Các nước phát triển sẽ không thoát ra khỏi cơn ác mộng đại dịch nếu phần còn lại của thế giới không được bảo vệ bằng vac-xin. Trên đây là nhận định của cây bút xã luận Sylvie Kauffmann của báo Le Monde trong bài viết "Covid-19 chia rẽ thế giới", ở chuyên mục Địa chính trị - Thời luận.
Virus corona cho thấy sự bất bình đẳng y tế và kinh tế đang gia tăng trên toàn cầu. © Pixabay/Geralt
Đầu năm 2021, chiến dịch tiêm chủng của Israel đã khiến Châu Âu choáng ngợp. Tính đến giữa tháng 4, 60% dân số Israel đã được tiêm vac-xin ngừa Covid-19. Được thực hiện chính xác như một chiến dịch quân sự và với lượng vac-xin dự trữ mua từ rất sớm giá "đắt như vàng", chiến dịch chủng ngừa của Israel được xem là một thành công vang dội. Vấn đề duy nhất là người Palestine ở các vùng lãnh thổ bị Israel chiếm đóng, Gaza và West Bank (Cisjordanie), lại không nằm trong chương trình tiêm chủng của Israel. Cho dù theo Công ước Genève, chính quyền chiếm đóng Israel phải chịu trách nhiệm tiêm phòng cho người Palestine. Nhưng chính phủ Benjamin Netanyahu muốn thực thi các thỏa thuận Oslo, theo đó công tác chăm lo sức khỏe cộng đồng thuộc thẩm quyền của chính quyền Palestine. Cuối cùng, nhờ cơ chế quốc tế Covax, người Palestine mới nhận được vac-xin.
Theo cây bút xã luận Kauffmann, nếu Liên Âu để các nước thành viên tự xoay xở thì có lẽ trong khi 60% người Đức được tiêm phòng, người dân Bulgarie và Cộng hòa Cyprus vẫn đang phải chờ nguồn vac-xin từ Covax. Nếu như vậy, mùa hè ở Châu Âu sẽ tồi tệ hơn rất nhiều so với những gì hiện giờ chúng ta có thể hình dung. Hôm 17/05, tại Diễn Đàn Hòa Bình Paris, cựu giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới, Pascal Lamy, nhắc đến nguy cơ xảy ra "nạn phân biệt vac-xin" giữa các nước giàu và các nước kém phát triển. Thế nhưng, tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới khẳng định nạn phân biệt đó đã xảy ra : Các nước giàu, chiếm 15% dân số thế giới, sở hữu 45% lượng vắc-xin trên toàn cầu, trong khi các nước thu nhập thấp, chiếm gần một nửa dân số thế giới, lại chỉ nhận được 17% lượng vac-xin được sản xuất. Trong số đó, Châu Phi chỉ nhận được 1,8%.
Tổ vhức Thương mại Thế giới kêu gọi các nước chia sẻ vac-xin. Ngay sau đó, tổng thống Mỹ Joe Biden thông báo Hoa Kỳ sẽ chuyển 80 triệu liều vac-xin ra nước ngoài vào cuối tháng 06/2021 và gọi đó là điều đúng đắn, thông minh, cần phải thực hiện. Trước đó chục ngày, tổng thống Biden đã khiến mọi người ngạc nhiên khi quyết định đình chỉ bảo hộ bằng sáng chế đối với vac-xin ngừa virus corona, trong bối cảnh Washington bị chỉ trích về "chủ nghĩa dân tộc vac-xin". Chính sách của Washington cho đến lúc đó là tiêm chủng cho người Mỹ và tích trữ vac-xin nhưng không xuất khẩu, trong khi Liên Âu, mặc dù chiến dịch tiêm chủng tiến chậm hơn Mỹ, nhưng lượng vac-xin xuất khẩu cũng nhiều bằng lượng thuốc được sử dụng cho chiến dịch tiêm ngừa.
