Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

lundi, 08 août 2022 22:19

Nguy cơ Lào vỡ nợ, Việt Nam lo

Trong chuyến công du từ ngày 24-29/07/2022, bộ trưởng Tài chính Lào đã "đề nghị Việt Nam cử chuyên gia sang giúp Lào tháo gỡ khó khăn về tài chính, tiền tệ và cải cách doanh nghiệp". Cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng tại Lào đang khiến Việt Nam lo lắng vào lúc trong năm 2022, hai nước kỉ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (05/09/1962) và 45 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (18/07/1977).

lao1

Ảnh minh họa tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào, trong khuôn khổ dự án BRI, băng qua một cây cầu sông Dương Tử (Yuanjiang), tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Ảnh do Tân Hoa Xã đăng ngày 03/12/2021.  AP - Wang Guansen

Lào đang đối mặt với một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng nhất từ nhiều năm qua : Lạm phát tăng 23,6% trong tháng 6, mức tăng cao nhất từ 22 năm qua ; các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, khí đốt đều tăng thêm ít nhất gần 70%. Trung Quốc là chủ nợ chính của Lào, chiếm gần một nửa khối nợ nước ngoài 14,5 tỉ đô la (chiếm 66% GDP), theo báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới vào tháng 04/2022.

Với nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ Sáng Kiến Một Vành Đai Một Con Đường (BRI), Lào đang ngả theo Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam luôn cố gắng duy trì ảnh hưởng tại nước láng giềng vì những lý do kinh tế và địa chính trị. Trên đây là nhận định của nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang, trường Đại học Boston (Boston College, Hoa Kỳ), khi trả lời RFI Tiếng Việt ngày 04/08/2022.

*******

RFI : Trang Facebook Thông tin Chính phủ Việt Nam ngày 26/07/2022 cho biết là bộ trưởng Tài chính Lào, nhân chuyến công du Việt Nam, đã đề nghị Việt Nam cử chuyên gia sang giúp Lào tháo gỡ những khó khăn về tài chính, tiền tệ. Xin anh giải thích một chút về cuộc khủng hoảng mà Lào đang trải qua hiện nay. Cuộc khủng hoảng này ảnh hưởng đến Việt Nam như thế nào ?

Vũ Xuân Khang : Theo tôi, cuộc khủng hoảng này có hai nguyên nhân chính. Nguyên nhân thứ nhất là do những biến động về kinh tế và chính trị toàn cầu hiện nay, tức là do cuộc chiến ở Ukraine và việc Mỹ nâng lãi suất chỉ đạo rất lớn trong thời gian vừa rồi. Điều này đã khiến giá xăng dầu tăng lên trên toàn cầu. Đồng kip của Lào đã rớt giá rất nhiều, đặc biệt khi so sánh tháng 09/2021, 9.300 kip Lào đổi được một đô la Mỹ thì bây giờ là 15.000 kip Lào mới đổi được một đô la Mỹ. Chính việc đồng kip Lào bị rớt giá khiến cho khủng hoảng nợ công trầm trọng thêm rất nhiều bởi vì nước này nợ đô la, riêng với Trung Quốc là 6 tỉ đô la.

Nếu nhìn xa hơn, nguyên nhân thứ hai là do chính quyền Lào, trong những năm gần đây, đặc biệt là từ năm 2010 đến 2016, đã sử dụng và vay nợ rất nhiều từ nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc để xây dựng cơ sở vật chất trong nước. Dù vay rất nhiều, nhưng chính việc xử lý các khoản tiền và tham nhũng trong chính quyền Lào đã khiến những khoản nợ này không được tính toán cẩn thận và dẫn tới việc Lào có nguy cơ vỡ nợ.

Các chuyên gia quốc tế đánh giá rằng Lào phải trả nợ mỗi năm 1,3 tỉ đô la Mỹ, từ giờ cho đến năm 2025, trong khi dự trữ ngoại hối của nước này chỉ còn hơn 1,2 tỉ đô la. Do đó, có thể thấy rằng việc Lào vỡ nợ chỉ còn là vấn đề thời gian nếu nước này không có những cải thiện về kinh tế hoặc xin Trung Quốc gia hạn gói nợ hoặc có những biện pháp giảm thiểu tham nhũng, cũng như quản lý những khoản vay nợ một cách hợp lý.

Chính cuộc khủng hoảng này ở Lào ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam. Cần phải nói rằng Lào cũng là một nước nằm dưới sự lãnh đạo của một Đảng cộng sản. Việt Nam thì không muốn "đồng chí" của mình gặp khó khăn kinh tế vì những khó khăn kinh tế này có thể gây ảnh hưởng về sự ổn định chính trị-kinh tế của Lào. Gần đây những nhà nghiên cứu về Lào đã quan tâm xem thái độ của người dân đối với chính quyền Lào như thế nào. Họ nhận thấy rằng cuộc khủng hoảng lần này đã tạo ra rất nhiều phẫn nộ trong công chúng Lào khi mà nhiều người dân không còn che giấu sự bất mãn đối với chính quyền, họ thẳng tay lên mạng phê phán chính quyền.

