Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Trong chuyến thăm Châu Âu gần đây trong khuôn khổ hội nghị thượng đỉnh G7, Tổng thống Joe Biden nhấn mạnh chủ đề chính trong chính sách ngoại giao của mình. Theo ông, cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc là một phần của cuộc đấu quy mô lớn chống lại các "nhà độc tài" để chứng minh "tính cạnh tranh của các nền dân chủ trong thế kỷ 21 đầy biến động". Nó không chỉ là lời nói suông. Biden đã liên tục lập luận rằng thế giới đã đi đến "bước ngoặt" phân định việc thế kỷ này sẽ là thế kỷ mà dân chủ sẽ thống trị hay là thời đại mà các nền chuyên chế trỗi dậy. Biden dự báo rằng các nhà sử học tương lai sẽ "viết luận án tiến sĩ phân tích ai thành công, các nền độc tài chuyên chế hay các nền dân chủ ?".

biden1

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, khi đó là ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ, ở Wilmington, Delaware, tháng 10 năm 2020 - Brian Snyder / TPX Hình ảnh trong ngày / Reuters

Trước giờ Biden không luôn có thế giới quan như vậy. Hồi năm 2019, ông bác bỏ lập luận rằng Trung Quốc là đối thủ lớn, đừng nói đến việc Trung Quốc là đầu tàu cho những thách thức hệ tư tưởng của thời đại này. Nhưng tuyên bố của ông rằng sự cạnh tranh trọng tâm nhất của thời đại là sự cạnh tranh giữa hệ thống dân chủ và chuyên chế tỏ ra là một tuyên bố thật lòng, và điều này có hệ quả rộng khắp với chính sách ngoại giao và địa chính trị của Mỹ.

Với chính quyền Biden, suy nghĩ này đang tác động đến động lực của quan hệ giữa Mỹ và các đối thủ chính cũng như những gì sẽ bị ảnh hưởng bởi điều đó. Suy nghĩ này liên kết cạnh tranh nước lớn với việc phục hồi nền dân chủ Mỹ và cuộc chiến chống các mối đe dọa xuyên quốc gia, như tham nhũng và đại dịch Covid-19. Và nó hướng Mỹ đến một đại chiến lược thực thụ nhằm củng cố sức mạnh của các nền dân chủ chống lại những mối đe dọa nghiêm trọng nhất mà các nền dân chủ phải đối mặt trong nhiều thế hệ.

Câu hỏi bây giờ là nếu chính quyền Biden có thể biến viễn kiến này thành hiện thực hay không. Biden đã xác định thách thức chiến lược mang tính định hình thế kỷ 21, nhưng các vấn đề, dù mang tính hệ thống hay tự tạo, đều là các vấn đề nan giải.

Một thế giới an toàn cho chủ nghĩa chuyên chế

Tổng thống Donald Trump đã hướng Washington vào cạnh tranh nước lớn, nhưng Biden đã đặt vấn đề đó trong một bộ khung chiến lược lớn hơn. Trước khi thế giới bị nhấn chìm bởi đại dịch, Trump chủ yếu xem cạnh tranh Mỹ – Trung như một cuộc xung đột thương mại. Trong khi đó, Biden coi cạnh tranh giữa hai bên là một phần của "cuộc tranh luận mang tính nền tảng" giữa những ai tin rằng "chủ nghĩa chuyên chế là hướng đi tốt nhất" và những ai tin rằng "dân chủ sẽ thắng và phải thắng".

Cộng đồng các nước dân chủ phải đối mặt với ba thách thức có liên quan lẫn nhau. Thứ nhất là mối đe dọa từ các nền chuyên chế như Nga và đặc biệt là Trung Quốc. Các quốc gia nói trên đang cạnh tranh quyền lực với Mỹ trên khắp thế giới và đe dọa các nền dân chủ từ Đông Âu đến eo biển Đài Loan. Những thách thức này mang tính tư tưởng lẫn địa chính trị. Các mô hình chính trị trong nước sản sinh ra các phiên bản khác biệt trên trường thế giới. Nga và Trung Quốc muốn làm suy yếu, phân mảnh, và thay đổi hệ thống quốc tế hiện hữu bởi vì các quy tắc tự do nền tảng đối nghịch hoàn toàn với cách điều hành phi tự do của họ. Mối nguy sẽ đến từ việc Moskva và Bắc Kinh biến thế giới trở nên an toàn cho các nhà độc tài theo những cách sẽ làm thế giới trở nên nguy hiểm cho các nền dân chủ.

