Trong những bài trước, căn cứ vào tài liệu của cả hai phía, chúng tôi đã ghi lại tên tuổi của những tên sát thủ chính trong Tết Mậu Thân ở Huế, những tên chỉ đạo cũng như những tên thực hiện. Trong danh sách này có hai tên hung bạo nhất là Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh. Báo chí trong nước nói rất ít về tông tích của hai tên này, có lẽ vì những sự tàn ác của hai tên này quá ghê rợn và quá rõ ràng, nên phải giấu kín để tránh phản ứng của dân chúng, nhất là của gia đình các nạn nhân.
Dân Huế gọi Hoàng Phủ Ngọc Phan (và Nguyễn Thị Đoan Trinh) là ác quỷ.
"Sau khi giết 3 người này, Phan bắn chết luôn ông nội của bà là cụ Nguyễn Tín (70 tuổi). Sau đó, Phan bắt Lê Tuấn Văn, một sinh viên Văn khoa, đào huyệt tại vườn sau nhà cụ Tín để chôn 4 người trên rồi bắn Lê Tuấn Văn luôn.
"Súng nổ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ đội Bắc Việt khắp nơi. Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn Thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết… Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…".
Trên đây là một đoạn nói về những tội ác mà hai tay sát thủ Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh đã gây ra trong Tết Mậu Thân ở Huế do bà Nguyễn Thị Thái Hòa, một nạn nhân kể lại. Dân Huế gọi hai tên này là hai ác quỷ.
Sát thủ Hoàng Phủ Ngọc Phan
Hoàng Phủ Ngọc Phan, em ruột của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh năm 1939 tại Huế, nhưng quê ở làng Bích Khê, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, cùng quê với nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. Bố của Tường và Phan làm y tá ở bệnh viện tỉnh Quảng Trị, sau về làm ở bệnh viện Huế, cư ngụ trong cư xá công chức ở đường Mai Thúc Loan, trong Thành Nội, gần trường Bồ Đề.
Khi Giáo hội Phật giáo Ấn Quang phát động chiến dịch gây bạo loạn để cướp chính quyền ở Huế và Đà Nẵng năm 1966, Phan đang là sinh viên y khoa năm thứ 2 Đại học Y khoa Huế, đã tham gia vào "Đoàn sinh viên quyết tử" do Nguyễn Đắc Xuân làm Đoàn trưởng. Đây là một tổ chức ngoại vi của "Đoàn sinh viên Phật tử Huế". Đoàn sinh viên Phật tử Huế lúc đầu do Hoàng Văn Giàu làm Trưởng đoàn, sau đó là Vĩnh Kha, còn Thái Thị Kim Lan làm Phó. Đám này gồm có các tên chủ yếu sau đây : Trần Quang Long, Nguyễn Thiết, Nguyễn Hữu Châu Phan, Phan Chánh Dinh, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Tấn Hùng, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Thị Kim Lan, Hoàng Thị Thọ, Phạm thị Xuân Quế, Bửu Chỉ…
Trong tập hồi kỳ "Năm tháng dâng người", Lê Công Cơ, một đảng viên Đảng cộng sản có tham dự vào Đoàn sinh viên quyết tử đã cho biết như sau :
"Trước thời cơ ngàn năm có một, thông qua sự chỉ đạo của Thành ủy… Đoàn sinh viên quyết tử Huế ra đời với quân số trên 500, được chia làm 4 đại đội và do anh Xuân làm tiểu đoàn trưởng. Sinh viên quyết tử được trang bị các vũ khí tự tạo và một số súng, lựu đạn do binh lính tại Huế cung cấp. Đoàn sinh viên quyết tử, với những chàng thư sinh ngày nào, giờ mặc những bộ đồ ka-ki, đội mũ tai bèo diễu hành qua các phố "thề bảo vệ Huế đến cùng" đã tiếp thêm sức mạnh cho người Huế trong cơn dầu sôi, lửa bỏng".
(Năm tháng dâng người, tr.293-294)
Nguyễn Đắc Xuân có đính chính rằng đoàn "đội mũ lưỡi trai (theo kiểu Mỹ)" chứ không phải "đội mũ tai bèo" !
Nhưng cuộc nổi loạn thất bại, nhóm Đoàn sinh viên quyết tử một số bị bắt, một số được Hoàng Kim Loan đưa vào chiến khu theo Việt Cộng, một số chạy vào Sài Gòn ẩn nấp tại 3 nơi : Trung tâm Quảng Đức của Thích Thiện Minh ở số 294 đường Công Lý, chùa Pháp Hội ở số 702/105 đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) Quận 10 và cư xá Viện Đại học Vạn Hạnh, nhưng Trung tâm Quảng Đức của Thích Thiện Minh là nơi tập trung đông nhất.