RFI : Tại sao Lào cần đến sự hỗ trợ của Việt Nam ? Thông qua việc này, Hà Nội có lấy lại được phần nào ảnh hưởng tại nước láng giềng không, trong khi Vientiane dường như ngả theo Trung Quốc trong những năm gần đây trong khuôn khổ Sáng Kiến Vành Đai và Con Đường (BRI) ?

Vũ Xuân Khang : Việc Lào cần đến sự hỗ trợ của Việt Nam chính là một điều rất bình thường. Tại vì trước đây, sau khi chính quyền Pathet Lào giành được chính quyền đất nước sau năm 1975, Việt Nam đã luôn luôn là một đồng minh rất thân cận, kể cả về kinh tế, chính trị cho Lào. Khủng hoảng lần này, nhờ cậy đến sự giúp đỡ của Việt Nam như là một thói quen đối với đất nước Lào. Chắc chắn rằng Việt Nam cũng mong muốn Lào không bị lung lay, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ cộng sản. Lào cũng hiểu rất rõ điều này. Chính vì vậy Lào biết là Việt Nam luôn chống lưng cho Lào.

Tuy nhiên, có một điều cần phải nói rõ, đấy là khả năng của Việt Nam giúp đỡ Lào không phải là nhiều. Nếu nhìn vào cân bằng kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, có thể thấy rõ là Việt Nam hoàn toàn không có cơ hội để có thể thực sự cạnh tranh sòng phẳng với Trung Quốc về mặt kinh tế. Việt Nam cũng hiểu rõ rằng cho dù Việt Nam có ủng hộ Lào bao nhiêu tiền đi chăng nữa, nhưng nếu nước bạn láng giềng không giải quyết được vấn đề tham nhũng và kiểm soát các nguồn tiền từ nước ngoài một cách hiệu quả, thì những đồng tiền đấy cũng sẽ chưa chắc giúp Lào vượt qua được khủng hoảng kinh tế hiện nay.

Một điều nữa cần phải xem xét kỹ hơn, đó là chính Trung Quốc mới là chủ nợ của Lào. Việt Nam, suy cho cùng mặc dù là đồng minh thì cũng chỉ là một nước có thể hỗ trợ Lào, chứ không phải là người nắm chìa khóa để giải quyết được vấn đề kinh tế cho Lào 100%. Những năm gần đây, Trung Quốc đã gia tăng ảnh hưởng tại Lào với Sáng kiến Một Vành Đai Một Con Đường thì việc sớm hay muộn Trung Quốc có thể khiến Lào phụ thuộc nhiều hơn về kinh tế là một điều mà Việt Nam không thể nào ngăn chặn được.

Theo tôi nghĩ, Việt Nam có thể trợ giúp Lào về mặt kinh tế, nhưng sự trợ giúp đó có thể giúp Lào tiếp tục trở thành đồng minh thân cận của Việt Nam hay không thì việc đó còn chưa rõ, tại vì phụ thuộc rất nhiều vào việc Trung Quốc có sẵn lòng hỗ trợ Lào hay không. Nếu Trung Quốc hỗ trợ Lào, chắc chắn là Việt Nam sẽ không có khả năng để cạnh tranh với Trung Quốc ở Lào về mặt kinh tế.

RFI : Tuy nhiên, Việt Nam có sẵn sàng cạnh tranh ảnh hưởng đến cùng với Trung Quốc ở Lào không ?

Vũ Xuân Khang : Theo tôi nghĩ, thực ra Việt Nam không có lựa chọn nào khác cả. Nguyên nhân thứ nhất, đó là địa-chính trị Việt Nam không cho phép Lào hay Cam Bốt thuộc về Trung Quốc.

Có thể thấy là ở Việt Nam, phần miền Trung rất hẹp và Lào đã nằm sát biên giới với miền Trung của Việt Nam. Chỉ cần Lào thuộc về một nước nào khác, đặc biệt như là Trung Quốc, nếu có chiến tranh xảy ra thì Việt Nam hoàn toàn có thể bị tấn công từ mạn sườn và có thể bị chia cắt đất nước ra làm hai như thời Chiến tranh Việt Nam. Chính vì thế, dù không có chút khả năng nào để cạnh tranh với Trung Quốc về kinh tế nhưng Việt Nam không cho phép là Lào có thể ngả theo phía Trung Quốc. Do đó, mặc dù biết là về lâu về dài, ảnh hưởng của Việt Nam tại Lào có thể sẽ suy yếu nhưng Việt Nam bắt buộc vẫn sẽ phải cạnh tranh với Trung Quốc. Đặc biệt nhìn trong 2 năm gần đây, Việt Nam đã tặng Lào một nhà Quốc hội rất mới, hơn 100 triệu đô la Mỹ và đã giúp Lào xây dựng một số tuyến đường để nối từ Lào đến cảng Vũng Áng hay nối từ Vientiane với thủ đô Hà Nội.