Cuộc tranh luận gay gắt về việc nên ưu tiên cho việc đình chỉ bảo hộ bằng sáng chế hay tăng sản lượng và chia sẻ vac-xin vẫn chưa ngã ngũ. Nhưng thông báo của tổng thống Mỹ Joe Biden là một câu trả lời trong bối cảnh đại dịch bùng lên ở Ấn Độ. Rõ ràng là các nước phát triển sẽ không thoát khỏi cơn ác mộng này, nếu phần còn lại của thế giới không nhận được vac-xin và không thể sản xuất vac-xin.
Một tác động toàn cầu khác của Covid-19 cũng ngày càng bộc lộ rõ : sự gia tăng bất bình đẳng kinh tế giữa các nước phía Bắc và một phần Nam bán cầu. Kinh tế gia Hubert Testard, một chuyên gia về Châu Á, trong cuốn sách "Đại dịch, sự chao đảo của thế giới", nhận định không phải tất cả các nước đang phát triển đều sẽ đi chung một con thuyền. Ông dự đoán : "Vào cuối cuộc khủng hoảng, các nước mới nổi sẽ chia thành hai nhóm, có những nước sẽ không có lại mức GDP của năm 2019 và có những nước sẽ duy trì được đà tăng trưởng. Nhóm đầu tiên có lẽ sẽ gồm Châu Phi nam Sahara, Ấn Độ, một số quốc gia Trung Đông và Châu Mỹ La-tinh". "Nạn phân biệt chủng tộc bằng vac-xin", nếu tiếp diễn, sẽ khiến các nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi khủng hoảng thêm lâm cảnh khó khăn.
Chương trình tái thiết kinh tế của các nước giàu chỉ tập trung vào nền kinh tế của họ mà không nhìn rộng ra tình hình toàn cầu thời hậu khủng hoảng, điều đó sẽ càng làm sự phân hóa giữa các nền kinh tế tiên tiến và các nền kinh tế mới nổi thêm nghiêm trọng. Một ngân hàng lưu ý nhóm các nước mới nổi BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) đã có sự phân hóa, Trung Quốc là một chủ nợ và các khoản nợ đang siết chặt quanh các nước Châu Phi, Trung Quốc cũng đã tiến xa so với Ấn Độ.
Đối với cây bút xã luận của Le Monde, không ai thấy rõ rủi ro này hơn bà Kristalina Georgieva, tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hôm 17/05, bà nói rằng tất cả đang ở trên cùng một con thuyền, và mọi người ai cũng phải chèo thuyền. Những người ở vị trí tốt nhất nên để những người khác cùng hưởng lợi thế đó, bởi lần này không có chuyện con thuyền bị chìm một phía mà phía kia vẫn sẽ ổn.
Vẫn liên quan đến Covid-19 nhưng ngay tại Pháp, Libération quan tâm đến giai đoạn 2 dỡ bỏ phong tỏa chính thức bắt đầu từ ngày hôm qua với việc hàng quán, bảo tàng, rạp phim… được mở cửa trở lại sau nhiều tháng đóng cửa, giờ giới nghiêm từ 19 giờ cũng được lùi thành 21 giờ. "Sau cơn mưa trời lại sáng" là tựa trang nhất của báo Libération, trên nền bức ảnh một người phụ nữ cười rạng rỡ bên cốc bia và bạn bè.
Tuy nhiên, trong bài viết "Nước Pháp vô địch về giới nghiêm", Libération nhấn mạnh người Pháp được "giải phóng" nhưng không phải quá thoải mái, phải đến ngày 09/06 giờ giới nghiêm mới lùi đến 23 giờ và phải đến ngày 30/06 thì Pháp mới dỡ hẳn lệnh giới nghiêm. Cho dù theo bộ trưởng Kinh tế, Bruno Le Maire, biện pháp dỡ dần phong tỏa có thể cho phép dân chúng tìm lại "nghệ thuật sống kiểu Pháp", nhưng tờ báo nhắc lại là từ tháng 10/2020, dân Pháp phải sống với nhịp độ, giờ giấc mà chính phủ ấn định và hiện nay với lệnh giới nghiêm từ 21 giờ đến 6 giờ sáng hôm sau, Pháp vẫn là nước có quy định giới nghiêm nghiêm ngặt nhất Châu Âu.