Trong hồi ký trên, Lê Công Cơ cũng tiết lộ rằng khi phong trào bị đàn áp, chính Cơ đã viết thơ cho Thành ủy xin đưa Tường, Phan và Xuân ra hậu cứ. Trong bài "Kỷ yếu về Hòa thượng Thiện Siêu" Nguyễn Đắc Xuân cho biết Xuân đã mượn áo cà sa mặc vào giả làm ni cô, được Phạm Văn Rơ và Cao Hữu Điền hộ tống lên chùa Từ Đàm, sau đó qua chùa Kim Tiên rồi chùa Tường Vân, nhưng : "Không ngờ chùa Tường Vân nằm trong địa bàn lõm của Thành ủy Huế". Đến đầu tháng 7/1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường từ Thành ủy Huế trên chiến khu gởi thư rủ Xuân ra chiến khu, chờ tình hình yên rồi trở lại. Xuân đã mặc áo cà sa ra đi hôm 10/7/1966… Những tiết lộ này cho thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đi theo Việt Cộng trước biến cố 1966.
Khi giới thiệu tác phẩm "Dưới ánh hỏa châu" của Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nhà xuất bản Trẻ ở Đà Nẵng viết rằng "Phan nguyên là sinh viên tranh đấu ở Huế thoát ly kháng chiến. Từ Miền Trung trôi dạt vào Sài Gòn, về vùng kháng chiến Miền Đông, Miền Tây Nam Bộ, lên R, sang chiến trường Campuchia…".
Hoàng Phủ Ngục Phan đã cùng với Trần Triệu Luật từ Sài Gòn đi vào chiến khu chứ không phải từ Huế, còn Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đi từ Huế.
Trong biến cố Tết Mậu Thân, Phan đã trở lại Huế cùng với Nguyễn Thị Đoan Trinh và bộ đội cộng sản, đi tìm bắt hoặc giết các nhân viên chính quyền, quân đội, cảnh sát và những thành phần bị coi là chống cộng trong thành phố Huế.
Sau 30/4/1975 Phan đã trở lại Huế và làm "nhà văn" với bút hiệu là Hoàng Thiếu Phủ hay Ngọc Phang Lang. Trong tác phẩm "Dưới ánh hỏa châu", Phan không hề nói gì đến chuyện Phan làm mưa làm gió ở Huế trong suốt 22 ngày trong Tết Mậu Thân mà chỉ cho biết "Khoảng trưa hôm ấy, đoàn công tác chúng tôi được lệnh tập kết ở khu vực Đại Nội để chờ đến tối sẽ rút ra khỏi thành phố" và Phan thấy ở đâu đều chật ních đồng bào lánh nạn.
Ma nữ Nguyễn Thị Đoan Trinh
Nguyễn Thị Đoan Trinh sinh năm 1949 tại Huế. Đoan Trinh có nghĩa là ngay ngắn và thủy chung, nhưng những gì mụ ta đã làm lại rất ghê rợn, dân Huế thường gọi mụ ta là Ác phụ hay Ma nữ. Chúng tôi phải nói qua gia đình của Đoan Trinh để đọc giả có thể hiểu tại sao đất kinh thành Huế theo Phật giáo thuần thành, phủ đầy chùa chiến mà lại sinh ra một con ác quỷ như vậy.
Nguyễn Thị Đoan Trinh là con của Nguyễn Văn Đóa, nhưng thường được gọi là Nguyễn Đóa, một đảng viên đảng cộng sản. Lúc đầu Đóa là giáo viên tiểu học, rồi làm giám thị trường Khải Định, khi về hưu dạy Pháp văn ở trường Bồ Đề Thành Nội.
Trường Bồ Đề Thành Nội được Hội Tăng Già Trung Việt thành lập năm 1953 ở số 35 đường Đặng Dung, phường Thuận Thành, Huế, rất gần với nhà Đóa. Ông Lê Mộng Đào là hiệu trưởng đầu tiên và các giáo viên đều là Phật tử như Võ Đình Cường, Nguyễn Đóa, Nguyễn Hữu Ba, Cao Xuân Lữ, Tôn Thất Dương Tiềm, Cao Cự Phúc, Lê Quang Vịnh… Nhưng đây là một ổ hoạt động trí vận của cộng sản. Những đảng viên nổi tiếng đều có mặt ở đây như Võ Đình Cường, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm (rể của ông Đóa)…
Võ Đình Cường, người được Việt Cộng gọi là "cây đại thụ của Gia đình Phật tử Việt Nam" sinh năm 1917 tại Huế, vào Đảng cộng sản Việt Nam năm 1943, từng giữ chức Ủy viên Tuyên vận của Tỉnh ủy Thừa Thiên, bị bắt rất nhiều lần, nhưng mỗi lần Cường bị bắt, Thích Trí Quang đều can thiệp, cơ quan an ninh phải thả ra, vì Cường vừa là Huynh trưởng Gia đình Phật tử, vừa là người chỉ đạo và "cầm tròng" Thích Trí Quang (chúng tôi đã chứng minh nhiều lần).