Nhưng những sự trợ giúp về kinh tế này cũng chỉ thể hiện là Hà Nội vẫn mong muốn Lào tiếp tục là một đồng minh thân cận của Việt Nam. Nhưng về lâu về dài, có thể thấy những sự trợ giúp này hoàn toàn không thể nào cạnh tranh được với ảnh hưởng kinh tế đang lên của Trung Quốc tại Lào.

RFI : Năm 2022, hai nước kỉ niệm 60 năm thiệt lập quan hệ ngoại giao, truyền thông Việt Nam vẫn nói là "an ninh của Lào là an ninh của Việt Nam". Xin anh giải thích mối quan hệ hợp tác đặc biệt về mặt quốc phòng giữa hai nước ?

Vũ Xuân Khang : Theo tôi nhận thấy, quan hệ Việt Nam với Lào về căn bản là để bảo vệ an ninh cho Việt Nam, như câu mà chính phủ Việt Nam hay nói là "an ninh của bạn cũng là an ninh của mình" hay là "an ninh của Lào cũng là an ninh của Việt Nam". Điều này thể hiện Việt Nam mong muốn không có một quốc gia nào có thể sử dụng Lào làm bàn đạp tấn công Việt Nam.

Nếu nhìn rộng hơn, thực ra từ thời Chiến tranh Việt Nam, chính quyền Hà Nội đã trực tiếp cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc ở Lào rồi. Và Việt Nam cũng đã hỗ trợ chính quyền Pathet Lào rất nhiều trong thời gian chống lại chính quyền Vương quốc Lào với mục tiêu cuối cùng là để sử dụng được Lào như là một phần của tuyến đường mòn Hồ Chí Minh để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chính quan hệ thân mật về quốc phòng từ trước năm 1975 này đã tạo tiền đề để hai nước ký Hiệp định Hữu nghị và Hợp tác năm 1977, qua đó Việt Nam có thể giúp Lào trở thành một đồng minh thân cận và trực tiếp bảo vệ Lào khỏi những cuộc tấn công của Trung Quốc.

Cần lưu ý rằng vào năm 1979, khi Trung Quốc tấn công biên giới của Việt Nam vào tháng 2 thì Trung Quốc cũng đã tấn công biên giới của Lào. Mặc dù Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn khi vừa phải tấn công Khmer Đỏ ở Cam Bốt, vừa phải phòng thủ Trung Quốc ở biên giới phía bắc, Việt Nam vẫn sẵn lòng gửi hơn 40.000 quân bảo vệ Lào khỏi sự đe dọa từ các phần tử chống cộng sản ở trong nước và Trung Quốc.

Chính sự hợp tác về quốc phòng lâu năm này đã tạo ra một sự tin cậy chính trị rất vững chắc với nhau. Và cần phải lưu ý rằng Việt Nam bảo vệ Lào, không chỉ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Nhà nước Lào mà còn bảo vệ cho sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Lào khi mà Đảng cộng sản Việt Nam và đảng Cách mạng nhân dân Lào là hai đảng anh em đã có truyền thống lâu đời để hỗ trợ lẫn nhau.

Chính tầm quan trọng về địa-chính trị của Lào đối với Việt Nam khiến Việt Nam ưu tiên Lào là nước đồng minh duy nhất mà Việt Nam ký hiệp định. Mặc dù chính quyền Hà Nội đã nói rất nhiều lần là Việt Nam hoàn toàn không muốn tham gia liên minh nào hoặc là dùng lãnh thổ của nước này để tấn công chống lại nước khác, nhưng trong trường hợp của Lào, có thể thấy là Việt Nam đã hoàn toàn tạo ra một ngoại lệ cho chính sách "4 Không" của Việt Nam.

Và cần phải nói rõ hơn là so với Biển Đông thì Lào quan trọng hơn những đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa tại vì, mặc dù Hoàng Sa và Trường Sa có thể quan trọng với Việt Nam nhưng hai quần đảo này hoàn toàn không có ảnh hưởng đối với sự tồn vong của đất nước. Trái với Lào, đất nước này hoàn toàn có thể quyết định đến vận mệnh tồn tại của Việt Nam trong tương lai. Điều này có thể thấy là Việt Nam sẵn sàng ưu tiên Lào là một đồng minh quân sự và sẵn sàng ủng hộ Lào bằng tất cả những gì ở Việt Nam có thể ủng hộ.

RFI : RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang, Đại học Boston (Boston College), Hoa Kỳ.

