Canh tác nông ngư nghiệp thiếu bền vững, mực nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu, mặn xâm thực ngày càng sâu vào nội đồng vào mùa khô, và tác động giữ lại phù sa của các đập thủy điện thượng nguồn Mekong là những tác nhân làm suy giảm đáng kể tiềm năng sản xuất của Châu thổ Đồng bằng sông Cửu Long.
Hiện tượng sụt lún ở Đồng bằng sông Cửu Long đang ngày một gia tăng - Ảnh minh họa
Ngoài ra Đồng bằng sông Cửu Long còn phải đối mặt với tình trạng sụt lún trầm trọng do nạn khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát khiến Đồng bằng sông Cửu Long chìm dần. Đó là đề tài của bài phỏng vấn tiến sĩ Huỳnh Long Vân, thuộc Nhóm Nghiên cứu Văn hóa Đồng Nai Cửu Long Úc Châu, trả lời RFI từ Sydney ngày 10/10/2019.
Khai thác nước ngầm quá mức gây sụt lún
RFI : Thưa ông Huỳnh Long Vân, trước hết xin ông cho biết là nạn khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát ở vùng đồng bằng sông Cửu Long diễn ra với tầm mức ra sao và nó đã làm sụt lún vùng này như thế nào ?
Huỳnh Long Vân : Nước ngầm đã được người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là ở những tỉnh ven biển như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, từ lâu sử dụng trong sinh hoạt, nhưng ở mức độ vừa phải, nên mực nước ngầm không bị hạ thấp. Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam theo đuổi kinh tế thị trường, gia tăng sản xuất và nguồn nước mặt bị ô nhiễm thì nước ngầm được khai thác ráo riết, tăng tốc từ 1995 đến nay, để phục vụ sản xuất thâm canh trong canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở những vùng ven biển.
Vào tháng 5/2012, theo yêu cầu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam với Bộ Ngoại giao Na Uy, Viện Địa Kỹ thuật Hoàng gia Na Uy tiến hành dự án nghiên cứu tình trạng sụt lún đất ở bán đảo Cà Mau.
Qua nghiên cứu khảo sát thực địa kết hợp với những dữ liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và những hình ảnh vệ tinh thu thập từ nhiều thập niên trước đây, tháng 6/2013 Viện Địa Kỹ thuật Hoàng gia Na Uy kết luận nền đất của khu vực miền Nam bị sụt lún nghiêm trọng do bơm rút nước ngầm liên tục : trong vòng 20 năm, kể từ 1995, nhiều nơi ở Đồng bằng sông Cửu Long sụt lún từ 30 đến 70cm, dẫn đến việc bờ biển bị xói mòn và chìm dần, thụt vào từ 100m đến 1.4km, làm cho Châu thổ mất đi khoảng 5000ha đất.
Nếu khai thác nước ngầm không được hạn chế hoặc ngưng hẳn, thì với tốc độ sụt lún 3cm mỗi năm, Cà Mau sẽ biến mất trên bản đồ của Việt Nam trong vòng vài thập niên sắp tới.
Trong khi đó, Viện Khoa học Điạ chất và Khoáng sản thuộc Bộ Tài nguyên và môi trường, Tổng cục Thủy lợi cũng phối hợp với Viện Điạ Kỹ thuật Na Uy lắp đặt thiết bị quan trắc đo đạt sụt lún ở 339 địa điểm khác nhau ở Thành Phố Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả cho thấy Thành phố Hồ Chí Minh và 6 tỉnh thành Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau sụt lún trầm trọng nhất, trên 10cm tính từ 2014 đến 2017 và có nơi lún hơn 6cm mỗi năm.
Tiếp đến là những kết quả nghiên cứu của nhà khoa học thuộc Đại học Stanford, bang California, Hoa Kỳ, cùng công trình nghiên cứu của nhà địa chất P. Minderhoud trong dự án "Rise and Fall" của Đại học Utrecht, Hà Lan, cũng cho thấy khai thác nước ngầm là nguyên nhân chính khiến nền đất của Đồng bằng sông Cửu Long bị sụt lún 1,6cm mỗi năm, làm cho các vùng đất ven biển, ven sông bị ngập nước, làm trầm trọng thêm tác động của hiện tượng nước biển dâng cao (2- 3mm mỗi năm).
Nếu tốc độ khai thác nước ngầm vẫn không thay đổi, thì đến năm 2050, toàn thể Đồng bằng sông Cửu Long sẽ sụt lún khoảng 88cm và vào thời điểm này mực nước biền dâng cao thêm 10cm, thì một số nơi ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chìm sâu 1m.
Thêm vào đó là những kết quả nghiên cứu gần đây nhất của P. Minderhoud cho thấy độ cao trung bình của Đồng bằng sông Cửu Long là 82cm so với mặt biển, thấp hơn nhiều so với công bố trước đây là 2,60m. Trừ An Giang, Đồng Tháp và Long An lần lượt có độ cao 1,42m, 1,41m và 1,07m so với mặt biển, các tỉnh thành còn lại của Đồng bằng sông Cửu Long đều có độ cao dưới 1m.
Như thế, sụt lún kết hợp với mực nước biển dâng cao do tác động của BĐKH sẽ khiến cho Đồng bằng sông Cửu Long có cao độ trên dưới 1 m chìm nhanh hơn so với những công bố trước đây : khi mực nước biển dâng cao 1m, thì 75% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chìm trong biển nước so với 14% công bố trước đây và 70% dân cư vùng Châu thổ Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ảnh hưởng, thay vì chỉ có 29% theo dự đoán trước đây.
Cần Thơ sụt lún, đường phố nội ô ngập nước và giải pháp ứng phó
RFI : Như vậy thì tình trạng sụt lún này đang gây ra những hậu quả gì ở những thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long, chẳng hạn như ở Cần Thơ, thành phố lớn nhất trong vùng ?
Huỳnh Long Vân : Nghiên cứu của Viện Kỹ thuật Tokyo về hậu quả của khai thác nước ngầm ở Thành phố Cần Thơ, đối với cá nhân tôi, một người được sinh ra và trưởng thành ở thủ phủ của Đồng bằng sông Cửu Long, cũng là điều đáng quan tâm. Kết quả nghiên cứu công bố vào năm 2016 cho thấy tình trạng sụt lún do khai thác nước ngầm ở Cần Thơ ngày càng trầm trọng hơn và đường phố ở Cần Thơ sẽ bị ngập sâu đến 70cm vào năm 2050, nếu nước ngầm được tiếp tục khai thác với tốc độ không thay đổi.
Năm 2017, vào mùa nước nổi kết hợp với triều cường, chỉ có một khoảng đường vài trăm thước ven sông ở quận Bình Thủy bị ngập dưới 10cm. Cùng kỳ năm 2018, các đường phố chính ở các quận Ninh Kiều, Bình Thủy, Ô Môn bị ngập sâu khoảng 20cm. Năm nay, 2019, mặc dù mực nước ở trạm quan trắc Châu Đốc thấp hơn so với cùng kỳ 2018, nhưng nước sông Hậu ở Cần Thơ dâng đến mức kỷ lục 2,25m, tức 20cm cao hơn năm 2018 và đường phố Cần Thơ bị ngập ở mức sâu lịch sử gần 50cm.