Nga đang dùng việc tấn công mạng và tung tin giả nhằm gây bất ổn và xung đột nội bộ trong các nền dân chủ, ngay lúc mà các xã hội tự do ngày càng trở nên phân cực. Trung Quốc thì đang dùng sức mạnh kinh tế để trừng phạt sự chỉ trích, hay nói cách khác là tự do ngôn luận, đến từ các nền dân chủ từ Châu Âu đến Úc, cung cấp cho các nhà độc tài dụng cụ và phương pháp đàn áp, và viết lại luật lệ của các tổ chức quốc tế để bảo vệ và thậm chí ưu ái chủ nghĩa chuyên chế. Nguy hiểm hơn là việc Bắc Kinh chi tiêu rất nhiều cho các công nghệ nền tảng, như 5G và trí thông minh nhân tạo, để truyền bá ảnh hưởng chuyên chế của Trung Quốc và giúp họ dẫn trước các đối thủ dân chủ. Nói tóm lại là một thế giới được dẫn dắt bởi các nhà độc tài quyền lực và hung hăng sẽ là một thế giới "tồi tàn và nguy hiểm" đối với những ai quý trọng tự do, như lời cảnh báo của Tổng thống Franklin Roosevelt.

Mối đe dọa thứ hai đến từ các vấn đề xuyên quốc gia, những vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn khi đặt trong bối cảnh cạnh tranh hệ thống. Covid-19 không chỉ là một đại dịch chỉ xảy ra một lần trong một thế kỷ, nó còn thách thức ý tưởng rằng các nền dân chủ có thể phản ứng hiệu quả để giải quyết những mối nguy lớn mà người dân phải đối mặt. Tham nhũng xuyên biên giới không chỉ đe dọa sự hiệu quả của chính quyền, mà còn là một công cụ mà Moskva, Bắc Kinh, và các nền độc tài khác có thể tận dụng để mở rộng ảnh hưởng và làm suy yếu các đối thủ. Sự phân tách giữa hai vấn đề cạnh tranh nước lớn và các vấn đề xuyên quốc gia là điều không nên, vì các nền dân chủ không thể thắng thế trong vấn đề cạnh tranh nước lớn nếu không giải quyết được các vấn đề xuyên quốc gia.

Mối đe dọa thứ ba là sự xói mòn từ bên trong các nền dân chủ. Trong những năm gần đây, nước Mỹ đã chứng kiến việc bầu cử một tổng thống có bản tính phi tự do và một nỗ lực ngang ngược nhằm lật đổ kết quả của một cuộc bầu cử dân chủ. Xuyên suốt các nền dân chủ, tư tưởng phi dân chủ và sự bất mãn với các bộ máy nhà nước dân cử đã lên đến mức cao chưa từng thấy kể từ Thế chiến thứ hai. Các xu hướng này rất nguy hiểm vì chúng khiến nước Mỹ và đồng minh dễ bị tổn thương trước các âm mưu của các nhà độc tài. Có thể nói, khủng hoảng dân chủ ở trong nước cũng tương tự như khủng hoảng của ảnh hưởng dân chủ trên thế giới.

Học thuyết Biden

Ba thách thức trên cần biện pháp giải quyết ba bước – những điều phần nào đã được nhìn thấy trong các bước đi đầu tiên của chính quyền Biden. Thứ nhất, nước Mỹ phải củng cố sự liên kết và dẻo dai để chống lại các đối thủ chuyên chế và biến sự đoàn kết giữa các nền dân chủ trở nên mang tính toàn cầu vì nhiều phương diện của các mối đe dọa cần một phản ứng toàn cầu để có thể giải quyết. Thứ hai, Mỹ phải lãnh đạo các nền dân chủ thế giới giải quyết các vấn đề xuyên quốc gia mà không nước nào có thể tự mình giải quyết. Và Mỹ phải xây dựng "thế mạnh" để sẵn sàng cạnh tranh toàn cầu bằng việc tái đầu tư vào năng lực cạnh tranh của chính mình và cho thấy rằng các nền dân chủ vẫn có thể mang lại lợi ích cho người dân.

Chính sách ngoại giao của Biden đã tập trung vào việc áp dụng khái niệm tổng quát về chiến lược Mỹ, có nguồn gốc từ sự thật không thể chối cãi rằng sự thượng tôn dân chủ gặp nhiều thách thức chưa từng thấy trong nhiều thế hệ. Trong khi các mối quan hệ ngoại giao tồi tệ nhất của Trump là với các đồng minh thân cận nhất của Mỹ, thì Biden đã chủ trương hàn gắn các liên minh như là những tấm khiên bảo vệ hàng ngũ các nền dân chủ. Ông đã tìm cách xoa dịu các tranh chấp ngoại giao và thương mại với Châu Âu để giúp tạo nên một mặt trận thống nhất chống lại Nga và Trung Quốc, đồng thời hợp tác với các đồng minh ở Châu Âu và khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương để ra hiệu với Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng những khiêu khích chống lại Đài Loan sẽ buộc họ phải trả giá đắt. Một cuộc gặp thượng đỉnh sớm của nhóm G7 đã đạt được tiếng nói chung về mối đe dọa từ Trung Quốc và các kế hoạch cho một chương trình phát triển hạ tầng ưu tiên phát triển các dự án chất lượng cao và minh bạch cho các nước đang phát triển. Đây có thể xem là câu trả lời của các nền dân chủ đối với Sáng kiến Vành đai và Con đường của Bắc Kinh.