Nguyễn Đóa gốc Quảng Nam, có bốn người con, hai trai và hai gái, người con trai đầu tên là Nguyễn Bồng, năm nay cũng phải 85 tuổi, hiện đang ở Kim Long. Anh này không theo cộng sản. Đoan Trinh là con út. Cả gia đình đều đã quy y và được gọi là "Phật tử thuần thành" vì thế người ta thường gọi Nguyễn Đóa với danh xưng "Đạo hữu Nguyễn Đóa".
Tôn Thất Dương Tiềm, rể của Nguyễn Đóa, người thấp lùn, là một cán bộ nội thành và cũng như Võ Đình Cường, đã hoạt động cho cộng sản từ trước 1954, y cũng dạy ở trường Bồ Đề. Tiềm là anh em con chú con bác với Tôn Thất Dương Kỵ. Kỵ hoạt động cho cộng sản đã bị chính phủ Phan Huy Quát trục xuất ra Bắc ngày 19/5/1965 qua ngả cầu Hiền Lương cùng với bác sĩ Phạm Văn Huyền và ký giả Cao Minh Chiến.
Nhà Nguyễn Đóa ở kiệt 2 đường Âm Hồn trong thành nội Huế, gần trường Bồ Đề. Nguyễn Đắc Xuân kể lại : "Nhân một buổi trưa vắng tiếng súng, tôi theo chân cô Đoan Trinh - con cụ Nguyễn Đóa về nhà cô ở đầu kiệt 2 đường Âm Hồn xin nước giếng tắm. Tôi mới vào phòng tắm, vừa cởi cái tay nải ra khỏi thắc lưng treo lên cửa thì pháo Mỹ rót ầm ầm xuống khu vực chúng tôi đang có mặt. Nhà cụ Đóa sập, một vài bộ đội tự vệ đang trú trong nhà chết và bị thương nặng".
Sau 30/4/1975, ông Đóa trở về và được cấp một căn nhà khác cũng trên đường Âm Hồn, nay đổi là 22 Lê Thánh Tôn (khúc đường Tống Duy Tân), Phường Thuận Thành, Huế. Sau khi ông Đóa chết, Đoan Trinh đã bán căn nhà này và vào ở Sài Gòn.
Trước Tết Mậu Thân, Nguyễn Thị Đoan Trinh đang học dược tại Sài Gòn, được Nguyễn Đóa gọi về và dặn dò phải thể hiện tinh thần "Bi, Trí, Dũng" như thế nào khi Cộng quân chiếm Huế, rồi đi vào chiến khu. Ông Nguyễn Thúc Tuân, một cán bộ cao cấp được Việt Cộng giao cho theo dõi các hoạt động của Hòa thượng Đôn Hậu ở chùa Thiên Mụ, đã kể lại như sau :
"Tối mồng 4 Tết Mậu Thân, tôi cùng đi với bà Nguyễn Đình Chi (tên thật là Đào Thị Xuân Yến), cụ Nguyễn Văn Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm (3 người) lên chiến khu cách thành phố Huế độ 4 km. Tối ấy ở lại một đêm, ngày sau lên chiến khu gặp giáo sư Lê Văn Hảo đã lên trước ngày 30 tháng Chạp, gặp cụ Đôn Hậu cũng đã lên trước vài ngày, từ Văn Xá đi lên độ 3 km đường chim bay. Chúng tôi giờ đây gồm 6 người : bà Nguyễn Đình Chi, ông Nguyễn văn Đóa, ông Tôn thất dương Tiềm, giáo sư Lê văn Hảo, cụ Đôn Hậu và tôi. Chúng tôi lên gặp ông Hoàng Phương Thảo, chủ tịch thành phố Huế. Ông này lo toàn bộ. Ở tại chiến khu Huế 15 ngày".