Cần Thơ bị ngập nặng đó là do nước sông tràn bờ dưới tác động cộng hưởng của nền đất bị sụt lún 1,80cm mỗi năm, bởi khai thác nước ngầm, mức nước biển dâng cao 2-3mm mỗi năm, kết hợp với khối nước lũ đầu nguồn theo sông Hậu đổ về Cần Thơ cùng lúc với triều cường dâng cao.
RFI : Thành phố Cần Thơ đang có những dự án nào để chống tình trạng ngập nước ?
Huỳnh Long Vân : Ứng phó với tình trạng ngập nước ở đường phố nội ô, Thành phố Cần Thơ đang triển khai dự án tăng cường khả năng thích ứng của đô thị (gọi tắt là dự án 3). Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban Nhân dân Thành phố Cần Thơ Đào Anh Dũng nói rằng, hiện nay thành phố chưa có giải pháp nào hiệu quả để chống ngập và gần như "bó tay" trước các đợt triều cường và đang kỳ vọng vào dự án 3 tăng cường khả năng thích ứng của đô thị.
Dự án sẽ tập trung chống ngập khu đô thị lõi của Thành phố Cần Thơ thuộc địa bàn hai quận Ninh Kiều và Bình Thuỷ rộng 2.675ha, bằng các giải pháp công trình như làm kè, cống, đập, âu thuyền ngăn triều cường từ sông Cần Thơ vào khu đô thị lõi ; kế đến là cải tạo hệ thống thoát nước kết hợp với đầu tư hệ thống trữ và điều nước kinh rạch.
Không thiếu những chỉ trích dự án này : bảo vệ được 2 quận Ninh Kiều và Bình Thủy, nhưng sẽ chuyển tải khối nước gây ngập trước hết đến các quận huyện khác của Thành phố Cần Thơ và tiếp theo là đến các vùng không có đê bao của các tỉnh nằm dọc theo hai bờ sông Hậu.
Các giải pháp ứng phó sụt lún ở Đồng bằng sông Cửu Long
RFI : Như vậy để hạn chế đà sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long thì phải ngăn chận việc khai thác nước ngầm quá mức. Nhưng theo ông, có những giải pháp nào hữu hiệu để chấm dứt việc này, nhưng vẫn bảo đảm được nguồn nước cho sinh hoạt và cho sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long ?
Huỳnh Long Vân : Giảm hay ngưng khai thác nước ngầm sẽ giảm sụt lún, nhưng không chấm dứt hoàn toàn, vì sụt lún là một quá trình chậm, nhưng một khi đã xảy ra thì sẽ tiếp diễn trong nhiều năm, cho dù có giảm về tỉ lệ. Mức độ sụt lún ở mỗi địa phương khác nhau, phụ thuộc vào yếu tố địa chất và mức độ khai thác nước ngầm. Dù không biết nước ngầm đang bị khai thác thế nào, nhưng chỉ cần giảm hay ngưng khai thác thì sẽ cải thiện sụt lún.
Nước ngầm ở Đồng bằng sông Cửu Long phải được xem là nguồn dự trữ chiến lược để sử dụng trong trường hợp xảy ra hạn hán cùng cực trong tương lai do BĐKH và không phải là nguồn nước cơ bản hằng ngày.
Vì thế dứt khoát phải chấm dứt khai thác nước ngầm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng ở đây có một thách thức không nhỏ : làm sao có nước ngọt đủ cung cấp cho các nhu cầu hiện sử dụng hơn 2 triệu m3nước ngầm mỗi ngày ?
Trước hết, nhà nước phải tiến hành nghiên cứu và đầu tư xây dựng các nhà máy lọc nước và mạng lưới đường ống để cung cấp đầy đủ nước sạch cho toàn vùng Châu thổ dùng trong sinh hoạt và sản xuất công nghiệp. Không thực hiện được hạng mục này, mọi kế hoạch khác chống sụt lún Đồng bằng sông Cửu Long trở nên vô nghĩa và Đồng bằng sông Cửu Long sẽ trở thành một Jakarta thứ hai.
Chính phủ phải khuyến khích từng hộ gia đình thiết kế phương tiện trữ nước mưa, nước ngọt, đồng thời dựa vào Nghị quyết 120 phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với BĐKH xem nước mặn, nước lợ, cũng như nước ngọt, là tài nguyên để triển khai những giải pháp như xây dựng khung pháp lý với các biện pháp chế tài chặt chẽ, để người dân vùng ven biển chỉ được phép nuôi trồng thủy sản nước mặn và nước lợ, nhưng với tin tưởng là việc kinh doanh này cũng mang lại thu nhập ổn định và khu vực sẽ được duy trì trên mực nước biển.
Cuối cùng, phải chấm dứt canh tác lúa ở vùng ven biển và lúa vụ 3 để tiết kiệm nước ngọt và đồng thời thực hiện kế họach chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang làm kinh tế nông nghiệp.
Ngoài khai thác nước ngầm quá mức, phá rừng phòng hộ để làm đầm nuôi tôm, khối lượng phù sa chuyển tải xuống Châu thổ Đồng bằng sông Cửu Long bị suy giảm và gần như cạn kiệt, do các đập thủy điện ở thượng nguồn ngăn giữ lại, khiến cho bờ biển Đồng bằng sông Cửu Long bị xói mòn sạt lở, do đó cần phải có những kế hoạch cấp quốc gia để thương thảo với các nước thượng nguồn xả thải phù sa.
Việc làm này đem lại lợi ích cho cả đôi bên : trước hết là làm gia tăng tuổi thọ của các đập thủy điện và kế đến với khối lượng phù sa được chuyển tải đến sẽ giúp Đồng bằng sông Cửu Long được bồi đấp cân bằng tình trạng sụt lún tự nhiên và việc tái tạo rừng phòng hộ ven biển thành công.
RFI : Trong việc chống sụt lún ở đồng bằng sông Cửu Long, Hà Lan, một quốc gia nằm dưới mực nước biển, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này, có thể giúp được gì cho Việt Nam ?
Huỳnh Long Vân : Rất may Việt Nam là đối tác lâu dài của Hà Lan trong lĩnh vực nước, và Hà Lan cũng là quốc gia ở vùng đồng bằng thấp có nhiều vùng đất đang bị sụt lún và đồng thời đang phát triển các giải pháp chuyên môn phù hợp với nhiều nhu cầu khác nhau trên toàn cầu.
Ngoài ra, Đại sứ quán Hà Lan tại Hà Nội và Tổng lãnh sự Hà Lan tại Thành phố Hồ Chí Minh dành được một phần ngân sách để hổ trợ cho việc thực hiện Nghị quyết 120 và tìm hướng giải quyết thách thức về sụt lún. Nghiên cứu của Đại học Utrecht và Viện Deltares về sụt lún đất và cao trình của Đồng bằng sông Cửu Long là một ví dụ tuyệt vời về sử dụng kiến thức chuyên môn của Hà Lan để giúp tư vấn cho chính phủ Việt Nam, từ đó làm lợi cho Đồng bằng sông Cửu Long và người dân nơi đây.
