NATO là gì và vì sao Thổ Nhĩ Kỳ ngăn Thụy Điển và Phần Lan gia nhập ?
BBC, 03/02/2023
Năm ngoái, Thụy Điển và Phần Lan xin gia nhập NATO - liên minh phòng thủ của phương Tây - sau khi Nga xâm lược Ukraine.
Để được gia nhập NATO đòi hỏi tất cả 30 thành viên phải chấp thuận, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ đang ngăn cản họ gia nhập sau một số cuộc biểu tình chống Thổ Nhĩ Kỳ ở Thụy Điển.
NATO là gì ?
NATO, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, là một liên minh quân sự phòng thủ, được thành lập vào năm 1949 bởi 12 quốc gia, bao gồm Mỹ, Anh, Canada và Pháp.
Các thành viên đồng ý giúp đỡ lẫn nhau nếu một trong các nước thành viên bị tấn công vũ trang.
Mục tiêu ban đầu của NATO là thách thức sự bành trướng của Liên Xô ở Châu Âu sau Thế chiến thứ II.
Sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, nhiều quốc gia Đông Âu từng là đồng minh của Nga trong Hiệp ước Warsaw đã trở thành thành viên của NATO.
Nga từ lâu đã tranh cãi rằng việc NATO chấp thuận các quốc gia này sẽ đe dọa an ninh của họ. Nga kịch liệt phản đối yêu cầu gia nhập liên minh của Ukraine vì lo ngại điều này sẽ xâm phạm quá gần lãnh thổ của mình.
Thổ Nhĩ Kỳ ngăn Thụy Điển và Phần Lan gia nhập NATO như thế nào ?
Tháng 6/2022, Thụy Điển và Phần Lan cùng xin gia nhập NATO.
Tất cả 30 quốc gia NATO phải chấp thuận các thành viên mới gia nhập. 28 nước đã đồng ý, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ và Hungary thì chưa.
Thổ Nhĩ Kỳ năm ngoái cho biết Thụy Điển và Phần Lan trước tiên phải dẫn độ khoảng 150 công dân Thổ Nhĩ Kỳ mà nước này coi là "những kẻ khủng bố".
Những người này được cho là thành viên của Đảng Công nhân người Kurd (PKK), bị cấm ở Thổ Nhĩ Kỳ và những người mà chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ cho là đã tham gia vào một âm mưu đảo chính bất thành vào năm 2016.
Thụy Điển và Phần Lan nói dẫn độ là vấn đề của tòa án nước họ, nhưng họ đã đàm phán với Thổ Nhĩ Kỳ để cố gắng đạt được thỏa thuận để dọn đường vào NATO. Vòng đàm phán tiếp theo dự kiến bắt đầu vào tháng Hai.
Vào tháng Giêng, một nhóm các nhà hoạt động đã tổ chức một cuộc biểu tình phản đối các cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ nhắm vào lực lượng vũ trang người Kurd ở Syria.
Họ treo cổ chân một hình nộm mô phỏng Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan.
Khoảng một tuần sau, một nhóm cực hữu đã đốt Kinh Koran.
Tổng thống Erdogan đã hủy các cuộc đàm phán sắp tới giữa những tranh cãi xung quanh các cuộc biểu tình.
Tiến sĩ Jonathan Eel, chuyên gia an ninh Châu Âu tại Viện Royal United Services, nói rằng ông không mong đợi ông Erdogan sẽ giải quyết vấn đề với Thụy Điển hoặc Phần Lan cho đến sau cuộc bầu cử tổng thống vào tháng Năm.
"Ông ta sẽ sử dụng việc này để cải thiện hình ảnh của mình. Ông ấy sẽ muốn cử tri nghĩ rằng ông là một nhân vật quan trọng trong các vấn đề quốc tế", ông Eel nói.
Bản đồ Thụy Điển và Phần Lan trong tương quan với Nga
Vì sao Thụy Điển và Phần Lan rất kiên quyết gia nhập NATO ?
Thụy Điển đối mặt với Nga qua Biển Baltic và Phần Lan chia sẻ biên giới đất liền dài 1.340 km với Nga.
Trong bảy thập kỷ, cả hai đã chọn thế trung lập hơn là gia nhập NATO.
Nhưng việc Nga xâm lược Ukraine đã thay đổi tư duy hai nước này và họ yêu cầu được gia nhập "nhanh chóng".
Giáo sư Tracey German thuộc Khoa Nghiên cứu Quốc phòng tại Đại học Kings College London cho biết : "Cuộc xâm lược khiến họ cảm thấy rằng an ninh tập thể mà NATO cung cấp là thứ họ cần".
Hai nước sẽ góp 280.000 quân cho lực lượng của NATO (bao gồm cả quân dự bị) và hơn 200 máy bay chiến đấu.
Tuy nhiên, Giáo sư German nói, nếu Thổ Nhĩ Kỳ (và Hungary) ngăn cản hai quốc gia này gia nhập khối trong thời gian lâu hơn nữa, điều đó có thể gây rủi ro cho họ.
Bà nói : "Giữ Thụy Điển và Phần Lan trong vùng xám này, nơi họ không có sự bảo vệ an ninh tập thể nào của NATO, đồng nghĩa đang đặt họ vào một tình thế nguy hiểm".
"Họ có thể dễ bị tấn công trước áp lực hoặc sự can thiệp của Nga".
Các nước NATO đang hỗ trợ Ukraine như thế nào ?
Mỹ gửi 31 xe tăng Abrams, Anh gửi 14 xe tăng Challenger 2 và Đức gửi 14 xe tăng Leopard 2.