Chính quyền Biden cũng đã xây dựng các trọng tâm nhằm đối diện với các thách thức toàn cầu. Dưới chính quyền Biden, Bộ Tứ và nhóm G7 đã ra tuyên bố phân phối gần hai tỷ liều vắc-xin Covid-19 cho các nước đang phát triển. Chính quyền Biden đang chuẩn bị thúc đẩy hợp tác đa phương chống lại tham nhũng và các dòng tiền phi pháp mà Tống thống Nga Vladimir Putin, cùng những nhà độc tài khác, đã sử dụng thành thạo như một vũ khí. Mặc dù Biden đã đề xuất một "hội nghị thượng đỉnh các nền dân chủ" toàn cầu để giải quyết các vấn đề nói trên và những vấn đề khác, hiện tại ông đang tận dụng các nhóm nhỏ hơn nhưng có sẵn để đạt được những thành quả cụ thể trong ngắn hạn nhằm tạo tiền đề cho các nỗ lực lớn hơn sau này.

Biden đã áp dụng cách tiếp cận tương tự trong phương diện cạnh tranh công nghệ. Hiện tại chính quyền Biden đã bớt quan tâm đến việc tạo ra nhóm D-10 hay T-12, hay là các liên minh dân chủ chính thức để chống lại các ảnh hưởng của các nước chuyên chế trong mảng công nghệ. Họ hiện đang làm việc với các quốc gia và nhóm riêng biệt, bao gồm Hàn Quốc về công nghệ bán dẫn, 5G, và 6G, với EU trong việc liên kết công nghệ và chính sách thương mại, với Nhật để đảm bảo hệ thống internet toàn cầu mở, và với NATO để chống tấn công mạng và thông tin giả. Những điều này nhằm giúp xây dựng hợp tác dân chủ từ dưới lên.

Cùng lúc đó, chính quyền Biden đã phản kháng, đôi khi thông qua các kênh đa phương, chống lại những hình thức đàn áp nghiêm trọng nhất của các nhà độc tài. Biden được cho là đã cảnh báo Putin về những hậu quả nghiêm trọng nếu việc Nga tấn công các hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu vẫn tiếp diễn. Washington cùng tham gia với Liên minh Châu Âu trừng phạt Belarus sau khi chính quyền Tổng thống Alexander Lukashenko buộc một chuyến bay quốc tế phải hạ cánh nhằm bắt giữ một nhà bất đồng chính kiến bị truy nã. Đây là một ví dụ của sự đàn áp ở nước ngoài mà Nga, Trung Quốc, và các nền độc tài chuyên chế khác đang dùng để săn tìm những người chỉ trích và củng cố quyền lực. Chính quyền Biden cũng làm việc với Canada, Anh, và EU để trừng phạt các quan chức Đảng Cộng sản Trung Quốc liên quan đến sự đàn áp đáng ghê tởm ở Tân Cương. Điều này đã kích động phản ứng "ngoại giao chiến lang" từ Trung Quốc và phá vỡ một thỏa thuận đầu tư được ký giữa Trung Quốc và EU chỉ vài tháng trước.

Ở trong nước, Biden đã theo đuổi đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khoa học, cơ sở hạ tầng vật lý lẫn công nghệ số, và những mảng khác để cải thiện khả năng cạnh tranh và giải quyết sự bất mãn của tầng lớp lao động và trung lưu. Lời hứa của Biden về "chính sách ngoại giao cho giới trung lưu" được dùng để cho người dân thấy rằng việc can dự với thế giới sẽ có lợi cho các gia đình trung lưu. Các quan chức chính quyền Biden cũng lập luận rằng việc thúc đẩy mức thuế tối thiểu toàn cầu sẽ giúp các nền dân chủ đầu tư nhiều hơn cho người dân. Từ góc nhìn của Biden, các biện pháp này đại diện cho "khoản đặt cọc" nhằm cải cách và hồi sinh trong nước, điều từng giúp các nền dân chủ chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh.

Những thách thức đối với chính quyền Biden

Nhưng khi những đường nét đầu tiên của một chiến lược đang được định hình, thì những thách thức và hạn chế cũng dần xuất hiện. Điều rõ ràng nhất là những định hướng của Biden sẽ nhận được những phản hồi trái chiều. Chiến lược Biden có tiền đề dựa trên việc Mỹ có thể ngăn cản bước tiến của các chế độ chuyên chế thông qua liên kết chặt chẽ hơn với các nước dân chủ. Nhưng việc hạn chế quyền lực của Trung Quốc và Nga về phương diện quân sự và chính trị cũng cần sự hợp tác với các chính quyền bán dân chủ hay chuyên chế như ở Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam, và Philppines. Đây không phải là vấn đề chết người, vì Washington đã từng lấy việc liên minh với các nền dân chủ làm chiến lược nền tảng trong Chiến tranh Lạnh trong khi vẫn xây dựng các mối quan hệ hiệu quả, tuy mang tính "đổi chác" với các chính quyền bán dân chủ hay thậm chí với các quốc gia độc tài. Nhưng điều này nhấn mạnh sự thật rằng không có một giải pháp duy nhất để có thể xây dựng được tất cả các liên minh, và các chiến lược có nguyên tắc vẫn cần đi kèm các thỏa hiệp thực dụng.

