Dự thảo xử lý kỷ luật cán bộ nghỉ hưu mới có đủ tính răn đe ? (RFA, 28/02/2020)
Bộ Nội vụ Việt Nam đang đưa ra dự thảo lấy ý kiến người dân về việc xử lý kỷ luật những cán bộ đã nghỉ việc, nghỉ hưu nhưng có sai phạm trong thời gian công tác trước đó.
Kỷ luật cán bộ nghỉ hưu đến cấp nào thì nghiêm minh?
Dự thảo mới được cập nhật gồm có 5 chương và 32 điều. Những điều khoản này dựa trên Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, cùng với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức .
Đáng quan tâm hơn hết, dự thảo lần này có 2 nội dung nhận được nhiều sự chú ý gồm việc xử lý kỷ luật những cán bộ đã nghỉ việc, nghỉ hưu có sai phạm trong thời gian công tác được thực hiện sau khi có quyết định xử lý kỷ luật đảng và không phải thành lập hội đồng kỷ luật.
Trao đổi với RFA, ông Lê Văn Triết, nguyên Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại từng nhiều năm làm việc cho chính phủ Hà Nội nhận định về nội dung mới vừa nêu như sau :
"Đứng về nguyên tắc, người ta chỉ xử lý một cá nhân nếu cá nhân đó bị khuyết điểm, nếu cá nhân đó còn là đảng viên, còn có chức vụ trong đảng nếu xử lý đưa ra tòa thì tòa không thể tuyên bố xử người đó là cán bộ của Đảng, người ta tránh chuyện đó nên tòa không xử người đó trước khi có án về mặt Đảng".
Trên các diễn đàn, nhiều nhà quan sát nhận xét rằng khi chính phủ làm luật xử lý kỷ luật cán bộ nghỉ hưu sai phạm vẫn chưa nỗ lực hết sức, vì kỷ luật đảng và kỷ luật bằng luật pháp là hai phạm trù riêng biệt.
Luật sư Đặng Đình Mạnh hiện đang ở Sài Gòn cho biết việc phải xử lý kỷ luật đảng trước mới đến kỷ luật hành chính, hình sự không được nêu ra trong luật Việt Nam. Theo quan điểm cá nhân của ông thì điều này không hợp lý. Luật sư Mạnh giải thích :
"Vấn đề xử lý về mặt đảng chỉ trong phạm vi của đảng và chỉ có giá trị đối với đảng viên và trong tổ chức đảng mà thôi. Điều này không phù hợp với pháp luật vì pháp luật không quy định. Một người có dấu hiệu hình sự bị khởi tố phải bị khai trừ đảng trước để khi người đó ra tòa người ta không nói là xử lý đảng viên mà là xử lý công dân".
Theo Bộ Nội vụ, những sai phạm nghiêm trọng hầu hết đều ở những người đã từng giữ vị trí lãnh đạo. Do đó, việc giới hạn kỷ luật hành chính sau khi kỷ luật đảng đối với đối tượng này là cần thiết, bảo đảm tính răn đe và phù hợp với quy định của Đảng.
Thêm vào đó, tiến trình như Bộ Nội vụ đưa ra trong dự thảo sẽ tránh phức tạp về trình tự, thủ tục, thẩm quyền do đã có kết luận về sai phạm, hình thức xử lý kỷ luật cũng đã được xác định rõ. Vì vậy, không cần phải thực hiện các quy định về thành lập Hội đồng kỷ luật, triệu tập họp… mà theo Bộ Nội vụ là rất khó khả thi.
Việc sửa đổi luật để xử lý những cán bộ về hưu mắc sai phạm khi còn đương chức vẫn luôn là đề tài được công luận quan tâm. Tuy nhiên, những điều khoản được bổ sung trong các bản dự thảo được đưa ra trong thời gian gần đây thường xuyên vấp phải các chỉ trích.
Cụ thể, trong phiên họp Quốc hội sáng ngày 24/10, khi thảo luận về những nội dung trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, một đại biểu quốc hội đề xuất cắt lương vĩnh viễn đối với cán bộ nghỉ hưu và xóa tư cách chức vụ đã đảm nhiệm của công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu. Đề xuất này ngay lập tức bị nhiều người phản đối với lý do không đúng với luật pháp hiện hành.
Sau đó, trong văn bản soạn thảo dự án luật công chức sửa đổi trình chính phủ vào tháng 11/2019, Bộ Nội vụ cũng đề ra hai phương án riêng biệt : phương án một là xử lý đối với tất cả cán bộ, công chức đã về hưu, nghỉ việc hoặc chuyển công tác, khi phát hiện sai phạm. Hai là chỉ quy định xử lý đối với những người có vi phạm khi chưa về hưu từ cấp thứ trưởng và tương đương trở lên ở trung ương. Dự thảo này gây nhiều tranh cãi vì nếu được thông qua, liệu các quan chức có chức vụ từ tổng cục trưởng trở xuống có thể yên tâm "hạ cánh an toàn" ?
Do đó, nhiều người bày tỏ lo ngại liệu những qui định được đề xuất trong dự thảo lần này có thật sự mang tính răn đe đối với những cán bộ đang tại chức, hay chỉ là đề xuất trên giấy, không mang tính thực tiễn ?
Theo ông Lê Văn Triết, việc bổ sung để luật hoàn thiện hơn là tốt. Tuy nhiên :
"Vấn đề vẫn là xử lý kỷ luật nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đừng kiểu tội to nhưng án kỷ luật nhỏ, không tương xứng với tội gây ra mà lâu nay đất nước vẫn có. Nếu xử phạt với mức độ kỷ luật như vậy coi như bắt cóc bỏ dĩa chứ không phải xử lý kỷ luật. Phần lớn bây giờ có mối quan hệ chằng chịt, thậm chí có sự chỉ đạo nên tội rất nặng xử còn rất nhẹ. Việc đó không có tác dụng răn đe gì hết, từ xưa tới giờ thường xảy ra như vậy. Nên từ giờ nếu có chấn chỉnh lại phải theo tinh thần công minh, công bằng, đúng người, đúng tội, tội nặng xử nặng, tội nhẹ phạt nhẹ".
Còn theo Luật sư Đặng Đình Mạnh, dự luật mới được Bộ Nội vụ đưa ra có lẽ vẫn chưa đủ. Ông cho rằng nếu phải đặt vấn đề kỷ luật như hiện nay hoặc kỷ luật hơn nữa thì điều này chỉ có thể làm giảm, nhưng để chấm dứt tình trạng tham nhũng hoặc những vấn đề khác phát sinh thì không đủ khả năng để làm được điều đó.
"Thật ra những người hiện đang làm ở cơ quan nhà nước thì đầu vào của họ không phải nhờ vào khả năng của họ. Ở Việt Nam hiện nay có tình trạng chính cơ quan Đảng phải thừa nhận là việc mua quan bán chức. Khi họ vào đó bằng tiền bạc thì tâm lý làm việc của họ là con buôn, mà con buôn khi đã bỏ tiền ra để vào làm thì họ bằng mọi cách phải có lời. Vì vậy vấn đề không phải ở chỗ kỷ luật vì họ không bị thoái hóa mà bản chất là con buôn do đó vấn đề ở chỗ là sửa đổi luật theo chiều hướng bảo đảm đầu vào của cán bộ công nhân viên chức phải là người có thực tài, thực tâm và có đạo đức".
Dưới góc nhìn cá nhân, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nhà hoạt động xã hội dân sự tại Hà Nội nhận xét :
"Tôi nghĩ chắc chắn làm cho những người đang đương chức phải chùn tay một chút nhưng có lẽ không hiệu quả cho lắm chừng nào luật trị tức thượng tôn pháp luật không trừ ai, từ ông Chủ tịch nước đến ông thủ tướng nếu đã phạm pháp thì phải xử theo pháp luật. Muốn như thế phải có tư pháp độc lập, lức đó mới giải quyết rốt ráo. Còn trong chế độ mà cái gì ông Đảng cũng nhúng vào theo lợi ích của đảng thì có thể trong nội bộ họ có thể răn đe nhau nhưng nhìn chung không có tác động lớn, hiệu quả đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự".
Thời gian gần đây, một số vụ đại án có liên quan đến cán bộ cấp cao của nhà nước được đưa ra xét xử. Một ủy viên Bộ Chính trị như ông Đinh La Thăng bị án tù. Thực tế đó được nhiều người cho là sự quyết tâm trong cuộc chiến chống tham nhũng do ông Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chủ xướng.
Tuy nhiên, như trình bày của tiến sĩ Nguyễn Quang A thì thực sự gốc rễ dẫn đến tham nhũng trong hàng ngũ lãnh đạo, cán bộ từ trung ương đến địa phương qua bao vụ việc được đưa lên mặt báo lâu nay vẫn chưa được động đến. Do đó để có được ‘tấm lưới’ tóm gọn hết những phần tử lãnh đạo, cán bộ tha hóa, tham những là điều không dễ dàng hiện nay.
******************
Quy hoạch báo chí : Thay đổi về lượng chứ không thay đổi về phẩm (RFA, 28/02/2020)
19 tổ chức hội trung ương vừa hoàn thành quy hoạch báo chí, thực hiện theo Quyết định số 362, của Thủ tướng Việt Nam ban hành năm 2019, phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025. Cụ thể, 24 tổ chức hội trung ương phải chuyển đổi mô hình, sắp xếp cơ quan báo, tạp chí… Theo đó, mỗi tổ chức hội có 1 tạp chí.
Một sạp bán báo ở Hà Nội, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP
Trong quy hoạch lần này là các cơ quan báo chí được sắp xếp theo hướng số lượng giảm. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đến hết năm 2020, mỗi nơi chỉ có tối đa 5 cơ quan báo in, không tính các cơ quan báo thuộc tổ chức tôn giáo… Những nơi khác, mỗi tỉnh, thành có một báo in thuộc Đảng bộ cấp tỉnh, một tạp chí in thuộc hội văn học - nghệ thuật tỉnh.
Nhà báo Phạm Thành, đưa ra nhận định với RFA về quy hoạch báo chí lần này :
"Nhà cầm quyền cộng sản họ có cả ngàn tờ báo rồi, nhưng họ muốn nữa. Chủ yếu họ muốn dùng cái loa dối trá của họ nhét vào bất kỳ trong tai một người dân nào, đấy là cái tư tưởng của họ, nhưng họ buộc phải giảm vì nuôi báo chí tốn kém lắm".
Nhà báo Ngô Nhật Đăng cũng cho rằng, thật ra, nhà nước Việt Nam muốn càng nhiều cơ quan báo chí càng tốt, để tạo ra cái không khí nhìn có vẻ là đa chiều. Nhưng việc ngân sách để nuôi một hệ thống quá đồ sộ như thế cũng rất là khó khăn.
Trong quy hoạch báo chí đến năm 2025, như thường lệ, chính phủ Việt Nam vẫn khẳng định báo chí là công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của đảng và nhà nước.
Nhà báo độc lập Nguyễn Ngọc Già, cựu tù nhân nhân quyền, trước khi chịu án 3 năm tù với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ vào năm 2016, ông từng là Phó trưởng ban Kế hoạch – Dự án và Phó trưởng ban Tư Liệu của Đài truyền hình HTV (Hochiminh City Television), nhận định với RFA hôm 28/2 về việc quy hoạch báo chí tại Việt Nam theo 3 góc nhìn :
"Trong quyết định đó họ coi báo chí là vũ khí, theo đó tôi nhìn ở góc độ là một chiến trường, cho thấy một điều rất rõ, sau rất nhiều trận đánh của nhà cầm quyền Việt Nam trên mặt trận báo chí, thì họ đã thua tan tác. Thì động tác họ quy hoạch lại, thu gọn lại, giống như bãi chiến trường họ thu lại bãi vũ khí ‘sứt càng gãy gọng’ gì đó… để tinh gọn lại, thì điều đó chỉ thay đổi về lượng chứ không thay đổi về phẩm. Bởi vì chiến trường thì vũ khí chỉ là phương tiện, nó cần những nhà quân sự có đầu óc, mà nhà quân sự có đầu óc thì xin lỗi, người cộng sản Việt Nam không có. Bởi nhà chiến lược quân sự về báo chí phải tôn trọng tôn chỉ quan trọng nhất, đó là sự thật, thì bản chất người cộng sản là dối trá trên mọi lãnh vực".