Các quốc gia khác như Ba Lan, Phần Lan, Na Uy, Hà Lan và Tây Ban Nha cho biết họ cũng sẽ gửi xe tăng Leopard 2 từ quân đội của mình.
Họ cũng đã gửi các vũ khí như hệ thống phòng không, hệ thống tên lửa tầm xa Himars, tên lửa chống tăng, xe chiến đấu bọc thép, pháo tự hành, pháo và máy bay không người lái.
Tuy nhiên, Mỹ đang từ chối gửi F-16 hoặc các máy bay chiến đấu khác cho Ukraine vì lo ngại chúng có thể được sử dụng trong các cuộc tấn công vào các mục tiêu bên trong nước Nga - điều mà Nga có thể hiểu là một hành động chiến tranh.
Vì sao NATO không gửi quân giúp Ukraine ?
Kể từ khi Nga xâm lược Ukraine, các quốc gia NATO đã đồn trú 40.000 quân ở Đông Âu, trên lãnh thổ của các thành viên liên minh như Litva và Ba Lan, và họ có 300.000 quân khác trong tình trạng báo động cao.
Tuy nhiên, không có quân đội nào của NATO chiến đấu ở Ukraine.
Điều này là do việc gửi quân đến đó sẽ khiến NATO xung đột trực tiếp với Nga và các quốc gia hàng đầu trong liên minh, chẳng hạn như Mỹ, cho rằng điều này có thể châm ngòi cho một cuộc chiến rộng lớn hơn.
Vì lý do tương tự, các nước NATO cũng từ chối vận hành vùng cấm bay trên lãnh thổ các nước này.
Tại sao Ukraine không ở trong NATO ?
NATO nói với Ukraine vào năm 2008 rằng Ukraine có thể gia nhập khối vào một thời điểm nào đó trong tương lai, nhưng gần đây NATO đã từ chối yêu cầu gia nhập "nhanh chóng" của Ukraine.
Điều này là vì Điều 5 của hiến chương NATO nói rằng, nếu một thành viên bị tấn công, tất cả các thành viên trong khối sẽ bảo vệ nước đó.
Nếu Ukraine trở thành thành viên, các nước NATO về mặt kỹ thuật sẽ phải gây chiến với Nga.
Nguồn : BBC, 03/02/2023
****************************
NATO là gì ? NATO gồm những nước nào ? Những điều cần biết về NATO ?
Bùi Tuấn An, luatminhkhue.vn, 29/11/2020
1. NATO là gì ?
NATO là cách viết tắt của North Atlantic Treaty Organization - Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương là một tổ chức quân sự - chính trị thành lập năm 1949, ban đầu gồm Hoa Kỳ, Canada và một số nước Tây Âu. Mục đích thành lập NATO là để ngăn chặn sự phát triển ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô lúc đó đang trên đà phát triển rất mạnh ở Châu Âu có thể gây phương hại đến an ninh của các nước thành viên. Trụ sở của liên minh quân sự này được đặt tại Brussels (Bỉ).
Cơ quan quyền lực cao nhất là Hội đồng NATO, bên cạnh có Ủy ban Kế hoạch phòng thủ gồm các bộ trưởng quốc phòng phụ trách vạch kế hoạch và chính sách quân sự thống nhất. Về quân sự, cơ quan quyền lực cao nhất là Ủy ban Quân sự gồm Tổng tham mưu trưởng các nước thành viên do Tổng Thư kí NATO đứng đầu.
Ngoài lực lượng vũ trang riêng của từng nước, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương có lực lượng thống nhất dưới sự chỉ huy của Bộ Tổng chỉ huy Liên minh khu vực. Trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, Mỹ và các lực lượng vũ trang Mỹ đóng vai trò chủ đạo. Những chức vụ quan trọng trong Bộ Tổng chỉ huy và trong các lực lượng vũ trang thống nhất đều do các tướng và đô đốc Mỹ nắm giữ. Tư lệnh tối cao lực lượng đồng minh Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương là người Mỹ. Từ ngày thành lập, NATO luôn thực hiện chính sách đẩy mạnh chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh, đặc biệt là việc tăng cường sức mạnh hạt nhân, tạo nên tình hình căng thẳng thường xuyên ở Châu Âu và trên thế giới.
Sau khi Tổ chức Hiệp ước Warszawa giải thể (1991), Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương vẫn khẳng định sự tiếp tục tồn tại của mình đồng thời tiến hành cải tổ cơ cấu, mở rộng thành viên, kết nạp hầu hết các nước trong Hiệp ước Warszawa, một số nước thuộc Liên Xô cũ, Tiệp Khắc, Nam Tư trước đây đưa tổng số thành viên lên 28 nước nhằm tăng cường vai trò ở khu vực và trên thế giới.
2. Đặc điểm của NATO
NATO là một liên minh chính trị - quân sự đảm bảo quyền tự do và an ninh của tất cả quốc gia thành viên thông qua các chính sách chính trị và quân sự.
NATO tuân thủ nguyên tắc phòng thủ tập thể, rằng một cuộc tấn công chống lại một hoặc nhiều thành viên của liên minh được coi là một cuộc tấn công chống lại NATO nói chung. Hiệp ước quy định : Trong trường hợp "có cuộc tiến công vũ trang" vào một hoặc một số nước thành viên thì các nước khác phải nhanh chóng giúp đỡ, kể cả sử dụng lực lượng vũ trang.
Nguyên tắc phòng thủ tập thể là trọng tâm của hiệp ước thành lập NATO. Nó là một nguyên tắc duy nhất và lâu dài gắn kết các thành viên NATO với nhau ; cam kết rằng họ bảo vệ lẫn nhau và thiết lập tinh thần đoàn kết trong Liên minh.