Thậm chí với các đồng minh dân chủ, việc đạt được đồng thuận có thể khó khăn hơn những dự báo của chính quyền Biden. Biden có thể nhanh chóng đạt được lợi ích bằng việc ngừng các cuộc thương chiến với EU hay ngừng ca ngợi nhà độc tài ở Nga. Đặc biệt với Châu Âu, khả năng hợp tác là rất rõ ràng trong những vấn đề như sàng lọc các nguồn đầu tư. Nhưng việc đạt được đồng thuận giữa các nền dân chủ vẫn là thách thức. Các quốc gia mạnh về xuất khẩu ở Châu Âu đang đánh cược phục hồi kinh tế hậu đại dịch dựa vào người tiêu dùng Trung Quốc. Thêm vào đó, vẫn có những chia rẽ giữa hai bờ Đại Tây Dương về quyền riêng tư, dữ liệu, và các vấn đề khác về công nghệ. Việc ra tuyên bố chung về việc Trung Quốc gây hấn với Đài Loan hay việc Trung Quốc cưỡng bức kinh tế với Úc là điều tương đối dễ dàng. Cái khó là việc đạt được các biện pháp rõ ràng và mang tính đa phương. Và việc chuẩn bị thế giới tự do chống lại một mối đe dọa này sẽ làm việc phản ứng chống lại các mối đe dọa khác trở nên yếu hơn. Một ví dụ cụ thể là việc chính quyền Biden ngừng phản đối đường ống Dòng chảy Phương Bắc 2 để lôi kéo Đức đồng thuận về vấn đề Trung Quốc, nhưng điều này sẽ cho phép Nga gia tăng sức ép với các nền dân chủ ở Đông Âu.

Việc tập trung giải quyết vấn đề tư tưởng và công nghệ cũng có thể làm chính quyền Biden lãng quên các mối nguy quân sự. Nước Mỹ vẫn có thể thua cuộc cạnh tranh hệ thống nếu thất bại trong việc kiềm chế các nhà chuyên chế hung hăng và bảo vệ các tiền đồn dân chủ ở Đông Âu và Tây Thái Bình Dương. Một ủy ban lưỡng đảng về chiến lược quốc phòng Mỹ cảnh báo vào năm 2018 rằng nước Mỹ đơn giản là không có đủ sức mạnh quân sự để thỏa mãn các cam kết quân sự ở khu vực rìa Á – Âu. Lầu Năm Góc cũng đang đối diện với những điểm yếu quân sự ngày càng tăng ở eo biển Đài Loan. Nhưng chính quyền Biden chưa cho thấy sự cấp bách trên phương diện quân sự. Ngân sách quốc phòng đầu tiên của chính quyền Biden vẫn đi ngang và làm suy yếu các biện pháp ngắn hạn để củng cố vị thế quân sự của Mỹ ở Thái Bình Dương. Dù sự cạnh tranh hiện tại bao hàm không chỉ khía cạnh sức mạnh quân sự, nhưng các giá trị dân chủ không đủ để bảo vệ thế giới tự do trong một cuộc đấu súng.

Cuối cùng, sự liên kết giữa phương diện đối ngoại và đối nội của chiến lược Biden không liền mạch như tuyên bố của chính quyền Biden. Theo quan điểm của Biden, cải thiện tình cảnh kinh tế cho giới trung lưu là một biện pháp chống lại sự trỗi dậy của chủ nghĩa Trump và là một cách nhằm củng cố nền tảng nội địa của chính sách ngoại giao Mỹ. Nhưng trong số các biện pháp thực tế đang có cả chính sách "mua hàng Mỹ", điều không khác so với chính sách "nước Mỹ trên hết" của Trump, và một chính sách thương mại không thuyết phục làm nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Châu Á, băn khoăn liệu có phải nước Mỹ đã thật sự quay lại hay chưa. Nếu chiến lược của chính quyền Biden không hỗ trợ cho một định nghĩa về sự giàu có mở rộng và tham vọng, thì nó sẽ không có nhiều ảnh hưởng đối với sự liên kết và quyền lực của thế giới tự do.

Nhưng ít nhất chúng ta phải thừa nhận là Biden đã nhận biết được chính xác thách thức bao trùm nhất của thời đại này. Bây giờ mới đến phần khó khăn. Ông phải thực thi chiến lược, và phải làm sao để nó hoạt động hiệu quả.

