Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Tại Hội nghị Thượng đỉnh An ninh Châu Á hay còn được biết đến với tên Đối thoại Shangri-La 2019, được tổ chức ở Singapore từ ngày 31/5-2/6, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đã phát biểu về vấn đề cạnh tranh là một tồn tại khách quan, đang và sẽ tiếp tục hiện hữu, có thể dẫn đến đối đầu, thậm chí là xung đột. Theo ông Lịch, trước các thách thức an ninh phức tạp thì vai trò của Việt Nam và các nước rất quan trọng, đặc biệt là các nước lớn.

bakhong1

Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 2019, hôm 1/6/2019. AFP

Tuy nhiên, Đại tướng Ngô Xuân Lịch đã không hề nhắc đến chính sách "3 không" của Việt Nam như tại Đối thoại Shangri-La hồi năm 2018.

Chính sách "3 không" của Việt Nam bao gồm : không tham gia các liên minh quân sự với bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia.

Câu hỏi được đặt ra là liệu Việt Nam có muốn duy trì chính sách "3 không" này không ?

Lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc

Trao đổi với chúng tôi từ Hà Nội về vấn đề này hôm 4/6/2019, Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, Viện phó Viện nghiên cứu các vấn đề phát triển (VIDS), nhận định :

"Có một sự thay đổi là lần này Việt Nam không nhấn mạnh lắm đến cái chính sách "3 không". Tôi cho rằng có thể ông Bộ trưởng đã nói trong sách trắng quốc phòng rồi nên không lập lại, nhưng cũng có thể đây là một sự điều chỉnh".

Chính sách "3 không" mới làm liên tưởng đến chính sách "3 không" thời chiến của Việt Nam. Chính sách "3 không" của Việt Nam ngày đó là : không ủng hộ Trung Quốc bỏ Liên Xô trong liên kết, không để Trung Quốc can thiệp quân sự vào Việt Nam, không ủng hộ vị thế không-hòa bình của Trung Quốc.

Còn chính sách "3 không" mới cũng có thể được hiểu là không liên minh với Mỹ để chống Trung Quốc, hai cường quốc của thế giới. Việt Nam từng nhiều lần xung đột với Trung Quốc, và cũng đã từng xung đột với Mỹ.

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu độc lập từ Singapore nói với đài RFA hôm 4/6/2019 liên quan vấn đề này :

"Mặc dù Việt Nam và Trung Quốc là hợp tác đối tác chiến lược toàn diện, nhưng ở trong đấy vẫn có tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, do vậy hai bên có những thỏa thuận để trách xảy ra xung đột. Điều này cũng hợp lý, vì so với Trung Quốc thì Việt Nam là nước nhỏ hơn, khó có thể một mình đánh thắng Trung Quốc. Vì vậy Việt Nam không thể phản ứng mạnh mẽ, thách thức người ta phải xử lý thật nhanh một vấn đề gì đó".

Hiện Việt Nam và Trung Quốc đang có tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông. Tranh chấp này đôi khi bùng lên thành những xung đột nhỏ. Ví dụ điển hình là vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng biển đang tranh chấp với Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa hồi năm 2014. Trong những năm gần đây Trung Quốc cũng đã gây sức ép lên Việt Nam và các công ty nước ngoài khai thác dầu khí ngoài khơi Việt Nam.

Trong khi đó, Hoa Kỳ là nước từng nhiều lần lên tiếng phản đối Trung Quốc về các hoạt động đơn phương và quân sự hóa khu vực Biển Đông.

Chiến lược An ninh Quốc gia Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump xác định các cơ sở quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông là đe dọa chủ quyền của các quốc gia khác đồng thời gây mất ổn định khu vực.