Phòng thủ tập thể có nghĩa là một cuộc tấn công chống lại một Đồng minh được coi là một cuộc tấn công chống lại tất cả các Đồng minh của NATO. Ví dụ, thực tế NATO đã nhiều lần thực hiện các biện pháp phòng thủ tập thể, bao gồm cả để đối phó với tình hình ở Syria và cuộc chiến tranh giữa Ukraine và Nga.
NATO là một liên minh xuyên Đại Tây Dương giữa các quốc gia ở Châu Âu và Bắc Mỹ cho phép tất cả quốc gia thành viên tham vấn, hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, thực hiện các hoạt động quản lý khủng hoảng, đa quốc gia với nhau.
3. NATO bao gồm những nước nào ?
Tính đến ngày 6/7/2022, NATO bao gồm 30 nước thành viên. Sau đây là danh sách 30 nước thành viên và thông tin về năm gia nhập NATO của các nước.
4. Mục đích thành lập NATO
Việc Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được thành lập có mối quan hệ mật thiết với tình hình thế giới lúc bấy giờ. Vào thời điểm này, sức ảnh hưởng của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản đang phát triển rất mạnh mẽ ở Châu Âu. Điều này tất nhiên khiến các nước tư bản chủ nghĩa lo ngại, vì thế lý do NATO được thành lập chính là để phòng vệ và ngăn chặn sự tác động của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản.
5. Quá trình phát triển của NATO
Việc thành lập NATO dẫn đến việc các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu thành lập Tổ chức Hiệp ước Warszawa để làm đối trọng. Sự kình địch và chạy đua vũ trang của hai khối quân sự đối địch này là cuộc đối đầu chính của chiến tranh lạnh trong nửa cuối thế kỷ XX.
Đầu những năm 1990, sau khi Hiệp ước Warszawa giải thể, đã có khá nhiều kiến nghị đòi giải tán NATO với lý do đã không còn sự đối đầu Đông - Tây nữa. Tuy nhiên, tình hình đã không diễn ra như vậy. Hiện nay, NATO vẫn đang tồn tại, tiếp tục phát triển và mở rộng không ngừng. Với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động, NATO đã đưa ra những cải cách về cơ cấu, nội dung như sau :
Thứ nhất, xác định "đặc tính phòng thủ Châu Âu". Do trong nhiều năm chiến tranh, quyền chỉ huy NATO luôn nằm trong tay Mỹ. Chính vì vậy, sau khi chiến tranh kết thúc, các nước thành viên trong khối NATO đã lên tiếng đòi phân chia quyền lực công bằng tương đối giữa các quốc gia Châu Âu và Mỹ.
Thứ hai, xây dựng đội quân liên hợp đặc phái đa quốc gia, đa binh chủng. Đội quân này ra đời khiến cho hoạt động của NATO ngày càng linh hoạt và hiệu quả hơn. Đây là bước ngoặt quan trọng của NATO sau Chiến tranh Lạnh.
Thứ ba, xây dựng cơ cấu chỉ huy quân sự mới như : Điều chỉnh cơ cấu Bộ Tư lệnh tối cao quân Đồng minh Châu Âu của NATO ; Tinh giản cơ cấu chỉ huy quân sự ; Thành lập Tổ Điều hành Hiệp đồng Chính trị ; Chú trọng đến tầm quan trọng của Địa Trung Hải đối với an ninh Châu Âu.
Ngoài việc thực hiện những cải cách mang tính nội bộ, NATO không ngừng theo đuổi kế hoạch mở rộng biên giới sang phía Đông. Hành động này của NATO là một sự kiện quan trọng kể từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Nó không chỉ làm ảnh hưởng đến quan hệ giữa Mỹ, Nga và Châu Âu mà còn làm ảnh hưởng đến an ninh khu vực Châu Âu và sự phát triển tiến trình đa cực hóa của thế giới. Sau Chiến tranh lạnh, nhiều nước Đông Âu đã trở thành thành viên của NATO. Lộ trình "Đông tiến" của NATO đã tiến tới sát cửa ngõ của nước Nga khi hiện nay cánh cửa vào NATO đang được mở rộng (Ukraine, Moldavia và Georgia muốn xin gia nhập), nhằm đạt mục tiêu chiến lược là mở rộng tầm ảnh hưởng ra hầu hết không gian "hậu Xô-viết". Nếu như trong suốt thời kỳ "Chiến tranh lạnh", NATO chỉ kết nạp 04 nước, thì sau khi "Chiến tranh lạnh" kết thúc và cho đến hiện nay, NATO đã nâng tổng số thành viên lên 30 nước. Theo đó, biên giới NATO cũng mở rộng tiến sát Liên bang Nga - nước mà NATO coi là "đối thủ" thế chân Liên Xô. Nguyên nhân của việc nhiều nước Đông Âu hay một số nước từng thuộc Liên bang Xô Viết trước đây muốn trở thành thành viên của NATO là do các nước này muốn thông qua NATO để tìm sự bảo trợ an ninh quốc gia trước những sự đe dọa từ các nước lớn trong châu lục. Bên cạnh đó, khi trở thành thành viên của NATO, các nước này sẽ có cơ hội tiếp cận với những nền kinh tế phát triển mạnh của phương Tây để từ đó tìm cơ hội phát triển cho mình. Tuy nhiên, số lượng thành viên tăng nhanh cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp; trong đó, sự "gắn kết", "thống nhất", vốn được coi là nhân tố "sống còn" của NATO thì ngày càng bị suy giảm.
Trên đây là bài viết cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích về NATO - Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Hy vọng bài viết này đã đem đến cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Xin chân thành cảm ơn !