Hal Brands

Nguyên tác : "The Emerging Biden Doctrine", Foreign Affairs, 29/06/2021.

Ngô Việt Nguyên biên dịch

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 09/07/2021

Hal Brands là giáo sư tại Trường Nghiên cứu Quốc tế thuộc Đại học John Hopkins, nhà nghiên cứu thuộc viện American Enterprise Institute, và là một ký giả của Bloomberg Opinion.

Published in Diễn đàn
dimanche, 04 juillet 2021 22:31

Học thuyết Biden có gì mới ?

Các tổng thống Mỹ lên cầm quyền đều muốn có dấu ấn riêng của mình bằng một học thuyết nào đó. Joe Biden không phải ngoại lệ. Với kinh nghiệm hoạt động hơn năm thập kỷ trong chính trường Mỹ, bao gồm tám năm làm phó tổng thống dưới thời Barack Obama, Joe Biden càng hiểu rõ phải làm thế nào. Sau hơn nửa năm cầm quyền, học thuyết Biden đã hình thành.

biden0

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden

Bối cảnh mới

Donald Trump lên cầm quyền trong một bối cảnh đặc biệt khi nước Mỹ bị phân hóa. Là một doanh nhân, Trump đã nhạy bén nắm bắt được tâm trạng bất bình của cử tri Mỹ, nên đã đưa ra đúng lúc các khẩu hiệu dân túy : "Tát cạn đầm lầy Washington", và "Nước Mỹ trên hết" theo xu hướng biệt lập. Nhưng Trump bị đứt gánh giữa đường, phải rời Nhà Trắng sau bốn năm cầm quyền đầy tranh cãi.


Nói cách khác, Trump là một hiện tượng bất thường, và chủ nghĩa Trump là một phong trào hỗn độn mang bản sắc dân túy (về đối nội) và xu thế biệt lập (về đối ngoại). Cú sốc Trump mà đỉnh điểm là đám đông cuồng Trump tấn công vào Nhà Quốc hội ngày 6/1 và hệ quả của đại dịch Covid- 19 đã xô đẩy nước Mỹ vào khủng hoảng và phân hóa sâu sắc. Vì vậy, Biden phải dọn dẹp đống đổ nát mà Trump để lại, với khẩu hiệu Tái thiết (Build back better).

Là một chính trị gia với thâm niên hơn 50 năm tại Washington, Biden có nhiều kinh nghiệm không chỉ về đối nội (chủ trương dựa vào tầng lớp trung lưu) mà còn về đối ngoại (chủ trương tăng cường liên kết với các nước đồng minh). Team Biden gồm nhiều chuyên gia có bề dầy kinh nghiệm phục vụ trong các chính quyền trước, như cố vấn an ninh quốc gia Jake Sullivan, ngoại trưởng Anthony Blinken, điều phối viên Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương Kurt Campbell.

Chính quyền Biden đã xác định tranh chấp Mỹ-Trung là chủ đề chính của chính sách đối ngoại Mỹ. Đó là một tầm nhìn nhất quán không chỉ của chính quyền Biden, mà còn kế thừa từ chính quyền Trump. Tranh chấp Mỹ-Trung là một phần của tranh chấp giữa hai hệ thống chính trị tại một bước ngoặt như "điểm gãy khúc" để xác định liệu dân chủ hay độc tài sẽ thắng thế trong thế kỷ 21 có nhiều biến động khó lường.

Nếu mâu thuẫn chính trong thế kỷ 21 là tranh chấp giữa hệ thống dân chủ và hệ thống độc tài thì điều đó có ý nghĩa to lớn đối với chính sách đối ngoại của Mỹ và về địa chính trị. Nó gắn liền tranh chấp nước lớn (Mỹ-Trung) với sự phục hồi của nền dân chủ Mỹ, và cuộc chiến chống lại các tai họa xuyên quốc gia như tham nhũng và đại dịch Covid-19. Thách thức của thế kỷ 21 là làm thế nào để biến tầm nhìn đó thành hiện thực.

Nếu Trump đã lôi Mỹ vào tranh chấp nước lớn thì Biden đặt tranh chấp đó vào một khuôn khổ chiến lược lớn hơn. Đến trước đại dịch Covid-19, Trump coi tranh chấp Mỹ-Trung chủ yếu là cuộc chiến về điều khoản thương mại, còn Biden coi tranh chấp đó là một phần của "cuộc tranh luận cơ bản" giữa những người tin rằng "độc tài là cách tốt nhất" và những người tin rằng "dân chủ sẽ thắng".

Thách thức mới

Các nước dân chủ đang đứng trước ba thách thức liên quan với nhau.

