Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Bắc Kinh hung hăng về đối ngoại để giải tỏa những áp lực nội bộ. Theo hai nhà Trung Quốc học, Emmanuel Lincot và Emmanuel Véron, thái độ cứng rắn của Đảng cộng sản nước này là "vỏ bọc bề ngoài" nhằm che đậy "nhiều nhược điểm ở bên trong".

voboc1

Trung Quốc phô trương sức mạnh với thế giới để che đậy những nhược điểm trong nước. AP - Mark Schiefelbein

Giáo sư Emmanuel Lincot giảng dậy tại Viện đại học Công giáo Paris, cộng tác viên Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp – IRIS. Còn nhà nghiên cứu Emmanuel Véron thuộc Học Viện Ngôn ngữ và Văn minh Đông phương INALCO. Trên trang mạng chuyên về địa chính trị Diploweb số ra tháng 1/2021, qua bài "Có gì ở phía sau bức tranh tươi sáng của Trung Quốc ?", hai nhà nghiên cứu này đã phân tích về chính sách đối ngoại của Bắc Kinh, về những "ngòi nổ âm ỉ" từ bên trong. RFI xin trích dịch một số đoạn trong bài phân tích của hai chuyên gia Lincot và Véron. 

Nguy cơ giải pháp quân sự từ những bất mãn chồng chất trong nước

Nhược điểm thứ nhất, theo giáo sư Lincot, chính là địa hình địa lý của nước đông dân nhất địa cầu : Trung Quốc tuy nhiều tài nguyên thiên nhiên nhưng các nguồn tài nguyên đó lại ở những vùng rất xa với trung ương, cách xa các lò sản xuất của Trung Quốc. Từ đó nẩy sinh "căng thẳng thường trực giữa chính quyền trung ương và các địa phương". Hiềm khích đó có chiều hướng gia tăng từ khi ông Tập Cận Bình lên lãnh đạo đất nước. Điểm yếu thứ nhì là núi và sa mạc chiếm một phần lớn diện tích quốc gia rộng lớn này, "tối thiểu 400 triệu dân Trung Quốc khó tiếp cận với các nguồn nước ngọt. (…) Sự khan hiếm nước đó giải thích một số xung đột với các quốc gia sát cạnh".

Điểm yếu thứ ba là vấn đề nhu cầu thực phẩm. Emmanuel Lincot giải thích : đất canh tác của Trung Quốc không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cho 1,5 tỷ dân và "sự lệ thuộc của Trung Quốc vào lương thực, thực phẩm của nước ngoài là một vấn đề lớn" đối với bản thân Trung Quốc và toàn thế giới. Nguy hiểm hơn nữa là diện tích đất canh tác của Trung Quốc ngày càng bị thu hẹp để nhường chỗ cho thành phố phát triển. Sự phát triển đó dẫn đến một hậu quả tai hại không kém về mặt xã hội : khác biệt giữa nông thôn và thành thị càng lúc càng lớn.

"Trái với các chiến dịch tuyên truyền của Bắc Kinh, Trung Quốc không phải là một xã hội hài hòa".

60 % dân Trung Quốc sống với thu nhập chưa tới 140 đô la hàng tháng. "Trái với các chiến dịch tuyên truyền của Bắc Kinh, Trung Quốc không phải là một xã hội hài hòa". Người dân Trung Quốc không dám nói ra, nhưng "bất mãn chồng chất đang tích tụ". Emmanuel Lincot kết luận : Vì những nhược điểm vừa nêu, Bắc Kinh chưa có đủ phương tiện để trở thành một siêu cường của thế giới và đó là mối bức xúc của ông Tập Cận Bình.

Chênh lệch giữa tham vọng và khả năng để trở thành một cường quốc là "một mối nguy hiểm" vì "trong một chế độ độc tài, ngõ thoát duy nhất để giải tỏa bức xúc đó đôi khi có thể là một giải pháp quân sự".