Bùi Tuấn An
Tham vấn bởi Luật sư Lê Minh Trường
Nguồn : luatminhkhue.vn, 29/11/2020
"Tái sinh", "hồi sinh … kể từ khi chiến tranh Ukraine bùng nổ vào tháng 02/2022, nhiều từ ngữ như vậy đã được dùng để nói về vai trò của Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO). Sau 2 thập niên loay hoay trong vũng lầy Afghanistan, NATO đang khám phá lại sứ mệnh lịch sử của mình : ngăn chặn một cuộc tấn công thông thường từ một nước thứ ba nhắm vào các thành viên trong khối, nhất là lại liên quan đến kẻ thù cũ trước đây.
Binh sĩ NATO Romania và Ba Lan đứng gác bên ngoài địa điểm đang diễn ra cuộc họp báo của tổng thống Ba Lan và Litva ngày 7/7/2022. Wojtek Radwanski / AFP
Cuộc chiến ở Ukraine dường như mang lại cho NATO một lý do mới để tồn tại : tăng cường lực lượng quân sự ở sườn đông - hoạt động củng cố tập thể về quốc phòng quan trọng nhất kể từ khi khối Cộng Sản sụp đổ. Thế nhưng, chính xác thì sự hồi sinh của NATO sẽ đạt đến mức độ nào và gồm những gì ?
RFI tóm lược bài viết "Từ Afghanistan đến Ukraine : sự hồi sinh của NATO ?" của tiến sĩ Julien Pomarède, nhà nghiên cứu chính trị - xã hội và an ninh quốc tế, Đại học Libre de Bruxelles (ULB) của Bỉ. Bài viết được đăng trên trang mạng nghiên cứu The Conversation, ngày 04/08/2022.
Nói NATO hồi sinh phần nào là đúng. Các biện pháp được thực hiện để đối phó với cuộc chiến ở Ukraine rõ ràng là có sự gắn kết, vững chắc và đạt đồng thuận hơn rất, rất nhiều so với hoạt động "xử lý khủng hoảng" do NATO dẫn dắt, từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, như ở Balkan (những năm 1990), Libya (2011) và Afghanistan (2000-2010).
Đặc trưng trong các cam kết quân sự của NATO trong các chiến dịch xử lý khủng hoảng là sự bất đồng mạnh mẽ giữa các thành viên về các mục tiêu cần đạt được, các nguồn lực cần thiết cũng như quy trình hoạt động. Một trong những lý do chính dẫn đến những căng thẳng đa phương này là, trong các chiến dịch xử lý khủng hoảng đó, NATO phải đối phó với các mối nguy (khủng bố, bất ổn khu vực, cướp biển …) nhưng các thành viên lại có cách nhìn khác nhau về mức độ nguy hiểm, vì thế mức độ tham gia sứ mệnh cũng khác nhau, tùy thuộc vào việc họ có xem đó là ưu tiên cho an ninh quốc gia hay không.
Hoạt động của NATO tại Afghanistan cho thấy những bất đồng lên đến đỉnh điểm. Các tranh cãi đã gây chia rẽ các thành viên, khiến NATO không thể có một chiến lược chung. Mục tiêu chống khủng bố giữa các nước là khác nhau nên cũng không thể tuyên bố rõ ràng về một mục đích chung. Và chính những khó khăn đó đã góp phần vào sự thất bại mà thế giới đã chứng kiến : ngày 06/08/2021, quân Taliban đã giành lại được quyền kiểm soát Kabul.
Phản ứng của NATO đối với cuộc chiến ở Ukraine thì lại khác hẳn. Điểm mấu chốt dẫn đến thay đổi là vào năm 2014, Nga sáp nhập bán đảo Crimée của Ukraine, quan hệ Nga - NATO xấu đi, NATO đã tập trung trở lại vào cột trụ lịch sử của khối, đó là phòng thủ tập thể, được nêu trong điều khoản số 5 của Hiệp ước Washington (năm 1949), theo đó NATO sẽ có sự đáp trả quân sự tập thể nếu xảy ra một cuộc tấn công vũ trang chống lại một trong các nước thành viên.
Có 3 hội nghị thượng đỉnh quan trọng đã đánh dấu sự tiến triển của NATO từ năm 2014. Tại xứ Wales, Anh Quốc, vào năm 2014, NATO thông qua Kế hoạch phản ứng cực nhanh, với các biện pháp tái bảo đảm cho các nước Trung và Đông Âu. Thượng đỉnh Vacxava năm 2016 củng cố việc tái tập trung vào phòng thủ tập thể, kích hoạt sự hiện diện tăng cường của NATO ở sườn đông. Và cuối cùng, thượng đỉnh Madrid hồi tháng 06/2022 thông qua một Khái niệm chiến lược mới, xếp Nga từ đối tác thành mối đe dọa lớn nhất.
NATO không những không ngăn cản mà còn thu hút các thành viên mới : Thụy Điển và Phần Lan được mời và đã gia nhập NATO. Giai đoạn "NATO chết não" mà tổng thống Pháp Macron nói đến đột nhiên dường như tan biến.
Tuy nhiên, trên thực tế, sự tăng cường, củng cố phòng thủ tập thể của NATO không phải thực sự thành công như trong các phát biểu chính thức, bởi nhiều lý do. Trái với sứ mệnh xử lý khủng hoảng ở Afghanistan, NATO không tham chiến ở Ukraine mà đang ở tư thế răn đe nhằm ngăn ngừa Nga tấn công vào một nước thành viên. Mặc dù có sự đồng thuận hơn trong việc nhìn nhận mối đe dọa của Nga so với các mối nguy khác, chẳng hạn nguy cơ khủng bố, nhưng các thành viên NATO lại không nhất trí khi đánh giá về mức độ nguy hiểm của Nga. Trên thực tế, phòng thủ tập thể vẫn là cốt lõi của Liên Minh, nhưng việc triển khai hoạt động thì vẫn không có được sự đồng thuận giữa các thành viên.