Dước góc độ kinh tế, báo chí là một sản phẩm, mà theo Nhà báo Nguyễn Ngọc Già, sản phẩm của người cộng sản đưa ra không phù hợp với thị trường, tức là người tiêu dùng không xài… thì có quy hoạch hay không, có thu gọn hay để nguyên… thì hàng của họ ra vẫn bán ế. Điều này Nhà báo Nguyễn Ngọc Già cho rằng cũng đúng với quy luật của thị trường. Ông nói tiếp :
"Ở góc độ thứ ba là các trường phái triết học, họ nói là quy hoạch về báo chí, về nhân sự, tức là quy hoạch về con người… Mà tôi nghĩ, con người sinh ra để sống, để mưu cầu hạnh phúc, chứ con người không phải là một cái máy, một vật thể, hay đường xá, cơ sở hạ tầng để mà quy hoạch. Cái đó là sai về mặt triết học. Vì vậy, đứng ở góc độ triết học, quy hoạch báo chí cản trở sự phát triển của con người. Bởi vì quan trọng nhất của con người là tự do tư tưởng. Từ tự do tư tưởng, con người mới phát triển, và có thể văn minh như tất cả các quốc gia khác".
Theo Bộ Thông tin và truyền thông, Việt Nam có khoảng 838 cơ quan báo chí, 67 đài phát thanh truyền hình với đội ngũ nhà báo lên tới khoảng 40.000 người. Tất cả các cơ quan báo chí này đều phải chịu sự kiểm soát thông tin của nhà nước mà cụ thể là theo đường hướng của Ban Tuyên giáo trung ương. Không chỉ bị kiểm soát trực tiếp của Ban Tuyên giáo từ trung ương đến địa phương. Các tờ báo còn bị kiểm duyệt thông qua việc bố trí nhân sự trong các cơ quan báo chí như bí thư chi bộ, đảng bộ của các nơi này.
Nhà báo Phạm Thành cũng cho rằng, sản phẩm báo chí bây giờ đưa tin không thuyết phục, nó vừa chậm, vừa bị định hướng :
"Báo chí Việt Nam hiện nay nhìn trên tổng thể thì phần lớn họ vẫn được nhà nước bao cấp, chẳng hạn như những anh lớn hiện nay như thông tấn xã, tạp chí cộng sản, đài phát thanh thì cũng bao cấp, còn những tờ thuộc chủ quản khác thì cũng bao cấp. Những cái tin của họ không thuyết phục, nó vừa chậm, vừa bị định hướng… Cho nên đối với bạn đọc nó không còn là món ăn tinh thần để họ trông chờ họ đọc nữa"…
Theo quy hoạch báo chí đến năm 2025, đến hết năm 2020, các tỉnh, thành phải làm xong việc sắp xếp theo đúng quy hoạch.
Tính đến cuối tháng 2/2020, Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai xong việc chuyển đổi mô hình, sắp xếp các cơ quan báo chí đối với 19 tổ chức hội. Còn 5 báo thuộc 5 tổ chức hội chưa thực hiện.
Theo Bộ Thông tin và truyền thông giải thích, trong số 5 báo này, có 2 báo đang tạm dừng xuất bản để triển khai thực hiện quy hoạch, 1 báo chuyển đổi cơ quan chủ quản và 2 báo đang hoàn thiện hồ sơ, thủ tục, sẽ tiếp tục triển khai sau.
Nhà báo Ngô Nhật Đăng cho rằng, việc quy hoạch thu gọn hệ thống báo chí nhằm mục đích kiểm soát dễ hơn, cũng khó thực hiện :
"Dân trí cao hơn, trình độ nhận thức của nhân dân cũng cao hơn, thành ra khó mà nhốt một xã hội rộng lớn trong một ngục tù tập thể. Về ý thức hệ thì chúng ta cũng thấy, nhiều bài báo bị ban tuyên giáo yêu cầu gỡ, tức là nhiều quá cũng không kiểm soát được. Vì báo chí họ cũng cần phải sinh sống, cần có nhiều bạn đọc, phải có những tin khác, vì thế họ muốn thu gọn lại để kiểm soát dễ hơn. Nhưng đó cũng là mâu thuẫn, anh đã kiểm soát toàn bộ thông tin trên xã hội mà anh còn không định hướng được, thì thu gọn lại thì mục tiêu kia cũng khó đạt được".
Theo Nhà báo Nguyễn Ngọc Già, chính phủ do đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã khẳng định trong quyết định quy hoạch rằng báo chí là công cụ của đảng, là phương tiện của đảng, chứ nó không phải là cứu cánh. Mà cứu cánh ở đây theo ông là tự do, như vậy phương tiện báo chí đã trở nên chống lại con người nói chung, và nó chống lại nhân dân Việt Nam nói riêng. Nên ông cho rằng, quyết định quy hoạch báo chí này là phản khoa học và chống lại con người.
Người dân biểu tình bị bắt tại Đồng Nai ra tù vẫn giữ ngọn lửa vì đất nước (RFA, 10/04/2019)
Vào ngày 10/4/2019 thêm 12 người dân trong số 20 người bị bắt vì đã tham gia biểu tình phản đối Luật Đặc Khu và An Ninh Mạng ở thành phố Biên Hòa, Đồng Nai hôm 10/6/2018 với cáo buộc "gây rối trật tự công cộng" đã được thả tự do sau khi mãn hạn tù.
Một trong số các bạn trẻ tham gia biểu tình tại Đồng Nai được tự do hôm 10/4/2019. Edited from FB Nguyen Thuy Hanh
Trước đó, theo thông tấn xã Việt Nam dẫn cáo trạng của viện kiểm sát nhân dân Thành phố Biên Hòa cho biết có khoảng hơn 200 người tham gia vào đoàn biểu tình hôm 10/6/2018. Số đông những người này, theo cáo trạng đã lấn chiếm lòng đường, ngăn chặn các phương tiện lưu thông qua lại gây ra ách tắc giao thông nghiêm trọng. Chiều cùng ngày, công an thành phố Biên Hòa đã tiến hành bắt tạm giam 20 người trong tổng số hơn 200 người tham gia biểu tình tại Đồng Nai.
Vào ngày 30/7/2018, tại buổi xét xử tòa án nhân dân Đồng Nai đã tuyên phạt với mức án từ 8 cho đến 18 tháng tù giam cho 20 bị cáo này với cáo buộc tội gây rối trật tự công cộng tại địa phương.
Đài Á Châu Tự Do liên lạc với anh Hồ Công Di, một thanh niên trẻ trong số 12 người được trả tự do vào ngày 10/4 chia sẻ với chúng tôi :
"Từ lúc ra trại thì người nhà lên đón với lại có được sự ủng hộ của mọi người nên em rất vui và tự hào vì đã làm được một điều có ích cho xã hội. Quyền tự do của mình, và đất nước của mình nên mình đâu sợ gì đâu".
Anh Hồ Công Di bị tòa án nhân dân Đồng Nai kết án 10 tháng tù giam với cáo buộc tội gây rối trật tự công cộng.
Nói về thời gian ở trong tù và những trao đổi với bạn tù về việc tham gia biểu tình, anh Di cho biết :
"Trong trại giam những người tù khác cũng giúp đỡ nhiều lắm, họ nói là nhờ bọn em mà giữ lại được đất nước này, phản đối luật đặc khu này nọ, rất nhiều anh em trong tù ca ngợi bọn em vì điều đó lắm. Những người bạn tù khác ai cũng có suy nghĩ giống như em vậy đó là rất tự hào là làm được điều có ích cho xã hội. Em cũng không biết nữa nói chung nếu nó làm sai thì mình phải đứng lên giữ lại đất nước của mình chứ không để bọn Trung Quốc chiếm đóng được".
Sau khi có tin 12 người tham gia biểu tình được trả tự do, nhiều nhà hoạt động xã hội dân sự tại Việt Nam đã bày tỏ cảm xúc trên trang cá nhân rằng họ vui mừng vì các em vẫn giữ được tinh thần ngọn lửa vì dân tộc vì đất nước.
Luật sự Đặng Định Mạnh, một trong ba luật sư bào chữa cho 20 bị cáo này cho biết, ông cảm thấy vui sau khi biết tin :
"Tối nay tôi có nói chuyện với một số bạn và trước tiên điều tôi đáng nghi nhận là các bạn là không có một ai tỏ vẻ là hối hận về việc mình đã làm cả. Có bạn còn khẳng định là nếu như có trở lại ngày hôm đó thì các bạn vẫn sẽ làm như vậy chứ không làm cái gì khác. Tuổi các bạn còn rất là trẻ nhưng suy nghĩ rất là chính chắn và tôi tin đây là tín hiệu tốt đẹp cho tương lai của đất nước mình".
Hai mươi người tham gia cuộc biểu tình chống Luật Đặc khu và An ninh mạng ở thành phố Biên Hòa, Đồng Nai hôm 10/6/2018 bị đem ra xét xử với cáo buộc "gây rối trật tự công cộng". Courtesy of vnews.gov.vn
Đồng thời, luật sư Mạnh khẳng định rằng đây là một bản án vô cùng bất công và vô lý vì các bạn chỉ xuống đường để thể hiện chính kiến của mình với vận mệnh của đất nước, hoàn toàn theo hiến pháp Việt Nam. Ông giải thích
"Cần phân biệt rõ giữa tội là gây rối trật tự công cộng va biểu tình. Gây rối trật tự là những hành vi gây mất an ninh trật tự mà không vì mục đích công, nhưng những người này họ xuống đường hoàn toàn vì mục đích công, họ có chính kiến về chính trị xã hội rất rõ ràng thì những việc này không thể gọi là gây rối trật tự công cộng được. Biểu tình thì luật pháp có cho phép về biểu tình và trong hiến pháp có quy định mà, hoàn toàn hợp pháp mà bản án tội cho họ vậy thì rất là bất công".
Vào ngày 10 và 11 tháng 6 năm 2018, trên nhiều thành phố ở Việt Nam đã nổ ra nhiều cuộc biểu tình quy mô lớn phản đối dự Luật đặc khu dự Luật an ninh mạng. Những người biểu tình phản đối dự Luật đặc khu cho người nước ngoài thuê đất đến 99 năm vì lo ngại người Trung Quốc sẽ vào chiếm đất. Những người biểu tình cũng phản đối Luật an ninh mạng vì cho rằng luật này nhằm bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận của người dân. Sau cuộc biểu tình, hàng trăm người ở nhiều tỉnh thành đã bị bắt và kết án với các cáo buộc như "gây rối trật tự công cộng", "phá hoại tài sản".
Anh Hồ Công Di chia sẻ với chúng tôi rằng, sau khi được mãn hạn tù, có một cán bộ nói với anh rằng về đừng đi ném bẩn, ném bom xăng hay xuống đường biểu tình nữa nhưng anh khẳng định với vị cán bộ này là "Em thích vậy" và nếu ngày đó lập lại anh vẫn sẵn sàng.
**********************
Quy hoạch báo chí ‘vi hiến’, sẽ ‘làm thất nghiệp’ hàng nghìn nhà báo ? (VOA, 09/04/2019)
Thủ tướng Việt Nam mới đây ký phê duyệt quy hoạch phát triển báo chí dẫn đến nhiều lo lắng trong báo giới. Thậm chí một luật sư nổi tiếng cho rằng bản quy hoạch đó "vi hiến" vì nó vi phạm quyền về việc làm, cũng như có thể "hạn chế tự do ngôn luận".
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc ký phê duyệt quy hoạch báo chí, 2/4/2019
Các báo đài trong nước, trong đó có VTV, VietnamNet, Dân Trí, báo Giao Thông, đưa tin cho hay Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hôm 2/4 ký quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025.
Bản quy hoạch, theo trích dẫn của báo chí, nhắm đến "xây dựng một số cơ quan báo chí chủ lực, đa phương tiện làm nòng cốt, có vai trò định hướng dư luận xã hội".
Mặt khác, bản quy hoạch cũng là cơ sở để chính quyền "sắp xếp hệ thống báo chí, khắc phục tình trạng chồng chéo, dàn trải đầu tư, buông lỏng quản lý, hoạt động xa rời tôn chỉ mục đích", theo các bản tin.
Theo tìm hiểu của VOA, tính đến giữa năm 2018, Việt Nam có hơn 1.100 cơ quan báo chí các loại, gồm 857 báo và tạp chí in, 195 trang báo điện tử và tạp chí điện tử, 67 đài phát thanh, truyền hình trung ương và địa phương.
Làm việc cho các cơ quan báo chí này là hơn 19.000 nhà báo được nhà nước cấp thẻ, không tính nhân viên các bộ phận kỹ thuật, hành chính và các cộng tác viên.
Các bản tin trong nước cho rằng việc thực thi bản quy hoạch mới được duyệt sẽ làm giảm mạnh số lượng các cơ quan báo chí.
Đảng Cộng sản lâu nay nắm độc quyền lãnh đạo đất nước sẽ có hai cơ quan báo chí là báo Nhân Dân và báo điện tử Đảng Cộng sản, đều theo mô hình truyền thông đa phương tiện, theo bản quy hoạch.
Văn bản này cũng định hướng rằng 5 cơ quan báo chí trung ương có tầm ảnh hưởng lớn là Thông tấn xã Việt Nam, đài VTV, đài VOV, báo Quân Đội Nhân Dân và báo Công An Nhân Dân sẽ là các cơ quan truyền thông đa phương tiện
Vẫn bản quy hoạch được báo chí trích dẫn quy định rằng Văn phòng Quốc hội, mỗi bộ, cơ quan ngang bộ chỉ có 1 báo in và 1 tạp chí in.
