Trung Quốc vẫn lầm lũi đẩy từng quân cờ trong thế trận bành trướng ở Biển Đông. Hoa Kỳ cũng biến Biển Đông thành một mặt trận trong cuộc chiến toàn diện chống Bắc Kinh. Chưa bao giờ, Hải quân Mỹ hoạt động năng động như trong năm 2020 để thách thức yêu sách chủ quyền phi lý của Bắc Kinh.
Có nhiều ý kiến cho rằng đây là thời điểm thuận lợi để Việt Nam kiện những yêu sách của Trung Quốc trong bản đồ "9 đoạn" lên Tòa Án Trọng Tài Thường Trực (PCA). Nhưng tại sao Hà Nội chần chừ ?
RFI tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon), Pháp.
*****
RFI : Thưa ông Gédéon,nhìn vào căng thẳng hiện nay giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, cũng như việc Washington ủng hộ mạnh mẽ hơn các nước ASEAN trong vấn đề Biển Đông, phải chăng đây là cơ hội để Việt Nam thể hiện kiên quyết hơn trong việc bảo vệ chủ quyền, kể cả khả năng Hà Nội kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế ?
Laurent Gédéon : Tôi xin nhắc lại tuyên bố ngày 13/07/2020 của ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo. Ông nói là Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa không có bất kỳ cơ sở nào để đơn phương áp đặt ý đồ của họ ở trong vùng nên tuyên bố chủ quyền trong "đường 9 đoạn" cũng không có giá trị pháp lý vì Tòa Trọng Tài đã bác những yêu sách của Trung Quốc. Ngoại trưởng Mỹ nói thêm là tuyên bố của Tòa mang tính quyết định và ràng buộc về mặt pháp lý đối với các bên.
Điểm này vô cùng quan trọng bởi vì lần đầu tiên, thông qua phát biểu của ngoại trưởng Pompeo, Hoa Kỳ đánh giá những yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông là "bất hợp pháp". Đây là một thay đổi lớn so với lập trường trước đây của Washington, chỉ tập trung vào tự do lưu thông hàng hải mà không phát biểu về tính hợp pháp trong những yêu sách chủ quyền của các bên có tranh chấp ở Biển Đông.
Trong bối cảnh này, Việt Nam có thể được lợi về mặt chính trị và biểu tượng, thông qua các kênh theo luật định để khẳng định những quyền của họ. Viện đến Tòa Trọng Tài Thường Trực có lẽ là giải pháp thích hợp. Nhưng nếu căn cứ vào phán quyết năm 2016 , thì Tòa Trọng Tài có lẽ chỉ có thể xác nhận lại với Việt Nam phán quyết đã được công bố với Philippines : Bản đồ "đường 9 đoạn" đi ngược lại với Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), như vậy là bất hợp pháp. Có nghĩa là những đòi hỏi chủ quyền chồng lấn của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, như tình trạng hiện nay, là bất hợp pháp.
Nhưng ngược lại, Tòa Trọng Tài Thường Trực cũng sẽ không công nhận những đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoài ra, cũng cần nhắc lại là Tòa không công nhận bất kỳ vùng đặc quyền kinh tế nào quanh những quần đảo này.
Việc Mỹ tuyên bố những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên hầu hết Biển Đông là "bất hợp pháp", cũng không đồng nghĩa là Washington công nhận những đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam, Philippines hoặc những nước khác đối với những quần đảo này.
Tôi cho rằng bối cảnh hiện này có thể là một cơ hội cho Việt Nam. Nhưng viện đến Tòa Trọng Tài Thường Trực Lay Haye có lẽ sẽ là con dao hai lưỡi, căn cứ vào việc Việt Nam có nhiều yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, như đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì thế, có phần nào đó là tế nhị trong việc đưa ra quyết định về vấn đề này.
RFI : Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị khẳng định trong cuộc họp trực tuyến ngày 23/07 với đồng nhiệm Việt Nam Phạm Bình Minh rằng Bắc Kinh không thay đổi lập trường về Biển Đông. Phải chăng đây là một lời đe dọa, một lời cảnh báo Hà Nội đừng có tìm trợ lực nước ngoài để can thiệp vào trong vùng ?