Nga bị NATO đánh giá là "mối đe dọa trực tiếp", đặc biệt là kể từ tháng 02/2022. Tuyên bố chung tại thượng đỉnh Madrid gần đây cũng như ngôn từ cứng rắn trong khái niệm chiến lược mới về Nga chắc chắn cho thấy NATO đang siết chặt hàng ngũ để đối phó với mối đe dọa từ Nga. Khái niệm chiến lược mới về Nga cho thấy sự đoàn kết của NATO về các nguyên tắc chính, nhưng không có nghĩa là các bất đồng đã biến mất.
Các nước Trung và Đông Âu (các nước vùng Baltic, Ba Lan, Rumani), thường có sự ủng hộ của Mỹ, ủng hộ một thế trận quân sự cứng rắn và được củng cố vững chắc để chống Nga, muốn thiết lập các căn cứ quân sự thường trực trên lãnh thổ của họ. Còn các nước Tây Âu (Pháp, Đức, Tây Ban Nha) không đồng tình, mà ủng hộ chính sách răn đe chừng mực, để ngỏ đối thoại với Nga và tránh nguy cơ căng thẳng leo thang. Vì thế, có các cuộc đàm phán dẫn đến sự thỏa hiệp để thỏa mãn cả đôi bên : luôn luôn tăng cường hiện diện ở tiền tuyến (tại các nước Trung Đông Âu, gần Nga) và theo nguyên tắc luân chuyển lực lượng.
Việc triển khai quân sự, kể cả chiến dịch tăng cường sư hiện diện của NATO, dựa trên nguyên tắc "răn đe trả đũa", với số lượng quân vừa phải, không nhằm mục đích triển khai một lực lượng quân sự đủ lớn để ngay lập tức vô hiệu hóa một cuộc tấn công tiềm tàng và dập tắt niềm tin chiến thắng ngay từ đầu của đối phương, không nhằm khiến đối thủ phải gánh mức thiệt hại không thể chấp nhận được ngay từ những vụ đụng độ đầu tiên, mà chủ yếu là để cho đối phương cân nhắc khả năng NATO hành động đáp trả, làm tăng đáng kể cái giá mà đối phương sẽ phải trả ngay từ đầu cuộc tấn công.
Trên thực tế, "răn đe trả đũa" có thể là lựa chọn duy nhất có được sự đồng thuận của các thành viên NATO, bởi tìm cách đẩy lùi ngay lập tức, chẳng hạn từ một quốc gia Baltic, một đội quân với quy mô và hỏa lực như của Nga, đồng nghĩa với việc phải triển khai một lực lượng quân sự rất lớn ở đó. Về tài chính và chính trị, đối với hầu hết các nước thành viên NATO, điều này là rất khó. Việc lực lượng tăng cường hiện diện ở tiền tuyến được bổ sung thêm bốn tiểu đoàn khi Nga xâm lược Ukraine, cũng như thông báo tại hội nghị thượng đỉnh Madrid về sự hiện diện tăng cường của Mỹ ở Châu Âu, cũng phù hợp với logic thỏa hiệp.
Thể hiện quyết tâm trả đũa là điều thiết yếu trong logic răn đe, đặc biệt là phương án răn đe trả đũa, vốn chủ yếu phụ thuộc vào thông điệp được truyền tải, trong đó có thông điệp quyết tâm sử dụng vũ lực rộng rãi hơn khiến kẻ tấn công phải trả giá đắt. Thế nhưng, việc đưa ra được một phát biểu chung và thống nhất trong khuôn khổ chính sách răn đe nhắm vào Nga vẫn là một thách thức đối với NATO, bởi sự khác biệt trong nhận thức của các nước thành viên về mối đe dọa này.
Thêm vào đó, những lời chỉ trích thường xuyên, chẳng hạn từ Ba Lan hoặc các nước vùng Baltic, rằng Đức hoặc Pháp quá nhân nhượng Nga, có thể làm giảm mức độ đáng tin cậy vào khả năng răn đe của NATO. Một số chuyên gia nghi ngờ khả năng đáp trả thực sự của NATO không được như trong các tuyên bố chính thức. Ví dụ, nếu Nga quyết định nhắm vào lực lượng Na Uy hoặc Luxembourg đóng tại Litva để gây áp lực đối với tình đoàn kết trong Liên Minh, thì liệu Đức, cũng hiện diện tại Litva, có phản ứng quân sự, chấp nhận nguy cơ leo thang chiến tranh hay không ?
Kịch bản này chắc chắn là khó có thể nhưng cũng không phải là không thể xảy ra trước các mối đe dọa dai dẳng của Nga đối với phương Tây. Nói một cách đơn giản thì việc không hành động sẽ làm giảm uy tín của chính sách tăng cường sự hiện diện ở tiền tuyến, nhưng phản ứng đáp trả, dù ở mức hạn chế, có thể là cái cớ gây leo thang căng thẳng. Và sự chia rẽ quá rõ ràng có thể làm lộ ra những lỗ hổng trong chính sách răn đe của Liên Minh, mà nếu bị khai thác thì có thể gây ra tác hại đáng kể đến uy tín của NATO.
Nói tóm lại, dù là xử lý khủng hoảng hay phòng thủ tập thể thì hai trụ cột này của NATO đều có chung nền tảng là đàm phán đa phương, đều là kết quả của trò chơi thỏa hiệp giữa các nước thành viên Liên Minh và đều có những giới hạn.