Thanh Phương thực hiện
Nguồn : RFI, 26/11/2019
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng hạ lưu cuối cùng của sông Mekong, thành hình hơn 3000 năm trước do bồi tụ phù sa. Đây là một đồng trũng có vùng bị ngập nước vào mùa mưa và vùng ngập mặn vào mùa khô ; đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn.
Ảnh minh họa : Hàng năm, Hậu Giang thường tốn hàng chục tỉ đồng để thực hiện các đập thời vụ ngăn mặn. baohaugiang.com
Hệ thống thủy lợi theo nguyên tắc trị thủy ở đồng bằng sông Hồng, được xây dựng sau năm 1975 đã giúp Việt Nam, chỉ trong vòng một thế hệ, từ một nước nghèo, nơi mà Nhà nước phải chia khẩu phần gạo theo nhân khẩu, trở thành một trong số các quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới và có mức thu nhập trung bình.
Nhưng sau vài năm, lần lượt lộ ra những tác động tiêu cực trên môi trường và những bất cập của các công trình thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đê bao làm ruộng đồng mất đi nguồn dinh dưỡng quan trọng. Rửa chua tháo phèn cải tạo đất đai lại làm ô nhiễm và acit hóa nguồn nước trong các sông rạch. Xây đê biển và các cống hạn chế nước mặn xâm nhập vào mùa khô để trồng lúa thì lại tạo nên mâu thuẫn mặn- ngọt, làm gián đoạn giao thông thủy nội địa ở các địa phương, làm chết các loại rừng phòng hộ ở ven biển.
Những vấn đề môi trường to lớn này đã thúc đẩy các nhà khoa học trong và ngoài nước kêu gọi chính phủ thực hiện các biện pháp hài hòa giữa lợi ich kinh tế và môi trường trong dài hạn. Nhưng bất chấp mọi quan ngại của nhiều tầng lớp trong xã hội, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn vẫn tổ chức thảo luận triển khai dự án thủy lợi Cái Lớn Cái Bé. Điều này gây lo ngại và bất đồng trong giới các nhà khoa học về những tác động môi trường và hiệu quả của dự án (1).
Hôm nay chúng tôi xin mời quý vị nghe ý kiến của tiến sĩ Huỳnh Long Vân, thuộc nhóm Nghiên cứu Văn Hóa Đồng Nai Cửu Long Úc Châu, trả lời phỏng vấn RFI từ Sydney.
RFI : Thưa ông Huỳnh Long Vân, để thính giả hiểu rõ hơn vấn đến, trước hết xin ông nói sơ qua về Dự án thủy lợi Cái Lớn Cái Bé ?
Huỳnh Long Vân : Vùng dự án này được giới hạn phía Bắc là kênh Cái Sắn, phía Nam và Đồng Nam là kênh Quản Lộ-Phụng Hiệp, phía Đông Bắc là sông Hậu và phía Tây là vịnh Thái Lan, trên địa bàn của 6 tỉnh thành Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Hậu Giang và Cần Thơ.
Các mục đích của dự án là : Kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn giữa nuôi trồng thủy sản ven biển và sản xuất nông nghiệp trong vùng ; ứng phó với biến đổi khí hậu, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển vào mùa khô, phòng chống cháy rừng ; tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn ; kết hợp giao thông thủy bộ trong vùng dự án.
RFI : Thưa ông Huỳnh Long Vân, vậy các nhà khoa học có những quan ngại gì về các mục tiêu của dự án này, trước hết là về mục tiêu kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn mặn - ngọt ?
Huỳnh Long Vân : Công trình Cái Lớn Cái Bé không thể ngặn mặn cho toàn vùng của dự án, mà chỉ chận được nước biển tràn vào từ vịnh Thái Lan, vì nước mặn còn xâm nhập vào vùng dự án từ biển Đông theo hướng từ sông Hậu qua ngả sông Cái Côn, rạch Mái Dầm, hướng từ Đại Ngải Sóc Trăng theo các kênh trục và hướng Bạc Liêu đổ về Phụng Hiệp, Long Mỹ, Vị Thanh, thuộc tỉnh Hậu Giang, một đơn vị nằm trong vùng của dự án. Vì thế, mục tiêu kiểm soát mặn của dự án không đạt được, ngay cả sau khi giai đoạn 2 của công trình được hoàn tất.
Xây cống ngăn mặn không giải quyết, mà ngược lại gây ra mâu thuẫn giữa mặn và ngọt : Dự án Quản Lộ-Phụng Hiệp ngọt hoá bán đảo Cà Mau, có trị giá đầu tư gần 1400 tỉ đồng (thời giá 1990), với hàng trăm cống đập, đê biển, đê sông ngăn mặn, được xây dựng với mục đích đưa nước ngọt từ sông Hậu về bán đảo Cà Mau, cấp nước tưới ruộng lúa cho tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Tuy nhiên, sau 5 năm xây dựng đã bộc lộ những bất cập trong mục tiêu, gây bất mãn và thất vọng cho người dân địa phương. Hàng trăm nông dân đã đòi phá cống, phá đập để lấy nước mặn nuôi tôm. Để giải quyết mâu thuẫn mặn-ngọt, chính phủ đã quyết định chuyển đổi 450.000 ha đất trồng lúa sang nuôi tôm và mô hình tôm-lúa được áp dụng.
Dự án Ngọt hóa bán đảo Cà Mau xem như thất bại, phá sản, là một bài học đắt giá và một kinh nghiệm quý báu cho thấy xây công trình thủy lợi Cái Lớn Cái Bé sẽ không đem lại sự hài hòa mặn - ngọt.
RFI : Thưa ông Huỳnh Long Vân, dự án Cái Lớn Cái Bé cũng tiềm ẩn những nguy cơ gì đối với các loại thủy sản nuôi trồng trong vùng ?
Huỳnh Long Vân : Nghêu, sò, tôm, cua biển và một số thủy sản mặn, lợ khác được nuôi trồng ở 2 huyện ven biển An Minh và An Biên nằm trong vùng của dự án. Nếu hai cống thủy lợi Cái Lớn Cái Bé được thiết kế và đóng lại vào mùa khô, khối nước bên trong sẽ bị ô nhiễm do tích tụ các chất phế thải, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón v.v. và khi cống mở, nguồn nước ô nhiễm này sẽ theo nước ròng thoát ra cửa biển, làm thủy sản bên ngoài cống và ở vùng ven biển cận kề chết trắng.
Cá tép nước ngọt di chuyển từ sông rạch ra các bãi đẻ nơi cửa sông để sinh sản và các ấu trùng ngược lại theo dòng triều vào bên trong sông tìm các bãi ăn để tăng trưởng. Vì thế, khi được xây, các cống ngăn mặn Cái Lớn Cái Bé sẽ làm gián đoạn chu trình sinh trưởng của thủy sản nước ngọt và lượng cá tôm trong sông sẽ giảm dần.
Như thế khó có thể đồng thuận với lập luận cho rằng dự án Cái Lớn Cái Bé sẽ góp phần ổn định phát triển sản xuất thủy sản ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang.
RFI : Thưa ông Huỳng Long Vân, còn các mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển, phòng chống cháy rừng có còn phù hợp với tình hình của vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay ?