Laurent Gédéon : Theo quan điểm của tôi thì đúng là như vậy. Đó là một lời cảnh cáo nếu căn cứ vào toàn bộ tuyên bố của ngoại trưởng Trung Quốc. Ông Vương Nghị khẳng định Bắc Kinh không thay đổi chính sách rõ ràng của họ về Biển Đông. Ông ta cũng nói thêm là vì lý do địa chính trị, Hoa Kỳ tìm cách can thiệp vào Biển Đông, điều tầu chiến, tầu sân bay để thể hiện sức mạnh trong vùng với mục đích là tạo căng thẳng, gây nguy hiểm cho tình đoàn kết giữa các nước trong khu vực và phá hoại triển vọng phát triển của tất cả những nước này.
Lời cảnh cáo còn được thể hiện trong một câu nói của ông Vương Nghị khi cho rằng tất cả các nước liên quan phải hết sức cẩn trọng về vấn đề này, dĩ nhiên cũng ngầm nhắc đến Việt Nam : Bắc Kinh và Hà Nội phải giải quyết tranh chấp qua đối thoại và tham vấn song phương. Tương tự, theo quan điểm của Trung Quốc, các nước khác cũng cần tự tìm ra giải pháp ở cấp vùng và từ đó đi đến ký kết thỏa thuận. Ngoài ra, ông Vương Nghị cũng cho rằng các nước ở trong vùng, có nghĩa là Việt Nam và các nước ASEAN khác, phải dựa vào Bộ Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông đang được đàm phán, và nhất là phải tránh để các lực lượng bên ngoài can thiệp, dù là nhỏ nhất.
Từ những tuyên bố trên của ông Vương Nghị, một mặt chúng ta thấy là Trung Quốc không từ bỏ một điểm nào trong những yêu sách chủ quyền của họ ở Biển Đông, mặt khác cảnh cáo Việt Nam, cũng như tất cả các nước chống lại lập trường của Bắc Kinh, về một điểm - hiện là mối bận tâm hàng đầu của Trung Quốc : Đó là khả năng hoặc giả thuyết là các nước trong vùng xích lại gần Hoa Kỳ, trong khi Mỹ đang đối đầu mạnh mẽ với Trung Quốc về vùng biển này.
RFI :Có nghĩa là Việt Nam hiện nằm trong thế kẹt giữa hai cường quốc ?
Laurent Gédéon : Đúng thế. Về điểm này cần phải nhắc lại tổng quan vì tình hình hiện nay phức tạp và đã thay đổi nhưng cũng có thể mang lại cơ hội. Dưới chính quyền Trump, Hoa Kỳ đã tập trung vào vấn đề tương quan lực lượng với Trung Quốc, từng bắt đầu dưới thời Barack Obama với chiến lược "xoay trục sang Châu Á". Nhưng sự đối đầu trở nên trực diện hơn rất nhiều trong nhiệm kỳ của Donald Trump và hiện trải trên hai lĩnh vực chính : kinh tế và chiến lược.
Người ta nói nhiều đến cuộc chiến thương mại với việc hai bên tăng nhiều loại thuế quan. Bên cạnh đó là sự gia tăng về chiến lược, được thể hiện qua việc tăng cường các chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải FONOPS mà lần gần đây nhất là cuộc tập trận ở Biển Đông vào tháng 07/2020, với hai tầu sân bay lần đầu tiên cùng lúc tham gia.
Một điểm lý thú có thể nhận thấy là hiện nay, Trung Quốc trong thế thủ nhiều hơn so với cách đây 1 năm, một mặt là do Hoa Kỳ dồn dập tấn công, do tác động của cuộc chiến thương mại đến nền kinh tế Trung Quốc, mặt khác là do hình ảnh của Trung Quốc trở nên xấu đi từ khi xảy ra khủng hoảng Covid-19.
Trong bối cảnh này, Việt Nam bị kẹt giữa hai thế : Một bên là mong muốn duy trì mối quan hệ cân bằng với Trung Quốc, bên kia là viện đến sức mạnh của Hoa Kỳ để có thể đối phó với chính sách của Bắc Kinh. Nói một cách khác, Việt Nam đang giữ khoảng cách với cả hai phe lợi ích mang tính cơ hội. Câu hỏi đặt ra là Hà Nội có thể duy trì được tình trạng này đến bao lâu ?
Có thể bối cảnh hiện nay được cho là một cơ hội cho Việt Nam, nhưng để tận dụng được, có lẽ Hà Nội phải tránh chiến lược ngoại giao truyền thống "Ba không" : không tham gia các liên minh quân sự, không đi theo bất kỳ nước nào để chống lại một nước khác và không có các căn cứ quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Lập trường chính trị này không tương thích với khả năng xích lại gần với Hoa Kỳ về vấn đề Biển Đông.
