Dù dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam đã ‘vẽ’ cơ cấu dự kiến ít nhất 80% của dự toán gần 60 tỷ USD làm dự án này là từ ‘tiền trên trời rơi xuống’ – tức nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA, nhưng thực tế các nguồn ngoại tệ mạnh từ viện trợ không hoàn lại, viện trợ ODA và kiều hối của ‘khúc ruột ngàn dặm’ lại khá bi đát. Từ năm 2014, chính thể Việt Nam đã không còn nhận được nguồn vốn ODA đáng kể nào, còn từ năm 2018 đã không còn ODA ưu đãi.
Từ năm 2018 Việt Nam đã không còn nhận được ODA ưu đãi
Phải chăng đã có một kịch bản tuyệt mật được nhóm lợi ích cá mập trù tính là một khi không thể tiếp cận được nguồn vốn vay ODA ưu đãi nữa, nhóm này sẽ quay sang Trung Quốc ?
Trong thực tế đã có quá nhiều bằng chứng sắc máu và man rợ về những nguồn vốn che giấu của Trung Quốc tuồn vào Việt Nam bằng hình thức đầu tư, thương mại và cho những ‘nội gián’ người Việt đứng tên.
Tại kỳ họp quốc hội tháng 5 - 6 năm 2019, chính Bộ trưởng Bộ Giao thông và vận tải Nguyễn Văn Thể đã trần tình trước Quốc Hội rằng “Chúng ta đã ký hiệp định với Trung Quốc nên không được chỉ định thầu. Nhà thầu là do phía Trung Quốc chỉ định”.
Bộ Giao thông và vận tải và Bộ Xây dựng là hai ngành xếp đầu bảng về ‘thành tích’ chỉ định thầu và để cho tổng thầu Trung Quốc chi phối gần như trọn vẹn các dự án lớn. Còn Bộ Công thương từ thời bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cũng không chịu kém cạnh với bảng vàng cho nhập khẩu cả đường chính ngạch lẫn đường tiểu ngạch hàng hóa Trung Quốc, tiếp tay ‘giết sống’ hàng nội địa.
Vào tháng 3/2019, trong bối cảnh Bộ Giao thông và vận tải hùng hục thúc dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam có dự toán đầu tư lên đến 15 tỷ USD (vượt 5 tỷ USD so với dự toán trước đây) lên chính phủ và ra quốc hội, một doanh nghiệp lớn của Trung Quốc là Tập đoàn Xây dựng Thái Bình Dương, với người đứng đầu của nó là Nghiêm Giới Hòa đã gặp trực tiếp các quan chức của Bộ Giao thông và vận tải để “gợi ý” và đề nghị mô hình đầu tư cho dự án dự án đường bộ cao tốc Bắc Nam, trong lúc dự án này còn chưa phát hành hồ sơ sơ tuyển nhà đầu tư.
Đến tháng 7 năm 2019, Tập đoàn Xây dựng Thái Bình Dương đã tiếp cận với quan chức chủ tịch quốc hội Việt Nam là Nguyễn Thị Kim Ngân, trước khi bà Ngân sang Trung Quốc gặp Tập Cận Bình - một chuyến đi bị nghi ngờ là những hứa hẹn và cam kết của giới chóp bu Việt Nam như "Quốc hội Việt Nam sẽ cùng Chính phủ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư, làm ăn, mở rộng sản xuất, ổn định tại Việt Nam trên cơ sở hai bên cùng có lợi" sẽ khiến yết hầu kinh tế của nước này bị ‘đại cục’ bóp nghẹt hơn nữa.
Hãy nhìn ra chân tướng của Tập đoàn Xây dựng Thái Bình Dương đằng sau đó : ‘đổi đất lấy công trình’ hầu như chắc chắn sẽ là phương án mà tập đoàn Trung Quốc nêu ra và có thể sẽ được giới lãnh đạo Bộ GTVT mau mắn gật đầu để cùng ‘bán nước Việt Nam’, sau đó được trình cho Bộ Chính trị đảng, trong đó có những nhân vật như Nguyễn Thị Kim Ngân - vừa đi Trung Quốc - có vẻ đã rất sẵn lòng ‘bán, bán nữa, bán mãi’. Hiển nhiên, Bắc Kinh sẽ đổ cả một núi tiền vào các dự án cao tốc này với điều kiện Tập đoàn Xây dựng Thái Bình Dương phải được chọn những vị trí và diện tích đất không chỉ màu mỡ mà còn có thể đan xen một cách đầy mưu toan với hệ thống bố phòng quân sự của phía Việt Nam.
Nếu quả thực xảy ra kịch bản dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam có bàn tay của Bắc Kinh ẩn phía sau đạo diễn để cho Bộ Giao thông và vận tải và chính phủ trình, quốc hội ‘gật’ và đảng không lắc, tương lai của dự án này sẽ cực kỳ đen tối, không chỉ nhái lại dự án đường sắt Cát Linh – Hà Nội do Trung Quốc chỉ định thầu, đội vốn lên tới hai lần rưỡi và kéo dài thời gian thi công quá lâu, mà còn dẫn tới nguy cơ về tồi tệ chất lượng và hậu quả khôn lường về chính trị.