Huỳnh Long Vân : Những người chủ trương công trình Cái Lớn Cái Bé cho rằng Đồng bằng sông Cửu Long có trọng trách đảm bảo an ninh lương thực và do tình hình hạn hán năm 2016, nước biển dâng và nguồn nước ngọt sẽ cạn kiệt do tác động từ thượng nguồn, nên cần cấp bách xây dựng công trình Cái Lớn Cái Bé.
Quan niệm Đồng bằng sông Cửu Long có trọng trách đảm bảo an ninh lương là tư duy thuộc về quá khứ, vì theo tinh thần nghị quyết 120/NQ-CP phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long, chính phủ có chủ trương chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang làm kinh tế nông nghiệp, chú trọng đến chất lượng hơn số lượng.
Nước biển dâng do tác động của biến đổi khí hậu chỉ khoảng 3mm/năm, trong khi Đồng bằng sông Cửu Long bị sụt lún trung bình khoảng 3cm/năm, tức 10 lần nhiều hơn và nguyên nhân chính là do khai thác nước ngầm để phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Xây công trình Cái Lớn Cái Bé gây thêm ô nhiễm, gián tiếp tạo thêm môt động lực làm gia tăng tốc độ sụt lún và Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chìm trong nước biển sớm hơn, không cần đến ảnh hưởng của nước biển dâng do tác động của biến đổi khí hậu. Vì thế, "cấp bách xây dựng công trình Cái Lớn Cái Bé để ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng" là điều không hợp lý.
Ngoài ra công trình Cái Lớn Cái Bé làm gián đoạn sự trao đổi chất dinh dưỡng giữa nước sông với thủy triều, làm mất đi môi trường nước lợ, vì thế sẽ làm cho rừng ngập mặn như rừng đước, rừng nước lợ với cây dừa nước chết dần, từ đó làm suy giảm khả năng ứng phó với những tác động của biến đổi khí hậu, giông bảo, sạt lở bờ biển và phá vỡ kế hoạch tái tạo rừng ngập mặn ở ven biển được một số quốc gia như Đức, Hà Lan v.v. tài trợ.
Vềmục tiêucung cấp nước ngọt cho vùng ven biển và phòng chống cháy rừng, dự án Cái Lớn Cái Bé sẽ chuyển nước sông Hậu theo ngả kênh đào Thốt Nốt và kênh trục KH6 cung cấp nước ngọt cho vùng bán đảo Cà Mau. Tuy nhiên, ở phía Tây sông Hậu có chằng chịt những kênh đào thẳng góc với nhau, có nhiều vùng giáp nước, các kênh bị bồi lấp, nên không đủ khả năng chuyển tải nước từ sông Hậu đến cuối kênh. Theo dự tính, kênh Thốt Nốt và KH6 sẽ được nạo vét, nhưng thử hỏi có bảo đảm đem được nước sông Hậu đến khu vực ven biển phía Tây không ? Vì trước đây, trong dự án Ngọt hóa bán đảo Cà Mau, có dự trù dẫn nước ngọt của sông Hậu theo ngả sông Cái Côn, kênh Quản Lộ-Phụng Hiệp tưới ruộng đất bán đảo Cà Mau, nhưng đã thất bại vì nguồn nước chỉ đến địa hạt Sóc Trăng.
RFI : Thưa ông Huỳng Long Vân, dự án Cái Lớn Cái Bé cũng được cho là nhằm chống những tác động của các đập thủy điện ở thượng nguồn. Mục tiêu này có đúng không ?
Huỳnh Long Vân : Nói rằng vì những tác động của các đập thủy điện ở thượng nguồn khiến nguồn nước bị cạn kiệt vào mùa khô và nước biển dâng, nên phải xây dựng công trình Cái Lớn Cái Bé là hoàn toàn sai, vì tác động tiêu cực của các đập thủy điện là giữ lại phù sa và ngăn trở các loài cá di chuyển đến các nơi sinh sản và tăng trưởng.
Vận hành đập thủy điện không giữ lại nước như lầm tưởng, mà có hệ quả ngược lại. Thật vậy, từ khi các đập thủy điện của Trung Quốc xây trên dòng chính sông Mêkông vận hành, lưu lượng dòng chảy của sông Mêkông đo được tại trạm quan trắc Chiang Saen, nơi biên giới Trung Quốc và Lào, đã tăng khoảng 30% vào mùa khô.
Nếu vì lo ngại việc Thái Lan và Cam Bốt chuyển nguồn nước sông Mêkông để gia tăng sản xuất nông nghiệp, làm cạn kiệt nguồn nước dòng chính sông Mekong mà xây công trình Cái Lớn Cái Bé và trữ ngọt bằng cách chuyển nước sông Hậu vào vùng dự án, thì đây quả thật là một lập luận thơ ngây và đầy mâu thuẫn, vì dự kiến này không phải để ứng phó, mà thực ra đồng lõa với 2 quốc gia láng giềng làm cạn kiệt dòng nước sông Mêkông.
Trước tình huống này, đúng ra phải tiết kiệm nước ngọt bằng cách bỏ lúa vụ 3, giảm dần diện tích trồng lúa ở vùng ven biển phía Tây, hay cấy trồng các loại lúa chịu mặn sẵn có, hoặc thay vì công trình Cái Lớn Cái Bé, nhà nước nên đầu tư xây dựng một nhà máy chế biến nước ngọt từ nước biển, hoàn toàn thân thiện với môi trường, để giải quyết bài toán mặn - ngọt và giảm thiểu tình trạng ô nhiễm của Đồng bằng sông Cửu Long.
RFI : Các nhà khoa học có những quan ngại gì về tác động môi trường và những lợi ích không thiết thực của dự án Cái Lớn Cái Bé ?
Huỳnh Long Vân : Bản Đánh giá Tác động môi trường của dự án do Viện Kỹ thuật Biển-Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam thực hiện cho rằng khi vận hành, các cống chỉ đóng trong mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, mỗi tháng đóng cửa cống vài ngày, mỗi ngày đóng vài giờ để kiểm soát mặn. Tất cả thời gian còn lại cửa cống luôn mở để nước được lưu thông, do đó ô nhiễm môi trường rất ít.
Nhưng tác động của thủy triều Biển Đông, Biển Tây, và dòng nước sông Hậu trên vùng dự án rất phức tạp, nên việc vận hành các cống không hề đơn giản như tuyên bố.
Ngoài việc trấn an với tác động môi trường rất nhỏ, báo cáo còn cho rằng công trình Cái Lớn Cái Bé sẽ đem lại lợi ích từ gia tăng diện tích trồng lúa 3 vụ, nhưng quên đi một hậu quả là mỗi ha lúa 3 vụ phải cần đến 7.5kg thuốc bảo vệ thực vật. Vùng dự án rộng hơn 900 ngàn ha và chỉ một phần của diện tích tự nhiên này trồng lúa 3 vụ, thì môi trường cũng sẽ bị ô nhiễm đến mức độ rất đáng ngại.
Tóm lại, dự án thủy lợi Cái Lớn Cái Bé là một công trình rất tốn kém, tổn phí gần 7.000 tỷ đồng, nhưng phần tác động môi trường được đánh giá sơ sài, chủ quan, những lợi ích nêu lên trong đề cương xét ra rất mâu thuẫn, khó tin, tuy nhiên hiện đang manh nha từng bước tiến hành xây dựng.