Một là mối đe dọa từ các nước độc tài (như Trung Quốc và Nga). Thách thức này mang cả tính tư tưởng lẫn địa chính trị. Các mô hình trong nước khác nhau sẽ có tầm nhìn đối ngoại khác nhau. Trung Quốc và Nga muốn làm suy yếu, tan rã, và thay thế trật tự quốc tế hiện hành, vì các nguyên tắc dân chủ cơ bản của trật tự đó ngược với cách hành xử phi dân chủ của họ. Trung Quốc và Nga muốn thuận lợi cho độc tài và khó khăn cho dân chủ.

Trong khi Nga tấn công mạng và thông tin sai lạc làm rối loạn các nước dân chủ và đẩy người dân chống đối lẫn nhau, thì Trung Quốc dùng sức mạnh thị trường để trừng phạt sự chỉ trích tại các nước dân chủ từ Châu Âu sang Châu Úc. Họ cung cấp cho các chế độ độc tài phương tiện trấn áp, và thay đổi luật chơi của các tổ chức quốc tế để bảo kê cho quyền lợi độc tài. Trung Quốc dùng công nghệ 5G và trí tuệ nhân tạo tăng ảnh hưởng của các nước độc tài để vượt qua các nước dân chủ. Cuối cùng, như Franklin Roosevelt đã nói, thế giới do các chế độ độc tài thống trị sẽ là nơi "tồi tàn và nguy hiểm" (shabby and dangerous).

Hai là mối đe dọa từ các tai họa xuyên quốc gia với gánh nặng do tranh chấp hệ thống gây ra. Covid-19 không chỉ là đại dịch hàng thế kỷ mới có một lần, mà đó là một thách thức về tư tưởng mà phe dân chủ có thể đáp trả lại các nguy cơ cấp bách nhất đối với người dân. Tham nhũng qua biên giới không chỉ đe dọa đối với quản trị quốc gia, mà còn là một tệ nạn mà Trung Quốc và Nga có thể lợi dụng để mở rộng ảnh hưởng của họ và làm suy yếu đối phương. Sự khác biệt giữa tranh chấp nước lớn và các vấn đề xuyên quốc gia là "dân chủ không thể thắng vấn đề thứ nhất nếu không giải quyết tốt vấn đề thứ hai".

Ba là mối đe dọa do nền dân chủ bị thoái hóa từ bên trong. Vừa qua, nước Mỹ đã chứng kiến sự đắc cử của "một tổng thống phi dân chủ trắng trợn" và những cố gắng dùng bạo lực để lật ngược cuộc bầu cử dân chủ. Trong thế giới tự do, tình cảm phi dân chủ và bất bình với các thể chế đại diện đã đạt đỉnh điểm kể từ sau Thế Chiến II. Xu hướng này đáng báo động, đang làm cho nước Mỹ và các đồng minh ngày càng dễ tổn thương trước nguy cơ độc tài. Khủng hoảng dân chủ trong nước là một phần của khủng hoảng dân chủ trên thế giới.

Học thuyết là một chuyện, nhưng các sự cố rủi ro lại là chuyện khác. Tuy chính quyền Biden cũng như chính quyền Trump đã tuyên bố "xoay trục về Châu Á", và coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chủ yếu trong thế kỷ 21, nhưng nhiều lãnh đạo ASEAN vẫn lo ngại bị Mỹ bỏ rơi. Theo James Crabtree, nếu các nước khu vực này tiếp tục trôi dạt về phía Trung Quốc, thì Washington phải tự trách mình.

Lãnh đạo ASEAN nhiều lần phàn nàn về sự vắng mặt của lãnh đạo Mỹ tại các cuộc họp ở khu vực. Ngày 25/5/2021, khi các ngoại trưởng ASEAN tham dự cuộc họp (online) đầu tiên với Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken, họ phải chờ gần một giờ, trước khi biết rằng Blinken không thể tham dự cuộc họp đó được. Trong lúc đó, Blinken đang trên đường bay đi Trung Đông nên khó kết nối mạng do "trục trặc kỹ thuật". Mấy tuần sau, các ngoại trưởng ASEAN được đón tiếp trọng thể khi dự cuộc họp với ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị.

Học thuyết mới

Theo giáo sư Hal Brands, ba thách thức nói trên đòi hỏi phản ứng tương xứng, như đã đề cập sơ bộ trong bài "Cập nhật về chính sách đối ngoại của chính quyền Biden".

Một là Mỹ phải tăng cường sự gắn kết và sức sống của cộng đồng dân chủ để chống lại các thế lực độc tài, làm cho sự đoàn kết dân chủ đó mang tính chất toàn cầu thực sự, bởi vì nhiều mặt của mối đe dọa đó đòi hỏi một phản ứng toàn cầu. Hai là Mỹ phải lãnh đạo các nước dân chủ trên thế giới đối phó với các vấn đề xuyên quốc gia mà không có một nước nào có thể đối phó một mình. Tranh chấp toàn cầu phải được xây dựng "trên thế mạnh" bằng tái đầu tư vào khả năng cạnh tranh để chứng minh rằng các nước dân chủ có thể đem lại lợi ích cho người dân của họ.