Sau khi thất bại ở Huế, những người trên đã được Việt Cộng đưa ra Bắc. Thích Đôn Hậu, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm và bà Nguyễn Đình Chi đã đến gặp Hồ Chí Minh ba lần. Ngày 8/6/1969, khi "Chính phủ Cách mạng lâm thời" được thành lập, Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, Nguyễn Đóa làm Phó chủ tịch, còn Thích Đôn Hậu làm Ủy viên Hội đồng cố vấn.
Vì bố là "Đạo hữu Nguyễn Đóa" được Đảng trọng dụng như thế, nên con gái là Đoan Trinh phải thực thi tinh thần "Bi – Trí – Dũng" một cách "kiên cường" khi Cộng quân chiếm Huế. Nguyễn Đắc Xuân xác nhận : "Đoan Trinh là con gái út của cụ (Nguyễn Đóa), hoạt động trong đội thanh niên công tác của tôi". Đoan Trinh mặc bộ đồ màu hồng, đi xe Honda, vai đeo AK-47, lưng mang súng lục K-54, cùng với Hoàng Phủ Ngọc Phan "lục soát mọi nơi tìm bắt ngụy quân/quyền. Bất kỳ ai, khi hỏi giấy tờ, thị phát hiện là quân nhân hay cảnh sát ngụy thì thị nổ súng bắn chết ngay, không cần hỏi câu thứ 2". Chuyện dài của Đoan Trinh và Hoàng Phủ Ngọc Phan sẽ được nói sau.
Sau khi Cộng quân rút khỏi Huế, Đoan Trinh đi theo và ra Hà Nội tiếp tục học ngành dược. Sau 30/4/1975 y thị đã trở lại Huế. Khi ông Đóa qua đời, y thị vào Sài Gòn, được cấp giấy phép số 2433 ngày 18/5/2011, mở tiệm thuốc tây lấy hiệu là HỮU THIỆN (!) ở địa chỉ G15/28G đường Ấp 7, Phường Lê Minh Xuân, quận Bình Chánh, Sài Gòn. Đường Ấp 7 nay đã được đổi thành Láng Le Bàu Cò, nên địa chỉ hiện nay là Nhà thuốc HỮU THIỆN, G15/28G Láng Lê Bàu Cò, Phường Lê Minh Xuân, quận Bình Chánh, điện thoại 84 91 249 48 09. Bị nhiều người đến tại tiệm hay gọi điện thoại "hỏi thăm sức khỏe", Nguyễn Thị Đoan Trinh phải về Huế trốn.
Khi hai sát thủ ra tay
Bà Nguyễn Thị Thái Hòa, năm 1968 là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế và đang thực tập tại Bệnh viện Trung ương Huế khi biến cố Mậu Thân xảy ra ở Huế. Gia đình bà ở đường Hàm Nghi, Huế. Bà vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng vụ Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh đánh lừa để giết 4 người thân trong gia đình bà, đó là 3 anh em ruột của bà mà Phan quen biết khi học ở Huế : Nguyễn Xuân Kính (sinh 1942, sinh viên Y khoa), Nguyễn Xuân Lộc (sinh 1946, sinh viên Luật) và Nguyễn Thanh Hải (sinh 1949, sinh viên Văn khoa). Sau khi giết 3 người này, Phan bắn chết luôn ông nội của bà là cụ Nguyễn Tín (70 tuổi). Sau đó, Phan bắt Lê Tuấn Văn, một sinh viên Văn khoa, đào huyệt tại vườn sau nhà cụ Tín để chôn 4 người trên rồi bắn Lê Tuấn Văn luôn.
Hoàng Phủ Ngọc Phan và nữ cán bộ có tên là nhà thơ Đông Hà
Khi các cơ quan truyền thông hải ngoại phổ biến rộng rãi lời tố cáo của bà Nguyễn Thị Thái Hòa về những chuyện gian ác mà Phan và Trinh đã làm, Phan đã mượn tờ Tạp Chí Sông Hương ở Huế, do Hoàng Phủ Ngọc Tường làm Tổng biên tập, và một nữ cán bộ có tên là thi sĩ Đông Hà làm cò mồi để giải thích bâng quơ : "Đó là luận điệu tuyên truyền vu khống của kẻ địch". Khi được hỏi tại sao không phản biện, Phan nói : "Thường thì tôi không có hứng thú tranh luận trên những trang web lá cải của những người chống cộng cực đoan… Gia đình tôi vốn theo đạo Phật. Cả anh Tường và tôi đều có pháp danh và có phái quy y với bổn sư Thích Đôn Hậu. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, buộc lòng tôi đã phải lên tiếng vạch trần những chỗ trật lất và láo toét…"Nhưng Phan chỉ cho rằng trong Tết Mậu Thân, Tường không có mặt ở Huế, chứ không hề đả động gì đến chuyện bà Thái Hòa đã tố cáo. Đó là kiểu "vạch trần" của Phan !