Những nghiên cứu khoa học và tham khảo với người dân và cán bộ địa phương của một số nhà khoa học chuyên ngành ở Đồng bằng sông Cửu Long, cùng những thất bại của những công trình thủy lợi trước đây, cho thấy những mục tiêu dự án Cái Lớn Cái Bé đề ra khó có thể đạt được và sẽ gây ra vô vàn hệ lụy về môi trường cho một vùng rộng lớn gần bằng 1/4 diện tích Đồng bằng sông Cửu Long.
Vì thế, thay mặt Nhóm Nghiên cứu Văn hóa Đồng Nai Cửu Long Úc châu, tôi xin kiến nghị thủ tướng chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phê duyệt dự án thủy lợi Cái Lớn Cái Bé, một công trình có khả năng phá vỡ chiến lược phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với biến đổi khí hậu của Nghị quyết 120 /NQ-CH do chính Thủ tướng phê duyệt và ban hành vào ngày 17/11/2017.
Thanh Phương thực hiện
Nguồn : RFI, 26/11/2018
(1) Bổ túc thêm của Thông Luận :
Cống đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và cái giá phải trả
Đồng bằng sông Cửu Long và những bước phát triển tự hủy hoại, 1975 - 2018
Đồng bằng sông Cửu Long, nơi sinh sống của khoảng 20 triệu người, là vùng canh tác nông nghiệp lớn nhất nước, nhưng do những tác động gây ra bởi các hoạt động sinh hoạt và sản xuất của con người, cũng như những đặc tính thiên nhiên của vùng châu thổ, nên bờ sông, bờ biển của khu vực bị sạt lở ngày càng nghiêm trọng.
Một phần tỉnh An Giang bên bờ sông Cửu Long chìm trong lũ lụt. Ảnh chụp ngày 28/9/2011 - Reuters/Duc Vinh
Sạt lở không chỉ xảy ra vào mùa mưa lũ mà ngay cả trong mùa khô, đe dọa trực tiếp đến sinh mạng, tài sản và cuộc sống của cư dân và các công trình cơ sở hạ tầng.
Theo những tài liệu của hai Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên và môi trường, đồng bằng sông Cửu Long có 562 vị trí ở bờ sông, bờ biển bị sạt lở với tổng chiều dài gần 800km, trầm trọng nhất ở An Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Bạc Liêu và Cà Mau.
Trước đây sạt lở chỉ xảy ra ở bờ biển phía Đông của bán đảo Cà Mau nhưng trong vòng vài năm gần đây cả ở phía Tây nằm trong vịnh Thái Lan. Vào tháng 5 vừa qua một số vị trí nằm trên bờ kinh Thạnh Đông, quận Cái Răng, vàm sông Ô Môn (thành phố Cần Thơ), bờ sông Chợ Mới Cái Côn, thuộc thị trấn Mái Dầm (tỉnh Hậu Giang) và bờ kinh Hai Quý, thị xã Bình Minh (tỉnh Vĩnh Long) cũng bị sạt lở, khiến nhiều nhà cửa sụp chìm trong đáy nước.
Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn Tiến sĩ Huỳnh Long Vân, Nhóm Nghiên cứu Văn hóa Đồng Nai Cửu Long Úc châu.
RFI : Xin kính chào ông Huỳnh Long Vân, trước hết ông có thể cho biết là những nguyên nhân nào khiến bờ sông, bờ biển đồng bằng sông Cửu Long bị sạt lở ngày càng nghiêm trọng như thế ?
Huỳnh Long Vân : Sạt lở ở đồng bằng sông Cửu Long do tác động cộng hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau :
1. Các đập thủy điện thượng nguồn của Trung Quốc giữ lại khoảng 50% khối lượng phù sa thô.
2. Khai thác bừa bãi bùn cát làm biến dạng lòng sông và thay đổi dòng chảy (không chỉ Việt Nam mà Cam Bốt và Lào cũng nạo vét cát sông Mêkông để xuất khẩu).
Hai nguyên nhân nêu trên phá vỡ trạng thái cân bằng có từ lâu đời của các lớp phù sa trầm tích ở đồng bằng sông Cửu Long, khiến bờ sông bị sạt lở và bờ biển bị xói mòn khủng khiếp, riêng Cà Mau mỗi năm mất đến hàng trăm ha đất dọc bờ biển.
3. Khai phá rừng ở thượng nguồn tạo ra lũ có tác động xói mòn trong khi đó hệ thống đê bao khép kín hầu hết những vị trí thoát lũ.
4. Ghe máy có mã lực cao vận chuyển trên sông rạch.
5. Địa hình và những đặc tính địa chất của đồng bằng sông Cửu Long : đồng bằng sông Cửu Long có địa thế thấp dễ bị ngập nước và cấu tạo bởi những lớp than bùn, phù sa xốp, đất cát pha lộn, nên có độ kết dính rất thấp, do đó dễ tan rã trước những tác động của các dòng nước xoáy và sóng to. Ngoài ra đồng bằng sông Cửu Long có nhiều sông rạch chằng chịt thẳng góc với sông Tiền và sông Hậu, điều kiện để dòng chảy ở những nơi hợp lưu tạo ra những luồng xoáy ngầm bào khoét các bờ sông. Điển hình là vụ sạt lở bờ sông trong tháng 5 vừa qua ở phường Thới Lợi, huyện Ô Môn, Thành phố Cần Thơ.
RFI : Vậy cho tới nay chính quyền Việt Nam đã thực hiện những giải pháp nào để ứng phó với tình trạng sạt lở này ?
Huỳnh Long Vân : Trong nhiều năm qua, chính quyền trung ương và địa phương đã đề ra những biện pháp ứng phó như xây dựng đê biển, kè bê tông, phục hồi các rừng phòng hộ, trồng các loại cây dọc bờ sông nơi có nguy cơ sạt lở, chỉ thị thiết lập bản đồ những khu vực có nguy cơ sạt lở để gia cố và thiết lập các khu tái cư. Và trước tình trạng sạt lở nghiêm trọng trong tháng qua, thủ tướng đã đồng ý hỗ trợ 2.500 tỷ đồng đề khắc phục sạt lở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
RFI : Nhưng vì sao những giải pháp đó không có tác động gì đáng kể trong việc ngăn chận tình trạng sạt lở ở đồng bằng sông Cửu Long ?
Huỳnh Long Vân : Bờ biển đồng bằng sông Cửu Long bị sạt lở nghiêm trọng do việc Trung Quốc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn Mêkông, khai thác nước ngầm và những tác động của biến đổi khí hậu mực nước dâng cao, mưa bão và sóng to, gió mạnh. Còn sạt lở các bờ sông là do việc khai thác bùn cát thiếu kiểm soát, bên cạnh những tác động của các đập thủy điện thượng nguồn.
Trong khi đó những giải pháp chống sạt lở hiện nay rất tạm bợ, không mang tính chiến lược bền vững và sau đây là một số dẫn chứng cho thấy Việt Nam có vẻ thiếu tự tin, kém phần tích cực trong việc khắc phục những nguyên nhân sạt lở cốt lõi nêu trên.
