên của cựu Đại sứ Bùi Diễm được đưa ra sau khi được hỏi về một bài báo trênRFA Tiếng Việt từ Hoa Kỳ trích dẫn ý kiến của Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường, Tổng chủ biên bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' bình luận về việc vì sao các nhà biên soạn sử dụng tên gọi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thay thế cho tên gọi 'Ngụy quân, ngụy quyền'.
Ông Cường được RFA dẫn lời nói : "Bản chất chính quyền Sài Gòn và quân đội Sài Gòn theo chúng tôi không có gì thay đổi cả. Đấy là một chính quyền được dựng lên từ đô la và vũ khí, thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ, ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản lan xuống vùng Đông Nam Á, đồng thời chia cắt đất nước Việt Nam một cách lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Điều đó không có gì nghi ngờ cả".
"Thứ hai, quân đội Sài Gòn thực chất được Mỹ trang bị hoàn toàn và quan trọng hơn là thực hiện mưu đồ của Mỹ. Đó cũng là một đội quân đi đánh thuê. Thực chất các nhà sử học không có một đánh giá nào khác so với thời gian trước đây".
"Nhưng về cách gọi, chúng tôi nghĩ rằng trong một văn bản khoa học, mình gọi trung tính vẫn hơn là ngụy quân, ngụy quyền. Bởi vì cách gọi này mang tính biểu cảm, miệt thị cho nên chúng tôi gọi là quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn", Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường nói với ban Việt ngữ Đài Châu Á Tự do.
Vì sao cần Việt Nam Cộng Hòa ?
Giáo sư Vũ Minh Giang bình luận về Bộ sách Lịch sử Việt Nam 15 tập do Viện Sử học mới công bố.
Về lý do vì sao các nhà biên soạn sách lịch sử của Việt Nam ở trong nước thời gian qua và hiện nay có sự thay đổi về cách gọi tên chính quyền Việt Nam Cộng Hòa như trên, cựu Đại sứ Bùi Diễm nói :
"Nhà cầm quyền Việt Nam bây giờ có nói đến vấn đề nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa, điều đó tôi nghĩ cũng là một sự thực lịch sử không ai chối cãi được,
"Có lẽ bây giờ những nhà cầm quyền ở Việt Nam cần đến những điều đó để nói cho rõ rằng Hoàng Sa hay là Trường Sa là của Việt Nam để có thể... tranh đấu với những người Trung Quốc, Trung Cộng về những vấn đề đó, cho nên mới trở lại nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa", ông Bùi Diễm nhận xét.
Cũng hôm 23/8, Giáo sư Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, bình luận với BBC về lựa chọn sử dụng tên gọi của nhóm biên soạn bộ sách sử của Viện Sử học Việt Nam, ông nói :
"Trong lịch sử Việt Nam có nhiều thực thể lịch sử mà cách trình bày, cách gọi tên như thế nào đó là quyền của mỗi người, cái đó không có một quy ước nào là phải gọi thế này, hay gọi thế kia, nhưng với một bộ lịch sử mà có tính khoa học cao và nhất là tới đây có những bộ sử mà nó đảm bảo tính chuẩn quốc tế của nó, thì bớt đi những từ biểu cảm khi nói về các thực thể lịch sử, thì tính chất khoa học cao lên.
"Chẳng hạn như đối với thực thể chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì gọi đúng tên, định danh là như thế, tôi cho rằng nó đúng với những thực thể lịch sử ấy, thay vì việc thể hiện sự biểu cảm trong các danh xưng.
'Những người thích, yêu thì nói một kiểu, còn những người không thích thì nói một cách, thì đấy là cách, quyền của mỗi người khi mà gọi danh xưng ấy. Nhưng đã viết vào một bộ sử mà có tính chuẩn tắc, khoa học, nên sử dụng những từ hạn chế biểu cảm, đấy là quan điểm của tôi".
Hôm 24/8, một nhà phổ biến kiến thức phổ thông và chủ trương các dự án về sách hóa nông thôn và tủ sách cho các dòng họ ở Việt Nam, ông Nguyễn Quang Thạch, đưa ra bình luận về một số 'nét mới' trong bộ 'Lịch sử Việt Nam' mới công bố hôm 18/8, trong đó có gọi cuộc chiến 17/2/1979 ở Biên giới phía Bắc Việt Nam là cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam và việc từ bỏ cách gọi 'Ngụy quân, ngụy quyền' như trên đã đề cập, ông nói :
"Thứ nhất gọi tên cuộc chiến với Trung Quốc đúng như bản chất của nó là tốt, để cho học sinh và giáo viên thấy được rằng sống bên một quốc gia mạnh mà luôn luôn có tư tưởng bành trướng như Trung Quốc, thì chúng ta phải làm cho dân tộc mình mạnh lên để song tồn với họ.