Mỗi tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương được có 1 báo in, 1 tạp chí in, 1 đài vừa phát thanh vừa truyền hình chỉ phát sóng trên 1 kênh mỗi loại.
Riêng thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, đầu tàu kinh tế của đất nước, được có tối đa 5 báo in ở mỗi thành phố. Hà Nội có 1 đài phát thanh và truyền hình như các tỉnh thành khác, trong khi Thành phố Hồ Chí Minh được có có 1 đài phát thanh riêng, 1 đài truyền hình riêng. Cả hai thành phố chủ chốt này đều được phát sóng 2 kênh phát thanh và 2 kênh truyền hình, nhiều hơn các tỉnh thành khác.
Mỗi tổ chức chính trị-xã hội trung ương, như Mặt trận Tổ quốc hay Hội Nông dân Việt Nam, chỉ có 1 báo in và 1 tạp chí in, theo bản quy hoạch.
Về báo điện tử và tạp chí điện tử, bản quy hoạch xác định rằng cơ quan, tổ chức nào được có báo, tạp chí in thì cũng được xuất bản báo, tạp chí điện tử. Bên cạnh đó, bản quy hoạch cũng quy định trong vài năm tới, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp chỉ có tạp chí điện tử, không có báo điện tử.
Nhiều báo in Việt Nam có lượng độc giả thấp
Trong những ngày qua, các nhà báo bày tỏ lo lắng trên mạng xã hội về khả năng bản quy hoạch sẽ gây ra những xáo trộn lớn, khi các báo hoặc trang tin nhiều người đọc như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Zing News, Soha, Dân Trí, Công An Thành Phố Hồ Chí Minh, Người Lao Động, v.v… sẽ phải sáp nhập vào các cơ quan báo chí của các tỉnh, các bộ.
Trên Facebook cá nhân có hơn 35.000 người theo dõi, nhà báo kỳ cựu Mạnh Quân, hiện làm việc tại Dân Trí, nêu ra vụ sáp nhập báo Sài Gòn Tiếp Thị vào Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn cách nay hơn 5 năm làm cho hơn 100 người "tan tác", "thất nghiệp". Liên hệ đến viễn cảnh hàng loạt tờ báo lớn với hàng ngàn người lao động "bỗng chốc phải thay đổi", nhà báo Mạnh Quân nhận định mức độ ảnh hưởng sẽ "lớn" đến mức độ "đáng rùng mình".
Dân Trí, nơi ông Quân làm lãnh đạo cấp ban, là báo điện tử thuộc Hội Khuyến học Việt Nam, và cũng trong diện sẽ phải sáp nhập theo quy hoạch báo chí.
Trong khi nhiều nhà báo lo lắng về tương lai công việc, luật sư nổi tiếng Trần Vũ Hải đưa ra quan điểm rằng bản quy hoạch vừa được thông qua có nội dung vi hiến hoặc trái với các luật đã có. Ông Hải phân tích với VOA :
"Thứ nhất, Luật Báo chí cho phép các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức nghề nghiệp cũng có quyền được lập báo chí. Với cái quy hoạch mới, người ta đã bỏ đi. Đấy là về mặt quyền tự do báo chí. Vấn đề thứ hai liên quan đến việc làm. Nhà nước, theo nguyên tắc, phải đảm bảo việc làm chứ không phải tìm mọi cách giảm bớt công việc, đẩy người ta ra đường. Với quy hoạch báo chí, rõ ràng là sẽ có rất nhiều báo sáp nhập, họ sẽ mất bản sắc mà thực tế là mất thương hiệu, thì các nhà báo rõ ràng là họ mất việc".
Luật sư Hải cũng lưu ý đến khía cạnh tự do ngôn luận, điều mà chính các nhà báo dường như e ngại, tránh nhắc đến khi bàn luận về bản quy hoạch trên mạng xã hội, theo quan sát của VOA.
Ông Hải cho rằng nếu số lượng báo bị giảm xuống và bị các cơ quan chủ quản của nhà nước giám sát chặt chẽ hơn, các báo sẽ đặt "lợi ích của nhà nước cao hơn lợi ích của người dân" khi đưa tin, tường thuật về các diễn biến kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Không nhất trí với các quan điểm của nhà báo Mạnh Quân và luật sư Trần Vũ Hải, một nhà báo kỳ cựu khác, ông Hoàng Hải Vân, có cái nhìn lạc quan hơn.
Viết trên trang Facebook cá nhân có lượng người theo dõi đông tới hơn 94.000 người, ông Vân cho rằng "không nên lo lắng" về việc sáp nhập sẽ làm mất thương hiệu các báo. "Tuổi Trẻ vẫn là Tuổi Trẻ, Thanh Niên vẫn là Thanh Niên", ông viết, đề cập đến 2 tờ báo được cho là đứng đầu về số phát hành ở Việt Nam.
Nhà báo có nhiều ảnh hưởng này cũng lên tiếng ủng hộ bản quy hoạch mà ông mô tà là "vô cùng cần thiết". Dưới góc nhìn của ông, vấn đề nhức nhối lâu nay là nhiều cơ quan báo chí tồn tại bằng ngân sách nhà nước, trong khi "việc giảm thiểu, tiến tới bãi bỏ việc trợ cấp của nhà nước đối với báo chí được thực hiện quá chậm chạp gây lãng phí lớn cho ngân sách".
Ông Vân bình luận rằng "nhà nước càng ít trợ cấp cho báo chí càng tốt", và theo ông, bản quy hoạch thể hiện được "tinh thần đáng hoan nghênh" đó.
Phóng viên tại nhiều tờ báo ở Việt Nam đang lo bị sáp nhập
Tuy nhiên, theo quan sát của VOA, ý kiến của ông Vân thuộc số hiếm hoi ủng hộ cho bản quy hoạch. Luật sư Trẩn Vũ Hải gián tiếp xác nhận thông tin này khi nói với VOA rằng ông biết nhiều nhà báo và tổng biên tập "đang nghĩ cách phản ứng". Ông Hải cho biết thêm :
"Người ta phản đối, các báo, các lãnh đạo của các báo đang phản đối. Và các nhà báo cũng không đồng ý. Nhưng họ chưa ra mặt. Họ đang tính toán".
Nhà báo Mạnh Quân của Dân Trí nhận định rằng nếu bản quy hoạch được thực hiện, đó sẽ là "quá trình sắp xếp, sáp nhập, chia tách báo chí lớn nhất trong lịch sử báo chí Việt Nam hàng chục năm qua".
Nhưng luật sư Trần Vũ Hải đưa ra dự báo với tư cách cá nhân rằng nhiều khả năng các nhà hoạch định chính sách sẽ nhìn thấy sự lợi bất cập hại từ bản quy hoạch, và sẽ không thực thi nó một cách nghiêm ngặt.
*****************
Thầy cô giáo không thể ép học sinh nhận thức khác về nhân vật Khá "bảnh" (RFA, 09/04/2019)
Nhân vật Khá ‘bảnh", một thanh niên có nhiều hành động gây chú ý trên mạng xã hội và thậm chí bị bắt giữ vì đánh bạc và tổ chức đánh bạc mới đây đã trở thành thần tượng của nhiều bạn trẻ và thậm chí đi vào đề thi học sinh giỏi văn lớp 11 tại một trường trung học phổ thông ở Hải Phòng. Điều này đã gây ra nhiều tranh cãi trong dư luận.
Hiện tượng mạng xã hội Khá "bảnh" và đề thi học sinh giỏi Văn lớp 11 tại Hải Phòng. RFA Edited
Đoạn trích đề thi học sinh giỏi môn Văn lớp 11 năm 2018-2019 của trường trung học phổ thông Kiến Thụy, Hải Phòng viết :
"Hiện tượng Khá bảnh với đời tư bất hảo và nhiều tai tiếng nhưng vẫn thu hút được rất nhiều người hâm mộ. Không chỉ nổi tiếng mạng xã hội với hàng triệu lượt theo dõi, mỗi khi xuất hiện nhiều học sinh và người lớn đón tiếp như thần tượng ở Yên Bái. Hãy viết một bài văn khoảng 400 chữ trình bày suy nghĩ của anh/chị về hiện tượng được đề cập trong bài viết".
Ngay sau khi tin được loan, ông Nguyễn Trọng Hoan, phó vụ trưởng vụ giáo dục trung học thuộc Bộ giáo dục và đào tạo đã yêu cầu sở giáo dục Hải Phòng báo cáo làm rõ sự việc.
Dư luận mạng xã hội có nhiều ý kiến cho rằng, dù vấn đề thời sự nhưng nhân vật này không đáng để được đưa vào đề thi, nhiều tấm gương tốt việc tốt sao không đưa mà lại đưa nhân vật này vào. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng đưa nhân vật đang tạo sóng trên cộng đồng mạng để các em phân tích sẽ hứng thú hơn.
Thầy giáo Đỗ Việt Khoa từ Hà Nội cho biết, thầy không ủng hộ việc này vì cho rằng nó đi ngược với định hướng của xã hội.
"Tôi thấy rằng hiệu ứng ngược của các hiện tượng giáo viên đã đề ra như vậy. Người ta đã quên đi và lờ đi một nhân vật được gần như xem là xã hội đen được nổi tiếng một cách bất ngờ nhưng ngành giáo dục Hải Phòng lại đi khơi lại, đưa vào bài thi bắt học sinh phải tìm hiểu về nhân vật này và tôi tin chắc rằng rất nhiều em cũng không biết đến nhân vật này nhưng giờ trở nên quan tâm hơn. Đã hướng dẫn học sinh đã định hướng xã hội rằng không tung hô, không quan tâm, không cổ vũ cho nhân vật đó thì xin đừng đưa nó vào văn học và không nên".
Một nữ giáo viên từ Sài Gòn thì cho rằng việc đưa vào đề thi vấn đề xã hội như vậy không được hay.
"Theo cá nhân mình thì việc đưa như vậy thì nó mang tính chất thời sự hơn là giáo dục bởi vì giờ có bao nhiêu người sai phạm đều đưa lên hết thì nhiều em cũng có tâm sự là khi làm bài cũng không được khách quan cho lắm, thành ra các em có những lời lẽ và hình thành tư cách nhân phẩm của các em sau này và nói chung không được hay lắm. Vấn đề đó là của xã hội và vi phạm như vậy để xã hội xử lý còn việc đưa vào bài thi tôi thấy nó chính trị quá".
Chị Ngọc Nguyễn, giám đốc truyền thông marketing của một công ty công nghệ tại Sài Gòn và cũng là một người phụ nữ có hai con còn đang đi học cho biết, về phương diện cá nhân của chị, việc đưa vấn đề đó vào đề thi có thể giúp hiểu được suy nghĩ được tụi trẻ và có thể hướng chúng theo chiều đúng của sự việc.
"Giáo dục trẻ con kiểu nhồi sọ như thời của mình thì đã qua rồi, bây giờ tụi nó có quá nhiều phương tiện truyền thông thông tin thì việc đầu tiên nên tôn trọng suy nghĩ của chúng nó và cho nó có phản biện và nói ra suy nghĩ và nếu người lớn thấy có gì không đúng thì mình trao đổi hoặc cho nó thấy được những góc nhìn khác để nhìn rộng rãi hơn. Bây giờ không thể dạy trẻ con kiểu bắt mày phải làm và sống như thằng đó đi thì rõ ràng mọi người đặt nặng vấn đề nào đó xấu mà ảnh hưởng đến thế hệ. Mỗi thế hệ nó có cách trưởng thành riêng của nó".
Nhân vật Khá "bảnh" có tên thật là Ngô Bá Khá. Trang Facebook của thanh niên này có hơn 600.000 lượt theo dõi, kênh Youtube cá nhân cũng có hơn 2 triệu lượt đăng ký, con số mà nhiều nghệ sĩ chân chính Việt Nam phải "chào thua". Mỗi clip của Khá đều thu hút tới hàng trăm nghìn đến cả chục triệu lượt xem với nhiều tương tác, bình luận.
Khá "bảnh" được các em học sinh chào đón tại Yên Bái. Screen Capture of phapluat.vn
Nhiều bậc phụ huynh chia sẻ sự lo lắng trên cộng đồng mạng rằng, họ cảm thấy lo lắng cho tương lai của con em họ nói riêng cũng như ngành giáo dục Việt Nam nói chung. Bởi vì không hiểu nguyên nhân vì sao nhân vật này lại có sức ảnh hưởng lớn đến cộng đồng giới trẻ hiện nay.
Theo nữ giáo viên thì nguyên nhân là do truyền thông mạng xã hội Việt Nam có tác động quá lớn, khi các bạn trẻ đọc nội dung trên tin nhắn hay trên bất cứ phương tiện truyền thông nào mà chưa hiểu được ngọn ngành thì đã like và share nên nó không đúng với bản chất sự việc.