Bà Nguyễn Thị Thái Hòa hiện đang ở hải ngoại. Câu chuyện bà kể khá dài, xin đọc giả vào Google để đọc nguyên bản.
Đức Thế Tôn dạy : "Không làm điều ác. Siêng làm điều thiện. Tự thanh tịnh tâm ý" Nhưng một số "con Phật" đã làm ngược lại : "Làm điều ác. Không làm điều thiện. Tự ác động tâm ý". Ác nghiệp tất phải đến.
Ngày 1/3/2018
Lữ Giang
Trong bài trước chúng tôi đã trình bày rõ kế hoạch tàn sát ở Huế trong Tết Mâu Thân đã được Đảng cộng sản Việt Nam hoạnh định rất kỹ càng như thế nào, lý do tại sao phải tàn sát cũng như tên tuổi các sát thủ chính đã được trao cho chỉ đạo hay thực hiện công tác này.
Khu vực phía sau Chùa Ấn Quang, nơi đặt bản doanh của bộ chỉ huy lực lượng quân cộng sản đột nhập vào Sài Gòn trong trận Tết Mậu Thân ngày 05/02/1968, bị dội bom thành bình địa - AP Photo/Johner
Trong bài này chúng tôi sẽ đề cập đến con đường nghiệt ngã mà Giáo hội Phật giáo Ấn Quang phải lựa chọn và bị cả CIA lẫn Cộng sản dồn vào đường cùng. Đây là một kinh nhiệm đau thương cho cả Phật giáo lẫn dân tộc do một số tăng sĩ và Phật tử có tinh thần tôn giáo cực đoan gây ra.
Khi tham vọng tới đỉnh cao
Sau khi ông Diệm bị giết, một số các nhà lãnh đạo Phật giáo tưởng rằng thời vận của Phật giáo đã đến, nên đã phát động một phong trào đấu tranh bạo động để cướp chính quyền và hình thành một chính phủ do Phật giáo lãnh đạo, trong đó Phật giáo là quốc giáo và các tăng sĩ là quốc sư, giống như dưới thời Lý Trần. Phong trào này đã lên tới cao điểm vào năm 1966 khi Phật giáo đã cướp được chính quyền tại Đà Nẵng và Huế. Nhưng thực tế đã không dễ dàng như vậy.
Cảnh Đại đức Thích Chơn Ngữ (Huỳnh Văn Hải) tưới xăng vào người Thượng tọa Thích Quảng Đức
Phong trào Phật giáo tuy được trang bị bằng lòng cuồng tín tôn giáo cao độ, nhưng lại thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo và thiếu kinh nghiệm… nên trước hết đã trúng kế của CIA !
Thượng tọa Thích Quảng Đức bị thiêu sống
Đọc lại các tài liệu ghi lại các biến loạn (trong đó có Bạch Thư của Hòa thượng Tâm Châu) do các phong trào Phật giáo gây ra lúc đó ở Sài Gòn, Đà Nẵng và Huế, ai cũng thấy kinh hoàng. Đợi khi sự cuồng tín tôn giáo lên đến cao độ và đưa tới biến loạn, và khi các đặc công cộng sản nằm vùng ẩn nấp trong các chùa xuất đầu lộ diện - dưới danh nghĩa "Lực lượng Thanh niên Phật tử Cứu quốc" và "Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử" - Mỹ mới bật đèn xanh cho hai tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan dẹp tan.
Thượng tọa Thích Trí Quang (trái) trong một cuộc biểu tình ngồi tại Sài Gòn năm 1966 - Ảnh internet
Ngày 20/5/1966, từ Huế, Thượng tọa Thích Trí Quang lên tiếng kêu gọi Tổng thống Johnson can thiệp và đòi tướng Kỳ phải từ chức ngay lập tức. "Lực lượng Tranh thủ Cách mạng" yêu cầu Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ra tay, nếu không họ sẽ phá phi trường Đà Nẵng. "Quân đoàn Cách mạng Vạn Hạnh" đã được thành lập do Thích Minh Chiếu làm Tư lệnh và đặt Tổng hành dinh tại chùa Phổ Đà ở số 340 đường Phan Châu Trinh Đà Nẵng. Nơi đây đã trở thành nhà tù giam giữ, tra tấn và thủ tiêu những viên chức chính quyền, quân đội, công giáo, Việt Nam Quốc Dân Đảng… không theo "Cách Mạng". Trưa 26/5/1966 đoàn biểu tình đã đốt cơ quan USIS, Phòng Thông tin và Thư viện Hoa Kỳ tại Huế, tiêu hủy khoảng 5.000 quyển sách. Ngày 1/6/1966, cuộc biểu tình đập phá Tòa Lãnh sự Mỹ tại Huế. Họ rãi truyền đơn đòi đưa Thích Trí Quang lên làm quốc trưởng và Trần Quang Thuận làm thủ tướng. Nhưng Tổng thống Johnson tuyên bố sẽ ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và yêu cần chính phủ và các tổ chức đấu tranh chấm dứt các cuộc xô xát "để chống cộng và thực hiện dân chủ".