Tiệc ăn chực nào cũng phải có lúc tàn. Chẵn một phần tư thế kỷ từ lúc bắt đầu ‘ăn đủ, ăn dày’ nguồn tiền ODA - viện trợ phát triển chính thức - của thế giới ‘tư bản giãy chết’, đến tháng Tám năm 2018 chính thể độc đảng ở Việt Nam đã phải gián tiếp thừa nhận hiện thực nợ công ngập đầu : ODA chỉ còn rất ít hoặc sẽ hết sạch.
Đồng hồ nợ công của tạp chí The Economist nêu con số nợ công của Việt Nam vào ngày 16/7/2017 là hơn 94 tỉ USD. (Hình : Trích từ website của The Economist)
Những ai sẽ phải thất vọng và tuyệt vọng ?
Đứng đầu bảng nạn nhân của hậu quả nợ công ODA là dân. Luôn là nhân dân.
Núi nợ 210% GDP và quả báo ứng nghiệm !
Liệu con số 35 triệu đồng nợ công đè lên mỗi đầu dân từ người già sắp chết đến trẻ sơ sinh mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cơ quan có trách nhiệm chính ‘quản lý nguồn vốn ODA’ nhưng từ mấy năm qua đã có nhiều biểu hiện muốn ‘nghỉ ngơi vì quá no’ và muốn đẩy bớt trách trách nhiệm cho các cơ quan khác như Bộ Công thương, Ngân hàng nhà nước, Văn phòng chính phủ cũng đang ‘no’ không kém - công bố có đúng với thực tế ?
Thực tế còn khốn quẫn hơn nhiều, rất nhiều. Trong khi vào thời thủ tướng bị xem là ‘phá chưa từng có’ - Nguyễn Tấn Dũng - trị vì 9 năm và cũng là thời vay mượn ODA xả láng bất cần hậu quả nhất, tỷ lệ nợ công quốc gia luôn bị ép dưới 65% GDP - tức chỉ khoảng 130 tỷ USD, thì con số nợ công trần trụi hơn rất nhiều đã lên tới 431 tỷ USD - tức chiếm đến 210% GDP, vượt rất xa ngưỡng cho phép 65% GDP (theo tiêu chí thế giới) và thực chất đã quá nguy hiểm đối với một đất nước mà mức độ tàn tạ về tài nguyên thiên nhiên và ngân sách luôn tỷ lệ thuận với thói ‘ăn của dân không chừa thứ gì’.
Việt Nam đương đại năm 2018 và ‘toàn đảng, toàn quân, toàn dân lập thành tích tiến tới đại hội 13’ vào năm 2021. Trong cơn mê sảng quằn quại giai đoạn cuối, quả báo đã ứng nghiệm.
Hạn ngạch đạo đức hay giới hạn chấm mút ?
Quả báo ODA đã chính thức bắt đầu từ năm 2012. Ngay trước thềm hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ giữa kỳ năm 2012, Bộ Ngoại giao Đan Mạch đã không ngần ngại tuyên bố ngừng 3/4 dự án ODA tài trợ cho Việt Nam do nghi ngờ một số cơ quan đơn vị sử dụng chi sai khoảng 11,4 tỷ đồng trên tổng số tiền 69 tỷ đồng do Đan Mạch tài trợ, tương đương khoảng 19,9 triệu cua-ron.
Đến năm 2013, Thụy Điển đã bắt buộc phải ngừng vô thời hạn các khoản viện trợ ODA cho Việt Nam sau khi phát hiện hàng loạt gian dối của quan chức Việt. Sau đó cả Bộ Ngoại giao Australia vài vài quốc gia khác cũng bắt đầu cắt giảm viện trợ.
Một trong những "gương người tốt việc tốt" ghê gớm nhất là vụ PMU18 vào năm 2006, với hình ảnh rất tiêu biểu của trưởng ban PMU18 Bùi Tiến Dũng thuộc Bộ Giao thông và vận tải - một kẻ tắm bia khi quan hệ với gái.
Sau đó, báo chí Nhật Bản - chứ không phải báo chí Việt Nam - đã phát hiện công ty tư vấn quốc tế Thái Bình Dương của Nhật đã phải hối lộ cho quan chức Việt Nam phụ trách dự án đại lộ Đông-Tây ở Sài Gòn một phần hoa hồng tương đương 10% giá trị hợp đồng. Lúc đó cũng là một trưởng ban của PMU Đông-Tây là Huỳnh Ngọc Sĩ đã nhận số tiền hối lộ trên 800.000 đô la.
Chỉ vài tuần lễ sau khi xảy ra vụ việc 6 quan chức ngành đường sắt Việt Nam bị bắt tạm giam do bị nghi nhận tổng cộng 16 tỷ đồng tiền hối lộ từ công ty Tư vấn Giao thông Nhật Bản (JTC-Japan Transportation Consultants), vào đầu tháng Sáu năm 2014, Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã ra thông báo cho biết các khoản vay mới bằng đồng yen và các khoản tài trợ cho dự án đường sắt đô thị Hà Nội đã bị đình chỉ.
Hạn ngạch đạo đức giới quan chức tham nhũng ODA đã không còn biết giới hạn chấm mút là gì.
Thậm chí còn có những tỉ lệ tham nhũng, thất thoát cụ thể đối với ODA ở Việt Nam. Trong một lần hiếm hoi được ‘mở miệng’, báo điện tử Vietnamnet đã nêu ra một minh họa cụ thể : từ năm 2009-2010, sau khi đại sứ quán Nhật tại Việt Nam loan báo sẽ viện trợ không hoàn lại để một số tỉnh xây trường học, đường sá hạ tầng& thì có một phụ nữ mà tờ báo không dám nêu tên, chỉ cho biết là cư ngụ tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, đã liên lạc với lãnh đạo nhiều xã ở Hà Tĩnh để đặt vấn đề chạy dự án, với điều kiện khi thành công phải cắt cho bà ta 40%.