Cuộc chiến ở Ukraine không phải là đã cứu được NATO, đơn giản là Liên Minh trước đây không trong cảnh "nguy hiểm chết người", nhưng cuộc xâm lược của Nga rõ ràng đã giúp Liên Minh năng động trở lại. Các căng thẳng, thỏa hiệp và sự mơ hồ là một phần trong tính đa phương của NATO. Không nên coi đây là một mâu thuẫn, mà là điều bình thường. Phòng thủ tập thể, cũng như xử lý khủng hoảng, đều không thoát được thực tế đó.
Nói tóm lại, không phải chúng ta đang chứng kiến một cuộc chiến tranh lạnh đã cứu vớt một Liên Minh mất khả năng phát triển như một số tuyên bố quá nhanh chóng, mà chúng ta đang chứng kiến sự cập nhật logic về sự thù địch, có sự đan xen giữa các mối quan hệ địch thủ cũ giữa các nước và sự thay đổi nhận thức về các mối nguy.
Julien Pomarède
Thùy Dương tóm lược
Nguồn : RFI, 15/08/2022
Thứ Năm ngày 4 tháng Tư này đánh dấu 70 năm thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), nền tảng an ninh và ngoại giao từ sau Thế Chiến II.
70 năm là thời gian dài với bao biến đổi về tình hình an ninh khu vực Âu châu và toàn cầu, cũng như sự thay đổi sâu rộng về tình hình chính trị quốc tế. Sau khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ đầu thập niên 1990, người ta tưởng chừng vai trò của NATO không còn cần thiết nữa và do đó có thể bị giải tán. Nhưng gần ba thập niên qua, mặc dầu có những lúc khủng hoảng về chức năng và lãnh đạo, NATO không những tiếp tục tồn tại mà còn phát triển. Từ 12 quốc gia thành viên lúc thành lập, NATO trở thành tổ chức với 29 thành viên, nước thành viên mới nhất là Montenegro tham gia vào ngày 5 tháng Sáu năm 2017. Lý do cho sự tồn tại và phát triển của NATO là vì các nước thành viên đều cảm thấy rằng mối đe doạ, tuy giảm hẳn so với thời Chiến tranh Lạnh, nhưng vẫn hiện hữu. Liên Xô trước đây, và Nga bây giờ, vẫn luôn là một cảm giác bất an đối với họ.
70 năm của NATO có thể chia thành ba giai đoạn khác nhau: tiền Chiến tranh Lạnh (hay hậu Thế Chiến II); Chiến tranh Lạnh (năm 1947/1948 đến 1990/1991); và hậu Chiến tranh Lạnh cho đến nay. Các diễn giải về lý do hình thành NATO nói riêng và nguyên do đưa đến Chiến tranh Lạnh nói chung là vô cùng đa dạng, tùy theo cách nhìn nhận, phân tích và xu hướng chính trị của mỗi người. Theo chuyên gia Strobe Talbott thuộc viện Brooklings thì giai đoạn một là lúc mà Joseph Stalin là người chính thức bắt đầu Chiến tranh Lạnh trước khi tiếng súng của Thế Chiến II im lặng [1]. Nói cách khác, nếu Liên Xô không có những chính sách thù nghịch và hung hãn đối với Hoa Kỳ và Âu châu thì sẽ không có nhu cầu hình thành NATO.
Có thể nói một cách tóm tắc rằng sự hiện hữu của NATO có tỷ lệ thuận với sự hung hãn của Liên Xô trước đây, và Nga ngày nay. Nga càng độc tài, hung hãn thì vai trò và trách nhiệm của NATO càng chính đáng, cần thiết. Nếu Nga, một ngày nào đó và một cách kỳ diệu nào đó, trở thành một quốc gia có thể chế chính trị dân chủ thật sự, thì nhiệm vụ của NATO sẽ phải chuyển đổi, trừ phi có mối đe dọa khác trổi lên.
Cách đây đúng 20 năm, ba quốc gia hậu cộng sản thuộc khối Liên Bang Xô Viết cũ là Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi và Ba Lan đã chính thức trở thành thành viên của NATO. Nhưng họ phải đến mất gần một thập niên để vận động chứ nó không hề là một tiến trình vô chướng ngại. Bài viết mới đây trên tạp chí Foreign Affairs của giáo sư sử học Mary Elise Sarotte thuộc trường đại học John Hopkins SAIS GS đã soi sáng điều này [2]. Gs Sarotte đã nghiên cứu các tài liệu được giải mật từ Thư viện Tổng thống George H W Bush và gần nhất là từ Thư viện Tổng thống Bill Clinton. Bà cho biết các bằng chứng tìm thấy khẳng định rằng từ đầu cho đến giữa thập niên 1990, người Tiệp, người Hung và nhất là người Ba Lan đã vận động để được vào làm thành viên, đặc biệt từ khi Bill Clinton lên làm tổng thống.
Theo Gs Sarotte thì thật ra các nước trung và đông Âu đều muốn trở thành thành viên của cộng đồng tây Âu và các định chế của nó, thay vì cứ tiếp tục hiện hữu trong vùng xám giữa tây Âu và Nga. Họ vẫn lo ngại sự trổi dậy trở lại của Nga ngay cả khi Liên Xô đang sụp đổ. Mà cái họ lo ngại là đúng, như đã thấy qua các hành động của Nga dưới thời Vladimir Putin, đặc biệt năm năm qua. Sống gần Nga, cũng như Việt Nam sống gần Trung Quốc, người dân tại các quốc gia này hiểu Nga hơn ai hết.