Thu Hằng thực hiện

Nguồn : RFA, 08/08/2022

Additional Info

  • Author Vũ Xuân Khang, Thu Hằng
Published in Diễn đàn

Hai năm trước, các hãng đánh giá tín dụng và cố vấn kinh tế cho Chính phủ Lào cảnh báo nợ công của Vientiane đã vượt ngưỡng nguy hiểm và có nguy cơ vỡ nợ. Lào được cho là đang nhờ sự giúp đỡ từ Trung Quốc.

lao1

Lào có nguy cơ trở thành nước Châu Á thứ hai bị vỡ nợ sau Sri Lanka - Ảnh minh họa Chợ Salat Sao ở Vientiane

Thực tế là Lào đang chuyển cho chủ nợ Trung Quốc quyền chủ sở hữu của các khoản vay lớn của mình. Trung Quốc là nước cho vay lớn nhất của Lào.

Theo Fitch Ratings, một cơ quan xếp hạng tín nhiệm toàn cầu doanh nghiệp, chi tiết về sự thống trị của Trung Quốc là khoản nợ 5 tỷ USD Lào vay từ Trung Quốc.

Ngân hàng Thế giới (WB) xếp Lào là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á đối mặt với "nguy cơ căng thẳng nợ nước ngoài". WB nói rằng kinh tế Lào thu hẹp 0,6% vào năm 2020, giảm mạnh so với mức tăng trưởng xuất sắc 8% mà nó đạt được trung bình từ năm 2011 đến năm 2014 và 7% trong những năm tiếp theo.

Trong khi đó thì Fitch hạ mức xếp hạng tín nhiệm của Lào xuống "CCC" từ lần hạ bậc trước đó là "B-", đánh dấu hai lần hạ bậc vào năm 2020. Còn Moody’s đã hạ xếp hạng của Lào xuống "Caa2" từ "B3", sau khi đầu năm ngoái họ đã giảm trái phiếu chính phủ thành

Các tổ chức quốc tế đều cho rằng, Lào bị lôi vào "bẫy nợ" của Trung Quốc với lượng tiền mặt lớn tài trợ cho mục tiêu xây dựng đập của Lào nhằm xuất khẩu điện sang các nước láng giềng, trên con đường trở thành "bình điện của Đông Nam Á". Hãng thẩm định tài chính Moody’s Investors Service hồi trung tuần tháng 6/2022 nhận định, Lào có nguy cơ trở thành nước Châu Á thứ hai bị vỡ nợ sau Sri Lanka.

Lào đang thiếu hụt ngoại tệ nghiêm trọng, điều khiến chính phủ nước này đang phải vật lộn để mua và nhập khẩu đủ các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là nhiên liệu. Trong một diễn biến có liên quan, tờ Vientiane Times đưa tin chính phủ Lào đang xem xét mời một công ty tư vấn quốc tế xác định giá trị tài sản nhà nước, đặc biệt là tài sản liên quan đến tài nguyên thiên nhiên để làm cơ sở thuyết phục các chủ nợ về khả năng thanh toán các khoản nợ tích lũy của nước này.

Theo kế hoạch của Bộ Tài chính Lào, công ty tư vấn sẽ được thuê định giá giá trị của các dự án khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác mỏ và thủy điện. Bên tư vấn sẽ đưa ra thông tin về giá trị hiện tại của chúng cũng như các dự báo cho tương lai.

Việc hiểu rõ hơn tiềm năng của Lào được kỳ vọng sẽ giúp các chủ nợ có thể cảm thấy tin tưởng rằng Lào sẽ không vỡ nợ và có tiềm năng lớn từ các nguồn thu từ tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là khai thác mỏ.

Phát biểu trước Quốc hội, Bộ trưởng Tài chính Lào Bounchom Ubonpaseuth mới đây cho biết nghĩa vụ thanh toán nợ hàng năm của nước này đã đăng từ 1,2 tỷ USD trong năm 2018 lên 1,4 tỷ USD vào năm 2022.

Dấu ấn kinh tế của Trung Quốc tại Lào được định hình bởi các dự án tỷ USD, bao gồm tuyến tàu cao tốc trị giá 6 tỷ USD, tập hợp các đập thủy điện lớn, đường cao tốc và nhiều đặc khu kinh tế. Cổ phần của Lào trong dự án đường sắt Côn Minh – Viêng Chăn chiếm 30% và Lào phải trả phần đầu tiên của thỏa thuận tài chính 250 triệu USD trong năm nay thông qua khoản vay lãi suất thấp từ Trung Quốc.

Lào đã đạt được các thỏa thuận tương tự để xây dựng các dự án thủy điện lớn nhỏ nhằm khai thác nguồn nước dồi dào, bao gồm các nhánh sông nhỏ của sông Mê Kông, hồ thiên nhiên lớn nhất Đông Nam Á.

Ước tính 400 dự án thủy điện đã hoàn thành hoặc đang được xây dựng hoặc được lên kế hoạch trong bối cảnh Lào tìm cách trở thành "cục pin của Đông Nam Á" bằng cách bán điện cho các nước láng giềng. Điều này tuy nhiên lại đang khiến quốc gia gần như nghèo nhất khu vực này nhanh chóng chìm vào nợ nần.

Khả năng sắp tới đây là các chủ nợ như Trung Quốc có thể phải thu hồi các khoản nợ của mình bằng cách yêu cầu kiểm soát các tài sản của Lào.