Sau đó nguồn vốn ODA đã được rót về cho ba xã ở Hà Tĩnh, trong đó có một xã tên là Gia Phố được nhận 80.000 đô la để xây dựng trường tiểu học. Chính quyền xã này đã lấy 8.000 đô la chia cho nhau, rồi lấy thêm 24.000 đô la chi cho người phụ nữ làm môi giới. Tỉ lệ 40% tương tự cũng xảy ra ở huyện Cẩm Xuyên. Do bị ăn chặn thảm thiết đến thế, các cơ sở giáo dục, đường sá ở ba xã trên đều sụt giảm mạnh về quy mô và chất lượng.
Còn rất nhiều dẫn chứng khác về lãng phí và "ăn dày" ODA, đặc biệt là những dự án sử dụng vốn ưu đãi trong lĩnh vực giao thông bị chậm tiến độ và đội vốn lớn so với tổng mức dự kiến đầu tư ban đầu như dự án tuyến metro Nhổn - ga Hà Nội, dự án đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông ở Hà Nội, dự án xây dựng tuyến metro số 1 (Bến Thành-Suối Tiên) và dự án metro tuyến Bến Thành-Tham Lương ở Sài Gòn...
Thế nhưng điều kỳ quái lạ là cho đến nay, bất chấp yêu cầu trong rất nhiều lần các tổ chức tài trợ quốc tế và giới chuyên gia phản biện trong nước, ở Việt Nam vẫn chưa có bất kỳ tổ chức giám kiểm độc lập nào cho một khu vực được coi là nhạy cảm như ODA. Những tổ chức phi chính phủ Việt Nam muốn làm việc này thì không được cho phép thành lập, trong khi đó những tổ chức phi chính phủ nước ngoài vốn có truyền thống kiểm định những dự án lớn như thế này lại chưa hoạt động ở Việt Nam, và cũng chưa được được một cơ quan nhà nước Việt Nam nào mời. Các cơ quan quản lý Việt Nam chỉ muốn ‘ôm’ và ‘ăn’…
Cạn ODA và bi kịch vĩ đại
2018, sau vài chục năm "vay mượn, vay mượn ồ ạt cho đến khi sụp đổ," ngân sách Việt Nam đã biến thành một tổ mối đúng nghĩa : tỉ lệ nợ công/GDP vượt xa giới hạn nguy hiểm, còn cộng đồng tài chính quốc tế đang thẳng tay "cấm cửa" vay mượn ODA đối với chính thể mà ngay giới chuyên gia quốc tế còn rành rẽ một giai thoại dân gian : một chương trình an sinh xã hội của chính phủ Việt Nam nhận nguồn ODA có tên là ‘Chương trình 135’, nhưng khi tiền được phân bổ từ cấp cơ quan trung ương xuống cơ quan địa phương rồi đến tay người dân thì đã biến thành công thức ‘5 - 3 - 1’, tức những người khốn khổ nhất trong xã hội lầm than này chỉ nhận một phần quá nhỏ nhưng vẫn phải tự nguyện ‘cám ơn đảng và nhà nước ta’, cũng tự nguyện làm bình phong để giới quan chức có cớ ‘xóa đói giảm nghèo’ để xin ODA.
2018, sau vài chục năm nhận ‘lộc trời’, ODA đã trở thành một trong những bi kịch ‘vĩ đại’ nhất của chính thể Việt Nam.
Bi kịch đến nỗi mà vào một buổi sáng mùa thu năm 2017, Thủ tướng Phúc đã phải "đề nghị Ngân hàng thế giới tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho Việt Nam các khoản không hoàn lại để giảm tối đa làm chi phí vay vốn, tăng thành tố ưu đãi của các khoản vay" - cử chỉ xin tiền đầu tiên và hình như không còn quá chú tâm về lòng tự trọng kể từ ngày quan chức này phải lãnh trách nhiệm ‘đổ vỏ’ cho đời thủ tướng trước bị xem là ‘phá chưa từng có’ là Nguyễn Tấn Dũng…
Bi kịch đến mức mà vào cuối tháng Sáu năm 2018, cuộc gặp của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ với Bộ Tài chính Hoa Kỳ ở Washington đã khiến lộ ra một ‘bí mật quốc gia’ mà mấy năm qua giới quan chức Việt Nam cố tình giấu nhẹm : ông Huệ đề nghị Mỹ "mở lại kênh cho vay ODA và vay ưu đãi cho Việt Nam, tăng cường các chương trình viện trợ trực tiếp và gián tiếp thông qua các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các dự án nhân đạo và hỗ trợ phát triển tại Việt Nam".
Cũng có nghĩa là trong những năm gần đây, lượng ODA và viện trợ không hoàn lại được cấp từ Mỹ cho Việt Nam đã giảm về 0.