Dùng công nghệ mới để giải tỏa bế tắc nội bộ

Đối với nhà nghiên cứu Emmanuel Véron Viện INALCO, nhược điểm của Trung Quốc là dân số đông nhất địa cầu và diện tích tương đương với cả một Châu lục, với những mức độ phát triển quá chênh lệch. Để vượt lên trên những khó khăn đó, Bắc Kinh "khai thác những công nghệ mới từ trí thông minh nhân tạo đến mạng 5G và tới đây là 6G". Trung Quốc đã nhanh chóng phát triển, sử dụng ở quy mô lớn và không có giới hạn các công nghệ mới vừa để kiểm soát mọi hoạt động của các công dân nước này, vừa để phục vụ mục đích trở thành một cường quốc. Điều ấy "đang và sẽ đẩy Trung Quốc cũng như là thế giới vào một thực tế khác hẳn so với những gì mà chúng ta đang chứng kiến hiện nay".

Bước ngoặt trong chính sách ngoại giao của Bắc Kinh

Vậy Bắc Kinh có những lá chủ bài nào để chinh phục thế giới ? Trong phần trả lời dành cho trang mạng chuyên về địa chính trị Diploweb giáo sư Lincot, Viện đại học Công giáo Paris và cộng tác viên của Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược Pháp gắn liền vế kinh tế và ngoại giao.

Từ thời Đặng Tiểu Bình đến Hồ Cẩm Đào, Trung Quốc đã nhã nhặn trên trường ngoại giao vì cần đầu tư của phương Tây. Nhưng bước sang thế kỷ XXI, vững mạnh về kinh tế (Bắc Kinh đã ra đời những định chế riêng như là Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải, Ngân Hàng Phát Triển Cơ Sở Ha Tầng…). Trung Quốc không còn nhút nhát trong bang giao quốc tế và đã bắt đầu "đọ sức với Ấn Độ, uy hiếp Đài Loan, kích động công luận khơi dậy hiềm khích trong quá khứ lịch sử với Nhật Bản, với Châu Âu trong thời kỳ chiến tranh nha phiến"… Emmanuel Lincot lưu ý những nỗ lực đó của Đảng cộng sản Trung Quốc khơi lại quá khứ để kích động quần chúng, nhưng "chưa bao giờ xin lỗi về cái chết của 80 triệu nạn nhân của những phong trào Trăm Hoa Đua Nở, Đại Nhẩy Vọt hay Cách Mạng Văn Hóa".

Tiêu tan những nỗ lực ngoại giao

Thái độ hung hăng dưới thời ông Tập Cận Bình thể hiện khá rõ với việc Trung Quốc "đòi viết lại lịch sử" về diễn biến dịch Covid-19, "về nguồn gốc con virus, về số nạn nhân ở Vũ Hán" và qua áp lực của Bắc Kinh với Tổ chức Y tế Thế giới về một thảm họa đã cướp đi sinh mạng của hơn bốn triệu người trên hành tinh.

"Trong một thời gian rất ngắn, ông Tập Cận Bình đã hủy hoại những nỗ lực của nền ngoại giao Trung Quốc để tô điểm cho hình ảnh của quốc gia này".

Theo nhà Trung Quốc học Emmanuel Lincot, do virus corona mà "trong vài tuần lễ thế giới đã sáng mắt ra" về "mức độ nguy hiểm của sức mạnh Trung Quốc, về thái độ vô trách nhiệm của Bắc Kinh" và quan trong hơn nữa là "trong một thời gian rất ngắn, ông Tập Cận Bình đã hủy hoại những nỗ lực của nền ngoại giao Trung Quốc để tô điểm cho hình ảnh của quốc gia này". Giáo sư Lincot Viện đại học Công giáo Paris cho rằng giờ đây, Trung Quốc hiện nguyên hình là một "kẻ phá hoại" vơ vét của người khác về làm của mình đồng thời cho thấy "hợp tác một cách bình đẳng" vớiBắc Kinh là điều không tưởng. Ngay cả với các nước như Iran, hay Nga thường khẳng định có mối bang giao chặt chẽ với Trung Quốc nhưng đó cũng chỉ là vỏ bọc bề ngoài.

"Mối quan hệ đặc biệt Nga-Trung"

Trong trường hợp của Moskva chẳng hạn, giáo sư Lincot cho rằng, tổng thổng Putin cũng như công luận Nga không hề "ngây thơ" chút nào trước những ý đồ của Bắc Kinh.

"Moskva đã có ý định làm sống lại con Đường Tơ Lụa. (...) Nhưng rồi Bắc Kinh đã có tham vọng lớn hơn, có nhiều phương tiện hơn".