Hiện giờ tại Liên Âu chỉ còn 6 nước vẫn áp dụng giờ giới nghiêm, nhưng thời gian giới nghiêm đều ngắn hơn Pháp, chẳng hạn Hy Lạp từ 0 giờ 30 đến 5 giờ sáng, Hungary từ 0 giờ đến 5 giờ, Ý từ Hungary từ 23 giờ đến 5 giờ.
Nhìn sang Trung Đông, Le Figaro nhận định dường như tổng thống Mỹ Joe Biden muốn thủ tướng Israel có thêm thời gian để dễ bề hành động, làm suy yếu lực lượng Hamas, trước khi tiến đến một lệnh hưu chiến. Kể từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, tổng thống Mỹ luôn tỏ ra thận trọng và kín đáo, không đặt vấn đề người Palestine là mối ưu tiên. Theo Le Figaro, vì quyết tâm quay trở lại thỏa thuận hạt nhân Iran, nguyên thủ quốc gia Mỹ không muốn có bất cứ bất đồng quan điểm nào khác với Israel, đồng minh lớn của Washington trong khu vực.
Trong tám ngày qua, chính quyền Hoa Kỳ đã ngăn cản mọi quyết định của Liên Hiệp Quốc nếu thấy chúng có thể đi ngược lại lợi ích của Mỹ và Israel. Nhưng cuối cùng, vào hôm 19/05, Joe Biden đã kêu gọi Israel nhanh chóng làm "giảm leo thang" căng thẳng. Theo Le Figaro, đây có thể là tín hiệu hướng tới thỏa thuận đình chiến. Đúng là không thể có giải pháp ngoại giao ở Trung Đông, nếu không có sự tham gia của Hoa Kỳ.
Trong cơn sốt ngoại giao này, Liên Hiệp Châu Âu đang vắng bóng, do các thành viên bị chia rẽ và cũng do không nắm rõ thực tế. Hugh Lovatt, chuyên gia về khu vực Trung Đông của Hội đồng Châu Âu về quan hệ quốc tế, nhận định chính Liên Âu đã tự đặt mình ra bên lề, vì Bruxelles không muốn đối thoại với Hamas. Bruxelles cũng thích nhắm mắt làm ngơ và coi như phong trào này không tồn tại. Liên Âu vì thế đã tự tước đi khả năng có thể giữ vai trò trung gian. Chuyên gia Hugh Lovatt nhấn mạnh Bruxelles phải nói chuyện với những kẻ khủng bố, nếu muốn khởi động lại tiến trình hòa bình ở Trung Đông, giống như đang làm ở Afghanistan với lực lượng Taliban.
Liên Hiệp Châu Âu cũng đã tự tước bỏ ảnh hưởng của mình vì đã không sử dụng các đòn bẩy Bruxelles có trong tay để gây áp lực đối với Israel và chính sách mở rộng các khu định cư của người Do Thái, cũng như không trừng phạt các cuộc tấn công nhắm vào nền dân chủ ở Palestine. Hugh Lovatt nói : "Chính quyền Palestine ngày càng chuyên quyền, trong khi được Châu Âu tài trợ. Thế nhưng, Liên Hiệp Châu Âu lại không muốn giải quyết vấn đề này". Nói một cách khái quát, Bruxelles tập trung mọi nỗ lực vào viện trợ nhân đạo và kinh tế, trong khi vấn đề chính lại là chính trị.