Thầy Đỗ Việt Khoa đồng ý với điều đó và cho rằng sự ảnh hưởng của nhân vật này lớn đến mức nghiêm trọng vì nhiều thanh thiếu niên học sinh quan tâm đến những phát ngôn không chuẩn mực, những hành động thiếu suy nghĩ và điều đó cho thấy một xã hội bị khủng hoảng niềm tin về đạo đức. Tuy nhiên, thầy Khoa cho rằng cũng có một điểm đáng chú ý trong hiện tượng này :
"Xét cho cùng Khá Bảnh ngoài chuyện bị đi tù vì tội đánh người trước kia thì cậu ta có những phát ngôn dung tục, nói năn bất thường nhưng lại được giới trẻ tung hô, và không ít giới trẻ nói thẳng là đạo đức của Khá Bảnh còn tốt hơn cả những người được coi là mẫu mực của xã hội. Ít nhất gần đây người ta cũng so sánh được với ông Linh phó viện kiểm sát nhân dân Đà Nẵng, nhân vật Khá Bảnh còn tốt hơn nhiều lần ông đó và tội nó gây ra không đáng một phần nhỏ so với những hành vi tham nhũng, lừa đảo cướp bóc của nhân dân. Điều đó cho thấy khủng hoảng niềm tin trong xã hội rất là lớn".
Ông Nguyễn Hữu Linh – nguyên Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Đà Nẵng có hành vi sàm sỡ bé gái 9 tuổi trong thang máy chung cư ở quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 1/4. Tuy nhiên đến nay, cơ quan tố tụng quận 4 vẫn chưa khởi tố vụ án này.
Còn chị Ngọc Nguyễn thì lại có ý kiến cho rằng, hiện nay thị hiếu dư luận thích những điều lố bịch, nhanh gọn dễ dàng và có tính giải trí cao, tuy nhiên sau vài năm cũng sẽ chìm vào quên lãng khi người ta tìm được cái khác tốt hơn.
"Thời buổi giờ người ta thích điều gì đó nó lố bịch, nó nhanh, đơn giản, dễ dàng và yêu cầu nó mới lạ và liên tục thì những nhân vật nổi tiếng qua mạng xã hội cũng chỉ là hiện tượng một lúc nào đó cả xã hội phát điên lên vì nó thì sau vài năm cũng sẽ chìm vào quên lãng khi người ta có một cái gì đó giải trí hơn. Mấy năm trước cái công cụ mạng xã hội nó không mạnh như bây giờ nên sự bùng nổ của những hiện tượng đó không có, giờ người ta lại thích những kiểu bất chấp tiêu cực cũng được nhưng nó mang tính giải trí là được, còn những người tốt việc tốt người ta đã chán quá rồi".
Theo con số thống kê của các ngành Digital Marketing toàn cầu năm 2018, lượng người sử dụng internet tại Việt Nam đạt 64 triệu người dùng chiếm 67% dân số. Riêng về mạng xã hội Facebook, Việt Nam có tới 55 triệu tài khoản đang hoạt động và đạt tỉ lệ 57% người dùng internet tại Việt Nam.
Cũng theo thầy Đỗ Việt Khoa, bây giờ thầy cô không thể bắt ép các em không quan tâm đến thanh niên này hay ép cái này cái kia vì đây là điều rất khó. Ông cho rằng việc các em trên lớp còn học đối phó thì ra ngoài xã hội các thầy cô càng không thể can thiệp được.
Một cựu tổng biên tập bình luận với BBC rằng việc quy hoạch báo chí "được thực hiện bằng quan điểm coi báo chí là công cụ tuyên truyền của Đảng" trong lúc một thư ký tòa soạn bày tỏ quan ngại động thái này "thu hẹp quyền ngôn luận của người dân".
Nghề báo ở Việt Nam đang chịu nhiều thách thức trong lúc lượng người mua báo giấy ngày càng giảm
Làng báo Việt Nam đang xôn xao với chuyện Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa ký quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025.
Theo đó, đến hết năm 2020, tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, mỗi thành phố có tối đa có 5 cơ quan báo in, đến năm 2025 "hoàn thành việc sắp xếp theo đúng quy hoạch".
Bộ trưởng Thông tin và truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng được báo Sài Gòn Giải Phóng dẫn lời : "Thủ tướng yêu cầu báo chí phải là tấm gương phản ánh xã hội, định hướng dư luận, tạo niềm tin trong công chúng ; không khai thác quá đà các tin xấu độc, làm xói mòn niềm tin xã hội. Đây là trách nhiệm của Bộ Thông tin và truyền thông, mà cụ thể là của các đơn vị quản lý báo chí như Cục Báo chí, Cục Phát thanh truyền hình và thông tin điện tử".
"Nhà nước sẽ tập trung đầu tư ngân sách cho một số cơ quan báo chí chủ lực, trên cơ sở đặt hàng báo chí, để thực hiện các nhiệm vụ chính trị, thông tin, tuyên truyền thiết yếu".
'Công cụ tuyên truyền'
Nhà báo Tâm Chánh, cựu tổng biên tập báo Sài Gòn Tiếp Thị, nói với BBC hôm 9/4 : "Theo tôi, thực chất đây là một bản kế hoạch cắt giảm các cơ quan báo chí. Phần lớn các cơ quan báo chí trong nước được cấp ngân sách để làm báo".
"Chỉ một số ít các cơ quan báo chí hoạt động theo phương thức thị trường, tự bảo đảm ngân sách hoạt động, có tích lũy".
"Điều bất công là chính sách quản lý của nhà nước với các cơ quan báo chí chẳng những không xác lập được chuẩn mực đánh giá công bằng giữa những các cơ quan báo chí được nuôi hay tự sống, thì chính trong quy hoạch này số phận những tờ báo lớn theo nghĩa uy tín thị trường và quy mô thương mại của nó có thể không còn, nhất là các tờ báo ở Thành phố Hồ Chí Minh như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Kinh Tế Sài Gòn, Phụ Nữ."..
"Thu dọn những tờ báo tự sống được bằng tiền của người mua thì ý nghĩa của quy hoạch là gì ? Tôi không nghĩ đơn giản đó là tinh gọn bộ máy, cắt giảm ngân sách".
"Tôi muốn lưu ý rằng Thành phố Hồ Chí Minh có hẳn một nền công nghiệp báo chí lâu đời, ngay cả trong những năm tháng bao cấp vẫn tồn tại thị trường báo chí. Có lẽ trong cả nước chỉ có Sài Gòn là một thị trường báo chí gần như hoàn chỉnh, cả sản xuất và tiêu thụ".
"Vậy thì nhà nước muốn sắp xếp cái gì ? Dường như nhà nước không ngần ngại coi truyền thông đại chúng không phải là thị trường".
"Quy hoạch báo chí được thực hiện bằng quan điểm coi báo chí là công cụ tuyên truyền của Đảng. Công cụ ấy có lúc hình như Đảng thấy sảy tay, cũng bị lợi ích nhóm chi phối. Lần này không chỉ tiếp tục lãnh đạo, trong nhiều trường hợp quy định luôn nội dung đưa tin, thì quy hoạch này giao cho Đảng trách nhiệm chủ báo, mà là chủ của một hệ thống báo lớn và giàu".
Nhà báo Tâm Chánh cũng lý giải thêm :
"Trong nền chính trị một đảng, dư luận xã hội là một công cụ sắc bén của quyền lực. Chính vì vậy trong thực tế, vị trí phụ trách báo chí là một nhân vật có tầm cỡ và có ảnh hưởng trong Đảng. Người đứng đầu Đảng hẳn nhiên không thể bỏ trống mặt trận dư luận này".
"Người đứng đầu chính phủ cũng tìm sự ảnh hưởng đặc biệt với công luận. Nắm giữ dư luận xã hội là một huyết mạch quyền lực của Đảng. Lần này Đảng nắm chặt công cụ đó".
"Có lẽ hiểu được ý chí ấy nên các cơ quan báo chí chọn cách "tranh thủ" vận động, góp ý riêng để tìm được lợi ích cao nhất cho tờ báo của họ. Được tí nào hay tí ấy, còn lại cam chịu như một định mệnh. Vì phải nói một cách thẳng thắn rằng, lĩnh vực báo chí là lĩnh vực quản lý mà các quy phạm của Đảng được sử dụng như một quy phạm pháp luật".
"Nhưng đó là nền báo chí công cụ của Đảng. Báo chí còn đảm đương trách nhiệm bảo đảm quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận cho nhân dân. Cơ quan báo chí, tổng biên tập, và nhà báo chịu trách nhiệm luật định về việc này".
"Đó là chưa kể việc ra báo, một chuẩn mực thể hiện quyền tự do báo chí được diễn dịch thành quyền cấp phép của Nhà nước có thể là một cách biến các quyền tự do thành quyền treo trong hệ thống pháp luật".
"Theo tôi, nếu Luật Báo chí về sau được sửa để hiện thực hóá các quyền tự do thì tiến trình sắp xếp này sẽ có thể diễn ra cục diện báo do Đảng làm chủ sở hữu sẽ là hệ thống báo chí mạnh, nếu không nói là mạnh nhất. Nhà nước sẽ bán cho các doanh nghiệp, tập đoàn một số cơ quan báo chí có tiềm lực".
Trên thực tế, bài tính này đã từng được cân nhắc, tính toán nghiêm túc. Sự đầu tư vào thị trường truyền thông của các ông lớn đã diễn ra quanh co bằng chiêu bài hợp tác truyền thông và vụ án AVG nướng đến hai bộ trưởng, hai ông trùm hách nhất về quản lý báo chí, là một nhịp vấp vội vàng chứ không hẳn đã là một kết thúc".
"Trong một nền chính trị đơn nhất, công luận luôn là một công cụ chính yếu để biến hóa "nguồn vốn" chính sách thành thế, thành lực của quyền, của tiền".
"Tất nhiên bài ca 'con kiến kiện củ khoai' sẽ còn truyền nhau trong các đồng nghiệp báo chí để bắt đầu một thời kỳ phân rã không thể tránh khỏi trong các cơ quan báo chí".
"Cái mà rất nhiều lãnh đạo báo chí gọi bằng hai chữ 'đội ngũ' đầy tự hào cũng chẳng cách nào không tan vỡ khi sứ mạng luật định bảo đảm quyền tự do ngôn luận cho nhân dân đã được thực hiện bằng sự im lặng".
Có ý kiến báo chí ở Việt Nam "là công cụ tuyên truyền của Đảng"
'Chấn động lớn'
Cũng trong hôm 9/4, nhà báo Ngọc Vinh, là một trong các thư ký tòa soạn của báo Tuổi Trẻ, trả lời BBC : "Thực ra, theo như tôi hiểu, bản quy hoạch này đã có từ lâu và được giới báo chí đồn đại bàn tán nhiều trong thời gian qua, dù không công khai tỏ thái độ trên truyền thông".
"Từ tháng 9/2015, ông Nguyễn Bắc Son, lúc bấy giờ là bộ trưởng Thông tin và Truyền thông đã tổ chức một hội nghị để phổ biến đề án quy hoạch này. Ở hội nghị, ông Bắc Son có cho biết, đề án được nghiên cứu, thảo luận và hình thành từ 9 năm trước, tức từ năm 2006. Tính cho tới ngày Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký duyệt và công bố, thì thâm niên của đề án này đã kéo dài được 13 năm".
"13 năm để soạn thảo và ban hành một đề án về báo chí, quả là dài. Thế nhưng ta phải hiểu đảng cầm quyền đã thận trọng như thế nào trước một đề án tác động đến toàn bộ nền báo chí Việt Nam như vậy. Chính ông Bắc Son khi ấy cũng thừa nhận "việc thực hiện quy hoạch báo chí là việc lớn, cấp bách, phức tạp, nhạy cảm, có ảnh hưởng, tác động đến nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị, đối tượng... nên phải triển khai thận trọng, từng bước, theo lộ trình".
"Dù là "cấp bách" nhưng khoảng thời gian để "thận trọng" là 13 năm. So với lúc ông Bắc Son phổ biến đề án năm 2015 và bây giờ, khi đã ký duyệt, cơ bản đề án ko có thay đổi gì nhiều. Chỉ có một thay đổi lớn là ông bộ trưởng ngày ấy giờ đã trở thành tù nhân trong trại giam".
"Bản quy hoạch báo chí này đã tạo một chấn động lớn trong giới báo chí nước nhà, tạo ra những cuộc vận động ngầm lâu nay và khi nó được ký duyệt, các "cuộc chạy" lại khởi động. Dĩ nhiên lãnh đạo các tờ báo và các cơ quan chủ quan không ai muốn tờ báo của mình bị biến mất trên bản đồ báo chí nước nhà, nên việc "vận động" là đương nhiên, gấp rút, vì thời gian không còn nhiều. Chỉ sang năm thôi, số lượng các tờ báo tại Thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị thu hẹp chỉ còn 1/3. Và đến năm 2025, địa phương này chỉ còn duy nhất một tờ báo được phép tồn tại".