Giáo sư Lincot nhắc lại : Ngay cả dự án Một vành đai một con đường mà Trung Quốc đề xướng hiện nay, khởi đầu là một sáng kiến của Nga. Từ thập niên 1980 Moskva đã có ý định làm sống lại con Đường Tơ Lụa để đánh lạc hướng công luận Liên Xô về những thất bại quân sự trên chiến trường Afghanistan và để chứng minh rằng mô hình xã hội chủ nghĩa có thể phát triển và hợp tác với các nước Hồi giáo. Nhưng rồi Bắc Kinh đã có tham vọng lớn hơn, có nhiều phương tiện hơn.

Bên cạnh những chủ đích kinh tế, những ý đồ về địa chính trị của Trung Quốc đã "quá rõ ràng" và điều rõ ràng không kém là "Bắc Kinh có những phương tiện tài chính mà Moskva không có được". Nhưng Trung Quốc phải dựa vào ảnh hưởng của Nga tại Trung Á thông qua Tổ Chức Hiệp Ước An Ninh Tập Thể (OTSC) được thành lập từ tháng 10/2002 quy tụ Nga và Armenia, Belarus, Kazakhstan Kirghizistan và Tadjikistan. Tổ chức này cho phép Moskva can thiệp quân sự trong khu vực liên quan để giải quyết xung đột. Trong khi đó Trung Quốc không có thẩm quyền đó với Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải.

Tuy nhiên giáo sư Emmanuel Lincot nhấn mạnh đến tính chất "tình thế" của trục Moskva – Bắc Kinh : thứ nhất tới nay Trung Quốc chưa mạnh dạn đầu tư vào Nga. Điểm thứ nhì là điện Kremlin không ngần ngại bán vũ khí cho Việt Nam hay Ấn Độ. Chủ tịch Tập Cận Bình không mấy hài lòng về điều đó.

Về phía giáo sư Véron thuộc viện INALCO, ông cho rằng Trung Quốc và Nga chủ yếu gắn kết với nhau trên ba hồ sơ, đó là năng lượng - nguyên liệu - khoáng sản, là công nghiệp vũ khí và địa chính trị. Nhà nhiên cứu này cũng cho rằng không nên đánh giá quá đáng về sự "thắm thiết" của cặp bài trùng nói trên bởi vì "Moskva không muốn Trung Quốc hiện diện quá nhiều và quá mạnh". Trong khi đó "Bắc Kinh hài lòng về thế thượng phong của mình đối với nước Nga cho dù Moskva là một tâm điểm của thế giới cả về mặt ngoại giao lẫn quân sự và chiến lược, nhưng cả về đối ngoại lẫn đối nội, nước Nga của ông Putin lại không có phương tiện tài chính xứng tầm.

Nga không là cửa ngõ duy nhất để Trung Quốc bắt rễ vào Châu Âu và Trung Á.

Đó là điều khiến Bắc Kinh hài lòng.

Trung Quốc chỉ muốn dựa vào ảnh hưởng của Nga tại Châu Âu và trong khu vực Trung Á mà thôi. Thế nhưng nhà nghiên cứu Emmanuel Véron lưu ý : Nga không là cửa ngõ duy nhất để Trung Quốc bắt rễ vào hai khu vực vừa nêu, bởi Bắc Kinh đã kết nối với những người bạn mới, như là Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và cũng đã từng bước chen chân vào vùng Capkaz thuộc ảnh hưởng của Moskva hay vùng Địa Trung Hải.

Thanh Hà tóm lược

Nguồn : RFI, 28/07/2021

Additional Info

  • Author Emmanuel Lincot, Emmanuel Véron, Thanh Hà
Published in Diễn đàn

Sức mạnh đang gia tăng nhanh chóng của Trung Quốc đã thu hút sự chú ý ở Biển Đông

Trong địa chính trị, ngay cả lợi ích của nhà nước cũng không phải là ý chí bảo vệ đất nước.

tq1

Chiến lược ổn định biên giới chung đã cho phép Bắc Kinh nâng cấp từ một lực lượng lục địa lớn lên lực lượng toàn cầu.