RFI : Phản ứng của Việt Nam đối với việc Trung Quốc, Lào và Cam Bốt xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính sông Mêkông ra sao ?
Huỳnh Long Vân : Ở Trung Đông, khi chính phủ Jordan công bố ý định xây đập trên dòng chính sông Jordan, Israel đã dọa sẽ dùng vũ lực và đã ngăn chặn được kế hoạch này. Trong khi đó, Việt Nam vì quá yếu so với Trung Quốc nên e dè và không đưa ra những phản đối hay đe dọa trả đũa nào.
Công ước quốc tế của Liên Hiệp Quốc xác định quyền sử dụng tài nguyên nước của các quốc gia nằm trong lưu vực của một dòng sông quốc tế, nhưng với điều kiện không gây tổn hại cho các quốc gia khác trong cùng lưu vực. Nhưng Việt Nam không đưa vấn đề này ra trước Liên Hiệp Quốc hay một Tòa án Quốc tế, vì biết rằng ở diễn đàn Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc có quyền phủ quyết và thái độ trịch thượng của Trung Quốc bất chấp phán quyến của Tòa án Trọng tài Thường trực về đường chữ U chín đoạn (đường lưỡi bò) ở Biển Đông cho thấy con đường pháp lý sẽ không mang lại kết quả mong muốn. Ấy là chưa kể hành động này sẽ làm mất lòng ông láng giềng khổng lồ ở phía Bắc.
Lào và Cam Bốt sẽ xây 11 đập thủy điện trên dòng chính hạ lưu Mekong và khi đưa vào sử dụng sẽ giữ thêm 30% khối lượng phù sa, vì thế tình trạng sạt lở ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn. Điều ngạc nhiên là trong số các đơn vị trúng thầu xây đập thủy điện trên dòng chính hạ lưu sông Mekong lại có một công ty của Việt Nam bên cạnh nhiều tập đoàn của Trung Quốc.
Như vậy là Việt Nam phải bó tay và chịu lép vế trước việc các quốc gia thượng nguồn khai thác tài nguyên nước gây tác hại cho đồng bằng sông Cửu Long.
RFI : Đó là nói về nguyên nhân bên ngoài, còn về những nguyên nhân nội tại, những biện pháp đã được thực hiện cũng chẳng có tác động gì ? Vì sao vậy, thưa ông ?
Huỳnh Long Vân : Nguyên nhân chủ yếu là tình trạng khai thác thiếu ý thức tài nguyên thiên nhiên.
Khai thác nước ngầm phục vụ sản xuất nông ngư nghiệp khiến nền đất đồng bằng sông Cửu Long sụt lún, làm gia tốc những tác động gây sạt lở do nước biển dâng cao dưới ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Người dân được khuyến cáo chuyển đổi canh tác lúa sang sản xuất hoa màu tiết kiệm nước ; nhưng hoa quả sản xuất không có thị trường tiêu thụ, được mùa thì mất giá gây thua lỗ, nên người dân cứ tiếp tục trồng lúa. Lúa thóc bán không hết không sợ ế ẩm, vì có thể dự trữ, không bị hư hao như rau quả.
Việt Nam đang trên đà phát triển cần tiếp tục xây dựng các cơ sở hạ tầng, các khu kỹ nghệ, nên rất cần cát bùn để làm nền nhà và mặt bằng, vì thế việc khai thác cát sẽ không bị đình chỉ và tệ hại hơn nữa là mỗi tỉnh thành trong đồng bằng sông Cửu Long được quyền tùy tiện cấp phép nạo vét cát trong sông.
Phải chăng người dân đồng bằng sông Cửu Long cam chịu số phận ngậm bồ hòn làm ngọt !
RFI : Thưa ông Huỳnh Long Vân, như vậy tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ không thể nào chấm dứt ?
Huỳnh Long Vân : Mặc dù chính quyền trung ương và địa phương rất quan tâm về những tai họa này, nhưng toàn thể bờ sông, bờ biển của đồng bằng sông Cửu Long không thể được bao bọc bởi các hệ thống đê, kè dựa trên các công nghệ tân tiến kiên cố, vì phạm vi rộng lớn, nên quá tốn kém, vượt quá khả năng tài chính của Việt Nam.
Giả sử có thực hiện được đi nữa thì bất cứ công trình nào cũng có tuổi thọ, nên sau một thời gian sẽ suy sụp, không còn hữu dụng như trường hợp đê biển ở Gành Hào, Cà Mau là một bằng chứng cụ thể. Vì thế phải chấp nhận giải pháp tìm cách gia cố những nơi có nguy cơ sạt lở. Nhưng gia cố chỗ này, thì chỗ khác sẽ bị tác động, phá sóng nơi này, thì sóng sẽ đập vào các vị trí kế cận.
Tóm lại tình trạng sạt lở đồng bằng sông Cửu Long là một kịch bản gần như không có hồi kết, hay nói khác hơn đây là một chứng bệnh trầm kha nhưng không có phương cách trị liệu hữu hiệu. Như thế thử hỏi "Con đường phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long" sẽ đi về đâu ?
Thanh Phương thực hiện
Nguồn : RFA, 09/07/2018
Đồng bằng sông Cửu Long, với tổng cộng 13 tỉnh, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của cả nước. Tính đến tháng 04/2017, đồng bằng sông Cửu Long đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% lượng thủy sản nuôi trồng, 36,5% lượng trái cây, cung cấp 90% sản lượng lúa gạo xuất khẩu và 65% sản lượng thuỷ sản xuất khẩu của cả nước.
Một con kênh tại huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, Châu thổ sông Mêkông cạn khô nước từ cả tháng trước đó (Ảnh chụp ngày 08/03/2016) - AFP
Tuy nhiên, đồng bằng sông Cửu Long đã và đang đối đầu với ba thách thức lớn mang tính sống còn : Thứ nhất, tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Thứ hai, quá trình phát triển nội tại. Thứ ba, tác động do khai thác và sử dụng nước của các quốc gia ở thượng nguồn.
Nhìn chung, những thách thức mà đồng bằng sông Cửu Long đang đối phó là do tác động của con người hơn là do tác động của biến đổi khí hậu. Hôm nay, xin mời quý vị nghe phần phỏng vấn tiến sĩ Huỳnh Long Vân, thuộc Nhóm Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai-Cửu Long, Úc châu, về vấn đề này :
RFI : Thưa ông Huỳng Long Vân, trước hết về tác động của khai thác và sử dụng nước của các quốc gia ở thượng nguồn, có mối liên quan nào giữa tình trạng sạt lở trầm trọng của bờ biển đồng bằng sông Cửu Long và các đập thủy điện của Trung Quốc ?
Huỳnh Long Vân : Hiện nay, trên dòng chính sông Mekong có 8 hồ chứa thủy điện, 7 của Trung Quốc và 1 của Lào. Đồng bằng sông Cửu Long nhận khoảng 89% khối lượng nước từ thượng nguồn, và 160 triệu tấn phù sa/năm, trong đó 50% là phù sa thô. Phù sa thô là vật liệu chắn sóng bảo vệ vùng ven biển chống sạt lở và bồi lấp đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, kể từ khi các đập thủy điện của Trung Quốc vận hành, khối lượng phù sa thô này hoàn toàn bị giữ lại ở các hồ chứa nước, khiến cho dọc theo bờ biển đồng bằng sông Cửu Long hiện nay có 49 điểm/266km bị sạt lở nghiêm trọng và mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long mất khoảng 500 ha đất.