Ngoài ra, để tận dụng cơ hội này, Việt Nam có lẽ phải nêu cụ thể hơn những đòi hỏi đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, từ vấn đề chủ quyền đến vùng đặc quyền kinh tế mà chúng ta thấy vẫn chưa được cập nhật về mặt pháp lý bởi vì Việt Nam lo ngại có thể những đòi hỏi đó sẽ bị Tòa Trọng Tài bác bỏ.
Việc này cũng đòi hỏi chính phủ Hà Nội phải suy nghĩ lâu dài về những giới hạn của những giả thuyết đàm phán với các nước có liên quan, như Phillipinnes, vì chúng ta nên nhớ là Việt Nam và Trung Quốc yêu cầu chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo, trái với Philippines, Malaysia, Brunei chỉ đòi chủ quyền đối với một số đảo.
Câu hỏi đặt ra là Hà Nội có những quyền lợi trên biển nào có thể thương lượng được hay không ? Trong trường hợp không, dù tranh chấp ít nhiều được giải quyết một cách nào đó với Trung Quốc, thì sẽ còn tiếp tục với các nước nói trên.
RFI :Trung Quốc lần lượt điện đàm với bốn nước Việt Nam, Philippines, Malaysia, Singapore sau phát biểu của ngoại trưởng Pompeo về Biển Đông. Khi ưu tiên trao đổi song phương với những lời hứa đầu tư, liệu Bắc Kinh có phá vỡ được mặt trận chung, dường như mới chỉ được hình thành ?
Laurent Gédéon : Đó là mối bận tâm thường trực của Bắc Kinh : Luôn ưu tiên đàm phán song phương ngay khi có vấn đề liên quan đến Trung Quốc. Chính quyền Bắc Kinh chẳng có lợi gì khi các nước "kẻ thù của kẻ thù là bạn" hợp sức chống lại họ. Chính vì thế, họ luôn tìm cách phá vỡ mọi mặt trận chung có nguy cơ chống lại họ ở Biển Đông. Ở điểm này, Trung Quốc được trợ lực qua việc Việt Nam, Philippines và Malaysia chưa có được tiếng nói chung thực sự. Điều này có lợi cho Trung Quốc và tặng cho Bắc Kinh một lá bài để thành công.
Thế nhưng, phía Trung Quốc cũng có một vấn đề, đó là lập trường bất di bất dịch của nước này, luôn từ chối thỏa hiệp, vì thế hạn chế khả năng đạt được thỏa thuận, ngay cả trong các cuộc đàm phán song phương. Nói một cách khác, nếu một thỏa thuận song phương được kí kết, thì có thể là do nước yếu hơn phải nhân nhượng Bắc Kinh trong khả năng có lợi nhất cho nước đó về mặt pháp lý để giúp được nước đó thay đổi tình thế sau này, nếu có thể. Nhưng chúng ta thấy là chưa có thỏa thuận song phương nào về điểm này. Thêm vào đó, phải nhắc đến một điểm : Công luận của các nước ASEAN, đặc biệt là ở Việt Nam, rất sôi nổi về vấn đề biển đảo, họ có thể cho rằng chính phủ lùi bước trong vấn đề chủ quyền quốc gia.
Một điểm bất lợi khác, ngày càng rõ ràng hơn, cho Bắc Kinh là Washington đã hình thành được một khối ổn định hơn, được dựa trên nguyên tắc hội tụ lợi ích của các quốc gia trong vùng xung quanh nguyên tắc bảo vệ tự do lưu thông hàng hải của Mỹ ở Biển Đông. Nếu Hoa Kỳ hình thành được một liên minh dựa trên nguyên tắc này, thì đó sẽ là một khối mà Trung Quốc khó lòng đối đầu được.
RFI : Liệu có nguy cơ Hoa Kỳ thay đổi chiến lược về Biển Đông sau kỳ bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11/2020 hoặc trong trường hợp Washington và Bắc Kinh giảm bớt căng thẳng sau khi đạt được một số thỏa thuận ? Điểm này có khiến Việt Nam lo ngại không ?