Khoảng trống ngoại giao nói trên đã thu hút các cường quốc khác, chẳng hạn như Nga và Trung Quốc, hai nước đang tìm cách để tiếng nói của họ được lắng nghe. Bắc Kinh và Moskva đã lần lượt đề nghị làm trung gian hòa giải. Nhưng theo Hugh Lovatt, đây chỉ là "chủ nghĩa cơ hội chính trị", bởi Israel sẽ không chấp nhận bất kỳ người đối thoại nào khác ngoài Mỹ.
Các nước Ả Rập có khả năng can thiệp được nhiều hơn. Ai Cập, một cường quốc khu vực và có biên giới với Gaza, có thể đối thoại với cả Israel, chính quyền Palestine và lực lượng Hamas, đang có nhiều nỗ lực hòa giải nhất, cho dù đến nay vẫn chưa phát huy tác dụng, bởi theo chuyên gia của Hội đồng Châu Âu về quan hệ quốc tế : "Nếu không có áp lực của cộng đồng quốc tế đối với những kẻ hiếu chiến, nếu không có sự thúc đẩy của Hoa Kỳ và Liên Âu, thì sự can thiệp của Ai Cập không thể đủ để chấm dứt sự thù địch".
Nhìn sang Châu Mỹ La-tinh, báo Le Monde quan tâm đến Chile, nơi quặng đồng vừa là nguồn thu lớn vừa là rủi ro cho tương lai quốc gia. Trong những tháng qua, giá đồng trên thế giới đã tăng vọt (tăng 31% chỉ tính riêng từ đầu năm 2021). Bộ trưởng bộ Khai thác Mỏ ở Chile gọi đó là một tin vui cho đất nước, nhận định nếu mức giá đó được duy trì, Chile sẽ có thêm nguồn thu 10 tỉ đô la để giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách, hệ quả của đại dịch.
Xuất khẩu đồng hiện chiếm hơn một nửa xuất khẩu toàn quốc, đóng góp 10% vào GDP đất nước. Ủy ban quản lý đồng của Chile ước tính từ nay đến năm 2023 sẽ có thêm 33.000 việc làm đươc tạo ra trong lĩnh vực này. Còn theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, GDP năm 2021 của Chile sẽ tăng thêm 6,2%, đưa nước này thành 1 trong số hiếm hoi quốc gia trong khu vực có mức GDP đủ bù đắp cho mức sụt giảm năm 2020.
Tuy nhiên, Le Monde dẫn nhiều chuyên gia, theo đó thuế đánh vào các các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực khai khoáng đồng rất thấp, nên Nhà nước thực ra không thu được nhiều lợi, trong khi đó tổn hại cho môi trường lại quá lớn. Ngoài ra, món quà mang tên đồng mà tự nhiên ban tặng cho Chile có thể khiến nước này phụ thuộc quá nhiều vào tài nguyên đồng mà lơ là mảng sáng chế, phát minh, đa dạng hóa hoạt động, thiếu sự quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, năng lượng tái tạo … Đó chính là những nguy cơ, rủi ro cho tương lai của Chile.
Trong lĩnh vực kinh tế, cả Le Figaro và Les Echos đều chú ý đến tiền ảo. Les Echos chạy tựa trang nhất "Vụ lao dốc của Bitcoin" : giá trị đồng tiền ảo mất 35% rồi đến cuối ngày mức sụt giảm là 20%. Trong vòng 1 tuần, 1.000 tỉ đô la đã tan thành mây khói. Còn Le Figaro nhận định chính Trung Quốc và Elon Musk, chủ tập đoàn Tesla, đã "nhấn chìm" Bitcoin, đồng tiền nổi tiếng nhất trong số các loại tiền ảo.
Sau một năm "chạy đua điên cuồng" với các đồng tiền kỹ thuật số khác, Bitcoin, đã "lao dốc trên toàn cầu" vào thứ Tư 19/05, sau khi Bắc Kinh tuyên bố tiền ảo không nên và không được sử dụng trên thị trường, bởi đó không phải những đồng tiền thật. Vài ngày trước đó, tỉ phú Elon Musk đã làm chao đảo đồng Bitcoin và thị trường tiền ảo khi tuyên bố Tesla từ chối khách hàng mua xe thanh toán bằng Bitcoin.