"Bản quy hoạch báo chí của Việt Nam, rõ ràng là có một không hai trên thế giới hiện nay. Dù có trí tưởng tượng phong phú nhất, các nhà báo cũng chưa từng nghĩ đến một thực tế là Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất và năng động nhất nước, nơi tập trung tinh thần dân chủ nhất nước, một ngày nào đó chỉ còn một tờ báo mà thôi. Rõ ràng, đề án mà chúng ta đang nói đến đã thu hẹp hoạt động của báo chí, và dĩ nhiên thu hẹp quyền ngôn luận của người dân".
Ông Ngọc Vinh phân tích :
"Tôi nghĩ Hà Nội ít bị ảnh hưởng hơn Thành phố Hồ Chí Minh vì số lượng đầu báo đáng đọc ở ngoài ấy ít hơn Sài Gòn. Báo Hà Nội đa số trực thuộc các tổ chức chính trị đầu não nên phần lớn được tồn tại như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Lao Động, các tờ báo của các bộ. Riêng hai tờ báo Thanh Niên và Tiền Phong cùng chung tổ chức Trung ương Đoàn sẽ tồn tại đến hết 2024 trước khi nhập lại thành một vào năm 2025".
"Thành phố Hồ Chí Minh là nơi sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ đề án quy hoạch báo chí. Tại đây, khoảng trên dưới 15 tờ báo sẽ tranh nhau 5 suất tồn tại từ 2020 đến 2025. Trong số này, dĩ nhiên Báo Sài Gòn Giải Phóng sẽ là hạt nhân và chiếm một suất vì là " tiếng nói của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh". Bốn tờ còn lại sẽ là những tờ báo có lượng bạn đọc đáng kể và có ảnh hưởng đến công chúng, có thể sẽ là Tuổi Trẻ, Người Lao Động, Pháp Luật, Phụ Nữ hay tờ nào khác…"
"5 suất tồn tại kể trên đến năm 2025 chỉ còn một suất. Chúng sẽ nhập với nhau hay có bốn tờ báo trong số 5 tờ vừa kể sẽ biến mất ? Câu hỏi này rất thú vị với các nhà báo thích dự đoán ở Việt Nam. Có người mạnh miệng cho rằng chỉ còn tờ Sài Gòn Giải Phóng là tồn tại, còn bốn tờ kia sẽ núp bóng Sài Gòn Giải Phóng để trở thành phụ bản của nó, dù tên gọi và đối tượng, cương lĩnh phục vụ của tờ báo cũ sẽ giữ nguyên. Nói cách khác là bình mới rượu cũ…".
Bộ trưởng Thông tin và truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng Nhà nước "sẽ tập trung đầu tư ngân sách cho một số cơ quan báo chí chủ lực"
'Răm rắp thực hiện'
Nhà báo Ngọc Vinh bình luận thêm với BBC :
"Ước tính, việc quy hoạch báo chí có thể đẩy 4.000 nhà báo có thẻ và khoảng 6.000 nhân viên hành chính trị sự ra đường vì mất việc làm. Tuy nhiên, điều 1 của bản "Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến 2025" tiếp tục khẳng định một thực tế như lâu nay : "Báo chí là phương tiện thông tin, công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước".
"Như thế thì dễ hiểu, sẽ không có một phản ứng hay sự chống đối nào xảy ra cả. Lãnh đạo các tờ báo sẽ răm rắp thực hiện vì không ông nào muốn bị mất ghế. Lâu nay, dù biết về bản quy hoạch nhưng chẳng có tờ báo nào dám lên tiếng phê phán hay góp ý kế hoạch đó, ngoại trừ vài tiếng nói lẻ tẻ của một ít nhà báo trên mạng xã hội".
"Nếu có, thì họ chỉ tận dụng vài kẽ hở nào đó của bản quy hoạch, để "chạy thuốc" nhằm tìm kiếm một chút ưu thế cho tờ báo của mình trong quá trình tồn tại, chẳng hạn như, thay vì bị khai tử, hãy cho tôi cơ hội được tồn tại dù là dưới hình thức phụ bản cho tờ báo khác…"
"Theo tôi, rất khó mà có thay đổi gì trong tình hình hiện nay vì báo chí là một thế lực quan trọng có thể thay đổi một chế độ hay một quốc gia. Các tuyên bố của các lãnh đạo cho thấy, Đảng và Nhà nước phải nắm chắc công cụ báo chí, không để nó bị tư nhân hóa dưới bất kỳ hình thức nào và họ chưa sẵn sàng nới lõng tự do cho báo chí.
"Dĩ nhiên những người làm báo ở Việt nam luôn muốn được tự do làm báo, được tự do thể hiện chính kiến quan điểm của mình. Họ càng được tự do bày tỏ và biểu đạt sự thật thì báo chí càng có lợi và dân chúng cũng có lợi, xã hội cũng có lợi. Vì bị hạn chế và kiểm soát khá ngặt nghèo nên giờ đây báo chí, nhất là báo in giảm độc giả nhanh chóng".
"Và đó là cơ hội của mạng xã hội. Những vị lãnh đạo báo chí cũng từng lên tiếng khẳng định thực tế này và kêu gọi báo chí không được để mạng xã hội vượt mặt. Thế nhưng, điều kiện cần để báo chí có thể cạnh tranh sòng phẳng với mạng xã hội là quyền tự do biểu đạt chứ không phải là bản quy hoạch báo chí mà ta đang chứng kiến".
"Từ những yếu tố đó, tôi muốn nói rằng việc kiềm hãm sức mạnh vô biên của báo chí chỉ có hại chứ không có lợi cho đất nước".
"Sở dĩ tôi chọn nghề làm báo vì từng đọc một câu nói, được cho là của một tổng thống Mỹ. Ông ấy nói rằng, nếu buộc phải chọn một giữa tổng thống và báo chí thì ông ấy sẽ chọn báo chí. Tôi nghĩ, nước Mỹ được hùng mạnh như ngày hôm nay là nhờ những người cầm quyền có tư tưởng như vậy. Tôi ước mong sao, một ngày nào đó, tại Việt nam cũng sẽ có một lãnh tụ, một nguyên thủ dám nói và dám thực hiện những điều như thế".
Ben Ngô
Nguồn : BBC, 09/04/2019
Tôi không rõ Bộ chính trị XI quy hoạch báo chí như thế nào nhưng theo tôi, Quốc hội nên thảo luận về điều này và có "Luật sử dụng ngân sách cho báo chí", trên nguyên tắc, cấm các cơ quan đang nắm giữ các quyền lực nhà nước như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Thanh Tra và các bộ ngành... ra báo. Các cơ quan này có thể có những tờ nội san để trao đổi nghiệp vụ và có trách nhiệm thông tin đầy đủ cho nhân dân thông qua các cơ quan báo chí khác.
Quốc hội có thể chi ngân sách cho các loại công báo như VTV, VOV... nhằm đảm bảo quyền được thông tin của người dân ; những cơ quan báo chí của bất cứ tổ chức chính trị xã hội nào cũng phải tự lo ngân sách. Nếu làm được điều này, các doanh nghiệp sẽ trút được những cơn đau tim khi nhận được các cuộc điện thoại từ các tờ báo thuộc các cơ quan đang nắm quyền sinh quyền sát gọi đòi quảng cáo và, tất nhiên, biên chế ở khối sự nghiệp báo chí sẽ giảm ít nhất là 80% so với con số hiện nay.
Huy Đức
***********************
Sáng 25/09, Bộ Thông tin và truyền thông tổ chức hội nghị phổ biến nội dung cơ bản của đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 (đề án Quy hoạch báo chí).
Chủ trì hội nghị, Thứ trưởng Trương Minh Tuấn nhấn mạnh định hướng quy hoạch đối với báo in và tạp chí in là sắp xếp hệ thống các cơ quan báo in gắn với các giải pháp đổi mới mô hình tổ chức, quản lý theo hướng giảm số lượng cơ quan báo in, mỗi cơ quan báo in có thể có nhiều ấn phẩm (trong đó có 1 ấn phẩm chính và có thể có một số ấn phẩm phụ).
Các cơ quan báo in sau khi được sắp xếp đều có cơ quan chủ quản trực tiếp là tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc trung ương, cơ quan cấp bộ, ngành cấp trung ương (trừ các quân khu, quân chủng), tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác chỉ đạo, quản lý.
Bộ trưởng Thông tin và truyền thông Nguyễn Bắc Son: Quy hoạch báo chí để báo chí mạnh hơn
Các cơ quan báo chí in được giao quyền tự chủ tài chính. Nhà nước tập trung đầu tư ngân sách cho một số cơ quan báo in chủ lực, thực hiện cơ chế đặt hàng đối với một số báo và tạp chí phục vụ các nhiệm vụ chính trị được xác định.
Đổi mới hình thức, nội dung các ấn phẩm đáp ứng yêu cầu thông tin chung và thông tin chuyên biệt của từng nhóm độc giả, vùng miền.
Mỗi tỉnh, thành có một cơ quan báo in
Về phương án sắp xếp, Ban chấp hành trung ương có báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản và giữ nguyên số ấn phẩm hiện có.
Mỗi ban của Đảng có 1 cơ quan tạp chí in làm chức năng chỉ đạo, thông tin lý luận, khoa học và nghiệp vụ.
Văn phòng Quốc hội có 1 cơ quan báo in và 1 cơ quan tạp chí in. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước có 1 cơ quan báo in và 1 cơ quan tạp chí in.
Bộ, cơ quan ngang bộ có 1 cơ quan báo in và 1 cơ quan tạp chí in. Cơ quan thuộc Chính phủ có 1 cơ quan tạp chí in. Quân khu, quân chủng có 1 cơ quan báo in và 1 cơ quan tạp chí in.
Tổng cục thuộc bộ có 1 cơ quan tạp chí in. Học viện, viện nghiên cứu, các trường đại học, bệnh viện đủ điều kiện theo quy định được có 1 cơ quan tạp chí in khoa học chuyên ngành.
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, báo Nhân Dân, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân thực hiện theo mô hình cơ quan truyền thông đa phương tiện.
Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 1 cơ quan báo in thuộc Đảng bộ cấp tỉnh, 1 cơ quan tạp chí in thuộc hội văn học - nghệ thuật tỉnh. Một số tỉnh, thành phố là địa bàn trọng điểm về kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, du lịch được có cơ quan tạp chí in chuyên ngành. Các sở, ngành không có cơ quan báo in.
Mỗi tổ chức chính trị - xã hội Trung ương có 1 cơ quan báo in và 1 cơ quan tạp chí in. Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam có 1 cơ quan báo in trực thuộc Liên hiệp và một số tạp chí của các hội thành viên.
Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam có 1 cơ quan báo in và 1 cơ quan tạp chí in. Mỗi tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội Trung ương có 1 cơ quan tạp chí in.
Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước có thể có 1 cơ quan tạp chí in.
Cơ quan trung ương của các tổ chức tôn giáo hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam có 1 cơ quan tạp chí in.
Lộ trình thực hiện là trước năm 2017 tiến hành sắp xếp thí điểm tại một số cơ quan, địa bàn để rút kinh nghiệm trước khi triển khai trong cả hệ thống. Đến năm 2020 cơ bản hoàn thành việc sắp xếp.
Phát thanh - truyền hình
Hệ thống phát thanh, truyền hình đổi mới theo hướng tập trung sản xuất chương trình, bảo đảm các chương trình sản xuất trong nước đạt tối thiểu 70% tổng thời lượng phát sóng.
Việc khai thác các nội dung từ kênh chương trình truyền hình nước ngoài tập trung vào tin thời sự quốc tế, khoa học, kỹ thuật, thể thao, giải trí và không vượt quá 30% tổng thời lượng phát sóng.
Đến năm 2020, các đài truyền hình địa phương tự chủ về tài chính. Nhà nước có cơ chế hỗ trợ, đặt hàng đối với các kênh, chuyên mục, chương trình, phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền.
Thứ trưởng Thông tin và truyền thông Trương Minh Tuấn. Ảnh : Chung Hoàng
Đối với truyền hình trả tiền, số lượng kênh truyền hình nước ngoài được phép khai thác nguyên kênh trên hệ thống không vượt quá 30% tổng số kênh khai thác.
Các kênh truyền hình Thông tấn xã Việt Nam (chủ quản Thông tấn xã Việt Nam), kênh truyền hình Đài Tiếng nói Việt Nam (chủ quản Đài Tiếng nói Việt Nam), kênh truyền hình Công an nhân dân (chủ quản Bộ Công an), kênh truyền hình Quốc phòng Việt Nam (chủ quản Bộ Quốc phòng), kênh truyền hình Quốc hội (chủ quản Đài Tiếng nói Việt Nam), kênh truyền hình Nhân Dân (chủ quản báo Nhân Dân) không xây dựng hệ thống truyền dẫn, phát sóng riêng biệt.