Laurent Gédéon : Theo quan điểm của tôi, thì tôi không nghĩ như vậy, dù hai bên đạt được thỏa thuận về kinh tế. Lý do thứ nhất là cả đảng Cộng hòa lẫn Dân chủ Mỹ đều muốn ngăn Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng, được cho là có hại cho lợi ích của Hoa Kỳ. Đảng Cộng hòa cáo buộc đảng Dân chủ đã quá nhân nhượng với Bắc Kinh dưới thời Barack Obama. Điều này dẫn đến thái độ cứng rắn hơn rất nhiều của chính quyền Donald Trump đối với Trung Quốc.
Còn phía đảng Dân chủ, thông quan ứng viên tổng thống Joe Biden, cáo buộc chính quyền Trump giữ thái độ mập mờ với Trung Quốc, đặc biệt là sau khi ông John Bolton, trong cuốn sách mới xuất bản, cáo buộc Donald Trump từng tìm cách thương lượng với Tập Cận Bình để được Bắc Kinh hỗ trợ chiến thắng trong cuộc bầu cử tháng 11.
Lý do thứ hai, theo tôi, Washington ít có khả năng thay đổi lập trường, kể cả trong trường hợp Donald Trump không được bầu lại : Đó là Biển Đông là một không gian hàng hải có tầm quan trọng rất lớn, mà một phần hàng hóa Trung Quốc bắt buộc phải trung chuyển qua đó, cũng như một phần đội tầu ngầm của nước này. Nếu để Trung Quốc kiểm soát được vùng biển này, đó sẽ là một mối đe dọa thường trực cho Hoa Kỳ.
Một lý do khác, những yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông là thách thức chiến lược và pháp lý thực sự đối với Washington. Hoa Kỳ cũng như các cường quốc hàng hải khác, như Pháp, hình thành một phần sức mạnh của họ theo khuôn khổ Luật Biển Quốc Tế, được xác định theo UNCLOS. Thế nhưng, những hành động của Trung Quốc lại đi ngược lại với văn bản pháp lý này. Một sự thay đổi có thể sẽ có hại cho lợi ích của những cường quốc hàng hải hiện nay. Và đó là một trong những lý do khiến Hoa Kỳ cũng như các nước đồng minh ở Biển Đông, tiến hành tuần tra để áp dụng luật này.
RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon, Pháp.
Thu Hằng thực hiện
Nguồn : RFI, 17/08/2020
Đã tròn 3 năm kể từ ngày tòa án quốc tế ra phán quyết nói rằng cái gọi là ‘chủ quyền lịch sử’ của Trung Quốc đối với vùng biển trong đường chín đoạn trên Biển Đông là ‘không có cơ sở pháp lý’, Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) ngày 12/7 có bài viết nhìn lại kết quả Trung Quốc có hay không tuân thủ phán quyết này sau ba năm.
ngày 12/07/2016, Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) ở La Haye đã đưa ra phán quyết trong vụ kiện của Manila chống lại yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh trên Biển Đông.
Vào ngày 12/07/2016, Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) ở La Haye đã đưa ra phán quyết trong vụ kiện của Manila chống lại yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh trên Biển Đông. Được triệu tập trong khuôn khổ các điều khoản giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), năm trọng tài của tòa đã ra phán quyết áp đảo ủng hộ Philippines. Bắc Kinh từ chối tham gia vào vụ kiện này và bác bỏ phán quyết. Trong khi đó, Tổng thống mới của Philippines, ông Rodrigo Duterte, đã làm ngơ thắng lợi này của nước ông với hy vọng thuyết phục được Trung Quốc hướng tới một chính sách hòa giải hơn và do đó, áp lực quốc tế buộc Trung Quốc tuân thủ phán quyết đã tan biến.
Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát hy vọng rằng khi thời gian trôi qua, Trung Quốc có thể tìm ra những cách giữ thể diện về mặt chính trị để đưa các đòi hỏi chủ quyền và hành vi của họ phù hợp với nội dung của phán quyết, ngay cả khi họ bác bỏ phiên tòa này.
Nhìn chung, theo đánh giá của AMTI, Trung Quốc chỉ tuân thủ 2 trong số 11 nội dung của phán quyết, trong khi một nội dung khác của phán quyết thì mọi thứ vẫn chưa rõ ràng để có thể đánh giá.
1. Trung Quốc không thể yêu sách ‘chủ quyền lịch sử’ hoặc các quyền khác trong phạm vi đường chín đoạn vốn vượt khỏi lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được mà Trung Quốc được UNCLOS cho phép.