Thùy Dương
Trước năm 2020, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc định hình mối bang giao quốc tế. Mối quan hệ này được thể hiện bằng cuộc thương chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày một leo thang. Nhưng đằng sau đó thật ra là sự leo thang quyền lực chính trị giữa một bên là Hoa Kỳ muốn tiếp tục duy trì ngôi vị bá chủ toàn cầu, và một bên là Trung Quốc muốn thách thức và thay đổi trật tự hiện có để ngày càng có lợi cho mình, trong vùng và toàn cầu.
Đa số các chuyên gia này nhận định rằng đại dịch Covid-19 sẽ củng cố chủ nghĩa dân tộc khắp nơi và gia tăng quyền lực của nhà nước tại nơi đó.
Nhưng nạn đại dịch Covid-19 đã thay đổi sâu đậm bàn cờ chính trị quốc tế hiện nay.
Sau đây là nhận định của 12 chuyên gia với tầm nhìn toàn cầu, được đăng trên tạp chí Foreign Policy, với tựa đề "Thế giới sẽ nhìn ra sao sau đại dịch Coronavirus".
Đa số các chuyên gia này nhận định rằng đại dịch Covid-19 sẽ củng cố chủ nghĩa dân tộc khắp nơi và gia tăng quyền lực của nhà nước tại nơi đó ; tạo ra một thế giới ít rộng mở hơn, ít thịnh vượng hơn, và ít tự do hơn ; chấm dứt toàn cầu hóa như chúng ta đã biết ; đưa đến toàn cầu hóa quanh trục Trung Quốc ; làm tệ hơn mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay và làm yếu đi tiến trình hội nhập Châu Âu ; Covid-19 sẽ tiếp tục giảm hoạt động kinh tế và gia tăng căng thẳng giữa các quốc gia ; về lâu dài, đại dịch có thể sẽ làm giảm đáng kể năng lực sản xuất của nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt nếu các doanh nghiệp đóng cửa và các cá nhân tách khỏi lực lượng lao động.
Chẳng hạn, theo ông John Allen, Chủ tịch Brookings Institute, tướng Thủy Quân Lục Chiến 4 sao của Mỹ, từng là tư lệnh của NATO, thì cuộc khủng hoảng này sẽ tái sắp xếp cơ cấu quyền lực quốc tế theo những cách mà chúng ta chỉ có thể bắt đầu tưởng tượng ; Covid-19 sẽ tiếp tục giảm hoạt động kinh tế và gia tăng căng thẳng giữa các quốc gia. Theo Laurie Garrett, cựu thành viên của Hội đồng Quan hệ Ngoại giao, thì "Đại dịch Covid-19 sẽ không chỉ có tác dụng kinh tế lâu dài mà còn dẫn đến một sự thay đổi cơ bản hơn nữa". Còn Shannon K. O'Neil, một chuyên gia về Ngành Học Mỹ Latin, thì tin rằng qua nạn Covid-19, lợi nhuận sẽ giảm, nhưng ổn định nguồn cung nên tăng (Profitability will fall, but supply stability should rise). Còn Kori Schake, phó giám đốc của viện quốc tế chiến lược học, nhận định rằng Hoa Kỳ sẽ không còn được coi là một lãnh đạo quốc tế bởi vì quyền lợi hẹp hòi của chính phủ nước này.