Một trong những điều sáo rỗng nhất trong chính trị là niềm tin rằng, không có kẻ thù hoặc bạn bè vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn. Tuy nhiên, hãy xem xét kỹ hơn.

Trong địa chính trị thế kỷ 21, luật của Bill Clay nên được hiểu theo nghĩa triệt để hơn. Sự giải thích của nhà nước về lợi ích của chính mình có thể phát triển một cách biện chứng, chứ chưa nói đến phạm vi lợi ích của chính quốc gia đó. Điều này đặc biệt đúng trong một cường quốc đang gia tăng nhanh chóng như Trung Quốc.

Như nhà quan sát sắc sảo Robert Kaplan chỉ ra : "Trung Quốc chỉ có thể thực hiện hành động cực đoan ở vùng biển lân cận, bởi vì hiện tại nó an toàn trên đất liền.

"Vào buổi bình minh của thời hiện đại, Trung Quốc chưa bao giờ là một cường quốc hàng hải hợp pháp. Tuy nhiên, trước đó, các cường quốc Châu Á không chỉ củng cố cơ sở kinh tế mà còn đảm bảo hầu hết biên giới trên bộ, đặc biệt là với Nga và các nước Trung Á".

Theo giải thích của nhà khoa học chính trị Taylor Fravel trong cuốn sách Strong Borders, Secure Nation, Bắc Kinh đã kiên nhẫn và khéo léo giải quyết 17 tranh chấp biên giới, bao gồm cả các nước hậu Xô Viết như Kyrgyzstan, Tajikistan, Kazakhstan và Nga, và với các nước Đông Nam Á.

Trong hầu hết các trường hợp, Trung Quốc đã từ bỏ tới 50% yêu sách ban đầu để thúc đẩy chiến lược ổn định biên giới chung. Dưới sự giám sát của chính phủ Giang Trạch Dân, thành tựu chiến lược lịch sử này đã cho phép Bắc Kinh nâng cấp từ một lực lượng lục địa lớn lên lực lượng toàn cầu.

Trong thập kỷ sau cuộc suy thoái phương Tây năm 2008. Cuộc đại khủng hoảng ở phương Tây đã làm trỗi dậy đợt báo thù ở Trung Quốc, điều chưa từng có trong thời hiện đại. Tuy nhiên, lúc đầu, dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình, sự tự tin của Trung Quốc càng tăng thêm, gây sốc và đe dọa các đối thủ cạnh tranh và các nước láng giềng gần đó, đặc biệt là các quốc gia có chủ quyền nhỏ hơn ở Đông Nam Á. Để làm cho vấn đề hiệu quả hơn, theo lời của học giả nổi tiếng Trung Quốc Yan Xuetong, Bắc Kinh đã xoay sở để "mua" một cách hiệu quả sự im lặng của những người hàng xóm nghèo và yếu hơn ở miền nam.

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đôi khi thậm chí không đưa ra một tuyên bố quan trọng nào về việc quân sự hóa Trung Quốc và "quân sự hóa" các tranh chấp ở Biển Đông, mà gần như không có chế tài nào. Kết quả là những gì Philip Davidson, chỉ huy của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương, mô tả là "Vạn lý trường thành (Tên lửa đất đối không)" nằm trên một trong những tuyến đường thủy quan trọng nhất trên Trái đất, với những hậu quả có thể tàn phá đối với tự do hàng hải và hàng không.

Tuy nhiên, với sự thúc đẩy của Trung Quốc, sự kết hợp giữa kiêu ngạo và tự tôn đã tiếp tục đổ vào các vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng khác, với sức đề kháng ngày càng tăng. Điều gây sốc cho Trung Quốc là các nước ASEAN lớn đã bắt đầu rút lui. Có nhiều dấu hiệu cho thấy chính sách thu hút và lừa dối các nước láng giềng của Bắc Kinh thông qua các khuyến khích kinh tế có những hạn chế, đặc biệt là khi các vấn đề về chủ quyền quốc gia bị đe dọa.

Việt Nam, Malaysia và Indonesia đã nhanh chóng phân định ranh giới, cảnh báo Trung Quốc rằng nước này sẽ khiến quan hệ ngoại giao xuống cấp nghiêm trọng khi các tranh chấp hàng hải ở Đông Nam Á tiếp tục xấu đi.