Về phương án sắp xếp : Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 1 đài phát thanh và truyền hình.
Mỗi đài chỉ có 1 kênh phát thanh, 1 kênh truyền hình quảng bá phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền. Bảo đảm chương trình sản xuất trong nước đạt tối thiểu 70% thời lượng phát sóng.
Riêng Đài Hà Nội và Đài Thành phố Hồ Chí Minh mỗi đài có tối đa 2 kênh phát thanh, 2 kênh truyền hình quảng bá phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền.
Các trung tâm truyền hình khu vực của Đài Truyền Hình Việt Nam chỉ thực hiện chức năng sản xuất chương trình cho Đài tại khu vực đó, không phát sóng riêng kênh chương trình khu vực.
Đến năm 2020, các đài phát thanh và truyền hình trên cả nước hoàn thành việc sắp xếp theo phương án này.
Quy hoạch một số báo điện tử chủ lực
Định hướng sắp xếp báo điện tử cơ bản tương tự như báo in.
Báo chí tác nghiệp bên hành lang Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11, tháng 1/2011. Ảnh : Hoàng Long
Cơ quan, tổ chức được có cơ quan báo in thì được xuất bản báo điện tử. Các cơ quan tổ chức được xuất bản tạp chí in thì có thể có phiên bản điện tử (đăng đúng nội dung của tạp chí in).
Các cơ quan, tổ chức dưới cấp bộ, ngành, tỉnh (là cấp không được có báo in) mà hiện có báo điện tử thì sắp xếp theo hướng chuyển cơ quan báo điện tử sang trực thuộc cấp bộ, ngành, tỉnh.
Các tổ chức, xã hội nghề nghiệp, doanh nghiệp nhà nước chỉ có tạp chí điện tử, không có báo điện tử.
Các báo điện tử hiện có thuộc các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, doanh nghiệp nhà nước thì sắp xếp lại theo hướng thay đổi cơ quan chủ quản cho phù hợp với quy hoạch.
Về cơ bản, các báo điện tử tự cân đối tài chính. Nhà nước có cơ chế hỗ trợ phát triển một số báo điện tử chủ lực có kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tính tương tác cao, phong phú về nội dung, có khả năng thu hút công chúng, định hướng dư luận xã hội, nhất là trước các sự kiện, vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm để phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền và thông tin đối ngoại (bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài).
Về lộ trình thực hiện, các cơ quan nào vừa có báo in và báo điện tử thì sắp xếp theo lộ trình của báo in. Các cơ quan báo chí có báo điện tử sắp xếp trước năm 2017.
Những bài toán khó
Tại hội nghị, nhiều ý kiến cho rằng để sắp xếp hơn 800 cơ quan báo chí đang có theo quy hoạch nêu trên, có những bài toán khó phải giải quyết.
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tập trung nhiều cơ quan báo chí nhất nước. Ở Hà Nội có 16 cơ quan, ở Thành phố Hồ Chí Minh có 18. Bộ Thông tin và truyền thông cho biết ngay 1/10 tới sẽ làm việc với Thành phố Hồ Chí Minh để tìm cách sắp xếp các cơ quan báo chí của thành phố này.
Bên cạnh đó, một loạt báo, tạp chí của các hội hiện nay, theo quy hoạch sẽ không còn. Vấn đề đặt ra là giải quyết một số lượng lớn, có thể lên đến hàng nghìn, cán bộ, phóng viên, biên tập viên có thể mất việc.
Bộ Thông tin và truyền thông cho biết đối với các cơ quan này phải có lộ trình để đảm bảo không gây ra sự xáo trộn quá lớn và đặt lợi ích của người lao động lên cao nhất.
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Thông tin và truyền thông Nguyễn Bắc Son cho hay, các thách thức này không phải là không đặt ra, nhưng vẫn có thể làm được.
Bằng chứng là một số bộ đã chủ động sắp xếp các cơ quan báo chí của mình ngay cả trước khi có quy hoạch như Bộ Giao thông vận tải, từ 7 báo còn 1 báo. Bản thân Bộ Thông tin và truyền thông cũng đã sắp xếp lại các cơ quan báo chí do bộ làm chủ quản.
Bộ trưởng nhấn mạnh việc quy hoạch báo chí mục đích là để báo chí mạnh hơn, hiệu quả hơn, làm đúng chức năng nhiệm vụ là phương tiện thông tin, công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và nhà nước, diễn đàn của nhân dân.
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son cũng lưu ý, báo chí bảo đảm hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, không chạy theo lợi nhuận thuần túy, không để tư nhân sở hữu báo chí, không để nhóm lợi ích chi phối báo chí.
Chung Hoàng
************************
Trung ương Đảng yêu cầu giảm 5.800 đơn vị sự nghiệp công lập (VnExpress, 28/10/2017)
Đến năm 2021, giảm tối thiểu 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa ký ban hành Nghị quyết số 19 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Theo đó, trung ương Đảng đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2021 là giảm mạnh về đầu mối, tối thiểu bình quân cả nước giảm 10% đơn vị sự nghiệp công lập ; giảm tối thiểu 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015.
Tại diễn văn khai mạc Hội nghị trung ương 6 vừa qua, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, nếu không tính tổ chức, biên chế trong công an, quân đội và khu vực doanh nghiệp nhà nước, cả nước đã có khoảng 58.000 đơn vị sự nghiệp công lập với 2,5 triệu biên chế. Như vậy, yêu cầu nêu trên của trung ương tương đương với việc, trong 4 năm tới, tối thiểu bình quân cả nước giảm 5.800 đơn vị sự nghiệp công lập ; giảm tối thiểu 250.000 biên chế.
Hoàn thành lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công
trung ương Đảng cũng giao mục tiêu phấn đấu có 10% đơn vị tự chủ tài chính ; giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2011 - 2015.
Một mục tiêu khác được Nghị quyết đề cập đến là hoàn thành lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công (tính đủ tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và khấu hao tài sản) đối với một số lĩnh vực như y tế, giáo dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp.
Đơn vị sự nghiệp công sẽ được tinh gọn đáp ứng hiệu lực, hiệu quả. Ảnh : Giang Huy
Thí điểm thuê giám đốc điều hành
Để đạt được mục tiêu nói trên, trung ương đề ra nhiều nhóm giải pháp, cụ thể như : Đổi mới việc giao biên chế theo hướng quản lý, giám sát chặt chẽ ; đẩy mạnh thí điểm việc thi tuyển và thuê giám đốc điều hành tại các đơn vị sự nghiệp công lập ; thực hiện chế độ hợp đồng viên chức có thời hạn đối với những trường hợp tuyển dụng mới...
Các đơn vị liên quan được giao rà soát, sắp xếp, cơ cấu lại và tinh giản biên chế đối với các chức danh kế toán, y tế học đường tại các trường mầm non, phổ thông và các chức danh lái xe, bảo vệ, nhân viên phục vụ trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đẩy mạnh sắp xếp theo Quy hoạch báo chí
Trong lĩnh vực báo chí, trung ương nêu rõ đẩy mạnh sắp xếp theo Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm 2025 đã được Bộ Chính trị khóa XI thông qua nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, dàn trải đầu tư, buông lỏng quản lý, hoạt động xa rời tôn chỉ, mục đích. Việc đẩy mạnh sắp xếp theo Quy hoạch này cũng gắn với xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo, quản lý báo chí của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhất là của người đứng đầu cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí.
Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ, trung ương chỉ đạo rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức nhằm giảm mạnh đầu mối, kể cả ở các bộ, cơ quan trung ương và địa phương ; lựa chọn để tập trung đầu tư một số tổ chức nghiên cứu khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giới.
Ngoài ra, trung ương cũng yêu cầu có cơ chế tăng cường liên kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với các trường đại học và doanh nghiệp để gắn kết nghiên cứu khoa học với hoạt động đào tạo và sản xuất kinh doanh...
Hoàng Thùy
********************
Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập
Ngày 25/10/2017, thay mặt Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Sau đây là toàn văn Nghị quyết.
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1- Trong những năm qua, các cấp, các ngành đã tích cực triển khai chủ trương của Đảng về đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập với đông đảo đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các nhà giáo dục và các nhà văn hóa đã có đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ; góp phần thực hiện các mục tiêu giảm nghèo bền vững, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình đẳng giới, nâng cao sức khoẻ nhân dân, góp phần bảo đảm bền vững môi trường, công bằng xã hội và hoàn thành cơ bản các mục tiêu Thiên niên kỷ.
Hệ thống cung ứng dịch vụ sự nghiệp công đã hình thành ở hầu hết các địa bàn, lĩnh vực ; mạng lưới cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao trải rộng đến tận khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, địa bàn khó khăn, biên giới, hải đảo trong cả nước. Các đơn vị sự nghiệp công lập giữ vai trò chủ đạo, vị trí then chốt trong cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và thực hiện chính sách an sinh xã hội. Hệ thống pháp luật về đơn vị sự nghiệp công từng bước được hoàn thiện. Việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập đã đạt được kết quả bước đầu. Chính sách xã hội hóa cung ứng dịch vụ sự nghiệp công đã góp phần mở rộng mạng lưới, tăng quy mô, số lượng và nâng cao chất lượng các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.
2- Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém và còn không ít những khó khăn, thách thức phải vượt qua. Nhiều văn bản pháp luật về đơn vị sự nghiệp công lập chậm được ban hành hoặc chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung. Công tác đổi mới hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm. Quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu còn theo đơn vị hành chính, chưa chú trọng quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đặc điểm vùng miền và nhu cầu thực tế. Hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp còn cồng kềnh, manh mún, phân tán, chồng chéo ; quản trị nội bộ yếu kém, chất lượng, hiệu quả dịch vụ thấp. Chi tiêu ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập còn quá lớn, một số đơn vị thua lỗ, tiêu cực, lãng phí. Cơ cấu đội ngũ cán bộ, viên chức chưa hợp lý, chất lượng chưa cao, năng suất lao động thấp. Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính còn hình thức, có phần thiếu minh bạch ; việc chuyển đổi từ phí sang giá và lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công chưa kịp thời. Việc thực hiện xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công còn chậm. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn hạn chế. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát và xử lý sai phạm trong hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập còn bất cập.
3- Những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan. Việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực sự nghiệp công còn chậm, chưa đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với tình hình. Nhiều cấp ủy đảng, lãnh đạo và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nhận thức chưa đầy đủ, thiếu quyết tâm chính trị, thiếu quyết liệt và đồng bộ trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện đổi mới, sắp xếp lại, quản lý biên chế các đơn vị sự nghiệp công lập ; chưa chủ động chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ. Công tác tuyên truyền, quán triệt chủ trương, chính sách, pháp luật chưa thường xuyên ; tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước trong thụ hưởng dịch vụ sự nghiệp công còn phổ biến.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC TIÊU
1- Quan điểm chỉ đạo
(1) Đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là một trong những nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên hàng đầu, là nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách, vừa lâu dài của tất cả các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn hệ thống chính trị.
(2) Nhà nước chăm lo, bảo đảm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu, nâng cao khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công cho mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt đẹp, ưu việt, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp công lập.
(3) Đẩy mạnh xã hội hóa, nhất là trong các ngành, lĩnh vực và địa bàn mà khu vực ngoài công lập làm được và làm tốt ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển lành mạnh thị trường dịch vụ sự nghiệp công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công khai, minh bạch, không thương mại hóa. Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập.
(4) Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong quá trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gắn với đổi mới hệ thống chính trị và cải cách hành chính, đồng thời có lộ trình và bước đi phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn để kịp thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách.
(5) Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm toàn diện về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, phát huy vai trò giám sát của người dân trong quá trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
2- Mục tiêu
2.1- Mục tiêu tổng quát
Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công ; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Giảm mạnh đầu mối, khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải và trùng lắp ; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức. Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công.
2.2- Mục tiêu cụ thể
Giai đoạn đến năm 2021
- Cơ bản hoàn thành việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức lại hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập.
- Giảm mạnh về đầu mối, tối thiểu bình quân cả nước giảm 10% đơn vị sự nghiệp công lập. Giảm tối thiểu 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015. Cơ bản chấm dứt số hợp đồng lao động không đúng quy định trong các đơn vị sự nghiệp công lập (trừ những đơn vị đã bảo đảm tự chủ tài chính).
- Phấn đấu có 10% đơn vị tự chủ tài chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2011 - 2015.
- Hoàn thành cơ bản việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện thành công ty cổ phần (trừ các bệnh viện và trường học).