Kishore Mahbubani, một học giả uy tín tại Đại học Quốc gia Singapore, nhận định rằng đại dịch Covid-19 sẽ không thay đổi căn bản của hướng đi kinh tế toàn cầu. Nó chỉ gia tăng tốc độ thay đổi đã bắt đầu : xa dần nền toàn cầu hóa mà trọng tâm là Hoa Kỳ sang trọng tâm là Trung Quốc. Ông cũng biện luận rằng nếu mục tiêu hàng đầu của Hoa Kỳ là duy trì thế ưu việt toàn cầu, nó sẽ phải tham gia vào một cuộc cạnh tranh một mất một còn (zero sum game) địa chính trị với Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu mục tiêu của Hoa Kỳ là cải thiện sự thịnh vượng của người dân Mỹ - vì điều kiện xã hội đã xấu đi - thì nên hợp tác với Trung Quốc.
Robin Niblett, giám đốc và tổng điều hành của Chatham House, cơ quan nghiên cứu các vấn đề quốc tế, biện luận rằng Covid-19 đang bắt buộc chính quyền, công ty và xã hội tăng cường năng lực của họ để đối phó với thời gian do các biện pháp tự cô lập kinh tế. Ông Niblett kết luận rằng những lãnh đạo chính trị nào quản lý tốt đại dịch Covid-19 tại quốc gia mình sẽ được công dân mình ủng hộ ; nhưng những ai thất bại sẽ khó tránh việc đổ thừa người khác cho thất bại của mình.
Shivshankar Menon, một học giả của viện Brookings India, từng là cố vấn an ninh quốc gia cho Thủ tướng Ấn Manmohan Singh, cho rằng đại dịch Covid-19 là chứng minh của mối tương thuộc ; nhưng trong mọi loại chính trị, đã có một bước ngoặt nội hướng, tìm kiếm quyền tự chủ và kiểm soát số phận của chính mình. Ông nhận định rằng chúng ta đang hướng đến một thế giới nghèo hơn, xấu hơn và nhỏ hơn. Nhưng chính ông cũng nhìn ra được cơ hội : "Nếu đại dịch làm cho chúng ta sửng sốt nhận ra mối quan tâm thực sự của mình trong việc hợp tác đa phương về các vấn đề toàn cầu lớn mà chúng ta phải đối mặt, thì nó sẽ phục vụ một mục đích hữu ích".
Giáo sư chính trị học của trường Đại học Princeton G. John Ikenberry, người nổi tiếng của trường phái quốc tế cấp tiến (liberal internationalism), cho rằng những gì đang diễn ra làm cho chúng ta không thể thấy gì hơn ngoài sự củng cố của xu hướng chủ nghĩa quốc gia, sự cạnh tranh giữa quyền lực lớn, chiến lược tách rời (strategic decoupling) v.v… Nhìn lại lịch sử thời Đại Suy thoái (The Great Depression), Ikenberry cho rằng Hoa Kỳ và các nền dân chủ Tây phương có thể phải đi qua các giai đoạn phản ứng tương tự của thời thập niên 1930 và 1940, được lèo lái bởi một cảm giác dễ bị tổn thương dây chuyền ; phản ứng có thể mang dân tộc tính hơn lúc đầu, nhưng về lâu dài, các nền dân chủ sẽ ra khỏi vỏ bọc của mình để tìm ra một loại chủ nghĩa quốc tế thực dụng và bảo vệ mới.
Giáo sư chính trị học thuộc đại học Harvard, Joseph S. Nye, Jr., tác giả quyền lực mềm, thì cho rằng Covid-19 sẽ làm cho chiến lược cạnh tranh quyền lực giữa các siêu cường quốc trở nên không đáng nữa. Ngay cả khi Hoa Kỳ chiến thắng là siêu cường quốc, nó cũng không thể bảo vệ an ninh của mình một mình. Với mối đe dọa xuyên quốc gia như Covid-19 và thay đổi khí hậu, nếu chỉ nghĩ quyền lực của Hoa Kỳ lên trên nước khác thì thật là không đủ. Chìa khóa thành công là học được tầm quan trọng của quyền lực đối với các quốc gia khác. Tất cả mọi quốc gia đều đặt quyền lợi của mình trên hết. Câu hỏi quan trọng là quyền lợi này được định nghĩa rộng và hẹp ra sao. Covid-19 cho thấy chúng ta đang thất bại trong việc điều chỉnh chiến lược của mình trong thế giới mới này.