Trao đổi với RFA từ Sài Gòn hôm 4/6, Nhà nghiên cứu Biển Đông, Thạc sĩ Hoàng Việt, đưa ra ý kiến của mình :

"Chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện vẫn đi đúng hướng, một mặt vẫn thúc đẩy quan hệ với Hoa Kỳ, như việc Mỹ bán cho Việt Nam 6 máy bay không người lái. Trong tương lai có lẽ quan hệ Mỹ Việt Nam sẽ phát triển hơn nhiều vì Việt Nam cần mua vũ khí chất lượng cao hơn, để nâng cấp sức mạnh quân sự trong bối cảnh nguy hiểm này. Đương nhiên Việt Nam vẫn luôn ở cạnh Trung Quốc, ngay cả Hoa Kỳ cũng hiểu điều cái thế của Việt Nam, nên chỉ muốn phát triển quan hệ với Việt Nam chứ không buộc phải chọn ai. Trong tương lai tôi nghĩ Việt Nam một mặt vẫn duy trì quan hệ với Trung Quốc, đó là điều cần thiết. Nhưng Việt Nam sẽ thúc đẩy quan hệ nhiều mặt hơn với Hoa Kỳ, về kinh tế và đặc biệt là về quân sự".

Vào tháng 7 năm 2013, Việt Nam và Hoa Kỳ đã xác lập quan hệ đối tác toàn diện. Trong khuôn khổ quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam - Mỹ, hai bên nhất trí tăng cường trao đổi cấp cao, tiếp xúc ở tất cả các cấp và ủng hộ việc tăng cường các cơ chế đối thoại và hợp tác…

Vào tháng 5 năm 2016, Mỹ đã dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam sau 41 năm dựng rào chắn. Sau đó Mỹ cũng nhiều lần cung cấp thiết bị quân sự cho Việt Nam như tàu tuần tra biển. Mới đây nhất, vào ngày 1/6/2019, Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết công ty Insitu của hãng máy bay Boeing đã nhận được một đơn đặt hàng 6 chiếc máy bay trinh thám không người lái của Việt Nam trị giá gần 10 triệu đô la.

bakhong2

Quyền Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Patrick Shanahan phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 2019, hôm 1/6/2019. AFP

Theo Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, căn cứ vào tuyên bố chung giữa Hoa Kỳ và Việt Nam hồi tháng 5 và tháng 11 năm 2017, Việt Nam rõ ràng được xem là đối tác mà Hoa Kỳ có thể làm việc về các vấn đề an ninh khu vực. Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ đề cập rõ ràng rằng Hoa Kỳ sẽ tăng gấp đôi cam kết với các đồng minh và thiết lập quan hệ đối tác như là hành động ưu tiên hàng đầu của họ ở Ấn Độ-Thái Bình Dương. Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ cũng đề cập đến Việt Nam cùng với Indonesia, Malaysia và Singapore là các đối tác kinh tế và an ninh ngày càng tăng của Hoa Kỳ.

Vào ngày 1/6/2019 tại Singapore, quyền Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Patrick Shanahan cũng cho công bố bản báo cáo về chiến lược Ấn Độ Thái Bình Dương, trong đó Việt Nam cũng được đặt vị trí rất quan trọng, có ba quốc gia Đông Nam Á được nhắc đến không tính Singapore là Indonesia, Malaysia và Việt Nam, trong đó Việt Nam được đặt lên hàng đầu.

Xích lại gần hơn với Mỹ ?

Theo Thạc sĩ Hoàng Việt, vai trò của Việt Nam trong Shangri-La thì cũng như mọi lần, nhưng trong bối cảnh này, vai trò của Việt Nam nổi trội hơn, đặc biệt là vào khi Hoa Kỳ đang muốn thúc đẩy quan hệ với Việt Nam lên tầm cao mới đó là ‘đối tác chiến lược toàn diện’. Bên cạnh đó Trung Quốc vẫn muốn giữ Việt Nam trong tầm ảnh hưởng của mình.

Vào năm 2010, tại Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN ARF, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã lên tiếng xác định "lợi ích quốc gia" của Mỹ trên biển Đông bao gồm : "Quyền tự do hàng hải, quyền tiến vào các vùng biển chung của Châu Á, và sự tôn trọng luật lệ quốc tế tại khu vực Biển Đông". Đây được coi là một thành công của Việt Nam khi đã khiến Mỹ tuyên bố có quyền lợi thiết thực tại biển Đông.

Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng nhận định :

"Trong quan hệ với Hoa Kỳ thì trong các tuyên bố gần đây, Hoa Kỳ luôn nói tôn trọng thể chế của Việt Nam. Vì vậy Việt Nam không chỉ đi dây mà đã tạo ra được thế cân bằng động giữa các nước lớn. Theo tôi Việt Nam đã làm tốt vấn đề này. Nhưng gần đây Trung Quốc có những hành động hơi quá trên biển Đông nên Việt Nam cũng có biểu hiệu là dãn Trung và xích lại gần Mỹ hơn. Và trong đối tác toàn diện Việt Mỹ thì các yếu tố hợp tác chiến lược ngày càng nổi trội".

Thạc sĩ Hoàng Việt cho rằng, thật ra trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ luôn luôn có cái bóng của Trung Quốc đằng sau, nếu không có cái bóng đe dọa của Trung Quốc thì Việt Nam và Hoa Kỳ đã trở thành đối tác chiến lược toàn diện từ lâu. Ông nói tiếp :

"Việt Nam luôn phải hết sức khéo léo bởi vì điều Trung Quốc luôn e ngại là Việt Nam theo Mỹ để chống lại Trung Quốc. Thành ra Việt Nam luôn phải nói với Trung Quốc là việc phát triển quan hệ với Hoa Kỳ là bình thường, và không nhằm chống lại Trung Quốc. Một phần vì Việt Nam có cái di sản của ngoại giao ý thức hệ".

Vào tháng 5 năm 2008, Việt Nam – Trung Quốc đã thiết lập "Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện" trên cơ sở phương châm 16 chữ vàng "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần 4 tốt "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt".

Ngay trước Đối thoại Shangri-La 2019, Bộ trưởng Quốc Phòng Trung Quốc, Thượng Tướng Ngụy Phượng Hòa, dẫn đầu đoàn đại biểu Quân sự cấp cao Trung Quốc sang thăm Việt Nam từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 5 năm 2019. Chuyến thăm diễn ra ngay trong lúc Trung Quốc và Mỹ đang có mối quan hệ rất căng thẳng.

Ông Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên chính thuộc Viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore cho rằng trong bối cảnh căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng thì Trung Quốc cần sự ủng hộ hay ít nhất là thái độ trung lập của các quốc gia khác để họ không ngả về phía Mỹ để chống lại Trung Quốc. Ông nói :

"Tôi nghĩ từ quan điểm của Bắc Kinh thì Việt Nam có thể là đối tác tương đối quan trọng trong tính toán này của họ. Chính vì vậy Trung Quốc vẫn muốn duy trì và phát triển các mối quan hệ với Việt Nam, trong đó có các quan hệ quốc phòng. Từ góc nhìn của Việt Nam, trong bối cảnh cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc dâng cao thì Việt Nam cũng muốn duy trì vị thế độc lập và không muốn bị cuốn theo cuộc cạnh tranh đó. Việt Nam cũng muốn duy trì quan hệ tốt với Trung Quốc để giữ hòa bình, ổn định, nhất là trên Biển Đông, để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế".

Trong bài phát biểu của mình tại Đối thoại Shangri-La, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long nói rằng, các nước ở khu vực không muốn lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Rõ ràng nếu phải lựa chọn, đây chắc chắn cũng là một lựa chọn khó đối với Việt Nam.

Trung Khang

Nguồn : RFA, 05/06/2019

Published in Diễn đàn

Việt Nam nổi tiếng với chính sách Ba Không, nhưng có vẻ Hà Nội đã linh hoạt trong việc diễn giải, theo The Diplomat. 

Mỹ - Trung căng thẳng về tự do hàng hải ở Biển Đông đã gây ra áp lực cho các quốc gia khác, đặc biệt là đối với các nước Đông Nam Á trong lựa chọn phe. 

301

Phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng Việt-Nhật - Ảnh minh họa

Là một bên phản đối chủ chốt đối với các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh trong khu vực, Việt Nam trong vài năm qua đã có một hành động cân bằng tinh tế. Một mặt, Hà Nội đã làm việc trực tiếp với Bắc Kinh về các biện pháp xây dựng lòng tin để ngăn chặn sự thống trị hoàn toàn của Trung Quốc ở Biển Đông. Mặt khác, Việt Nam đang tích cực đẩy lùi Bắc Kinh bằng cách củng cố mối quan hệ quốc phòng với các cường quốc có liên quan trong việc duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. 