Nhưng Mỹ không phải là quốc gia duy nhất đặt Việt Nam vào trạng thái zero viện trợ, mà động thái này như thể ‘không hẹn mà gặp’ đã diễn ra phổ biến ở gần hết các nước cấp viện trợ cho Việt Nam, dẫn đến một phát hiện lớn mà ‘đảng và nhà nước ta’ đã không dám công bố trong suốt 4 năm qua : từ năm 2014 đến năm 2018, viện trợ ODA cho Việt Nam luôn cận kề với vạch 0.
Đến lúc này, người ta đã có thể hiểu vì sao giới quan chức cao cấp Việt Nam đã tận dụng các sự kiện hội thảo quốc tế, các cuộc gặp song phương ở Hà Nội lẫn các chuyến công du nước ngoài để phát ngôn ‘xin tiền’ không biết mệt mỏi.
Hết mật, sạch ruồi và ‘tìm đâu ra nhân tài’
2018 rất có thể là năm chứng kiến sự sụt giảm thảm thiết nhất của nguồn vốn ODA (viện trợ phát triển chính thức) vào Việt Nam, bổ túc một dấu ấn cho năm ‘thắng lợi kinh tế chưa từng có’ và ‘tiếp tục gặt hái nhiều thành công đối ngoại’ theo lối tuyên truyền không còn biết trời cao đất dày của chính thể độc đảng này, chìm nghỉm trong bức tranh tổng thể mang gam màu xám ngoét - được đặc tả bởi sự phối ngẫu của ba thành phần ‘binh chủng hợp thành’ : nợ công - nợ xấu - ngân sách.
Tháng Tám năm 2018, tròn một năm sau khi Việt Nam bị các tổ chức tín dụng quốc tế là Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á Châu (ADB) chính thức tăng lãi suất cho vay gấp 3 lần và giảm thời gian ân hạn xuống chỉ còn một nửa, các cơ quan quản lý trên dải đất ‘lệ tuôn hình chữ S’ cùng giàn đồng ca của hơn nhiều tờ báo nhà nước một lần nữa rên la thống thiết ‘Gánh nặng ODA’, ‘Nhiều dự án vay vốn ODA không có khả năng trả nợ’, ‘Xác định rõ trách nhiệm để ODA vượt trần 300.000 tỷ’, ‘Cân nhắc sử dụng nguồn ODA’, ‘ODA đã hết hấp dẫn’…
Không chịu cải cách thể chế, cũng chẳng chịu cải thiện nhân quyền một cách thực tâm, chi tiết và bằng hành động mà vẫn là thói trớt trả miệng lưỡi như trước đây, chính thể độc trị ở Việt Nam vào năm 2019 có thể sẽ nhận được con zero to tướng giá trị ODA mà các tổ chức quốc tế ký kết với Việt Nam.
Nghề công chức liên quan đến nhiệm vụ ‘tiếp nhận và điều tiết nguồn viện trợ ODA’ ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Sở Kế hoạch và Đầu tư ở các tỉnh thành cũng bởi thế đang và sẽ kém hẳn phần hấp dẫn so với thời vàng son trong dĩ vãng.
Nếu trong dĩ vãng phải chạy tiền đậm mới có thể được trở thành công chức ngồi thực thi công thức ‘5 - 3 - 1’, thì nay và những năm tháng tới, chỗ nào hết mật sẽ tự nhiên sạch bóng ruồi.
Nếu dân Việt tuyệt vọng vì núi nợ công trên đầu mình thì giới quan chức cũng cuống cuồng thất vọng : chẳng còn gì để ‘ăn’.
Hẳn đó là nguồn cơn vừa sâu xa vừa trực tiếp đã khiến gần đây một số quan chức Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải than vãn ‘khó tìm được nhân tài’ cho bộ này…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 04/09/2018
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa lên tiếng đề nghị Ngân hàng Thế giới-World Bank tìm kiếm nguồn vốn tài trợ không hoàn lại cho Việt Nam trong giai đoạn phát triển quốc gia đến năm 2035.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gặp gỡ Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, ông Ousmane Dione, chiều ngày 20/09/2017 tại Hà Nội. Courtesy : Chinhphu.vn
Tại cuộc gặp gỡ với ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới-World Bank vào chiều ngày 20 tháng 9, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói rằng Việt Nam hiện đang trong bối cảnh dừng nhận các khoản vay ưu đãi từ Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA), thuộc World Bank kể từ đầu tháng 7 năm nay và các nguồn vốn vay ưu đãi từ nước ngoài (ODA) đang giảm dần, chỉ còn vốn vay ưu đãi như nguồn Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD) nên đề nghị Ngân hàng Thế giới tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho Việt Nam các khoản không hoàn lại để giảm tối đa làm chi phí vay vốn, tăng thành tố ưu đãi của các khoản vay ở trong nước nhằm góp phần giải quyết những nút thắt của thách thức phát triển đến năm 2035.
Trước lời đề nghị vừa nêu của người đứng đầu Chính phủ Việt Nam, một số chuyên gia tài chính cho rằng đây được xem như là một trong những giải pháp tốt. Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, một chuyên gia tài chính-ngân hàng độc lập đưa ra lời nhận định với RFA :
"Trong tình thế nợ công của Việt Nam càng ngày càng tăng và Chính phủ có rất nhiều chi tiêu đầu tư thành ra tôi nghĩ rằng việc Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các tổ chức quốc tế, trong đó có World Bank có những nguồn cho vay không hoàn trả là điều hợp lý và cần thiết cho Việt Nam".