Tài liệu mà giáo sư Sarotte điều nghiên cho biết vào tháng Hai năm 1990, Ngoại trưởng Tây Đức Hans-Dietrich Géncher cho Ngoại trưởng Anh biết rằng để Moscow chấp nhận cho nước Đức thống nhất, Liên Xô cần sự bảo đảm rằng Hung Gia Lợi sẽ không trở thành thành viên của NATO. Tóm gọn, chủ trương của Liên Xô là không muốn NATO phát triển về hướng đông. Mặc dầu Ngoại trưởng Hoa Kỳ James Baker lúc đó biết rõ nhiều quốc gia muốn gia nhập NATO nhưng, một lần nữa, Hoa Kỳ vẫn có thái độ thận trọng trong việc quá can thiệp vào chuyện nội bộ Âu châu. Nên nhớ, đối với Thế Chiến I, Thế Chiến II, và ngay cả việc hình thành NATO, thái độ của Hoa Kỳ ban đầu là vẫn do dự, bởi phần lớn người dân Hoa Kỳ và ngay cả giới lãnh đạo quốc gia vẫn chủ hòa chứ không chủ chiến. Ưu tiên của Hoa Kỳ vào lúc đó là thống nhất đông và tây Đức càng nhanh càng tốt. Thế nhưng lãnh đạo các quốc gia trung và đông Âu vẫn tìm mọi cách để vận động vào NATO. Nhưng rồi cuộc chiến vùng vịnh với Iraq tại Kuwait đã đình trệ các nỗ lực này. Sau khi Clinton lên cầm quyền, các lãnh đạo này tiếp tục tìm mọi cách mang lại sự chú ý đối với chính quyền Hoa Kỳ mới. Tổng thống Tiệp Khắc Vaclav Havel and Ba Lan Lech Walesa đã gặp riêng Clinton và thuyết phục Clinton cứu họ từ sự sống trong khoảng trống rổng (living in a vacuum) trong khi họ đều thấy họ là người Âu châu thể hiện giá trị và tinh thần Âu châu. Tiến trình mất nhiều năm này đã cuối cùng kết thúc, và ba nước Tiệp, Hung và Ba Lan đã chính thức gia nhập năm 1999.
Với bao thăng trầm và bao giai đoạn thách thức mục đích tồn tại của NATO trong gần 7 thập niên qua, có lẽ không có thử thách nào làm lung lây liên minh này như Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã làm từ khi nhậm chức cho đến nay. Đầu năm nay, một tường trình từ báo New York Times cho hay ông Trump đã thảo luận riêng về việc rút khỏi NATO bởi ông không thấy nhu cầu cho một liên minh quân sự [3]. Theo các nhà làm luật và các chuyên gia pháp lý hàng đầu tại Hoa Kỳ thì nếu ông Trump cuối cùng quyết định rút khỏi NATO thì phía lập pháp cũng không thể ngăn cản ông làm chuyện này [4]. Quyền hành của một tổng thống về mặt chính sách ngoại giao là rất lớn trong khi lập pháp thường im lặng, và các rào cản ngăn chặn quyền lực của tổng thống thường là truyền thống và chuẩn mực chứ không phải là luật thực tế.
Tin đồn về ý định rút khỏi NATO của Trump đã làm cho các nhà lập pháp, giới chuyên gia về ngoại giao cũng như quốc phòng tại Hoa Kỳ, Canada và liên hiệp Âu Châu lo lắng.
Theo một số chuyên gia thì việc rút ra khỏi NATO là một trong những điều tai hại nhất mà một tổng thống có thể làm đối với quyền lợi của Hoa Kỳ. Có người cho rằng đây là một liên minh có lợi nhất và quyền lực nhất được tạo ra trong một lịch sử kiên trì và đau thương kéo dài 70 năm, do đó quyết định rút khỏi NATO là một thành công ngoạn mục nhất mà Vladimir Putin có thể mơ tưởng tới. Còn cựu Đề Đốc James G. Stavridis, từng nắm vai tư lệnh đồng minh tối cao của NATO, cho rằng ý tưởng rút khỏi NATO, khoan nói đến hành động, đã là món quà thế kỷ cho Putin; còn nếu thật sự rút khỏi thì đó là "sai lầm địa chính trị có tỷ lệ khủng khiếp".
Tuy nhiên chỉ vài ngày sau bài tường trình trên, ông Trump tuyên bố tại Lầu Năm Góc vào ngày 17 tháng Giêng năm nay rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ NATO một trăm phần trăm, nhưng ông nói với các nước thành viên (Âu châu) rằng họ cần tiến lên và cần phải trả tiền [5].
Việc yêu cầu các quốc gia thành viên đóng phần của mình là đúng đắn và cần thiết. Trong thời gian qua, trong khi trung bình đa số các thành viên Âu châu chỉ đóng góp tài chánh dưới hai phần trăm tổng sản lượng quốc gia (GDP) thì Hoa Kỳ trung bình đóng trên ba phần trăm GDP, và cao nhất là dưới thời của Tổng thống Barack Obama, trên bốn phần trăm [6]. Nhưng hai hoặc bốn phần trăm GDP của Hoa Kỳ mang lại sự khác biệt chênh lệch so với sự đóng góp của tất cả các quốc gia thành viên còn lại. Theo bài báo trên Washington Post năm 2012 thì Hoa Kỳ đã tài khoản cho 75 phần trăm tổng chi của NATO, tăng từ 50 phần trăm trong thời Chiến tranh Lạnh [7].