"Thứ hai là nói về Việt Nam Cộng Hòa mà không gọi 'Ngụy quân, ngụy quyền' nữa, thì đấy làm cho người Việt ở trong nước người ta sẽ gắn kết với nhau hơn, không tạo ra những xung đột, mối nguy không đáng có, tương tự như khi người ta phổ biến nghiên cứu khoa học của họ mà xác thực các triều đại này làm được việc này, việc kia, hay chưa làm được..., thì việc ấy là việc tốt", ông Nguyễn Quang Thạch nói với BBC.
'Một thiếu sót lớn và xúc phạm với liệt sĩ'
Hôm 24/8, tại một Bàn tròn thứ Năm của BBC Tiếng Việt nhân bộ sách 15 tập được công bố và được truyền thông đưa tin khá rầm rộ ở Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, một trong các khách mời và là nhà nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu Hán - Nôm, đưa ra một vài nhận xét từ một số chi tiết cho tới phương pháp luận khái lược khi soạn thảo, ông nói :
"Sự kiện Gạc Ma năm 1988 mà không được đưa vào bộ sử này thì đây là một thiếu sót vô cùng lớn lao và là một sự xúc phạm lớn đối với những người đã hy sinh cho Tổ Quốc để bảo vệ biển đảo, chủ quyền của đất nước...
"Một vài điểm khác nữa, một bộ sử dù là bất cứ một cá nhân hay là một đơn vị, cơ quan nào tổ chức, thì điều đầu tiên phải tuân thủ là viết sử phải viết đúng sự thật và nếu như có những sự thật viết ra rồi mà chưa tiện công bố, thì gác lại, chứ không được viết một cách sai lạc hoặc là khác đi.
"Vì vậy cho nên bộ sử này dù có công nhận chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hay không công nhận Việt Nam Cộng Hòa, có gọi cuộc chiến tranh chống Trung Quốc là chiến tranh chống xâm lược hay không, thì sự thực lịch sử cũng đã tồn tại rồi.
"Và ngay những sự kiện 1975 cũng vậy, dù là các nhà sử học, những người viết sử hay là tập thể viết sử mà viết như thế nào, thì sự thực lịch sử đã tồn tại và với một thời đại Internet như hiện nay, mọi người có thể vào tất cả các văn khố để có thể đọc, vậy thì không ai có thể trốn tránh, hay lảng tránh được...
"Vấn đề thứ hai là vì đây là một tác phẩm sử học, một bộ sử học được biên soạn ròng rã trong chín năm trời bởi hàng chục, hàng trăm người ở trong một cơ quan khoa học hàn lâm như vậy, vì vậy cho nên chúng ta phải nhìn nhận bộ sử này đúng như nó là một bộ sử và trước hết bởi vì sự tôn trọng đối với lịch sử, chứ chúng ta tránh tình trạng là chỉ thấy một vài từ thay đổi mà đã thấy một điều gì đấy như là rất cảm tính.
"Tôi cho rằng hãy nhìn bộ sử này với tinh thần rất nghiêm khắc của một người đọc một bộ sử, trước hết là như vậy, rồi mới nói đến rằng nó có những từ ngữ nọ, từ ngữ kia, nó làm cho tinh thần dân tộc được chấn hưng lên, hay là một sự vui mừng, một sự hy vọng hòa hợp v.v...
Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, là Tổng Chủ biên bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' 15 tập do Viện Sử học Việt Nam biên soạn.
"Tất cả những cái đó tôi cho là mang tính chất cảm tính, còn những nhà khoa học đọc bộ sử này, trước hết người ta đọc bằng một con mắt lạnh lùng của nhà sử học và nhìn nhận bộ sử ấy như một đối tượng để người ta xem xét, vì vậy bộ sử 15 tập này mới được tái bản và có sửa chữa, cho nên nó vẫn đang trong hành trình để đi đến với mọi người đọc, cho nên chúng ta cần phải có nhiều thời gian hơn nữa để đọc bộ sử này", Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện nói với Bàn tròn của BBC hôm 24/7/2017.
Được biết, bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' do Viện Sử học Việt Nam soạn thảo được hoàn thành sau chín năm với hơn 30 nhà nghiên cứu sử học tham gia, có độ dầy hơn 10 nghìn trang, đây được coi là bộ 'thông sử' quy mô 'chưa từng thấy' từ trước tới nay ở Việt Nam phản ánh lịch sử nước này từ khởi thủy cho đến những năm 2000, theo truyền thông Việt Nam.
Mời quý vị bấm vào đây để theo dõi một cuộc Tọa đàm Bàn tròn của BBC Tiếng Việt với tựa đề "Bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' - vấn đề & ý kiến" với các khách mời tham gia gồm nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Nhã từ Sài Gòn, Đại tá Phạm Hữu Thắng, Viện Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy, nhà nghiên cứu Dân tộc học từ Paris, Pháp, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, Viện Nghiên cứu Hán - Nôm từ Hà Nội và nhà bình luận, phân tích gia Nguyễn Xuân Nghĩa, từ Hoa Kỳ.
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 27/08/2017