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh Việt Nam hiện đang nằm trong nhóm các nước có thu nhập trung bình (tính theo GDP bình quân đầu người khoảng 2000 đô la Mỹ/năm), do đó các tổ chức tài chính thế giới hạn chế việc cho vay cũng như mức lãi suất có thể cao hơn và các điều kiện cho vay cũng khắt khe hơn.
Vị chuyên gia với hơn 35 năm kinh nghiệm trong lãnh vực tài chính ngân hàng, ông Nguyễn Trí Hiếu cho rằng điều kiện quan trọng nhất mà các tổ chức tài chính thế giới yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải đáp ứng để được hưởng những nguồn vốn tài trợ, đặc biệt các nguồn vốn không hoàn trả là cam kết sẽ đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa và trao lại việc sản xuất kinh doanh cho tư nhân. Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu giải thích :
"Bởi vì các tổ chức tài chính nước ngoài muốn Việt Nam trở thành nền kinh tế thị trường thực thụ. Trong đó vai trò của các doanh nghiệp có vốn nhà nước chỉ nên tập trung vào các ngành nghề mà tư nhân không thể đảm nhiệm được, chẳng hạn như quốc phòng hay lãnh vực kinh tế liên quan đến an ninh quốc gia hoặc an sinh xã hội của đại chúng. Chỉ trong những giới hạn như thế thì các doanh nghiệp có vốn nhà nước nên tồn tại. Và phần còn lại, nếu mà tư nhân có thể đảm nhiệm được thì phải trao trả cho tư nhân".
Các nhà quan sát tình hình Việt Nam ghi nhận Chính phủ Hà Nội đang nỗ lực thực hiện quá trình cổ phần hóa tại quốc gia này trong nhiều năm qua và hiện tại đang trong giai đoạn cuối cùng là các doanh nghiệp nhà nước còn lại sẽ thoái vốn và bán cổ phần cho tư nhân.
Tại buổi gặp gỡ với Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới, ông Ousmane Dione, Thủ tướng Việt Nam cũng khẳng định Chính phủ sẽ tiếp tục đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn ODA ; đồng thời nhấn mạnh những gì tư nhân làm được thì sẽ để cho tư nhân làm.
Trước đó, tại Diễn đàn Kinh tế tư nhân lần thứ 2, được tổ chức hồi cuối tháng 7, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết chủ trương của Chính phủ là phấn đấu nâng tỉ trọng đóng góp của kinh tế tư nhân lên từ 50 đến 60% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Thủ tướng đương nhiệm của Việt Nam còn cho biết đã thành lập Hội đồng tư vấn về cải cách hành chính, giải quyết kịp thời những vướng mắc cấp bách của doanh nghiệp cũng như yêu cầu các ngân hàng thương mại giảm lãi suất tối thiểu 5% và sẽ tiếp tục tìm giải pháp giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Song song với quyết tâm thực hiện chủ trương cổ phần hóa và chú trọng vào kinh tế tư nhân của Chính phủ Việt Nam để tăng trưởng kinh tế và phát triển quốc gia là cảnh báo của giới chuyên gia phải gắn liền với cải cách chính trị. Sau Hội nghị Trung ương 5, diễn ra hồi tháng 5, Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng tuyên bố với RFA rằng Việt Nam vẫn không thay đổi quan điểm cần cải cách chính trị, thì điều đó có nghĩa là không cắt đuôi ‘Định hướng Xã hội Chủ nghĩa’ nên không thể có được một nền kinh tế thị trường đầy đủ theo quy chế thị trường.
Đài Á Châu Tự Do ghi nhận ý kiến của một số doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam, hầu hết lên tiếng mặc dù Chính phủ thực hiện tiến trình cổ phần hóa, nhưng không đạt được hiệu quả vì thực chất các nhóm lợi ích đang thao túng nền kinh tế. Chủ một doanh nghiệp tư nhân nói với chúng tôi :
"Mỗi một nhóm lợi ích có một nhóm thân hữu riêng. Nhóm thân hữu này cạnh tranh với nhóm thân hữu kia, bằng thủ đoạn này hay thủ đoạn khác, chứ giới doanh nghiệp tư nhân làm sao mà cạnh tranh với các nhóm đó được. Thị trường bị lũng đoạn bởi các nhóm mạnh quá, đến nỗi bây giờ có làm gì đi nữa cũng không thay đổi được tình hình".
Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới, ông Ousmane Dione, trong buổi gặp gỡ vào chiều ngày 20 tháng 9, đã gửi báo cáo của World Bank về Việt Nam, trong đó có đề cập đến mâu thuẫn lợi ích, đến Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và cũng cho biết World Bank đang tính toán các biện pháp để huy động thêm nguồn vốn hỗ trợ hiệu quả cho Việt Nam.
Qua thông tin từ đại diện của Ngân hàng Thế giới liên quan việc tìm kiếm nguồn vốn hỗ trợ hiệu quả cho Việt Nam, các chuyên gia trong lãnh vực kinh tế tài chính mà Đài RFA tiếp xúc cho rằng một trong những điều kiện tiên quyết để Chính phủ Hà Nội có thể tiếp cận nguồn vốn không hoàn lại, theo như đề nghị của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với World Bank, là phải rốt ráo hoàn tất tiến trình cổ phần hóa vẫn còn nhiều vướng mắc.