Kết quả : không tuân thủ
Tuy nhiên, một ngày sau khi phán quyết của trọng tài được công bố, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ban hành Sách Trắng khẳng định rằng : "Ngoài vùng biển nội địa, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Trung Quốc còn có quyền lịch sử trong Biển Đông". Trong ba năm qua, các quan chức Trung Quốc đã ít đề cập hơn về đường chín đoạn như là cơ sở cho yêu sách của họ đối với Biển Đông, nhưng Trung Quốc tiếp tục tuyên bố có chủ quyền lịch sử vốn không rõ ràng đối với hầu hết các vùng biển và đáy biển ở Biển Đông. Chính vì dựa trên cơ sở này mà ngư dân Trung Quốc tiếp tục hoạt động trong các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines và Indonesia. Đó cũng là cơ sở mà Bắc Kinh phản đối tất cả các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong đường chín đoạn, bất kể chúng nằm cách các thực thể mà Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền bao xa.
Tàu ngầm tên lửa đạn đạo của Hải quân Trung Quốc trong một cuộc phô diễn sức mạnh quân sự trên Biển Đông hồi cuối năm 2018.
2. Bãi cạn Scarborough và các thực thể thủy triều cao ở quần đảo Trường Sa có lãnh hải nhưng không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
Kết quả : chưa xác định được
Đây là điểm quan trọng thứ hai trong phán quyết. Theo đó, cả bãi cạn Scarborough cũng như bất kỳ thực thể thủy triều cao nào ở quần đảo Trường Sa đều không có khả năng là nơi lưu trú của con người hoặc duy trì đời sống kinh tế riêng. Do đó những thực thể này chỉ có được lãnh hải rộng 12 hải lý chứ không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý hay thềm lục địa rộng 350 hải lý.
Cộng với việc bác bỏ chủ quyền lịch sử trong đường chín đoạn, thì phán quyết không cho các thực thể mà Trung Quốc chiếm giữ được hưởng các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa này đã làm giảm đáng kể vùng biển có thể tranh chấp về mặt pháp lý.
Kết hợp với sự từ chối của tòa án đối với yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền lịch sử trong suốt đường chín đoạn, điều này làm giảm các khu vực tranh chấp hợp pháp xung quanh các đảo và các rạn san hô sau đây :
Nhiều người tin rằng Trung Quốc đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho bãi cạn Scarborough và nhiều thực thể khác, nếu không phải là tất cả, của Trường Sa. Tuy nhiên, điều này không được nêu công khai trong luật pháp hoặc tuyên bố công khai của Trung Quốc. Sách Trắng năm 2016 của Bắc Kinh khẳng định rằng Trung Quốc, dựa trên ‘các hòn đảo ở Nam Hải (Biển Đông) được hưởng vùng biển nội địa, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.’ Nhưng có thể cho rằng tuyên bố này chỉ có nghĩa là một số hòn đảo, đặc biệt là ở quần đảo Hoàng Sa, mới tạo ra các quyền lợi này.
Ngoài ra, các hành động của Trung Quốc trong các vùng đặc quyền kinh tế các của nước láng giềng có thể được giải thích bởi nhu cầu liên tục của nước này phải đòi quyền lịch sử và do đó không phải là bằng chứng cho yêu sách vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
Tuy nhiên nếu trong tương lai Bắc Kinh công bố đường cơ sở (để từ đó tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) xung quanh các thực thể họ đòi chủ quyền ở Trường Sa, thì khi đó sự không tuân thủ phán quyết của Trung Quốc trở nên rõ ràng hơn, nhưng hiện tại các tuyên bố của Bắc Kinh vẫn còn mơ hồ để có thể đánh giá rõ ràng.
3. Bãi Cỏ Mây thứ hai (Second Thomas Shoal) và vùng biển xung quanh nó là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines.
Kết quả : không tuân thủ
Tòa án cho thấy Bãi Cỏ Mây, vốn bị chiếm đóng từ năm 1999, nằm dưới mặt nước khi thủy triều lên và do đó không tạo ra vùng biển được sở hữu nào. Bãi Cỏ Mây nằm trong phạm vi 200 hải lý tính từ bờ biển Philippines và do đó thuộc về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines. Bất chấp phán quyết này, các tàu tuần duyên của Trung Quốc tiếp tục tuần tra gần Bãi Cỏ Mây thường xuyên và vào tháng 5 năm 2018, một máy bay trực thăng của Hải quân của Giải phóng Quân Nhân dân Trung Quốc đã quấy rối một cách nguy hiểm một đoàn tàu tiếp tế của Philippines tới Sierra Madre.