- Hoàn thành lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công (tính đủ tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và khấu hao tài sản) đối với một số lĩnh vực cơ bản như y tế, giáo dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp.
Giai đoạn đến năm 2025 và 2030
Hoàn thiện đầy đủ và đồng bộ hệ thống pháp luật để thể chế hóa các chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức và hoạt động đơn vị sự nghiệp công lập.
Đến năm 2025
- Tiếp tục giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% đơn vị sự nghiệp công lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2021. Chấm dứt số hợp đồng lao động không đúng quy định trong các đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các đơn vị bảo đảm tự chủ tài chính).
- Phấn đấu có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính.
- 100% đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện hoàn thành chuyển đổi thành công ty cổ phần.
- Tiếp tục giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2016 - 2020.
Đến năm 2030
- Tiếp tục thực hiện việc giảm đầu mối, phấn đấu chỉ còn các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ quản lý nhà nước và các đơn vị cung ứng các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu.
- Giảm 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2025.
- Giảm bình quân 15% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2021 - 2025.
III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
1- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập nhằm nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận ở các ngành, các cấp, các đơn vị sự nghiệp và toàn xã hội trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công.
2- Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tiêu chí phân loại, điều kiện thành lập, sáp nhập, hợp nhất, giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập theo từng ngành, lĩnh vực. Trên cơ sở đó, sắp xếp, tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập của từng ngành, lĩnh vực theo nguyên tắc : (1) Pháp luật chuyên ngành không quy định việc thành lập tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp công lập ; (2) Trường hợp cần thiết phải thành lập mới đơn vị sự nghiệp công lập, thì đơn vị đó phải tự bảo đảm toàn bộ về tài chính (trừ trường hợp phải thành lập mới để cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu) ; (3) Một đơn vị sự nghiệp công lập có thể cung ứng nhiều dịch vụ sự nghiệp công cùng loại nhằm giảm mạnh đầu mối, khắc phục chồng chéo, dàn trải, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ ; (4) Cơ cấu lại hoặc giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động không hiệu quả ; (5) Đẩy mạnh xã hội hóa, chuyển các đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác đủ điều kiện thành công ty cổ phần.
Việc sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập của từng ngành, lĩnh vực cụ thể như sau :
2.1- Đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo
- Đối với giáo dục đại học : Sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể các trường đại học, cơ sở giáo dục - đào tạo hoạt động không hiệu quả, không nhất thiết tỉnh nào cũng có trường đại học. Sắp xếp, tổ chức lại, tập trung xây dựng một số trường sư phạm trọng điểm để đào tạo đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục. Nhà nước tập trung đầu tư chiều sâu, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các trường đại học công lập ở một số lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế. Các trường trong Quân đội, Công an chỉ thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho lực lượng vũ trang.
- Đối với giáo dục mầm non, phổ thông : Sắp xếp, tổ chức lại gắn với nâng cao chất lượng giáo dục, hình thành trường phổ thông nhiều cấp học (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế của mỗi địa phương, địa bàn cụ thể. Rà soát, sắp xếp, điều chỉnh lại quy mô lớp học một cách hợp lý ; thu gọn lại các điểm trường trên nguyên tắc thuận lợi cho người dân và phù hợp với điều kiện thực tế của vùng, miền, địa phương. Tạo điều kiện chuyển đổi mô hình các cơ sở giáo dục mầm non, trung học phổ thông từ công lập ra ngoài công lập ở những nơi có khả năng xã hội hóa cao.
2.2- Đối với lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp
- Sắp xếp, tổ chức lại hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở và linh hoạt đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động ; bảo đảm quy mô, cơ cấu và hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, chuẩn hóa, hiện đại hóa, có phân tầng chất lượng. Nhà nước tập trung đầu tư một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho các nhóm đối tượng đặc thù phù hợp với khả năng đầu tư của Nhà nước và khả năng huy động nguồn lực của xã hội.
- Sáp nhập trường trung cấp vào trường cao đẳng ; giải thể các trường trung cấp, cao đẳng hoạt động không hiệu quả. Về cơ bản, trên địa bàn cấp tỉnh chỉ còn một đầu mối đào tạo nghề công lập. Sáp nhập trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề thành một cơ sở giáo dục dạy nghề trên địa bàn cấp huyện.
2.3- Đối với lĩnh vực y tế
- Tổ chức các cơ sở y tế theo hướng toàn diện, liên tục và lồng ghép theo 3 cấp : Chăm sóc ban đầu, chăm sóc cấp 2, chăm sóc cấp 3. Sắp xếp lại các đơn vị làm nhiệm vụ kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm chuẩn thành đơn vị kiểm soát dược phẩm, thực phẩm và thiết bị y tế.
- Xây dựng một số bệnh viện hiện đại ngang tầm khu vực và quốc tế. Sớm hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh và trung ương thành trung tâm phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh cùng cấp trên cơ sở sáp nhập các tổ chức, đơn vị có cùng chức năng, nhiệm vụ và hoạt động lồng ghép.
- Thực hiện thống nhất mô hình mỗi cấp huyện chỉ có một trung tâm y tế đa chức năng (trừ các huyện có bệnh viện đạt hạng II trở lên), bao gồm y tế dự phòng, dân số, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng và các dịch vụ y tế khác ; trung tâm trực tiếp quản lý trạm y tế xã và phòng khám đa khoa khu vực (nếu có). Rà soát, sắp xếp hợp lý các phòng khám đa khoa khu vực. Nơi đã có cơ sở y tế trên địa bàn cấp xã thì có thể không thành lập trạm y tế xã.
- Điều chỉnh, sắp xếp lại các bệnh viện bảo đảm mọi người dân đều có thể tiếp cận thuận lợi về mặt địa lý. Chuyển dần các bệnh viện thuộc Bộ Y tế và các bộ, cơ quan nhà nước ở trung ương về địa phương quản lý (trừ các bệnh viện thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an ; một số ít bệnh viện chuyên khoa đầu ngành, bệnh viện của các trường đại học).
2.4- Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ
- Rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ nhằm giảm mạnh đầu mối, kể cả ở các bộ, cơ quan trung ương và địa phương, khắc phục tình trạng chồng chéo, dàn trải, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực nghiên cứu, gắn với quá trình cơ cấu lại ngành khoa học và công nghệ. Về cơ bản, chỉ nên tổ chức một đơn vị sự nghiệp công lập thuộc sở khoa học và công nghệ.
- Lựa chọn để tập trung đầu tư một số tổ chức nghiên cứu khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giới. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, phát triển mạnh mẽ thị trường khoa học và công nghệ phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
- Chuyển một số tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm khoa học có khả năng thương mại hóa thành doanh nghiệp hoặc chuyển về trực thuộc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Có cơ chế tăng cường liên kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với các trường đại học và doanh nghiệp để gắn kết nghiên cứu khoa học với hoạt động đào tạo và sản xuất kinh doanh.
- Nghiên cứu chuyển một số tổ chức khoa học và công nghệ công lập hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản về trực thuộc các trường đại học, học viện để thúc đẩy gắn kết giữa nghiên cứu với đào tạo.
2.5- Đối với lĩnh vực văn hóa, thể dục, thể thao
- Sắp xếp lại, nâng cao năng lực các đơn vị nghệ thuật biểu diễn công lập theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả. Tiếp tục duy trì các đơn vị nghệ thuật truyền thống tiêu biểu. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ giữ lại một đoàn nghệ thuật công lập truyền thống tiêu biểu của địa phương. Đối với các đơn vị nghệ thuật khác chuyển sang hình thức ngoài công lập. Hợp nhất trung tâm văn hóa và đoàn nghệ thuật cấp tỉnh thành một đầu mối.
- Kiện toàn, củng cố thư viện công cộng cấp huyện với các mô hình, thiết chế đã có ; việc thành lập mới chỉ được thực hiện tại các địa phương có nhu cầu và điều kiện cho phép.
- Hoàn thiện, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi hoạt động cấp quốc gia đối với một số bảo tàng chuyên ngành có các bộ sưu tập quý hiếm, có giá trị nghiên cứu khoa học để thu hút khách tham quan và phát triển du lịch.
- Thực hiện chủ trương sáp nhập các trung tâm có chức năng, nhiệm vụ tương đồng thuộc sở văn hóa, thể thao và du lịch thành một đầu mối. Sáp nhập các trung tâm văn hóa, trung tâm thể thao, nhà văn hoá… trên địa bàn cấp huyện thành một đầu mối.
2.6- Đối với lĩnh vực thông tin và truyền thông
- Lĩnh vực báo chí : Đẩy mạnh thực hiện việc sắp xếp theo Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm 2025 đã được Bộ Chính trị khóa XI thông qua nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, dàn trải đầu tư, buông lỏng quản lý, hoạt động xa rời tôn chỉ, mục đích, gắn với việc xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo, quản lý báo chí của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhất là của người đứng đầu cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí.
- Lĩnh vực xuất bản : Chuyển hầu hết các nhà xuất bản sang đơn vị sự nghiệp có thu ; trường hợp thật sự cần thiết, đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì cho phép chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên 100% vốn nhà nước.
- Lĩnh vực công nghệ thông tin : Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của các đơn vị sự nghiệp về an toàn thông tin. Tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công nghệ thông tin khác, bao gồm : Giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình đối với những đơn vị sự nghiệp công lập quy mô nhỏ, hoạt động không hiệu quả, không phục vụ quản lý nhà nước hoặc hoạt động trong lĩnh vực đã xã hội hóa cao.
- Lĩnh vực bưu chính, viễn thông : Rà soát, sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, nâng cao năng lực hoạt động để đáp ứng yêu cầu phục vụ quản lý nhà nước.
- Các lĩnh vực thông tin và truyền thông khác : Rà soát, hoàn thiện mô hình tổ chức, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp thuộc các cơ quan trung ương, địa phương để bảo đảm tính thống nhất trong quản lý, chỉ đạo, điều hành về hoạt động thông tin và truyền thông.
2.7- Sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khác
- Chuyển mạnh các đơn vị sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khác có đủ điều kiện thành công ty cổ phần. Giải thể các đơn vị sự nghiệp kinh tế hoạt động không hiệu quả.
- Về lĩnh vực bảo trợ xã hội, chăm sóc người có công : Tổ chức lại các cơ sở trợ giúp xã hội theo hướng hỗ trợ chăm sóc phục hồi chức năng, trợ giúp các nhóm đối tượng dựa vào cộng đồng. Phát triển các trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hợp nhất các trung tâm bảo trợ có chức năng, nhiệm vụ tương đồng thành trung tâm bảo trợ đa chức năng.
- Về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn : Sắp xếp lại, giảm mạnh đầu mối và nâng cao hiệu quả hoạt động các đơn vị sự nghiệp. Hợp nhất trạm chăn nuôi và thú y, trạm trồng trọt và bảo vệ thực vật, trạm khuyến nông, khuyến ngư,… cấp huyện thành trung tâm dịch vụ nông nghiệp trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và chuyển một số chức năng, nhiệm vụ về quản lý nhà nước ở các đơn vị này về phòng nông nghiệp (hoặc phòng kinh tế) cấp huyện. Sáp nhập các cơ quan tương ứng ở cấp tỉnh, đưa chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan này về sở nông nghiệp và phát triển nông thôn. Rà soát, sắp xếp lại, kiện toàn các ban quản lý rừng phòng hộ theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
- Về lĩnh vực tài nguyên và môi trường : Chuyển các trung tâm phát triển quỹ đất về trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý.
2.8- Nghiên cứu việc hợp nhất các cơ sở đào tạo về lý luận chính trị của Đảng với các cơ sở đào tạo về quản lý hành chính ở địa phương theo hướng tinh gọn tổ chức bộ máy, tạo sự thống nhất và liên thông giữa các khu vực, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đào tạo cán bộ cho hệ thống chính trị. Nghiên cứu, đổi mới mô hình tổ chức của các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, giao cho các trường chính trị tỉnh chịu trách nhiệm về hướng dẫn chuyên môn, tăng cường cán bộ giảng dạy kiêm nhiệm của cấp ủy cấp huyện.
3- Quản lý biên chế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Đổi mới cơ chế xác định và giao biên chế theo hướng quản lý, giám sát chặt chẽ biên chế của các đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ hoặc một phần chi thường xuyên ; đẩy mạnh thí điểm việc thi tuyển và thực hiện thuê giám đốc điều hành tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Thực hiện chế độ hợp đồng viên chức có thời hạn đối với những trường hợp tuyển dụng mới (trừ các đơn vị sự nghiệp công lập ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn). Không thực hiện chế độ công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các đơn vị phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ quản lý nhà nước). Thực hiện nghiêm việc đánh giá, phân loại viên chức hằng năm theo quy định hiện hành để đưa ra khỏi đội ngũ những người 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ.