Một nhà đầu tư đang ngồi xem giá cổ phiếu của Ngân hàng Thương Mại Châu Á (ACB Bank) tại sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội hồi tháng 8 năm 2012. Photo : AFP
Mặc dù Chính phủ Hà Nội được cho là rất nỗ lực trong việc tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhiều năm qua, tuy nhiên quá trình cổ phần hóa vẫn bị chậm vì còn nhiều bất cập do chính sách và cơ chế tại Việt Nam.
Theo số liệu báo cáo mới nhất của Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển Doanh nghiệp, trong 6 tháng đầu năm 2017 Việt Nam chỉ thực hiện cổ phần hóa đối với 20 doanh nghiệp trong bối cảnh quốc gia có hơn 700 doanh nghiệp nhà nước và nếu tính cả doanh nghiệp có góp vốn cổ phần của nhà nước thì con số lên đến 2000 doanh nghiệp.
Một trong những yếu tố lực cản làm chậm tiến trình cổ phần hóa được giới chuyên gia nêu lên là do quy định về định giá tài sản của doanh nghiệp nhà nước chưa rõ ràng, trong đó vẫn còn những "kẻ hở" về việc xử lý đất đai và xác định giá trị quyền sử dụng đất trong giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa.
Chuyên gia tài chính ngân hàng độc lập, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu cho rằng vì mô hình "Kinh tế Thị trường Định hướng Chủ nghĩa Xã hội" của Việt Nam nên sẽ rất khó khăn trong việc định giá tài sản của doanh nghiệp nhà nước. Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu nói nếu như nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường hoàn hảo thì việc định giá tài sản, bao gồm cả hữu hình (như máy móc nhà xưởng, bất động sản) lẫn vô hình (như thương hiệu, chất lượng nguồn nhân lực) sẽ rất dễ dàng trong việc đánh giá giá trị vì theo quy luật cung-cầu của thị trường.
Lên tiếng liên quan tài sản đất đai của doanh nghiệp nhà nước, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương và hiện là thành viên Ủy ban Chính sách Phát triển Liên Hiệp Quốc nói rằng Nhà nước cần phải tách rõ đất của doanh nghiệp nhà nước không phải là tài sản của doanh nghiệp nhà nước. Nếu không có sự tách bạch như thế thì khi cổ phần hóa các nhà đầu tư mua lại cổ phần của những doanh nghiệp có nhiều đất đai để trục lợi trong chính sách ưu đãi đối với việc cho doanh nghiệp thuê đất dài hạn từ Chính phủ. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhấn mạnh :
"Vấn đề phải thu hút được các nhà đầu tư chiến lược có chất lượng chứ không phải những nhà đầu tư chiến lược ‘giả hiệu’, là chỉ tìm đến đất rồi xây dựng trên miếng đất đó một ít công trình và ăn chênh lệch giá đất. Điều ấy sẽ không mang lại lợi ích gì cho quá trình cổ phần hóa".
Một số các chuyên gia nêu thêm một nguyên nhân khác khiến cho quá trình cổ phần hóa tại Việt Nam bị chậm là nguồn vốn của nhà đầu tư mua lại cổ phần của những doanh nghiệp nhà nước rất eo hẹp. Theo các chuyên gia, để thu hút được các nhà đầu tư chiến lược có thực lực, không phải "giả hiệu" như Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đề cập, thì cũng là một thách thức cho Chính phủ vì hiện tại chính sách đầu tư vẫn còn các hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài, chẳng hạn trong nhiều trường hợp Chính phủ không cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua 100% cổ phần của doanh nghiệp. Và một khi phạm vi đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài bị bó hẹp và họ không thể có vai trò điều hành chủ đạo thì điều đó có nghĩa Việt Nam mất cơ hội thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài với nhiều tiềm năng về vốn lẫn công nghệ.
Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam gặp phải những vướng mắc như vừa nêu, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu nhận định còn một nguyên nhân quan trọng nữa là chủ ý của giới lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước không muốn cổ phần hóa. Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu lập luận :
"Ban lãnh đạo biết rằng khi doanh nghiệp của họ bị cổ phần hóa họ có thể sẽ không còn ở trong vị trí lãnh đạo nữa. Khi doanh nghiệp cố phần hóa thì có hội đồng quản trị và hội đồng quản trị đóng vai trò tuyển dụng tuyển dụng ban lãnh đạo, ban quản lý. Những người quản lý trước có thể sẽ được mời lại hợp tác trong một thời gian rồi sau đó bị thay thế bằng ban quản lý mới. Thành ra, bản thân lãnh đạo của một số công ty có vốn nhà nước có thể nói là họ chống đối việc cổ phần hóa vì việc này ảnh hưởng đến quyền lợi riêng của họ".
Tuy nhiên, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu dự liệu trong tình hình Việt Nam đang có cao trào chống tham nhũng thì ít nhiều sẽ góp phần tạo thuận lợi cho tiến trình cổ phần hóa tại Việt Nam.
Cũng đồng quan điểm với ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng mặc dù rất nhiều doanh nghiệp nhà nước muốn cổ phần hóa trong bối cảnh chống tham nhũng hiện nay, nhưng :
"Họ đang rất cân nhắc. Họ rất e ngại rằng ngày hôm nay là anh hùng và ngày mai họ có thể vào tù".