Tuy nhiên, hạn chế phổ biến ở điểm thứ hai là không ai quá hào hứng về việc "đu dây" của Hà Nội vì những thách thức vốn có trong chính sách "ba không" - đó là, không liên minh quân sự, không liên kết với một quốc gia chống lại một quốc gia khác, và không có căn cứ quân sự nước ngoài. Chính sách nà lần đầu xuất hiện trong Sách trắng quốc phòng của năm 1998 và sau đó xuất hiện trở lại vào năm 2004, gần đây nhất vào năm 2009. Chính sách này cũng được đề cập trong Luật Quốc phòng của Hà Nội, được thông qua vào tháng 6 và có hiệu lực vào ngày 1/1/2019. Chính sách Ba không rất có thể sẽ xuất hiện trong Sách trắng quốc phòng tiếp theo của Việt Nam khi nó được xuất bản. 

Chính sách Ba không làm phức tạp mục tiêu của chính quyền Trump, trên cơ sở Chiến lược An ninh Quốc gia, nhằm củng cố quan hệ với Hà nội để chống lại những diễn biến của Trung Quốc ở Biển Đông, rộng hơn là trong vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương. 

Mối quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt ngày càng phát triển trong vài năm qua - vào tháng 3/2018, chuyến thăm của hàng không mẫu hạm Mỹ tới Việt Nam lần đầu tiên kể từ sau 1975. Nhưng sau đó, Hà Nội đột ngột hủy bỏ 15 cuộc giao lưu quốc phòng năm 2019. Hà Nội quyết định có lẽ xuất phát từ sự bất mãn đối với Đạo luật Chống lại Kẻ thù của nước Mỹ thông qua trừng phạt (CAATSA), nhưng ít nhất, một phần, do những lo ngại ngày càng gia tăng mà một quốc gia không liên kết với một quốc gia nào khác (trong trường hợp này với Mỹ chống lại Trung Quốc). Dù vậy, Washington nên an ủi rằng, bên dưới bề mặt của chính sách "Ba không" thực sự cung cấp phòng thủ mang tính đáng kể - tức là, "à, chúng tôi vẫn để ngỏ" - hợp tác quốc phòng. 

Không liên minh quân sự, về cơ bản, Việt Nam đã tạo ra một lỗ hổng lớn cho chính mình. Điểm mấu chốt của Hà Nội là tránh mô tả công khai các mối quan hệ quân sự như, nhưng Việt Nam sẽ phải hỗ trợ một quốc gia khác nếu quốc gia đó bị tấn công, hoặc ngược lại. Chừng nào yếu tố trao đổi quân sự vẫn còn mơ hồ, thì Việt Nam có thể sẵn sàng tham gia rộng rãi hơn. Hà Nội sẵn sàng diễn giải thuật ngữ này theo hướng mở rộng cấp độ hợp tác quân sự và quốc phòng, thay vì đóng khung. Chúng bao gồm các mối quan hệ chiến lược toàn diện, mối quan hệ chiến lược, và các mối quan hệ toàn diện. 

Ở cấp độ cao nhất là quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Hà Nội duy trì với ba quốc gia : Nga (2001), Ấn Độ (2007) và Trung Quốc (2008). Đáng kể, Trung Quốc được cấp thêm tình trạng đặc biệt - trở thành đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. 

Hà Nội đang cố gắng cân bằng lợi ích của Bắc Kinh ở Biển Đông. Do đó, hợp tác quốc phòng Việt-Trung được kiểm soát theo hướng có lợi cho các khía cạnh khác của mối quan hệ song phương - cụ thể là kinh tế, vì Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Điều thú vị là, Nhật Bản được duy trì mối quan hệ đối tác chiến lược (2014), ngụ ý rằng nó đang vượt quá cấp chiến lược, nhưng chưa đến cấp chiến lược toàn diện. Trong khi đó, Úc đã được nâng cấp quốc phòng cao hơn là đối tác chiến lược vào năm ngoái và Mỹ ở cấp độ tiếp theo, một đối tác toàn diện (2013). Đã có cuộc thảo luận chính thức nghiêm túc về việc nâng cao vị thế của Mỹ - đối tác chiến lược. Dù vậy, cả hai nước vẫn chưa có bất kỳ một sự gắn nhãn liên minh quân sự nào. 