Có tin, Bộ trưởng Tài chính Lào đã đề nghị Việt Nam cử chuyên gia sang giúp Lào tháo gỡ những khó khăn về tài chính, tiền tệ ; cải cách doanh nghiệp ; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trong nước…

Nhiều khả năng Việt Nam sẽ "vào cuộc" vì còn là vấn đề của địa chính trị.

Tin tức cho biết Lào đã ký nhượng quyền quản lý, khai thác mạng lưới điện quốc gia cho một công ty Trung Quốc thời hạn 25 năm – đó là một liên doanh giữa công ty truyền tải điện Lào và công ty điện lực Phương Nam Trung Quốc (EDLT).

Trường hợp của Lào là rất hiếm hoi, hầu như không có quốc gia nào nhượng quyền kiểm soát lưới điện quốc gia cho đối tác nước ngoài, vì tính chất tối quan trọng của an ninh năng lượng liên quan mật thiết đến an ninh kinh tế.

Lào hiện nay có vị trí "địa chính trị" đặc biệt quan trọng ở Đông Nam Á, đóng vai trò là con đường tiến xuống phía Nam của Trung Quốc. Việc nắm quyền kiểm soát ngành điện ở đây giúp Bắc Kinh dễ dàng triển khai nhiều hơn các toan tính chiến lược dài hạn.

Nguyễn Nam

Nguồn : VNTB, 28/07/2022

Additional Info

  • Author Nguyễn Nam
Published in Diễn đàn

Để Việt Nam không vỡ nợ như Lào và Sri Lanka

Đinh Việt Thành, RFA, 22/06/2022

Lào sắp vỡ nợ

Lào là quốc gia nằm trong Sáng kiến Vành đai con đường (BRI) nhưng hiện nay đang lâm vào tình trạng phá sản khi giá dầu tăng cao và đồng nội tệ mất giá mạnh hiện nay khiến cho nhiều nơi thiếu hụt nhiên liệu. Tuy nhiên, điều khiến Lào lo ngại nhất là nợ quốc gia cao ngất ngưỡng, trong khi dự trữ tiền mặt đang dần cạn kiệt.

lao1

Tuyến đường sắt Cát Linh - Hà Đông do Trung Quốc đầu tư và xây dựng đang thua lỗ nặng nề - AFP

Nền kinh tế Lào với dân số 7,5 triệu người đang khủng hoảng nặng nề. Dự trữ tiền mặt ngày càng ít đi, lạm phát không ngừng gia tăng có thể khiến cho Lào trở thành quốc gia vỡ nợ tiếp theo của Châu Á sau Sri Lanka.

Phó Chủ tịch Tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế Moodys Anushka Shah cho biết : "Lào đang ở bên bờ vực vỡ nợ" (1). Ngày 14/6, Moodys đã hạ xếp hạng tín dụng của Lào xuống mức "Caa3" (chất lượng tín dụng kém và rủi ro rất cao) với lý do quản trị kém, nợ nần nghiêm trọng, hơn nữa dự trữ ngoại hối không đủ để thanh toán các khoản nợ nước ngoài đến hạn (2).

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), tính đến tháng 12/2021, dự trữ ngoại hối của Lào đạt 1,48 tỷ USD (3), nhưng đến năm 2025, tổng nợ nước ngoài Lào phải trả hàng năm đã xấp xỉ con số này, nghĩa là khoảng 1/2 tổng thu nhập quốc nội (4).

Trong một năm qua, giá đồng kip của Lào giảm 36% so với USD. Bên cạnh đó, Lào cũng đang đối diện với tình hình lạm phát cao từ năm 2014 đến nay, chạm mức 13% vào tháng trước. Đây là một đòn giáng mạnh đối với quốc gia có hơn 1/3 dân số sống dưới mức trung bình thấp. Một số chuyên gia nhấn mạnh, thâm hụt tài khoản vãng lai nhiều năm đồng nghĩa với việc Lào thiếu USD để thanh toán hàng hóa nhập khẩu.

Do đồng nội tệ liên tục mất giá, nên Lào không thể nhập khẩu nhiên liệu đầy đủ, nguồn cung thiếu hụt nghiêm trọng, người dân xếp hàng dài chờ đợi ở các trạm xăng. Truyền thông địa phương cho biết, mỗi tháng Lào cần 120 triệu lít nhiên liệu mới có thể đáp ứng nhu cầu trong nước, nhưng số lượng nhập khẩu thực tế chưa đến một nửa so với nhu cầu.