Cũng cần nên biết rằng không chỉ chính quyền Trump mới nhắc nhở và tạo áp lực lên các thành viên Âu châu phải đóng góp vào việc duy trì thế liên minh với Bắc Mỹ qua tổ chức NATO. Chính quyền Obama đã nhiều lần cảnh báo các thành viên Âu châu của NATO là không thể tiếp tục mong đợi Hoa Kỳ hứng chịu khoản chi lớn lao này mà không góp phần tương xứng của mình. Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld vào năm 2004 cũng dự tính cắt từ bốn xuống còn hai lữ đoàn quân đội Hoa Kỳ đang đóng quân tại các mặt trận Âu châu để giảm phí tổn nhưng vì sự phản đối của các tướng lãnh nên ý định này không thành công.
Sự cắt giảm ngân sách của nhiều quốc gia thành viên tại Âu châu là một phần do sự trì trệ kinh tế do ảnh hưởng của vụ khủng hoảng tài chánh toàn cầu vào năm 2008. Tuy nhiên một phần lý do khác là vì một số quốc gia thành viên cũng không tán thành các nhiệm vụ và mục tiêu của NATO mà họ xem là đã bị Hoa Kỳ áp đảo chủ trương và hành động trong khi họ không có tiếng nói đáng kể nào. Chẳng hạn, phần lớn các hoạt động của NATO kể từ biến cố 11 tháng 9 là chống khủng bố tại Afghanistan và Iraq, mà họ không thấy sự liên hệ trực tiếp đến an ninh và ngoại giao tại Âu châu. Tuy nhiên sau một số vụ khủng bố tại Âu châu, và sự kiện Nga thôn tính vịnh Crimea từ nước Ukraine vào tháng Hai/Ba năm 2014, các quốc gia thành viên lại cảm thấy lo ngại về một nước Nga của Putin. Họ lo ngại là vì từ đó trở đi Nga tiếp tục xâm chiếm phía đông của Ukraine, ủng hộ chế độ độc tài hà khắc Assad tại Syria, bắn rớt máy bay của hãng hàng không Malaysia, can thiệp vào bầu cử tại Hoa Kỳ, và gần đây nhất là dùng chất độc Novichok tấn công thần kinh để ám sát cựu tình báo Nga là Sergei Skripal và người con gái là Yulia ngay trên lãnh thổ Anh quốc.
Ngay sau sự kiện Nga thôn tính Crimea, Tổng Thư ký của NATO là Anders Fogh Rasmussen cảnh báo là Âu châu bây giờ khác so với Âu châu của tháng trước, và do đó cần phải đóng góp nhiều hơn nữa [8]. Các thành viên NATO sau đó đồng ý là sẽ gia tăng ngân sách quốc phòng lên 2 phần trăm. Nhưng từ khi lên cầm quyền vào đầu năm 2017, Trump dùng mọi cơ hội để áp lực lên các nước thành viên, tuyên bố rằng Hoa Kỳ có thể sẽ không bảo vệ đồng minh Âu châu nếu họ không chịu thanh toán hóa đơn [9].
Với áp lực này, NATO sẽ phải cải tổ hoặc chuyển hóa để tồn tại. Cung cách hành xử của Nga làm cho vai trò của NATO càng cần thiết và ý nghĩa hơn. Nhưng bị đe dọa bên hướng đông, và bị áp lực bên hướng Tây, các quốc gia thành viên NATO tại Âu châu cần nỗ lực hơn nữa trong việc tìm đồng thuận để nhận lãnh trách nhiệm của mình, chủ động vai trò lãnh đạo như một cộng sự viên (partner) thay vì phụ thuộc quá nhiều vào Hoa Kỳ như đã và đang hiện nay. Mặc dầu quốc hội Hoa Kỳ đứng về phía Âu châu coi trọng thế liên minh này, và mời Tổng Thư ký NATO Jens Stoltenberg phát biểu tại quốc hội vào ngày 3 tháng Tư này đánh dấu kỷ niệm 70 năm, đây là lúc cần phải suy xét lại mối quan hệ một cách thấu đáo. Cách cư xử của Trump đối với NATO trong thời gian qua, và việc khen ngợi tài lãnh đạo của Vladamir Putin nhưng coi thường các thành viên Âu châu, là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với bất cứ một quốc gia nào mong đợi rằng quốc gia khác sẽ chiến đấu hay bảo vệ mình miễn phí. Nó cũng nhắc nhở chúng ta rằng một quan hệ bất cân xứng, trong đó quyền lực nghiêng hẳn về một phía, là một quan hệ không bền vững bởi vì trước sau gì phe mạnh cũng có thể, và có những kẻ, lạm dụng và ngược đãi phe yếu.
Úc Châu, 02/04/2019
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 03/04/2019
Tài liệu tham khảo :
1. Strobe Talbott, "A brief history of NATO, from Truman to Trump", Brookings, 27 March 2019.
2. M. E. Sarotte, "The Convincing Call From Central Europe: Let Us Into NATO", Foreign Affairs, 12 March 2019.
3. Julian E. Barnes and Helene Cooper, "Trump Discussed Pulling U.S. From NATO, Aides Say Amid New Concerns Over Russia", The New York Times, 14 January 2019.
4. Robbie Gramer, "Trump Can’t Do That. Can He ?", Foreign Policy, 16 January 2019.
5. Rebecca Morin, "Trump : We will be with NATO ‘100 percent’", Politico, 17 January 2019.
6. Mohib Iqbal, "Burdens and threats at NATO summit", Lowy Institute,
7. Craig Whitlock, "NATO allies grapple with shrinking defense budgets", The Washington Post, 29 January 2012.
8. Steven Erlanger, "Europe Begins to Rethink Cuts to Military Spending", The New York Times, 26 March 2014.
9. Philip H. Gordon and Jeremy Shapiro, "How Trump Killed the Atlantic Alliance", Foreign Affairs, 26 February 2019.