Về sạt lở bờ sông, theo Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, miền Tây hiện có 513 điểm sạt lở, với tổng chiều dài 520 km, đe dọa cuộc sống hàng nghìn hộ dân cùng nhiều công trình hạ tầng. Tác động xói mòn của "dòng nước đói phù sa" và việc khai thác cát ở các lòng sông là nguyên nhân chính gây ra sạt lở các bờ sông. Và sạt lở dọc theo các kinh, rạch là do vận chuyển của các ghe thuyền trang bị các động cơ quá mạnh.
RFI : Vậy thì, thưa ông Huỳnh Long Vân, chúng ta phải có những giải pháp ứng phó như thế nào với tình trạng sạt lở đó ?
Huỳnh Long Vân : Đối với sạt lờ bờ biển, ta có thể thiết lập hàng rào phá sóng bằng những vật liệu rắn chắc như các trụ cột, các khối đá hoặc bê tông, đồng thời tái tạo, phục hồi rừng ngập mặn. Đối với sạt lở bờ sông, phải chấm dứt tệ nạn khai thác cát trái phép, không đúng quy hoạch. Đối với sạt lở kinh rạch, phải cấm ghe máy sử dụng các động cơ mã lực cao.
RFI : Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay còn gặp tình trạng bị sụt lún. Vậy thì nguyên nhân là vì sao và phải có giải pháp nào để ngăn chận tình trạng đó ?
Huỳnh Long Vân : Kết quả nghiên cứu của dự án " Rise and Fall" tại đồng bằng sông Cửu Long, do Đại học Cần Thơ phối hợp với Đại học Utrecht (Hà Lan) thực hiện, cho thấy sự sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long là vấn đề đáng lo ngại. Nguyên nhân là do việc khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát và quá trình đô thị hóa. Riêng ở Cà Mau - tỉnh ngày đêm khai thác hơn 400.000 m3 nước ngầm, theo nghiên cứu của các chuyên gia thuộc Viện Địa Kỹ Thuật Hoàng Gia Na Uy, nền đất của tỉnh Cà Mau mỗi năm sụt lún 1.56-2.3cm và mảnh đất ở phần cuối của lãnh thổ Việt Nam có nguy cơ biến mất trong vài thập niên nữa.
Dưới tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng khoảng 3mm/năm, trong khi ở nhiều nơi vùng nông thôn của đồng bằng sông Cửu Long, mức độ sụt lún khoảng 10-20mm/năm. Riêng khu vực thành thị và ở các khu công nghệ, mức độ sụt lún khoảng 25mm/năm. Sụt lún còn có tác động cộng hưởng với việc mất nguồn phù sa thô, khiến cho bờ biển bị sạt lở trầm trọng hơn, mất rừng, nước mặn xâm nhập sâu vào nội vùng, các sông và các tầng nước ngầm. Riêng đối với tỉnh Cà Mau, nếu để tình trạng sạt lở sụt lún tiếp tục như hiện nay, mỗi năm có thể mất đến 90.000ha .
Để ngăn chặn tình trạng sụt lún ở đồng bằng sông Cửu Long, các chuyên gia đều đồng ý là cần có biện pháp hạn chế khai thác nguồn nước ngầm và đưa ra những đề xuất như sau :
Ở vùng thượng nguồn Châu thổ (Đồng Tháp, Khu Tứ Giác Long Xuyên...), có nguồn nước mặt dồi dào, nên có thể xây dựng các hồ trử nước trong mùa lũ, giảm sản xuất lúa vụ 3 và giảm xây dựng đê bao để vừa giữ được nước mặt, vừa bổ cập cho nước ngầm.
Ở vùng giữa của Châu thổ với các đô thị như Cần Thơ, Long An, Mỹ Tho, Vĩnh Long, phải triệt để cấm khai thác nước ngầm, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp trang bị công nghệ tái sử dụng nước thải sau khi đã được xử lý.
Ở vùng ven biển, cần xây dựng các hồ chứa nước mưa, kết hợp với việc xây dựng các đường ống dẫn nước ngọt từ khu vực thượng nguồn Châu thổ.
Được biết, tỉnh Cà Mau đang triển khai kế hoạch xây dựng các hồ chứa nước ngọt, có diện tích từ 200 ha đến 300 ha. Bên cạnh đó, địa phương cũng dự kiến tận dụng một số các tuyến sông, kinh, rạch để tích trữ nước ngọt phục vụ sản xuất. Bến Tre cũng đã tiến hành xây các hồ chứa nước ngọt có dung tích 1 triệu m3.
Chính phủ cũng đang tiến hành kế hoạch đầu tư 1,7 tỷ đôla vào dự án cung cấp 200.000-300.00 m3/ngày đêm nước ngọt, lấy từ sông Hậu cung cấp cho 7 tỉnh thành của miền Tây sông Hậu.
Ngoài ra, hiện nay công nghệ biến nước mặn thành ngọt bằng những kỹ thuật Nano và Reverse Osmosis tương đối rẻ tiền, nên thiết nghĩ đây cũng là một giải pháp khả thi cần được lưu ý.
RFI : Riêng Cần Thơ thì hiện nay bị ngập vào mùa nước nổi. Tác động của các đê bao là như thế nào ? Vì sao Cần Thơ và các thành phố khác bị ngập khi có mưa to ?
Huỳnh Long Vân : Các đê bao ở Đồng Tháp và khu Tứ giác Long Xuyên được xây dựng để ngăn chận nước lũ tràn vào ruộng đồng của vùng này giúp canh tác lúa vụ 3. Kế hoạch này dẫn đến hậu quả tai hại là gần như toàn bộ khối nước lũ theo sông Tiền và sông Hậu đổ xuống các vùng phía dưới như Cần Thơ, Sóc Trăng, Long An, Vĩnh Long. Những tỉnh thành này vốn có nền đất rất thấp so với mặt biển và không được bao che bởi các bờ đê, nên nước lũ tràn bờ ngập phủ nhiều tuyến đường trong thành phố, đặc biệt ở những nơi gần các kinh rạch.
Ở Cần Thơ vào tháng 09 và 10 vừa qua, mực nước sông Hậu đã lên cao đến 1,90m, mức báo động 3, cùng lúc với triều cường, nên một số tuyến đường như các đường 30 tháng 4, Châu Văn Liêm, Mậu Thân ở quận Ninh Kiều, đường Bùi Hữu Nghĩa, ở quận Bình Thủy bị ngập nước (mặc dù mặt đường đã được nâng cao nhiều lần với các lớp nhựa), khiến xe cộ ì ạch, cư dân bì bõm trong nước. Riêng ở Sóc Trăng, nông dân phải đốn mía dù còn non, để tránh bị ngập úng.
Trong tháng 09 vừa qua, tại Hội nghị thảo luận chiến lược chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long để thích ứng với biến đổi khí hậu, tổ chức tại Cần Thơ, thủ tướng đã đồng ý cấp ngân khoản để kiện toàn, nâng cao khả năng xả lũ của đập Trà Sứ và khuyến cáo giảm dần canh tác lúa vụ 3. Ngoài ra, được biết thành phố Cần Thơ cũng có dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải và ứng phó với tình trạng ngập úng ở hai quận Ninh Kiều và Bình Thủy.