Năm 2021, nợ công của Lào đạt 14,5 tỷ USD, trong đó khoảng 1/2 là do Trung Quốc nắm giữ. Ngay từ năm 2019, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cảnh báo, nợ công của Lào cao, rủi ro vỡ nợ rất lớn.

lao2

Ảnh chụp màn hình TV hôm 16/10/2021 cho thấy toàn cảnh bên ngoài nhà ga xe lửa ở Vientiane, Lào, nơi Trun gQuocos đầu tư xây dựng tuyến đường sắt trị giá sáu tỷ đô la. AFP

Câu chuyện vỡ nợ của Sri Lanka

Lào không phải là quốc gia duy nhất trong BRI rơi vào khủng hoảng kinh tế như vậy. Cách đây không lâu, Sri Lanka - một quốc gia Nam Á cũng nằm trong BRI đã bị mắc kẹt trong cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ khi độc lập. Quốc đảo này đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng các mặt hàng quan trọng, cũng như tình trạng thiếu trầm trọng lực lượng tuần tra, thuốc men và dự trữ ngoại hối trong bối cảnh khủng hoảng cán cân thanh toán diễn ra nghiêm trọng. 

Khủng hoảng tài chính dẫn đến sự phẫn nộ của công chúng và các cuộc biểu tình bạo lực chống lại chính phủ cầm quyền, buộc Thủ tướng Mahinda Rajapaksa và Nội các phải từ chức và một Thủ tướng mới được bổ nhiệm. 

Sự hỗn loạn kinh tế của Sri Lanka không phải là một tai nạn đơn thuần mà là kết quả của một loạt các chính sách kinh tế sai lầm của chính phủ. Tình trạng bất ổn do cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra ở Sri Lanka hiện đã dẫn đến việc áp đặt tình trạng khẩn cấp chính trị đối với hòn đảo này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng này và trong những năm gần đây, Trung Quốc thường xuyên bị chỉ trích là phải chịu trách nhiệm một phần cho khoản nợ nước ngoài ngày càng lớn của Sri Lanka, cũng như hành vi lợi dụng sau đó như hợp đồng thuê cảng Hambantota trong 99 năm và hàng nghìn hecta đất nông nghiệp xung quanh cảng. Trong thập kỷ qua, chính phủ Sri Lanka thực hiện rất nhiều dự án lớn không cần thiết như cảng biển Hambantota, sân bay quốc tế Rajapakse, thành phố Colombo của Trung Quốc và một số đường cao tốc bất khả thi được các nhà phê bình gọi là dự án "voi trắng". 

Trong khi hầu hết các dự án này không mang lại lợi nhuận, chúng đã được thực hiện bằng các khoản vay lãi suất cao từ Trung Quốc. Chính phủ cũng thu về 9 tỷ USD từ thị trường quốc tế để đổi lấy trái phiếu nợ có bản chất ngắn hạn và đi kèm với lãi suất cao hơn gần 8%. Kết quả là tổng nợ nước ngoài của đảo quốc này lên tới 51 tỷ USD, trong khi Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chỉ là 80 tỷ USD. Do đó, Sri Lanka không trả được khoản vay trị giá gần 8 tỷ USD và buộc phải tuyên bố phá sản (5)

Năm 2021, tổ chức nghiên cứu AidData thuộc Đại học William & Mary (Mỹ), Trung tâm phát triển toàn cầu (CGD), Viện kinh tế thế giới Kiel và Viện kinh tế quốc tế Peterson đã công bố một báo cáo nhấn mạnh, giai đoạn 1999-2020, chính phủ và doanh nghiệp Trung Quốc đã ký 100 hợp đồng ở 24 quốc gia đang phát triển ở Châu Phi, Châu Á, Đông Âu…, bao gồm các điều khoản bảo mật vô cùng rộng rãi, khiến các nước vay nợ không thể tiết lộ sự tồn tại của khoản vay, khó nhận được các khoản vay và viện trợ cả các nước khác, làm cho những nước này ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc (6).

Cơ chế hợp tác không minh bạch này cũng trở thành tiêu điểm để các giới bên ngoài công kích BRI. Michael Bennon, chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế Freeman Spogli, Đại học Stanford và nhà kinh tế chính trị nổi tiếng gốc Nhật Bản Francis Fukuyama đã đăng bài viết "Bình luận chính sách kinh tế của Oxford" trên tạp chí kinh tế (The Economic Journal), liệt kê chín trường hợp tranh chấp hoặc đàm phán lại về BRI ở Montenegro, Sri Lanka, Pakistan…, nhấn mạnh rủi ro đạo đức mà Trung Quốc đối diện trên thực tế là sau khi hoàn công các dự án cơ sở hạ tầng, các nước vay nợ lấy lý do không có khả năng thanh toán để yêu cầu đàm phán lại (7). 

Việt Nam học được gì ?

Câu chuyện vỡ nợ của Lào và Sri Lanka đã cho thấy những mặt trái trong các dự án đầu tư khổng lồ trong BRI của Trung Quốc. Tại Việt Nam, mấy ngày gần đây, báo chí cho biết đường sắt Cát Linh - Hà Đông, sau hàng chục năm xây dựng kéo dài, tháng 11/2021 đã đi vào hoạt động. Nhưng cho đến nay, dự án đường sắt này vẫn đang lỗ vốn nặng nề (8). Điều này chứng tỏ dự án này không có hiệu quả kinh tế.