Các chuyên gia mà RFA tiếp xúc khẳng định nếu Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói rằng "Chính phủ hành động cũng là Chính phủ lắng nghe" với ý chí làm cho nền kinh tế Việt Nam trở nên trong sạch hơn và đi vào đúng thông lệ quốc tế thì vấn đề cổ phần hóa được thúc đẩy một cách mạnh mẽ hơn. Và đây cũng là tiền đề đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tín dụng quốc tế thể theo đề nghị của Thủ tướng Việt Nam mong nhận được các nguồn vốn tài trợ không hoàn lại qua sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới-World Bank.
Mặc dù vậy, chúng tôi cũng ghi nhận có sự hoài nghi rằng World Bank không thể nào có một chính sách đặc biệt đối với Việt Nam trong thời gian tới vì Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình, như nhận định của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh "Vì nếu Ngân hàng Thế giới có chính sách đặc biệt đối với Việt Nam thì sẽ phải có rất nhiều chính sách đặc biệt với rất nhiều nước khác còn nghèo hơn Việt Nam và như vậy thì Ngân hàng Thế giới sẽ không thể nào giải quyết được".
Hòa Ái, phóng viên
Nguồn : RFA, 27/09/2017
Ảnh minh họa.
Bằng chứng mới
Vừa có thêm bằng chứng cho thấy vốn ODA bị chi sai mục đích.
Tại một phiên họp thường kỳ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào ngày 22/12/2016, phía Chính phủ đã đề nghị dùng 4.482 tỷ đồng để cấp vốn điều lệ cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội.
Nhưng "may mắn" là trong bối cảnh ngân sách cực kỳ eo hẹp, cơ quan thẩm tra của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị phía Chính phủ phải giải trình rõ việc sử dụng vốn vay ODA để cấp vốn điều lệ cho hai ngân hàng chính sách có bảo đảm phù hợp với các hiệp định vay đã ký kết hay không, hoặc có nằm trong các khoản vay của Chính phủ để xử lý cân đối ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản - đã bố trí năm 2016 nhưng nay chưa sử dụng - có thể cân đối cho việc bố trí vốn điều lệ cho hai ngân hàng hay không…
Câu hỏi đặt ra là ai và cơ quan nào đã tham mưu cho chính phủ để lấy vốn ODA cấp cho ngân hàng - một cơ chế thuần túy kinh doanh ? Chẳng lẽ giới lãnh đạo chính phủ không hề biết rằng đó là chi sai mục đích, là "cố ý làm trái các quy định quản lý tài chính của nhà nước", và sẽ khiến các tổ chức cho vay như Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển Á châu, Nhật Bản… phẫn nộ ra sao khi họ biết về sự thật bừa bãi và đầy tính lợi ích nhóm này ?
Chắc chắn việc vừa nêu không phải xảy ra lần đầu tiên.
‘Ăn vặt quen mồm’
Từ trước tới nay, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) do các tổ chức tài chính quốc tế và chính phủ nước ngoài đều quy định hết sức chặt chẽ về việc chính phủ Việt Nam không được sử dụng số tiền cho vay sai mục đích. Tuy nhiên trong thực tế "đúng quy trình" của ngân sách Việt Nam, tiền vay nước ngoài, đặc biệt là vay vốn ODA, có nhiều dấu hiệu đã bị chi sai mục đích và chi xài vô tội vạ. Tình trạng này rất phổ biến trong 8 năm cầm quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Tục ngữ Việt Nam có câu "ăn vặt quen mồm"…
Việc Chính phủ đề nghị Quốc hội cấp vốn ODA cho giới chủ ngân hàng cũng là một bằng chứng mới cho thấy dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ rất có thể đã quen với việc dùng tiền ODA để chi cho những mục đích khác, như thay vì sử dụng đúng mục đích ODA cho các dự án hạ tầng cơ sở và môi trường, họ đã cắt nguồn vốn này cho các khoản chi tiêu thường xuyên của chính phủ, thậm chí còn có thể cắt ODA cho các dự án xây dựng trụ sở hành chính và tượng đài từ hàng ngàn đến hàng chục ngàn tỷ đồng đầy tai tiếng và cực kỳ đáng lên án.
Ngay vào thời điểm nền kinh tế đang có nguy cơ bị phá sản, nhóm lợi ích ODA ở Việt Nam vẫn quyết liệt thực hiện chiến dịch không nương tay với những món vay mượn khổng lồ từ nước ngoài.
Từ nhiều năm qua, ODA đã trở thành một trong những quốc nạn về tham nhũng. Tỷ lệ thất thoát bình quân tại nhiều dự án ODA được đồn đoán khoảng 20 - 25%. Nhưng đó chỉ là mức "hợp pháp". Thậm chí tỷ lệ "lại quả" ODA còn lên đến 40% - được chứng thực bởi một dự án xây dựng trường tiểu học ở Hà Tĩnh và giai đoạn 2009 - 2010.
Có rất nhiều bằng chứng về lãng phí và "ăn dày" ODA.
Trong một lần hiếm hoi, báo điện tử Vietnamnet đã nêu ra một minh họa cụ thể : từ năm 2009-2010, sau khi đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam loan báo sẽ viện trợ không hoàn lại để một số tỉnh xây trường học và đường sá thì có một phụ nữ - mà tờ báo không dám nêu tên, chỉ cho biết là cư ngụ tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An - đã liên lạc với lãnh đạo nhiều xã ở Hà Tĩnh để đặt vấn đề chạy dự án, với điều kiện khi thành công phải cắt cho bà ta 40%.