Bên cạnh đó, không liên minh với một quốc gia nào khác, đó là điều gây ra sự miễn cưỡng của Hà Nội trong việc hợp tác quốc phòng với Washington. Giống như không có liên minh quân sự, tuy nhiên, Hà Nội đã bẻ cong đáng kể chính quy tắc này. Chẳng hạn, Việt Nam vào tháng 5, đã cùng với Ấn Độ tổ chức một cuộc tập trận hải quân chung chưa từng có ở Biển Đông. Thật khó để hình dung bất kỳ quốc gia nào khác ngoài Trung Quốc là đối tượng của sự răn đe này. Điều tương tự cũng có thể được tranh luận về chuyến thăm của tàu sân bay Mỹ. Dù bằng cách nào, những lần xuất hiện này có khả năng là tương đối hiếm. Chúng có thể trở nên thường xuyên hơn nếu Trung Quốc ngày càng thách thức các yêu sách chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. 

Hòa giải, không liên kết với một quốc gia nào với một quốc gia khác sẽ đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hợp tác khu vực, như đồng bộ hóa Việt Nam với "Bộ tứ kim cương" thường được gọi là Quad. Đối thoại Quad là đối thoại chính sách đối ngoại và quốc phòng giữa các quốc gia dân chủ có cùng chí hướng - Mỹ, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ - đang tìm cách giữ cho Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở khỏi sự ép buộc của Trung Quốc. Việt Nam sẽ là đối tác đối thoại lý tưởng với Quad, với mức độ tranh chấp hàng hải với Trung Quốc và thể hiện mong muốn cân bằng chống lại Bắc Kinh. Không có sự liên kết nào với một quốc gia chống lại một quốc gia khác, tuy nhiên, dường như sẽ ngăn cản sự tham gia của người Việt Nam vào Quad, nhưng có lẽ là không. Một nghiên cứu gần đây về nhận thức của Đông Nam Á về Quad đã kết luận rằng người Việt Nam (cùng với người Philippines) duy trì quan điểm thuận lợi về cơ chế tư vấn. Mặc dù Việt Nam khó có thể chính thức gia nhập nhóm do chính sách "Ba không", nhưng tỷ lệ Việt Nam tham gia với tư cách là đối tác hoặc người quan sát đối thoại theo dõi cấp độ cao hơn. 

Cuối cùng, không có căn cứ nước ngoài nào trên lãnh thổ Việt Nam, không phù hợp với việc sử dụng chính thức căn cứ hải quân chiến lược Biển Đông của Liên Xô và Nga (về sau này) tại Vịnh Cam Ranh từ năm 1978 đến 2002. Bắt đầu từ năm 1978, Hà Nội đã cho Moscow thuê, và người Nga chỉ rút lui vào năm 2002. Tuy nhiên, kể từ năm 2015, Nga dường như vẫn đang tiếp nhiên liệu cho máy bay quân sự của họ từ Vịnh Cam Ranh cho đến khi có biến cố với Mỹ (Đạo luật chống lại kẻ thù của nước Mỹ) và hoạt động này lặng lẽ chấm dứt. Vào thời điểm đó, Việt Nam rõ ràng cũng đã cho phép các kỹ thuật viên Nga tiếp cận Vịnh Cam Ranh để giúp đào tạo nhân viên hải quân Việt Nam về cách vận hành các tàu ngầm lớp Kilo do Nga chế tạo và bảo trì chúng. Mặc dù không biết đây là chuyên gia quân sự, quân nhân hay hỗn hợp cả hai, nhưng những trường hợp này cho thấy các nhà lãnh đạo Việt Nam sẽ linh hoạt hơn trong chính sách "Ba không" nếu cần phục vụ nhu cầu quốc phòng của mình. 