Ngoài dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông ra, còn rất nhiều dự án với Trung Quốc có thể nằm trong BRI nhưng không được Chính phủ Việt Nam công khai thông tin. Nghĩa là có rất nhiều khoản nợ "kín" của phía Việt Nam đối với các doanh nghiệp và chính phủ Trung Quốc.

Những bài học sai lầm của Lào và Sri Lanka đã cho thấy những nguy cơ khi điều hành chính phủ mà vướng vào những khoản nợ với Trung Quốc, mà công chúng không hề nắm được thông tin, do chính phủ không minh bạch các thông tin đầu tư này.

Mặc dù Chính phủ Việt Nam luôn khẳng định nợ công của Việt Nam vẫn trong phạm vi an toàn, báo cáo hồi đầu năm của Ngân hàng thế giới cho biết nợ công của Việt Nam năm 2020 chiếm 56,9 % GDP, đây cũng là mức gần tới mức báo động đỏ.

Báo chí Việt Nam từ năm 2017 cho biết : "Theo số liệu thống kê từ Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam đưa ra hồi năm 2014, trong tổng số 62 dự án xi măng của Việt Nam triển khai theo hình thức BOT, có tới 49 dự án do Trung Quốc làm tổng thầu. Tương tự, có tới 16/27 dự án BOT nhiệt điện do các công ty của Trung Quốc làm tổng thầu. Trong khi đó, hầu hết dự án đều chậm tiến độ từ vài tháng cho tới vài ba năm và chất lượng thiết bị không đồng đều. Số liệu của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội cũng cho biết tính đến năm 2010, có đến 90% các dự án tổng thầu EPC của Việt Nam do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm. Trong đó, chủ yếu là dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim, đáng chú ý, có tới 30 dự án trọng điểm quốc gia, với giá trị hàng tỷ USD".

Tuy nhiên, cho đến nay, số phận các dự án do Trung Quốc đầu tư này ra sao thì cũng không thấy ai nhắc tới.

Điều đáng chú ý là một trong các điều kiện để nhận vốn vay của Trung Quốc theo chương trình BRI, các nước phải chấp nhận thuê các tổng thầu là công ty nhà nước Trung Quốc, thậm chí chấp nhận đưa các công nhân Trung Quốc vào làm việc.

Tính đến tháng 11/2020, Trung Quốc đầu tư tổng cộng 18 tỷ USD vào Việt Nam với khoảng 3.087 dự án. FDI của Trung Quốc có mặt tại hầu hết các tỉnh, thành Việt Nam nhưng chủ yếu tập trung tại các tỉnh biên giới có khu kinh tế cửa khẩu, ven biển, các thành phố đông dân, có sức thu hút lao động mạnh, có cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi cho xuất, nhập khẩu hàng hóa cũng như đi lại giữa hai nước. Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu thị trường, số vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam còn lớn hơn nhiều lần số liệu thống kê, lý do là các nhà đầu tư Trung Quốc và nguồn vốn đầu tư liên doanh liên kết, góp vốn (bằng tiền hoặc công nghệ, máy móc…) ở trong các doanh nghiệp Việt Nam trong đủ mọi lĩnh vực là rất nhiều. Tuy nhiên, tất cả những thông tin chi tiết đều không được công khai để người dân biết.

Hàng loạt các vụ bắt bớ các nhân vật cao cấp trong hệ thống chính trị Việt Nam thời gian vừa qua đã cho thấy tham nhũng trong bộ máy của đất nước này đến cỡ nào. Và trong các vụ án tham nhũng tày trời đó, có bao nhiêu liên quan đến Trung Quốc ? Nếu không có giải pháp hữu hiệu và minh bạch các thông tin về các dự án đầu tư từ Trung Quốc, thì ngày Việt Nam nối gót Lào và Sri Lanka là không còn xa.

Đinh Việt Thành

Nguồn : RFA, 22/06/2022

Tham khảo :

1. https://www.bloomberg.com/news/articles/2022-06-14/looming-debt-crunch-positions-laos-as-next-possible-asia-default

2. https://www.moodys.com/page/analystresearch.aspx?bn=Anushka+Shah&bns=2020615

3. https://data.worldbank.org/indicator/FI.RES.TOTL.CD?locations=LA

4. https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2022/05/12/lao-pdr-economic-recovery-challenged-by-debt-and-rising-prices

5. https://fortune.com/2022/04/09/sri-lanka-debt-crisis-inflation-rajapaksa-protest-imf-ukraine/

6. https://www.aiddata.org/data/how-china-lends-dataset-version-1-0

7. https://academic.oup.com/oxrep/article-abstract/38/2/278/6588214 ?login=false

8. https://laodong.vn/xa-hoi/duong-sat-cat-linh-ha-dong-lo-luy-ke-160-ti-dong-1057785.ldo

************************

Nước cộng sản Lào khủng hoảng, báo chí Việt tránh đưa tin

RFA, 23/06/2022

Lào đang trải qua một cuộc khủng hoảng kép trầm trọng, quốc gia cộng sản này vừa phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhiên liệu, vừa không đủ dự trữ ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa.

lao3

Hàng dài xe máy xếp hàng chờ đổ xăng ở một cây xăng ở Lào hôm 10/5/2022 - AFP

Tình trạng ở đất nước Triệu voi tệ đến mức đã có những cảnh báo về việc nền kinh tế ở đây đang trên bờ vực của sự sụp đổ.