Philippines, đứng đầu là Tổng thống Rodrigo Duterte, đã có xu hướng đối đầu ngầm, nhưng vụ kiện trọng tài mang tính bước ngoặt trước đây chống lại Trung Quốc đã khiến các nước láng giềng khác tìm cách chống lại bản năng tồi tệ của Bắc Kinh.

Phán quyết trọng tài mang tính bước ngoặt năm 2016 đánh dấu đỉnh điểm của một cuộc chiến pháp lý kéo dài nhiều năm của chính phủ cũ – Benigno Aquino, cho thấy rõ ràng rằng các hành vi của Trung Quốc đã không dựa trên luật pháp quốc tế hiện đại hiện có.

Tháng 11 năm ngoái, Thứ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung cảnh báo công khai rằng Việt Nam đang xem xét nghiêm túc "các biện pháp trọng tài và tranh tụng" quốc tế" để thách thức các yêu cầu quá mức của Bắc Kinh đối với khu vực. Trong bối cảnh hải quân bế tắc kéo dài một tháng tại Bãi Tư Chính giàu năng lượng (thuộc chủ quyền hoàn toàn của Việt Nam).

Tiếp đó, vào tháng 12, Malaysia tiếp tục gây sốc cho Trung Quốc với một yêu sách thềm lục địa bổ sung được đệ trình tại Liên Hợp Quốc, thách thức trực tiếp và hợp pháp các yêu sách quá mức của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa và vùng phía bắc bờ biển Malaysia. Vào thời điểm Bắc Kinh tin rằng họ có thể dỗ ngọt Hà Nội đã trở thành một cuộc đối thoại không có kết quả, Bắc Kinh đồng thời phải đối mặt với một thách thức pháp lý trực tiếp từ Malaysia, và dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Mahathir bin Mohamad. Malaysia cũng công khai chỉ trích các dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc và hành vi bành trướng gần đây ở Biển Đông.

Đáp lại lời cảnh báo của Trung Quốc về "quốc tế hóa" tranh chấp, Ngoại trưởng Malaysia Saifuddin Abdullah mô tả các yêu sách của Bắc Kinh là "lố bịch" và đe dọa sẽ sử dụng "trọng tài" quốc tế để bảo vệ nước này. Mahathir đã thành công trong việc thực hiện các điều chỉnh các dự án của Trung Quốc sau nhiều tháng chiến dịch ngoại giao mạnh mẽ chống lại cái gọi là ngoại giao "bẫy nợ" của Bắc Kinh.

Chỉ vài tuần sau, Indonesia nhập cuộc, Bộ Ngoại giao Indonesia đã công khai cáo buộc Trung Quốc "vi phạm chủ quyền" vì các tàu Trung Quốc thường xuyên xâm nhập vùng biển thuộc Quần đảo Natuna.

Chính phủ Indonesia, trích dẫn phán quyết của trọng tài Philippines, nói rõ rằng tuyên bố của Trung Quốc được hưởng quyền đánh bắt cá truyền thống ở vùng biển Indonesia là không có "cơ sở pháp lý" theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.

Để đối phó với sự gia tăng mạnh mẽ của Trung Quốc trong cuộc xâm lược vùng biển Indonesia, Tổng thống Joko Widodo, người từ lâu đã bị cáo buộc mềm dẻo quá mức với Trung Quốc, đã đến thăm khu vực tranh chấp và đưa ra lời cảnh báo Bắc Kinh.

"Chúng tôi có một quận ở đây, có nhiếp chính, có thống đốc. Không còn tranh luận gì nữa. Natuna là của Indonesia", ông Widodo khẳng định.

Trung Quốc giờ đây không còn bị bao vây bởi những nước láng giềng mềm yếu, mà là những quốc gia đang trở nên tự tin hơn, bởi các quốc gia này đã đạt được thỏa thuận về lợi ích hàng hải của họ và sự nguy hiểm của chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc.

Richard Javad Heydarian

Nguyên tác : Rapidly Rising Power China Has Been Put on Notice Over Contested Waters, The National Interest, 01/02/2020

Khánh An dịch

Nguồn : VNTB, 02/02/2020

Additional Info

  • Author Richard Javad Heydarian
Published in Diễn đàn