Ngoài ảnh hưởng của đê bao, thành phố Cần Thơ và một số nơi khác như ở thành phố Hồ Chí Minh, mỗi khi có mưa lớn, một số nơi trong thành phố cũng bị ngập nước. Nguyên nhân là do hệ thống thoát nước cũ kỹ hay quá sơ sài ; ngoài ra cũng do một số kinh rạch, vốn là nơi nước rút, nay được lấp đất để làm mặt bằng trong kế hoạch đô thị hóa ; mở rộng và xây thêm đô thị dàn trải, khiến một diện tích lớn đất đai bị xi măng hóa, nên việc thoát nước bị chậm lại. Tình trạng ngập nước này trở nên tồi tệ hơn nếu xảy ra cùng lúc với triều cường.
RFI : Trước những tác động của biến đổi khí hậu và việc Thái Lan chuyển dòng nước sôngMêkông và Cam Bốt cũng có ý định muốn sử dụng nguồn nước ở Biển Hồ để gia tăng sản xuất nông nghiệp, đồng bằng sông Cửu Long phải có kế hoạch ứng phó như thế nào trước tình trạng sẽ thiếu nước trầm trọng vào mùa khô ?
Huỳnh Long Vân : Thái Lan định làm dự án Khon-Loei-Chi-Mun để hàng năm chuyển 4,5 tỉ m3 nước từ sông Mekong qua sông Loei, để tưới vùng Đông Bắc. Cam Bốt cũng rục rịch muốn sử dụng khối nước ở Biển Hồ để mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp.
Trước đây, vào năm 1989, Thái Lan đã triển khai, nhưng thất bại, một dự án tương tự để chuyển nước sông Mekong, trong kế hoạch gia tăng sản xuất nông nghiệp ở khu vực Isan, miền Đông Bắc Thái Lan. Còn ý định của Cam Bốt hiện còn trong giai đoạn thai nghén.
Tuy nhiên, thiết nghĩ nhà chức trách Việt Nam cũng nên tiến hành xây dựng các hồ chứa nước, để ứng phó với tình trạng thiếu nước trầm trọng có thể xảy ra trong tương lai và xem đây như một "biện pháp không hối tiếc", nghĩa là nếu kế hoạch của Thái Lan một lần nữa thất bại và Cam Bốt từ bỏ ý định của mình, thì việc xây dựng các hồ chứa nước cũng sẽ góp phần đáng kể vào giải pháp ứng phó với tình trạng sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long do việc khai thác nước ngầm quá đáng. Và trước những toan tính này của hai quốc gia láng giềng, việc giảm dần canh tác lúa vụ 3 để tiết kiệm nước cũng là điều phải dứt khoát.
RFI : Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, tình trạng ngập úng ở vùng Đồng Tháp, Tứ Giác Long Xuyên sẽ trầm trọng hơn và nước mặn sẽ lấn sâu vào nội địa khiến diện tích canh tác giảm dần. Vậy phải có giải pháp nào để sản xuất và cuộc sống người dân không bị ảnh hưởng hoặc tồi tệ hơn ?
Huỳnh Long Vân : Ngày 17/11/2017, thủ tướng chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành nghị quyết 120/NQ-CP, công bố chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với biến đổi khí hậu. Chiến lược này xác định biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao là xu thế tất yếu, một thách thức lớn lao đối với đồng bằng sông Cửu Long và vạch ra đường hướng phát triển kinh tế đồng bằng sông Cửu Long trong tương lai, bao gồm hai tiểu vùng nêu ra trong câu hỏi trên.
Nghị quyết còn nhấn mạnh là việc phát triển đồng bằng sông Cửu Long phải phù hợp với điều kiện thực tế, và trong quy hoạch không chỉ có nước ngọt, mà nước lợ, nước mặn cũng được xem là nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế.
Và nghị quyết120/NQ-CP đưa ra một số giải pháp tổng thể, trong đó có phần thúc đẩy phát triển kinh tế và xây dựng đô thị thích hợp với các tiểu vùng sinh thái :
Vùng ngập sâu (Đồng Tháp và một phần của khu Tứ giác Long Xuyên) trở thành vùng quản lý ngập và trữ nước ngọt, nhằm chủ động cung cấp nước ngọt cho toàn thể Châu thổ ; diện tích lúa vụ 3 sẽ được giảm dần và lối sản xuất nông nghiệp độc canh, tăng sản lượng lúa gạo sẽ được chuyển sang luân canh với các loại cây trồng, thủy sản khác để tận dụng nước lũ ; hoàn chỉnh các công trình xây dựng những cụm dân cư vượt lũ và phát triển đô thị ở tiểu vùng này được hạn chế.
Vùng sinh thái nước ngọt (nằm giữa sông Tiền, sông Hậu và Tây sông Hậu) là vùng sản xuất nông nghiệp (lúa, trái cây và hoa màu…). Đây là tiểu vùng thuận lợi cho phát triển đô thị, nhưng không dàn trải, để dành đất nông nghiệp màu mở cho sản xuất.
Vùng ven biển (ven biển Đông, biển Tây và bán đảo Cà Mau là vùng có những chuyển đổi, sẽ mở rộng nuôi trồng thủy sản nước lợ trong điều kiện nước mặn xâm nhập, gắn với trồng rừng ngập mặn, và phát triển luôn cả ngành nuôi hải sản ở vùng biển ngoài khơi (nuôi trồng rong biển, cá biển, tôm hùm, ..). Việc mở rộng đô thị ở vùng này cũng cần hạn chế, để giảm rủi ro do thiên tai gây ra bởi biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Giải pháp nêu trên không can thiệp thô bạo vào điều kiện tự nhiên, không xây dựng các đê biển bao bọc toàn bộ vùng Châu thổ đồng bằng sông Cửu Long, như ở Hà Lan, nhưng dựa vào tính đặc trưng của từng tiểu vùng để thúc đẩy phát triển đô thị và kinh tế của mỗi khu vực, đảm bảo cuộc sống của người dân trong Châu thổ. Giải pháp này dựa theo phương châm "chủ động sống chung với lũ, với nước lợ và mặn" để biến thách thức thành cơ hội.
Còn đối với vấn đề nước biển dâng khiến diện tích canh tác bị giảm dần thì trong mô hình phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với biến đổi khí hậu cho thấy : "kinh tế nông nghiệp" có chất lượng cao sẽ thay thế lối canh tác nông nghiệp trước đây chú trọng đến sản lượng để đảm bảo an ninh lương thực ; những giống lúa đặc sản, cao sản sẽ được lựa chọn và gieo gặt trên những cánh đồng lớn bằng phương tiện cơ giới ; công nghệ chế biến thực phẩm sẽ được kết hợp để gia tăng chuổi giá trị của sản phẩm nông nghiệp.
Như thế, mặc dù diện tích canh tác sẽ bị thu hẹp, nhưng mức thu nhập của nông dân sẽ được nâng cao.
Thanh Phương thực hiện
Nguồn : RFI, 11/12/2017