Khi tình hình đã chính muồi, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp trung ương, lên các đài truyền thanh và truyền hình tuyên bố rằng cộng sản đã xâm nhập vào các phong trào tranh đấu ở miền Trung và cho biết sẽ dùng võ lực để tái lập an ninh tại Đà Nẵng. Ngày 14/5/1966, các tàu vận tải của Hoa Kỳ đã đưa 40 xe tăng và thiết vận xa đến Đà Nẵng. Ngày 15/5/1966, chính phủ gởi 5 tiểu đoàn Nhảy dù đến Quân đoàn I tăng cường cho Thủy quân lục chiến. Chỉ trong một giờ, quân Nhảy dù đã tái chiếm Đài phát thanh Đà Nẵng... Tất cả những biến cố nói trên đều do tướng Lewis Walt, Tư lệnh Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tại Vùng I đạo diễn. Mục tiêu của kịch bản này là biến phong trào đấu tranh Phật giáo thành một phong trào bạo loạn và khủng bố, rồi viện lý do đó dẹp tan mà không bị dư luận quốc nội và quốc tế phản đối. Nói cách khác, CIA đã bày mưu để đẩy Phật giáo Ấn Quang vào con đường cùng.
Một cuộc tháo chạy vào đường cùng
Bị thất bại một cách thê thảm, Giáo hội Phật giáo Ấn Quang đã công khai đi theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Các cán bộ nồng cốt của nhóm này đã bỏ thành phố đi vào chiến khu chiến đấu với Cộng sản, chẳng hạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường (dạy học), Hoàng Phủ Ngọc Phan (sinh viên Y khoa), Nguyễn Đắc Xuân (sinh viên Đại học Sư phạm), Trần Quang Long (sinh viên Đại học Sư Phạm), Lê Minh Trường (Sinh viên Mỹ thuật), Huỳnh Sơn Trà (sinh viên Y khoa), Nguyễn Văn Sơ (sinh viên Đại học Sư phạm), Ngô Yên Thi (sinh viên Văn Khoa), Trần Bá Chữ (sinh viên Đại học Sư phạm, Nguyễn Thị Đoan Trinh (sinh viên Dược), v.v. Đa số còn lại bị cơ quan an ninh Việt Nam Cộng Hòa bắt giữ, một số ẩn trốn trong quần chúng.
Một nhóm khá đông khác, do Hoàng Văn Giàu lãnh đạo, đã chạy vào Trung tâm Quảng Đức ở Sài Gòn gồm khoảng 90 người, trong đó có Vĩnh Tùng, Vĩnh Kha, Huỳnh Ngọc Ghênh, Nguyễn Tấn Hùng, Nguyễn Thế Côn, Trần Xuân Kiêm, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Trần Triệu Luật, Phan Long Côn, Trần Văn Long… Một số trong nhóm này đã được đưa vào chiến khu, trong đó có Hoàng Phủ Ngọc Phan và Trần Triệu Luật (đã chết trong chiến khu).
Sau biến cố nói trên, tại Trung tâm Quảng Đức, Thích Thiện Minh quyết định tách ra khỏi Thích Trí Quang và thành lập Phật Xã Đảng để hoạt động riêng, nhưng nghiêng hẳn về phía Cộng sản. Sau nhiều lần cảnh cáo, tối 25/2/1969 cơ quan an ninh đã lục soát Trung tâm Quảng Đức, tìm thấy nhiều truyền đơn tuyên truyền cho cộng sản và một số vũ khí, bắt Thích Thiện Minh và 66 sinh viên đang cư ngụ và đưa về điều tra, trong đó có lãnh tụ Hoàng Văn Giàu.