Sau đó nguồn vốn ODA đã được rót về cho ba xã ở Hà Tĩnh, trong đó có một xã tên là Gia Phố được nhận 80.000 đô la để xây dựng trường tiểu học. Chính quyền xã này đã lấy 8.000 đô la chia cho nhau, rồi lấy thêm 24.000 đô la chi cho người phụ nữ làm môi giới. Tỉ lệ 40% tương tự cũng xảy ra ở huyện Cẩm Xuyên. Do bị ăn chặn trắng trợn đến thế, các cơ sở giáo dục, đường sá ở ba xã trên đều sụt giảm mạnh về quy mô và chất lượng.
Quá hiển nhiên, đó là lý do vì sao ngay cả những quốc gia được coi là có "thiện cảm" với Việt Nam như Đan Mạch, Thụy Điển, Úc… cũng phải thẳng tay cắt giảm viện trợ ODA đối với một chính quyền "ăn của dân không chừa thứ gì".
‘Đi đêm có ngày gặp ma’
Mặc dầu nhiều lần quốc tế đã đề nghị Việt Nam phải có cơ chế giám định độc lập về hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA, các bộ ngành và chính phủ Việt Nam vẫn nhắm mắt bịt tai. Cứ sau 5-7 năm, một nghị định về tiếp nhận, quản lý và sử dụng ODA lại được chính phủ ban hành. Nhưng lần nào cũng vậy, chẳng có bất cứ điều khoản nào cho thấy người dân được thông báo đầy đủ những thông tin ODA liên quan đến những dự án về dân sinh, cũng chẳng có chuyện người dân và Xã hội dân sự được đóng góp ý kiến và phản biện đối với những bất cập, bất công và nạn tham nhũng kinh hoàng trong môi trường ODA của giới quan chức.
Các nước Tây Âu và Bắc Âu cũng tài trợ cho chính phủ Việt Nam trong vài chục năm qua để "cải cách luật pháp" và "chống tham nhũng", nhưng việc này dường như cũng không mang lại kết quả. ODA vẫn là miếng mồi béo bở nhất cho các giới chức tham nhũng ở Việt Nam.
Nhưng "đi đêm có ngày gặp ma".
Ngay trước thềm hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ giữa kỳ năm 2012, Bộ Ngoại Giao Đan Mạch đã không ngần ngại tuyên bố ngừng 3/4 dự án ODA tài trợ cho Việt Nam do nghi ngờ một số cơ quan đơn vị sử dụng chi sai khoảng 11,4 tỷ đồng trên tổng số tiền 69 tỷ đồng do Đan Mạch tài trợ, tức là tương đương khoảng 19,9 triệu cua-ron.
Năm 2013, phía Thụy Điển đã bắt buộc phải ngừng vô thời hạn các khoản viện trợ ODA cho Việt Nam sau khi phát hiện hàng loạt gian dối của quan chức Việt. Sau đó cả Bộ Ngoại giao Úc và vài quốc gia khác cũng bắt đầu cắt giảm viện trợ.
Vào đầu năm 2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đi Úc để "khuyến mãi" nước ngoài mua nợ xấu. Nhưng có vẻ gương mặt ông Dũng đã xạm hẳn khi Thủ tướng Tony Abbott không những không quan tâm đến lời chào mua nợ xấu mà còn tuyên bố thẳng tay cắt giảm viện trợ đối với Việt Nam.
Năm 2016, sau vài chục năm "vay mượn, vay mượn ồ ạt cho đến khi sụp đổ," ngân sách Việt Nam đã biến thành một tổ mối đúng nghĩa : tỉ lệ nợ công/GDP vượt xa giới hạn nguy hiểm, còn cộng đồng tài chính quốc tế thì thẳng tay "cấm cửa" vay mượn ODA đối với chính thể vừa hoan hỉ nhận tín dụng quốc tế vừa thẳng tay đàn áp nhân quyền.
Dù các bộ ngành vẫn cố tuyên truyền là còn đến 22 tỷ đô la mà Việt Nam đã ký với đối tác quốc tế nhưng chưa giải ngân, sự thật là từ tháng 7/2017 trở đi, Việt Nam sẽ phải vay ODA với lãi suất không còn ưu đãi như vài chục năm trước, mà ngang giá với thị trường quốc tế, cùng thời gian vay không còn ân hạn như trước đây. Nguồn vốn ODA đã vay sẽ phải chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh khắt khe hơn hẳn, hoặc tăng lãi suất lên 2-3,5%/năm.
Sau vài chục năm tận tình đào mỏ ODA, cuối cùng mọi thứ đã đắt gấp đôi.
Tại phiên họp thường kỳ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào ngày 22/12/2016, sự an ủi và may mắn còn lại, dù đã quá muộn, để Bộ Tài chính không chấp nhận dùng ODA năm 2016 cấp cho hai ngân hàng Phát triển Việt Nam và Chính sách xã hội chỉ còn là tình trạng ngân sách đã khốn đốn đến mức không còn bất cứ khoản kết dư nào để vung tay quá trán. Bởi nếu còn kết dư, hẳn Bộ Tài chính rất có thể vẫn tiếp tục làm theo yêu cầu của chính phủ, bất chấp việc chi xài đó là "bất hợp hiến".
Trong cơn mê sảng vào giai đoạn cuối, quả báo đã ứng nghiệm với gia tốc ngày càng nhanh.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA tiếng Việt, 12/01/2017