Chính sách đối ngoại của Chính quyền Biden dựa trên tiền đề là phải biến học thuyết chiến lược của Mỹ thành hành động, xuất phát từ thực tế hiển nhiên rằng vị thế độc tôn của dân chủ đang bị đe họa hơn bao giờ hết. Trong khi nhiều mối quan hệ quốc tế tồi tệ nhất dưới thời Trump là với các đồng minh thân cận nhất của Mỹ, thì nay Biden đang ưu tiên hàn gắn các mối quan hệ đồng minh đó như các tấm khiên trong hàng ngũ dân chủ trên toàn cầu.

Ông đã tìm cách tháo gỡ các tranh chấp ngoại giao và thương mại để tạo ra một mặt trận thống nhất mạnh hơn để đối phó với Trung Quốc, cộng tác với các đồng minh và đối tác ở Châu Âu và Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương để nhắn nhủ Trung Quốc rằng nếu họ xâm lược Đài Loan thì sẽ phải trả giá đắt. Cuộc họp cấp cao nhóm G7 vừa qua đề cập đến sự đe dọa của Trung Quốc và kế hoạch phát triển các dự án hạ tầng chất lượng cao tại các nước đang phát triển, như một giải pháp thay thế cho sáng kiến "Vành đai và Con đường" của Trung Quốc.

Chính quyền Biden còn đỡ đầu các thể chế hợp tác dân chủ để đối phó với các thách thức toàn cầu. Cơ chế "Bộ Tứ" và G7 đã công bố kế hoạch phân phối hai tỷ đô la cho vaccines Covid-19 giúp các nước đang phát triển. Chính quyền còn hỗ trợ kế hoạch chống tham nhũng và các khoản tài trợ bất chính mà Putin và các nhà độc tài khác dùng làm vũ khí. Tuy Biden đề cập đến "hội nghị thượng đỉnh các nước dân chủ toàn cầu" nhằm vào các vấn đề đó, nhưng đến nay Biden mới chỉ dựa vào các nhóm nước có thể đem lại kết quả sớm.

Biden cũng làm tương tự trong cạnh tranh về công nghệ. Chính quyền đã hạ thấp ý tưởng lập ra các nhóm nước dân chủ lớn hơn như D-10 và T-12 để đối phó với ảnh hưởng của các chế độ độc tài về công nghệ. Chính quyền cộng tác với các nhóm nước chọn lọc như với Hàn Quốc về công nghệ bán dẫn, 5G và 6G, với EU về công nghệ làm đẹp trong y tế và thương mại, với Nhật Bản về kế hoạch mở rộng Internet toàn cầu, với NATO về chương trình chống tấn công mạng và làm nhiễu thông tin, để tăng cường hợp tác dân chủ từ dưới lên.

Đồng thời, Chính quyền Biden đang vận động các nước chống lại các hình thức áp bức và cướp đoạt của các chế độ độc tài. Nghe nói Biden đã răn đe Putin là sẽ có hệ quả nghiêm trọng nếu Nga tiếp tục tấn công mạng. Mỹ cùng các nước EU đã trừng phạt Belarus sau khi Chính phủ Alexander Lukashenko buộc một chuyến bay phải hạ cánh vì chở một người bất đồng chính kiến. Đó là một ví dụ về các hành động trấn áp xuyên biên giới mà Nga, Trung Quốc, và các nước độc tài khác áp dụng để săn lùng những người bất đồng chính kiến nhằm củng cố quyền lực của họ. Chính quyền Biden đã cộng tác với Anh, Canada, và EU để trừng phạt các quan chức Trung Quốc đã tham gia đàn áp ở Tân Cương. Gần đây, Trung Quốc phải ngừng "ngoại giao chiến lang" sau khi một hiệp định đầu tư giữa EU với Trung Quốc bị hoãn.

Trong nước, Biden đang thúc đẩy đầu tư vào nghiên cứu và phát triển khoa học như hạ tầng số và các lĩnh vực khác để tăng cường khả năng cạnh tranh, và tránh phân hóa giữa tầng lớp trung lưu và người lao động. Chủ thuyết "chính sách đối ngoại vì tầng lớp trung lưu" nhằm chứng tỏ rằng kết nối toàn cầu có thể đem lại lợi ích cho người lao động. Chương trình "mức thuế tối thiểu toàn cầu" sẽ giúp các nước dân chủ đầu tư nhiều hơn cho người dân. Theo Biden, các biện pháp này nhằm chi nhiều hơn cho chương trình tái thiết và cải cách trong nước đã từng giúp các nước dân chủ thắng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Khó khăn phía trước

Trong khi hình thù của một chủ thuyết mới đang hiện rõ, thì các thách thức và yếu kém cũng rõ nét hơn. Rõ nhất là cách đề cập của Biden tuy được lòng một số người này nhưng lại làm mất lòng một số người khác. Chiến lược này dựa trên tiền đề là Mỹ có thể ngăn chặn bước tiến của các chế độ độc tài qua đoàn kết chặt chẽ hơn với các nước dân chủ.