Richard N. Haass, Chủ tịch của Hội đồng Quan hệ Ngoại giao, biện luận rằng khủng hoảng do Covid-19 gây ra, kéo dài ít nhất là vài năm, sẽ làm cho phần lớn các chính quyền hướng nội, chú tâm vào những gì xảy ra bên trong biên giới của họ, hơn là những gì bên ngoài. Sẽ có sự đổi hướng để tập trung vào chủ trương tự lực tự cường (self-sufficiency) do các tổn thương của chuỗi cung ứng toàn cầu… Haass cho rằng sẽ có nhiều quốc gia gặp khó khăn khắc phục khủng hoảng này, và các nhà nước yếu ớt hay thất bại sẽ trở thành một điều phổ biến hơn nữa trong thế giới này. Cuộc khủng hoảng có thể sẽ góp phần làm tồi tệ hơn cho mối quan hệ Mỹ - Trung và sự suy yếu của tiến trình hội nhập Châu Âu. Về mặt tích cực thì Haass cho rằng chúng ta sẽ thấy một số tăng cường khiêm tốn của quản trị y tế công cộng trên bình diện toàn cầu.
Giáo sưStephen Walt, thuộc đại học Harvard, người theo xu hướng chủ nghĩa hiện thực, nhận định rằng nạn đại dịch không thay đổi là bản chất xung đột căn bản của chính trị quốc tế. Nhưng nó sẽ làm cho các nhà nước mạnh hơn và củng cố chủ nghĩa dân tộc. Chính quyền bằng mọi hình thức khác nhau sẽ áp dụng các biện pháp khẩn cấp để quản lý khủng hoảng, và nhiều trong số đó sẽ không dễ dàng từ bỏ quyền lực mới này khi khủng hoảng đã qua. Cũng như trước đây, cúm Tây Ban Nha năm 1918 – 1919 không chấm dứt sự tranh giành giữa các cường quốc, hay đem đến một thời đại mới của sự hợp tác toàn cầu. Covid-19 cũng thế. Công dân sẽ trông đợi vào các chính quyền quốc gia mình để bảo vệ họ, và các nhà nước, doanh nghiệp tìm cách giảm thiểu các tổn thương trong tương lai. Điều này đưa đến sự thoái trào hơn nữa về tiến trình siêu toàn cầu hóa. Tóm lại, giáo sư Walt cho rằng Covid-19 sẽ tạo ra một thế giới ít rộng mở hơn, ít thịnh vượng hơn và ít tự do hơn.
Sau cùng, Nicholas Burns, giáo sư thuộc Harvard Kennedy School of Government, cho rằng tuy đại dịch Covid-19 là một khủng hoảng toàn cầu lớn nhất của thế kỷ này, nhưng ông lạc quan về sức mạnh tinh thần của con người. Burns nhận xét : "Ở mỗi quốc gia, có rất nhiều ví dụ về sức mạnh tinh thần con người - của các bác sĩ, y tá, lãnh đạo chính trị và công dân bình thường - thể hiện sự kiên cường, hiệu quả và khả năng lãnh đạo. Điều đó mang đến hy vọng rằng đàn ông và phụ nữ trên khắp thế giới có thể chiến thắng trong việc đối phó với thử thách phi thường này".
Đây là những nhận định tổng quan của các chuyên gia quốc tế về tình hình thế giới do đại dịch Covid-19 gây ra hiện nay. Nhìn chung thì hầu như đại đa số, nếu không phải là tất cả, đều nhìn bi quan về hậu quả khắc nghiệt mà Covid-19 đã đang và sẽ mang lại. Ngoài những chuyên gia và chính trị gia, các nhà lãnh đạo về y tế cũng quan niệm rằng thế giới chúng ta đang và sẽ sống trong những ngày tới sẽ bị thay đổi sâu sắc.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 20/04/2020