Tuy vậy, căn cứ tương lai của Mỹ tại Việt Nam không được xem xét. Thế nhưng, Washington rõ ràng quan tâm đến việc thực hiện các cuộc tiếp cận hải quân đến Việt Nam, và trong lĩnh vực này, tín hiệu rõ ràng từ Hà Nội là những điều này không vi phạm chính sách "Ba không". Thật vậy, Hà Nội đã rất hoan nghênh hải quân các nước cập cảng, bao gồm từ Mỹ, Ấn, Nhật, Úc, Pháp, Anh, Canada, New Zealand, Nga, Trung Quốc và các quốc gia khác. 

Tóm lại, chính sách "Ba không" nằm trong khu vực màu xám và diễn giải liên quan. Nếu Hà Nội nhìn thấy lợi ích trong một cuộc trao đổi quốc phòng cụ thể, họ sẽ tìm cách làm cho sự tham gia phù hợp với chính sách "Ba không" hoặc giữ cho hoạt động tương đối im lặng. Cân bằng với Trung Quốc ở Biển Đông sẽ xuất hiện để cung cấp cho Mỹ và các quốc gia có cùng chí hướng khác về vĩ độ nhận biết khá rộng. 

Không có gì khác hơn là quyết định của Hà Nội vào đầu tháng 1/2019 để bày tỏ sự ủng hộ đối với hoạt động tự do hàng hải (FONOP) mới nhất của Washington tại Quần đảo Paracels đang tranh chấp. Chắc chắn, các nhà lãnh đạo Việt Nam trong quá khứ đã ủng hộ quyền tiến hành tuần tra ở Biển Đông - FONOP của Washington, ngay sau khi USS McCampbell tạo ấn tượng rằng chính sách của Việt Nam và Mỹ đang hoạt động song song. Có thể cho rằng, điều này có thể dễ dàng chống lại việc không liên kết với một quốc gia nhằm chống lại một quốc gia khác, và Hà Nội đã tiến hành. 

Trong tương lai, hy vọng Việt Nam sẽ thực thi chính sách "Ba không" một cách tự do hơn, đặc biệt là nếu Trung Quốc tăng cường tuần tra, tiến hành cải tạo đất và tiếp tục quân sự hóa các đặc điểm tranh chấp; công bố khu vực nhận dạng phòng không; hoặc cạnh tranh mạnh mẽ hơn để tiếp cận các nguồn tài nguyên và thủy sản. Bất kể, Việt Nam sẽ có khuynh hướng chấp nhận các cam kết quốc phòng có thể được giải thích công khai là phòng thủ hơn là tấn công. Bảo vệ quê hương Việt Nam là một chủ đề quan trọng trong tất cả các ấn phẩm chính của quốc phòng và chính đảng cộng sản. 

Do đó, Mỹ nên kỳ vọng các hình thức hợp tác quốc phòng nhẹ nhàng hơn - như hỗ trợ Việt Nam phát triển khả năng nhận thức về hàng hải hoặc giúp nước này tăng cường năng lực bảo vệ bờ biển sau khi Mỹ bán tàu bảo vệ bờ biển lớp Hamilton. Các hình thức khác, như các cuộc tập trận chung, có thể nằm ngoài tầm với trong tương lai gần, ngoại trừ Bắc Kinh tiếp tục làm càn trên Biển Đông. 

Derek Grossman & Dung Huynh

Nguyên tác : Vietnam’s Defense Policy of ‘No’ Quietly Saves Room for ‘Yes’ - Vietnam is famous for the “Three Nos,” but Hanoi has been flexible in interpreting those in practice, The Diplomat, 19/01/2019

Ánh Liên lược dịch

Nguồn : VNTB, 21/01/2019

Derek Grossman là một nhà phân tích quốc phòng cao cấp tại Tập đoàn RAND. Trước ông là Trợ lý Bộ trưởng quốc phòng về các vấn đề an ninh Châu Á và Thái Bình Dương tại Lầu năm góc.

Dung Huynh là một nghiên cứu viên chính sách tại RAND Corporation và nghiên cứu sinh tại Pardee. 

Published in Diễn đàn