Nhưng chống lại Nga và Trung Quốc về quân sự hay ngoại giao đòi hỏi phải hợp tác với các nước phi dân chủ như Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam, Philippines. Đó không phải là một điểm yếu chết người vì trong Chiến tranh Lạnh, tuy Mỹ liên minh với các nước dân chủ, nhưng cũng hợp tác với các nước "dân chủ nửa vời" hoặc chuyên chế. Điều đó chứng tỏ muốn xây dựng liên minh vẫn đòi hỏi thỏa hiệp thực dụng.

Ngay cả đối với các nước đồng minh dân chủ cốt lõi, thì đoàn kết cũng khó hơn nhiều so với mong đợi của chính quyền. Tuy Biden có thể nhanh chóng thành công từ việc chấm dứt chiến tranh thương mại với các nước đồng minh hay bỏ qua những lời khen của nhà độc tài Nga, thì tập hợp được các nước dân chủ thân cận vẫn là một thách thức lớn. Đặc biệt là đối với các nước EU, cần phải có khuôn khổ hợp tác rõ ràng như về phân loại đầu tư.

Các hãng nhập khẩu Châu Âu đang chờ phục hồi kinh tế sau đại dịch, nhờ vào sức mua của Trung Quốc. Hiện vẫn còn tình trạng chia rẽ xuyên Đại Tây Dương về quyền riêng tư, và các vấn đề công nghệ khác. Tuy ra tuyên bố chung về khả năng Trung Quốc xâm lược Đài Loan hay gây sức ép về kinh tế đối với Úc là tương đối dễ, nhưng để có hành động đáp trả cụ thể từ nhiều nước sẽ khó hơn. Hành động củng cố thế giới tự do để chống lại mối đe dọa này sẽ làm yếu đi trước mối đe dọa khác. Ví dụ, khi Washington thôi không phản đối dự án đường ống dẫn dầu Nord Stream 2, hy vọng Berlin sẽ ủng hộ lập trường chống Bắc Kinh, nhưng làm như vậy sẽ giúp Nga tăng cường đòn bẩy đối với các đồng minh Đông Âu.

Việc tập trung vào đấu tranh về tư tưởng và công nghệ có thể làm Chính quyền Biden sao nhãng các nguy cơ cấp bách về quân sự. Mỹ có thể thua cuộc ganh đua về hệ thống vì không ngăn chặn được các chính quyền độc tài hiếu chiến và bảo vệ các tiền đồn dân chủ tại Đông Âu và Tây Thái Bình Dương. Một ủy ban lưỡng đảng về chiến lược quốc phòng đã cảnh báo năm 2018 rằng Mỹ không đủ lực lượng cần thiết để đáp ứng các cam kết tại khu vực ngoại vi Á-Âu. Mỹ đứng trước một lỗ hổng an ninh tại eo biển Đài Loan, nhưng không tỏ ra cấp bách về mặt quân sự. Ngân sách quốc phòng không tăng, và trước mắt thiếu biện pháp để tăng cường vị thế của Mỹ ở Thái Bình Dương. Tuy tranh chấp bây giờ không chỉ về sức mạnh quân sự, nhưng giá trị dân chủ không cứu được thế giới khi phải đấu súng.

Cuối cùng, mối quan hệ giữa các thành tố đối nội và đối ngoại trong chiến lược của Mỹ thường không suôn sẻ như chính quyền nói. Theo quan điểm Biden, cải thiện giá trị kinh tế của tầng lớp trung lưu là một đảm bảo để ngăn ngừa chủ nghĩa Trump quay lại và là cách tăng cường nền móng bên trong của nền ngại giao Mỹ. Nhưng trong số các kết quả thực tiễn, khẩu hiệu "Mua hàng Mỹ", cũng giống như khẩu hiệu "Nước Mỹ trên hết", với đặc trưng dân chủ và chính sách thương mại mềm mỏng hơn đang làm cho nhiều nước tại Châu Á tự hỏi liệu có đúng là "nước Mỹ quay lại" hay không.

Tóm lại, nếu học thuyết Biden không hỗ trợ được cho ý tưởng thịnh vượng đầy tham vọng và rộng mở thì nó không giúp gì nhiều cho sự gắn kết và sức mạnh của thế giới tự do. Tuy Biden đã xác định đúng thách thức chủ yếu của thế kỷ 21, nhưng bây giờ mới là lúc biến tầm nhìn thành hiện thực, và thực thi chiến lược đó trước mắt còn nhiều khó khăn.

Nguyễn Quang Dy

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 04/07/2021

Published in Diễn đàn