4. Trung Quốc chiếm đóng trái phép Đá Vành Khăn nằm trong thềm lục địa của Philippines.
Kết quả : không tuân thủ
Giống như Bãi Cỏ Mây, hội đồng trọng tài phán quyết rằng Đá Vành Khăn là thực thể thủy triều thấp vốn nằm trong tạo vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines. Hơn nữa, các trọng tài nhận thấy rằng, Trung Quốc đã xây dựng các đảo nhân tạo và lắp đặt tại Đá Vành Khăn mà không có sự cho phép của Philippines. Đây có lẽ là phần khó nhất trong phán quyết mà có thể nghĩ rằng Trung Quốc sẽ tuân thủ bởi vì nếu tuân thủ họ sẽ phải từ bỏ căn cứ hải quân và không quân của mình tại Đá Vành Khăn hoặc cần phải có sự cho phép của Philippines thì mới tiếp tục chiếm đóng. Trong khi đó, Trung Quốc không chỉ chiếm giữ rạn san hô mà dường như vẫn tiếp tục đòi quyền lợi về biển xung quanh nó mà bằng chứng là sự phản đối của họ đối với hoạt động tự do hàng hải của Hoa Kỳ trong phạm vi 12 hải lý của Đá Vành Khăn.
5. Trung Quốc ngăn chặn bất hợp pháp Philippines khai thác tài nguyên trong thềm lục địa của họ.
Kết quả : không tuân thủ
Phán quyết của trọng tài đã kết luận rằng Bãi Cỏ Rong, hoàn toàn dưới nước và nằm trong phạm vi 200 hải lý của Philippines, là một phần của thềm lục địa của nước này và cho rằng Trung Quốc đã vi phạm Công ước khi tàu thực thi pháp luật của họ ngăn chặn hoạt động của tàu khảo sát Philippines.
Trung Quốc tiếp tục ngăn chặn Philippines khai thác dầu khí tại Bãi Cỏ Rong bất chấp phán quyết. Vào tháng 11 năm 2018, hai bên đã ký một biên bản ghi nhớ có thể mở đường cho sự hợp tác cùng khai thác tại Bãi Cỏ Rong. Các chi tiết chưa được bàn thảo và có thể thỏa thuận này có thể mở đường cho Trung Quốc tuân thủ phán quyết về mặt kỹ thuật. Nếu Bắc Kinh đồng ý cho một công ty Trung Quốc đầu tư dưới dạng hợp đồng của Philippines dưới sự giám sát của Manila, thỏa thuận này sẽ phù hợp với phán quyết. Nhưng nếu Trung Quốc khăng khăng thỏa thuận hợp tác cùng khai thác nằm ngoài quyền tài phán của Philippines, đó sẽ là không tuân thủ.
6. Trung Quốc đã vi phạm quyền đánh cá của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Kết quả : không tuân thủ
Toà án cho thấy Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines đối với tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, đặc biệt là bằng cách ban hành lệnh cấm đánh bắt ở Biển Đông hồi năm 2012. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm bao gồm phần lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và Việt Nam. Lệnh cấm gần đây nhất đã gây ra phản ứng giận dữ từ văn phòng của tổng thống Philippines.
7. Trung Quốc không ngăn chặn ngư dân của họ hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Kết quả : không tuân thủ
Các trọng tài xác định rằng Trung Quốc đã ‘không thể hiện sự tôn trọng quyền chủ quyền của Philippines đối với hoạt động đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của họ’.
Hàng trăm tàu cá Trung Quốc tiếp tục hoạt động dưới sự giám sát của Lực lượng Tuần dương Trung Quốc tại Bãi Vành Khăn và trên khắp Trường Sa mỗi ngày, mặc dù các tàu này dành nhiều làm lực lượng dân quân trên biển hơn là đánh bắt cá. Vào tháng 6, một tàu cá Trung Quốc hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines tại Bãi Cỏ Rong đã đâm chìm một tàu cá Philippines, dẫn đến một cuộc khủng hoảng trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
8. Trung Quốc chặn trái phép hoạt động đánh bắt truyền thống của ngư dân Philippines tại bãi cạn Scarborough.
Kết quả : tuân thủ
Tại bãi cạn Scarborough, tòa án kết luận rằng cả ngư dân Trung Quốc và Philippines đều có quyền tham gia đánh bắt như truyền thống bất kể nước nào có chủ quyền đối với bãi cạn này. Nhưng các trọng tài phán quyết rằng ‘Trung Quốc thông qua hoạt động của các tàu chính thức của họ tại Bãi cạn Scarborough từ tháng 5 năm 2012 trở đi đã ngăn chặn một cách bất hợp pháp ngư dân Philippines tham gia đánh bắt cá truyền thống’.