- Chấm dứt việc tự phê duyệt và giao biên chế sự nghiệp vượt quá số lượng được cơ quan có thẩm quyền giao hoặc thẩm định ; có kế hoạch và giải pháp để giải quyết dứt điểm số viên chức và số người lao động vượt quá số biên chế được giao (trừ các đơn vị đã tự chủ tài chính). Các cơ quan, đơn vị chưa sử dụng hết số biên chế được giao phải xem xét, cắt giảm phù hợp.
- Tổ chức phân loại viên chức theo vị trí việc làm và sắp xếp, bố trí lại cơ cấu viên chức theo hướng vị trí chuyên môn, nghiệp vụ chiếm tỉ lệ ít nhất 65%. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ, bố trí, sử dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ này. Rà soát, sắp xếp, cơ cấu lại và tinh giản biên chế đối với các chức danh kế toán, y tế học đường tại các trường mầm non, phổ thông và các chức danh lái xe, bảo vệ, nhân viên phục vụ trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Quy định và thực hiện nghiêm về số lượng lãnh đạo cấp phó. Trong thời gian thực hiện sắp xếp lại, số lượng cấp phó của các đơn vị sự nghiệp công lập do sáp nhập, hợp nhất có thể cao hơn quy định, nhưng khi có cấp phó nghỉ hưu hoặc điều chuyển công tác thì không được bổ sung ; đồng thời phải có giải pháp điều chuyển, sắp xếp lại số lượng cấp phó trong thời hạn tối đa 3 năm kể từ ngày sáp nhập, hợp nhất. Trường hợp điều chuyển giữ chức vụ thấp hơn thì được bảo lưu phụ cấp chức vụ đến hết thời hạn bổ nhiệm.
- Đổi mới cơ chế, phương thức tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức (bao gồm cả cán bộ quản lý). Có chính sách thu hút nhân tài, thu hút đội ngũ viên chức có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi vào làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập. Thực hiện đào tạo lại, hỗ trợ thích hợp đối với viên chức và người lao động dôi dư do sáp nhập, giải thể hoặc chuyển thành đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.
4- Đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách tạo điều kiện đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường và thúc đẩy xã hội hóa trong việc cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công : (1) Xác định các dịch vụ sự nghiệp công do ngân sách nhà nước phải bảo đảm, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ; các dịch vụ công khác không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước, xác định giá theo cơ chế thị trường, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích luỹ để thu hút nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế ngoài công lập tham gia cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ; (2) Có chính sách khuyến khích ưu đãi về đất đai, thuế, phí, tín dụng,… tạo điều kiện hỗ trợ cho các đơn vị ngoài công lập, nhà đầu tư tham gia đầu tư, nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công ; (3) Có chính sách đối xử bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập trong việc cung cấp dịch vụ công ; các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập được tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công của Nhà nước.
- Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập sang mô hình tự chủ hoàn toàn cả về chi đầu tư, chi thường xuyên, thực hiện quản lý, kế toán theo mô hình doanh nghiệp. Các đơn vị được Nhà nước giao vốn, tài sản để thực hiện cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từng bước tính đủ chi phí đầu vào (kể cả khấu hao) để xác định giá dịch vụ. Các đơn vị đã bảo đảm chi đầu tư và chi thường xuyên được quyền quyết định số lượng người làm việc, tiền lương theo kết quả hoạt động, được Nhà nước hỗ trợ về thuế, phí để tăng cường năng lực tài chính và khả năng tự cân đối.
- Chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện sang công ty cổ phần. Không tách, điều chuyển các cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp và khám, chữa bệnh trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước khi các tập đoàn, tổng công ty này thực hiện cổ phần hóa.
- Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ, xã hội hóa, trước hết là các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và các cơ sở y tế, tổ chức khoa học và công nghệ ở các địa bàn có khả năng xã hội hóa cao. Có chính sách thí điểm đổi mới theo lộ trình, đẩy mạnh xã hội hóa các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông ở các địa bàn có khả năng xã hội hóa cao để mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhất là đối với các thành phố, đô thị lớn có dân số tăng nhanh do nhập cư.
- Thực hiện chuyển đổi hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hạch toán như doanh nghiệp, kiên quyết chuyển sang cơ chế tự bảo đảm hoàn toàn về tài chính đối với nhóm các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công có khả năng xã hội hóa cao trên cơ sở Nhà nước thực hiện lộ trình bảo đảm kinh phí hoạt động có thời hạn.
- Khuyến khích thành lập các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, nhất là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, y tế, khoa học và công nghệ.
- Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để thành lập doanh nghiệp đa sở hữu trong các viện nghiên cứu, trường đại học nhằm thực hiện hoạt động ứng dụng, triển khai, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu và cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
- Tăng cường gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để đào tạo đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Xây dựng chính sách để doanh nghiệp được tham gia giáo dục nghề nghiệp theo hình thức đặt hàng của Nhà nước và của doanh nghiệp khác ; được tham gia xây dựng danh mục ngành, nghề đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên.
- Có chính sách thuận lợi để tổ chức khoa học và công nghệ công lập được quyền sở hữu và có cơ chế phân chia lợi ích hợp lý đối với kết quả nghiên cứu khoa học sử dụng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình thương mại hóa ứng dụng kết quả nghiên cứu.
- Tiếp tục thực hiện cơ chế kết hợp công - tư về nhân lực và thương hiệu trong lĩnh vực y tế ; xây dựng cơ chế hợp tác đầu tư giữa bệnh viện công và bệnh viện tư, giữa các bệnh viện công. Minh bạch hóa các hoạt động liên doanh, liên kết, hợp tác công - tư, nhất là ở các đơn vị thuộc lĩnh vực do Nhà nước cấp phép hoạt động ; bảo toàn và phát triển vốn, tài sản nhà nước.
5- Nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập
- Đổi mới phương thức quản lý, nâng cao năng lực quản trị đơn vị, bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cung ứng các dịch vụ sự nghiệp công, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
- Rà soát, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong từng đơn vị theo hướng tinh gọn, giảm mạnh đầu mối, bỏ cấp trung gian, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học - công nghệ tiên tiến, áp dụng các tiêu chuẩn, chuẩn mực quản trị quốc tế.
- Nâng cao chất lượng quản trị tài chính, tài sản công của đơn vị. Ban hành quy chế quản lý tài chính, tài sản công, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng đầu. Hoàn thiện chế độ kế toán, thực hiện chế độ kiểm toán, giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch hoạt động tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
- Áp dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như mô hình quản trị doanh nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơ chế hội đồng trường trong các trường đại học theo hướng, hội đồng trường là cơ quan thực quyền cao nhất của trường đại học ; bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch hội đồng trường.
- Thực hiện kiểm định, đánh giá và xếp hạng các đơn vị sự nghiệp công lập, nhất là đối với trường đại học, bệnh viện.
6 - Hoàn thiện cơ chế tài chính
- Hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các ngành, lĩnh vực trên cơ sở mức độ tự chủ về tài chính, tăng cường phân cấp và tăng tính chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Có cơ chế tài chính phù hợp để huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công, nhất là cho y tế và giáo dục, kể cả hình thức hợp tác công - tư, liên doanh, liên kết.
- Phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao với hoạt động kinh doanh dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập. Xây dựng và hoàn thiện các danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước theo nguyên tắc : Đối với các dịch vụ thiết yếu thì Nhà nước bảo đảm kinh phí ; đối với các dịch vụ cơ bản thì Nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện ; đối với các dịch vụ mang tính đặc thù của một số ngành, lĩnh vực thì thực hiện theo cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu để tạo điều kiện cho các cơ sở ngoài công lập cùng tham gia ; đối với các dịch vụ khác thì đẩy mạnh thực hiện theo cơ chế xã hội hóa, huy động sự tham gia cung ứng của các thành phần kinh tế.
- Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp công theo hướng Nhà nước quy định khung giá dịch vụ, từng bước tính đủ các chi phí đối với các loại dịch vụ cơ bản, thiết yếu, đồng thời cần gắn với chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách. Đối với giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, giao quyền tự chủ cho các đơn vị cung ứng dịch vụ tự quyết định theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích luỹ.
- Đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực, quản lý, cấp phát ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước bảo đảm đầu tư cho các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu (giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông ; y tế dự phòng, y tế cơ sở, khám, chữa các bệnh phong, lao, tâm thần ; nghiên cứu khoa học cơ bản ; văn hóa, nghệ thuật dân gian truyền thống, đào tạo huấn luyện vận động viên, huấn luyện viên thể thao quốc gia ; bảo trợ xã hội và chăm sóc người có công,...) và đối với các đơn vị sự nghiệp công lập ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Ngân sách nhà nước chuyển từ hỗ trợ cho các đơn vị sự nghiệp công lập sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng người nghèo, đối tượng chính sách khi sử dụng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu ; chuyển từ hỗ trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công căn cứ vào chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. Thực hiện cơ chế giao vốn, tài sản cho đơn vị sự nghiệp công lập ; xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu về tài chính và tài sản công của đơn vị sự nghiệp công lập trong toàn quốc.
- Phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập theo mức độ tự chủ khác nhau về tài chính. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính, được trả lương theo kết quả hoạt động. Đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, thực hiện trả lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp theo quy định hiện hành ; đối với phần tăng thu, tiết kiệm chi, được trích lập các quỹ bổ sung thu nhập và phát triển hoạt động sự nghiệp. Các đơn vị được giao tự chủ tài chính ổn định từ 3 đến 5 năm theo phương án thu chi tài chính được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với các đơn vị được Nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động, cần đẩy mạnh thực hiện cơ chế khoán chi.
- Rà soát các quy định về thuế nhằm khuyến khích tự chủ tài chính và có tích luỹ cho đầu tư. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính, được tính chi phí tiền lương theo doanh thu hoặc quỹ lương khoán trong chi phí hợp lệ để tính thuế thu nhập.
- Có cơ chế, chính sách đủ mạnh để tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích việc tinh giản biên chế, bổ sung vào diện tinh giản biên chế một số đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Bảo đảm nguồn kinh phí để giải quyết chính sách đối với những người dôi dư do sắp xếp, tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập và thực hiện tinh giản biên chế. Đối với công chức, viên chức làm việc trong đơn vị tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, kinh phí lấy từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị. Đối với công chức, viên chức làm việc trong đơn vị do ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần hoặc bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động thì lấy từ nguồn kinh phí hoạt động của đơn vị. Trường hợp kinh phí của đơn vị không đủ thì ngân sách nhà nước bổ sung theo quy định hiện hành về phân cấp ngân sách.
7- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
- Sửa đổi, bổ sung pháp luật về công chức, viên chức, đội ngũ nhà giáo và pháp luật có liên quan. Đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
- Chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập có tính chất cung cấp dịch vụ sự nghiệp công của bộ, ngành về chính quyền địa phương quản lý ; bộ chỉ thực hiện chủ quản đối với các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ và những đơn vị trọng điểm, chuyên sâu.
- Rà soát, hoàn thiện quy hoạch định hướng mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương ; chuyển từ quy hoạch theo đơn vị hành chính sang quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, nhu cầu của xã hội và thị trường.
- Ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật đối với từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công ; tiêu chí phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập ; tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng dịch vụ của đơn vị theo ngành, lĩnh vực ; hệ thống tiêu chuẩn chức danh những người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập ; thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, điều hành đơn vị sự nghiệp công lập, cơ chế giám sát, kiểm tra trách nhiệm của người đứng đầu. Lấy kết quả thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế hằng năm là một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp loại kết quả công tác của người đứng đầu cấp uỷ, đơn vị sự nghiệp công lập.
- Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính các cấp trong quản lý ngân sách nhà nước chi cho lĩnh vực sự nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, tránh chồng chéo, lãng phí. Quy định rõ quyền hạn gắn với trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, đặc biệt là người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cố tình né tránh hoặc không thực hiện nhiệm vụ được giao đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Hình thành các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập về chất lượng dịch vụ sự nghiệp công theo ngành, lĩnh vực.
8- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng ; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
- Các cấp ủy và tổ chức đảng phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Ban hành quy định về vai trò và chức năng lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng trong đơn vị sự nghiệp công lập.
- Phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong giám sát, phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, ưu tiên các dự án luật trực tiếp phục vụ triển khai thực hiện Nghị quyết ; tăng cường giám sát của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội đối với việc tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
2- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc trung ương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết với lộ trình và phân công cụ thể trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị thực hiện phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành, lĩnh vực, địa phương và đơn vị.
3- Ban Tuyên giáo trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức việc học tập, quán triệt và tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết, kết quả thực hiện Nghị quyết.
4- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát thực hiện Nghị quyết.
5- Ban Kinh tế trung ương chủ trì, phối hợp với Văn phòng trung ương Đảng và các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết, định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Hoàng Thùy