Hoàng Văn Giàu sinh năm 1938 tại Phú Cam, Huế, con ông Hoàng Văn Xương (ở khu sau nhà thờ), nhưng gia đình này không theo Công giáo. Giàu là người hoạch định mọi kế hoạch đấu tranh của nhóm sinh viên Phật giáo ở Huế cũng như ở Trung tâm Quảng Đức và là "cố vấn" của Thích Thiện Minh. Đi sát với Giàu có Nguyễn Tấn Hùng, Phan Long Côn, Trần Văn Long… bị phát hiện là những cán bộ cộng sản nằm vùng. Khi dẫn đi, cảnh sát đã còng chung Giàu với Hùng.
Ngày 15/3/1969, Tòa án Quân sự Mặt trận Vùng III đã xét xử và tuyên phạt Thích Thiện Minh, tên thật là Đỗ Xuân Hàng, sinh năm 1921, 10 năm khổ sai và 5 năm cấm cố. Ít lâu sau ông được ân xá vì cam kết không hoạt động cho cộng sản nữa.
Còn nhóm Hoàng Văn Giàu được chia ra hai loại, loại cán bộ cộng sản thì bị giam giữ, có người cho đến 1975, còn loại sinh viên đấu tranh thì bị bắt đi nhập ngũ, sung vào những đơn vị thuộc Sư Đoàn 21 đóng ở Chương Thiện. Riêng Hoàng Văn Giàu chỉ ở quân trường một thời gian thì được biệt phái về Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị. Giàu nhân danh Vụ trưởng Vụ Sinh viên Phật tử tuyên bố giải tán Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn - Vạn Hạnh vì bị các sinh viên Mặt Trận Giải Phóng thao túng. Vì thế nhiều người tin rằng Giàu là phản gián của cơ quan an ninh. Nhưng có người lại cho rằng Giàu là một tên hèn nhát, lừa thầy phản bạn, bán đứng tổ chức.
Việt Cộng cũng không tin Giàu nên sau khi chiếm miền Nam, đã bắt Giàu giam ở Trại giam số 4 Phan Đăng Lưu hay Trại B20 (tức trại tù Gia Định cũ) một thời gian. Năm 1982 Giàu đã qua Úc và bắt đầu viết nhiều bài trên Sachhiem.net của nhóm Giao Điểm và Chuyenluan.net chửi Công giáo và chế độ Ngô Đình Diệm với nhiều bút hiệu khác nhau để chứng tỏ "ta đây không phải là phản gián" hay phản bội ! Hoàng Văn Giàu đã qua đời ngày 24/7/2016 tại Úc châu.
Báo chí và sách vở đã viết quá nhiều về những tội ác mà Đảng cộng sản Việt Nam đã gây ra trong biến cố Tết Mậu Thân năm 1968, đặc biệt là những thành phần thuộc Giáo hội Ấn Quang đã bỏ vào chiến khu năm 1966 nay trở lại để gây tội ác, trong đó 4 tên được chú ý nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân và Nguyễn Thị Đoan Trinh.
Vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Chúng tôi đã viết hai bài trình bày khá đầy đủ về vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Tết Mậu Thân, một bài phổ biến ngày 30/7/2015 và một bài ngày 15/3/2016. Tuy nhiên, ngày 9/2/2018 vừa qua, các cơ quan truyền thông đã cho phổ biến "Lời cuối cho câu chuyện quá buồn" của Hoàng Phủ Ngọc Tường đề ngày 1/2/2018 do Nguyễn Ngọc Lập công bố, chúng tôi xin tóm lược lại dưới đây vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong biến cố Tết Mậu Thân.
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9/9/1937 tại Huế, nhưng quê ở Triệu Phong, Quảng Trị. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn (ban Việt-Hán) năm 1960. Sau đó Hoàng Phủ Ngọc Tường học Triết và tốt nghiệp Cử nhân Triết Đại học Văn Khoa Huế năm 1964. Từ năm 1960 đến 1966, Tường dạy ở trường Quốc học Huế. Năm 1966, sau vụ cướp chính quyền thất bại, Tường lên chiến khu Trị-Thiên đi theo Việt Cộng.
Trong biến cố Tết Mậu Thân, ngày mồng 3 Tết (tức 1/2/1968) Hà Nội tuyên bố thành lập "Liên minh Dân chủ dân tộc hòa bình" tại Huế, do Tiến sĩ Lê Văn Hảo làm Chủ tịch. Ngoài Lê Văn Hảo, Liên minh còn có Phó chủ tịch là bà Tùng Chi (Đào Thị Xuân Yến) Hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh, và Hòa thượng Thích Đôn Hậu, đương kim Chánh đại diện Phật giáo miền Vạn Hạnh. Các thành phần nồng cốt của Liên minh còn có : Nguyễn Đóa (cựu giám thị trường Quốc Học), Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Duy Nhân, Phạm Thị Xuân Quế, Tôn Thất Dương Tiềm, Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Hanh... Hoàng Phủ Ngọc Tường làm Tổng thư ký của Liên minh và là người lèo lái đường lối của Liên minh.