Cho đến cuối năm 2016, trong một cử chỉ rõ ràng là thiện chí với chính phủ của ông Duterte, các tàu tuần dương Trung Quốc đóng tại bãi cạn này đã bắt đầu cho phép các tàu cá Philippines hoạt động dọc theo bên ngoài rạn bãi cạn, mặc dù họ không được phép đánh cá bên trong đầm phá. Cho đến giờ vẫn vậy. Đó vẫn là trường hợp ngày hôm nay, mặc dù tình hình vẫn căng thẳng trong các ngư dân Philippines báo cáo thường xuyên về việc bị các nhân viên thực thi pháp luật Trung Quốc quấy rối và đe dọa.
Tuy nhiên, đây là một khía cạnh của phán quyết trọng tài mà Trung Quốc tuân thủ rõ ràng nhất. Và điều đó rất quan trọng về mặt chính trị đối với chính quyền của ông Duterte. Ông Duterte đã từng nói rằng ông đã có một thỏa thuận miệng bí mật với Chủ tịch Tập Cận Bình vào năm 2016 mà theo đó ông mắt làm ngơ trước việc đánh bắt cá của Trung Quốc tại thềm lục địa của Philippines để đổi lấy quyền đánh cá của người Philippines tại bãi cạn Scarborough.
9. Trung Quốc cho phép ngư dân khai thác trái phép các loài có nguy cơ tuyệt chủng bằng cách biện pháp tàn phá môi trường
Kết quả : không tuân thủ
Phán quyết kết luận rằng Trung Quốc ‘đã dung túng và bảo vệ cũng như không ngăn chặn các tàu cá Trung Quốc tham gia vào các hoạt động khai thác có hại các loài có nguy cơ tuyệt chủng tại Bãi cạn Scarborough, Bãi Cỏ Mây và thực thể khác ở Quần đảo Trường Sa’. Trung Quốc có hoạt động khai thác quy mô lớn loài sò tai tượng trong diện khẩn nguy vốn đã phá hủy nghiêm trọng một diện tích lớn san hô từ năm 2012 cho đến 2016, thường là dưới sự theo dõi của các tàu chấp pháp Trung Quốc.
Sau khi giảm mạnh hoạt động đánh bắt này sau năm 2016, những ngư dân bắt sò Trung Quốc đã quay trở lại hoạt động phá hoại của họ tại Bãi cạn Scarborough và khắp quần đảo Hoàng Sa mà thường hành động dưới sự chứng kiến rõ ràng của Lực lượng Tuần dương Trung Quốc.
10. Trung Quốc đã phá hủy trái phép môi trường biển thông qua việc xây đắp đảo.
Kết quả : không tuân thủ
Toà án nhận ra rằng từ cuối năm 2013, các hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc tại các thực thể ở quần đảo Trường Sa đã vi phạm UNCLOS vốn bắt buộc các nước ký kết phải bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Trung Quốc đã hoàn thành công việc nạo vét và chôn lấp tại quần đảo Trường Sa vào cuối năm 2016. Có thể lập luận rằng một số hoạt động của Trung Quốc đang diễn ra, chẳng hạn như việc lắp đặt các trạm giám sát trên các rạn san hô ở Hoàng Sa, vẫn đang hủy hoại môi trường sống dưới biển mà không có đánh giá tác động môi trường phù hợp. Nhưng một khi đã hết chỗ để bồi đắp đảo thêm nữa thì có thể nói rằng Trung Quốc hiện đang tuân thủ về mặt kỹ thuật phần lớn nội dung này của phán quyết. Tuy nhiên, điều đó có thể thay đổi nếu Trung Quốc triển khai công việc nạo vét hoặc bồi đắp mới tại bãi cạn Scarborough hoặc các nơi khác.
11. Các tàu chấp pháp của Trung Quốc đã vi phạm các quy định về chống va chạm bằng cách tạo ra nguy cơ va chạm và gây nguy hiểm cho các tàu của Philippines.
Kết quả : không tuân thủ
Cuối cùng, các trọng tài phán quyết rằng trong thời gian đối đầu hồi năm 2012 xung quanh bãi cạn Scarborough, các tàu thực thi pháp luật Trung Quốc đã ‘tạo ra nguy cơ va chạm nguy hiểm nghiêm trọng cho các tàu và nhân viên của Philippines’.