Dù báo chí khu vực và quốc tế đã theo dõi và đưa tin về những gì đang diễn ra ở Lào hàng tháng qua, tuy nhiên đến bây giờ, các tờ báo lớn ở Việt Nam vẫn im bặt về tình hình ở quốc gia vốn được gọi là anh em, đồng chí.

Đơn cử, trên báo VnExpress, tờ báo điện tử được cho là có nhiều người đọc nhất ở Việt Nam, không một mẩu thông tin nào về cuộc khủng hoảng ở Lào được tìm thấy.

Hoặc báo Tuổi Trẻ, một tờ báo lớn khác ở Việt Nam, chỉ vọn vẹn hai bản tin về tình trạng thiếu hụt nhiên liệu ở Lào được đăng tải.

Báo chí ở Việt Nam bị kiểm soát nghiêm ngặt bởi bộ máy kiểm duyệt của Đảng cộng sản, nơi mà các tờ báo phải họp với cơ quan Nhà nước mỗi thứ hai hàng tuần để nhận chỉ đạo về việc đưa tin. Điều này dấy lên nghi vấn về việc chính quyền Việt Nam cố tình ém nhẹm tin tức tiêu cực ở nước cộng sản đồng minh.

Trao đổi với Đài Á Châu Tự do, Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia nghiên cứu quan hệ quốc tế khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, cho biết có hai lý do để phía Việt Nam tránh đưa tin về tình trạng ở quốc gia láng giềng.

Lý do thứ nhất mà vị giáo sư người Úc đưa ra đó là vì chính quyền Việt Nam không muốn tạo điều kiện cho một cuộc thảo luận về nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng ở Lào, vì như vậy sẽ khó tránh khỏi việc quy trách nhiệm cho Nga :

"Họ không muốn cuộc chiến ở Ukraine được nhắc đến. Nếu cho phép báo chí mổ xẻ vấn đề ở Lào thì đương nhiên câu hỏi được đề cập sẽ là tại sao tự dưng Lào lại gặp vấn đề ? Tại sao nó lại xảy ra lúc này ?

Lào là một ví dụ điển hình của tình trạng các nước kém phát triển trên toàn thế giới bị tác động nặng nề qua nhiều hình thức khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp, bởi sự gián đoạn của chuỗi cung ứng toàn cầu, trong đó có nhiên liệu và thực phẩm.

Rõ ràng là phải có một động cơ đằng sau việc ngăn chặn các cuộc thảo luận về nguyên do của cuộc khủng hoảng tại Lào, bởi vì Nga là nước mà Việt Nam không muốn chọc giận lúc này".

Ở điểm này, hôm 21 tháng 6, ông Nguyễn Đức Lợi, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam trong cuộc trả lời phỏng vấn với tờ Vietnamplus đã trực tiếp thừa nhận rằng báo chí Việt Nam bị định hướng bởi Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin-Truyền thông, và Hội Nhà báo Việt Nam trong việc đưa tin về cuộc chiến tranh Nga-Ukraine, để theo ông này là "phản ánh đúng quan điểm của Nhà nước Việt Nam".

Còn nguyên do thứ hai của việc chính quyền giới hạn việc đưa tin về cuộc khủng hoảng ở Lào, theo giáo sư Thayer là vì Đảng cộng sản Việt Nam không muốn cho người dân biết về sự thất bại ở một quốc gia cộng sản khác.

"Khi cho phép đưa tin thì một vấn đề khác sẽ nảy sinh đó là liệu có muốn chỉ ra sự thất bại của chính phủ Lào không ? Nếu vậy thì có nghĩa là một chế độ cộng sản hoàn toàn có thể mắc sai lầm.

Cũng giống như người Công giáo tin rằng Giáo hoàng thì không thể mắc sai lầm, người cộng sản cũng vậy, họ cho rằng chủ nghĩa cộng sản không thể sai.

Cho nên tôi cho rằng lý do thứ hai chính là vì phía Việt Nam không muốn đề cập đến sự thất bại của chính quyền Lào".

Vị giáo sư đại học về hưu cũng cho rằng Việt Nam sẽ phải hỗ trợ Lào vượt qua cuộc khủng hoảng này, và đến lúc đó, báo chí sẽ được sử dụng để ca ngợi sự tương trợ mà Đảng và Nhà nước Việt Nam trao cho đồng chí của mình.

Additional Info

  • Author Đinh Việt Thành, RFA tiếng Việt
Published in Diễn đàn