Nguyễn Đắc Xuân khẳng định rằng trong suốt thời gian xảy ra biến cố Mậu Thân, Hoàng Phủ Ngọc Tường ở chiến khu tại địa đạo Khe Trái trong vùng núi phía tây huyện Hương Trà để làm công việc của Mặt trận Giải phóng. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng xác định Tường không hề có mặt tại Huế. Nhưng nhiều ngưòi lại cho biết họ thấy Tường ngồi xử án ở Trường trung học Gia Hội.
Trong cuộc phỏng vấn của phóng viên Burchett và đoàn làm phim "Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình" (Vietnam : A Television History) tại Huế năm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại xác nhận chính mình là chứng nhân của biến cố Tết Mậu Thân tại Huế 1968 và cho rằng thủ phạm vụ tàn sát đó là Mỹ. Nay trong "Lời cuối cho câu chuyện quá buồn" ngày 1/2/2018 Tường lại thanh minh như sau :
"Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim "Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình" trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc.
"Tôi xác nhận đây là link clip tung lên mạng là bản gốc cuộc phỏng vấn :
"Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất- "tôi", "chúng tôi" khi kể một vài chuyện ở Huế mậu thân 68…".
Nguyễn Quang Lập, người công bố "Lời cuối" của Tường, tự nhận là em kết nghĩa của Lâm Mỹ Dạ, vợ của Tường, đã phân trần về lời giải thích của Tường như sau :
"Anh Tường nói những gì tôi có thể hiểu, anh muốn gửi thông điệp của anh tới ai tôi cũng hiểu, nhưng cái "liếm môi huyền thoại" và ánh mắt láo liên của anh trước cuộc phỏng vấn thì tôi không thể hiểu nổi. Biết anh đã hết sức bối rối khi đứng giữa sự thật và "ý đảng", tổ chức mà anh đang nguyện phấn đấu, dù thế nào hành vi ấy cũng thật đáng ngờ".
Nói cách khác, theo Nguyễn Quang Lập, Tường nói ngược hay nói xuôi cũng chỉ là làm theo ý Đảng, tức theo chỉ thị của Đảng và Tường là người lãnh đủ. Đó là thân phận của một người theo Đảng.
Mặc dầu đã sống một cuộc đời tận tụy với Đảng, sau khi bị vắt chanh bỏ vỏ, cuộc đời còn lại của Tường và gia đình đã rất bi thảm. Chúng ta hãy nghe nhà văn Nhật Tuấn kể lại chuyện đến thăm nhà của vợ chồng Tường vào năm 1978 tai Hà Nội trong bài "Chân dung hay chân tướng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường" :
"Tôi tưởng vợ chồng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường phải ở một căn hộ nào đó ở khu hồ Tây hoặc khu nghỉ dưỡng Quảng Bá, không ngờ Trịnh Tú đưa tôi lên đường đê La Thành vào trường viết văn Nguyễn Du tới một căn buồng mái tranh, vách đất, trống huếch trống hoác, giữa nhà trải chiếc chiếu, một người đàn ông gầy guộc, ngồi xệp, hai đầu gối quá tai. Chắc đã hẹn trước, nhà văn vồn vã mời ngồi, còn chị vợ - nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ thì xin phép vào bếp rang… lạc đãi khách. Trịnh Tú vội xua tay : "Thôi thôi… tôi tới coi sức khỏe chị sao ? Liệu có giúp được gì rồi phải về ngay…".
"Trong lúc Trịnh Tú hỏi chuyện chị vợ thì tôi ngắm nhà văn. Ôi chao ôi, người đàn ông gầy gò, ốm đói kia lại là người viết ra bút ký "Rất nhiều ánh lửa" đăng trang nhất báo Văn Nghệ ư ? Điều kiện sống tối tăm và ẩm thấp thế này ông lấy đâu ra lửa ?
Nói chung. Đảng cộng sản Việt Nam không tin tưởng gì vào các thành phần thuộc Giáo hội Phật giáo Ấn Quang đã đi theo họ. Họ chỉ coi đó là những công cụ, xài xong rồi bỏ.
Ngày 23/02/2018
Lữ Giang