Mặc dù không có sự cố nào xảy ra một lần nữa ở bãi cạn Scarborough do chính quyền Philippines giữ khoảng cách, Cảnh sát biển Trung Quốc, Hải quân nước này và các tàu dân quân hàng hải tiếp tục thường xuyên có các hành vi vi phạm tương tự và tạo ra nguy cơ va chạm đối với tàu nước ngoài ở Biển Đông. Vụ quấy rối tàu tiếp tế của Philippines gần Bãi Cỏ Mây vào tháng 5 năm 2018 là một ví dụ. Các hành động nguy hiểm của một tàu Hải quân Trung Quốc đối với sứ mạng tuần tra vì tự do hàng hải của tàu Mỹ USS Decatur ở Hoàng Sa hồi tháng 10 năm 2018 là một ví dụ nữa.
(Theo Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á-AMTI)
Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte (t) nhận quyền chủ tịch ASEAN 2017 từ tay thủ tướng Lào tại phiên bế mạc Thượng Đỉnh ASEAN ở Vientiane (Lào) ngày 08/09/2016. Ảnh tư liệu.
Chính quyền Philippines, nước làm chủ tịch luân phiên của ASEAN năm 2017, ngày 05/01/2017 xác định : hồ sơ Biển Đông sẽ được ưu tiên thảo luận nhân Hội Nghị Thượng Đỉnh của toàn khối Đông Nam Á. Tuy nhiên, phán quyết về Biển Đông của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye sẽ không có trong chương trình nghị sự.
Theo báo mạng Philippines Inquirer, trong cuộc họp báo tại phủ tổng thống Philippines, thứ trưởng Ngoại Giao Philippines phụ trách chính sách Enrique Manalo đã khẳng định rằng tranh chấp Biển Đông sẽ chiếm một vị trí ưu tiên trong đề tài được thảo luận nhân Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN dự trù vào tháng 11/2017.
Khi được hỏi là liệu phán quyết về Biển Đông ngày 12/07/2016 phủ nhận các yêu sách chủ quyền quá đáng của Trung Quốc tại Biển Đông có được thảo luận trong các hội nghị ASEAN năm nay hay không, thứ trưởng Ngoại Giao Philippines cho rằng "thực ra không có nhu cầu thảo luận nào về bản phán quyết của Tòa Trọng Tài La Haye".
Theo ông Manalo, "vì phán quyết này đã là một thực tế đang tồn tại, đã là một phần của luật lệ, của luật pháp quốc tế…, do đó, ưu tiên hiện nay là cố sao có được bộ quy tắc ứng xử".
Quan chức Philippines nhấn mạnh : "Bản phán quyết của Tòa La Haye sẽ không nằm trong chương trình nghị sự theo nghĩa là nó đã là một bộ phận của luật quốc tế, đã có sẵn ở đó", cho nên không cần phải thảo luận nữa.
Theo nhà ngoại giao Philippines, khối ASEAN hy vọng là sẽ thông qua được một bộ quy tắc ứng xử COC để giảm thiểu căng thẳng trong vùng biển đang tranh chấp giữa Trung Quốc với các láng giềng trong đó có 4 nước Đông Nam Á là Philippines, Việt Nam, Malaysia và Brunei.
Thứ trưởng Ngoại Giao Philippines xác định : "Vấn đề Biển Đông dĩ nhiên nằm trong chương trình nghị sự của ASEAN. Trong thực tế, trong suốt năm, chúng tôi sẽ tiếp tục công việc đang làm là tập trung vào Bộ Quy Tắc Ứng Xử trên Biển Đông vốn chưa hoàn chỉnh, vào bản Tuyên Bố về Quy Tắc Ứng Xử COC và các nguyên tắc của Bộ Quy Tắc Ứng Xử".
Hướng đi chính của Philippines, theo ông Manalo, là ASEAN cùng hợp tác với Trung Quốc để cố gắng đạt được một khuôn khổ chung cho Bộ Quy Tắc Ứng Xử về Biển Đông vào cuối năm 2017
Nhìn chung, đại diện Philippines cố trấn an các đồng minh ASEAN khi cho rằng trong tư cách là chủ tịch khối Đông Nam Á, Manila sẽ hành xử vì lợi ích quốc gia, nhưng đồng thời đáp ứng được các mối quan tâm của các thành viên khác trong ASEAN.
Trọng Nghĩa