Ít có người Việt Nam nào, sau khi đã từ giã cõi đời, được thế giới nhắc nhớ với nhiều ngưỡng mộ và thương mến như thiền sư Thích Nhất Hạnh. Những lời giảng dạy về điều được gọi là chánh niệm trong Phật giáo đã mang lại an vui và hạnh phúc cho rất nhiều người trên thế giới. Tôi là một trong số những người đó. Nếu tôi có trở thành một Phật tử, theo cách thế riêng của tôi, thì cũng do học hỏi và thực hành những lời giảng dạy của thầy. Một cách nào đó, thiền sư Nhất Hạnh là bậc tôn sư của tôi.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong bộ áo nâu sòng, đội mũ len rời khỏi căn phòng an dưỡng đến thiền đường gặp các phật tử.
Khoảng giữa thập niên 1960, ở tuổi thanh niên, tôi đã nghe nói đến thầy. Một cách gián tiếp qua một linh mục công giáo là cố giáo sư Nguyễn Ngọc Lan. Trong tác phẩm "Đường hay Pháo Đài", linh mục Nguyễn Ngọc Lan có nhắc đến thiền sư Nhất Hạnh : một hôm ông đèo vị thiền sư trên chiếc xe gắn máy và luồn lách qua một khu phố nghèo ở Sài Gòn ; trẻ con trong xóm chạy ra xem và "tri hô" : "Ra mà coi : ông cha chở ông sư !". Cứ như thể đây là chuyện không bao giờ được phép xảy ra trong một đất nước đang sôi sục vì chia rẽ tôn giáo ! Những cuộc biểu tình của Phật giáo dẫn đến sự cáo chung của nền Cộng hòa đầu tiên mà lãnh đạo là một người công giáo. Nhiều cuộc xô xát có khi đẫm máu giữa một số cộng đồng Công giáo và Phật giáo tại một số nơi đã khiến cho mối quan hệ giữa hai tôn giáo lớn ở Việt Nam trở nên căng thẳng. Trong bối cảnh ấy, một linh mục công giáo đèo một vị sư phật giáo rảo qua phố phường hẳn phải là một hình ảnh đẹp hiếm có. Nhưng cũng kể từ lúc đó, theo dõi các hoạt động của vị thiền sư này, tôi lại thấy nơi thầy có những lời tuyên bố hay một sự thinh lặng đầy tranh cãi.
Đầu tiên đáng tranh cãi nhứt phải nói là lời tuyên bố của thầy về vụ Mỹ dội bom phá hủy Thị xã Bến Tre, một thị xã có 300 ngàn dân. Lời tuyên bố của vị thiền sư này được đưa ra trong một bài thuyết giảng tại một nhà thờ Tin Lành ở New York ngày 25 tháng Chín năm 2001. Nhân dịp giảng dạy về việc kiềm chế sự giận dữ, thiền sư cho biết : "Có lần tôi được biết Thị xã Bến Tre, một thành phố có 300 ngàn dân, bị máy bay Mỹ oanh tạc chỉ vì một số du kích quân đã vào thị xã và tìm cách bắn hạ máy bay Mỹ. Các du kích quân đã không thành công và sau đó đã rút lui. Và thị xã đã bị tiêu hủy. Và viên phi công (Mỹ) vốn chịu trách nhiệm (về vụ oanh tạc) sau này đã tuyên bố rằng ông đã phải tiêu hủy thị xã Bến Tre để cứu lấy nó. Tôi rất giận dữ" (1).
Nếu tôi là một thính giả đang uống lấy từng lời của thiền sư Nhất Hạnh thì tôi phải tin ngay việc Mỹ tàn phá cả một thành phố chỉ vì mấy tên du kích lẩn trốn trong đó. Nhưng là một người Việt Nam đã từng sống trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng ấy, tôi chưa từng nghe nói đến cuộc thảm sát ấy. Nếu quả thật một cuộc thảm sát như thế đã xảy ra thì chắc chắn tôi cũng đã "rất giận dữ" và biết đâu lại chẳng vào bưng để "chống Mỹ cứu nước".
Thiền sư Nhất Hạnh đã tỏ ra "rất giận dữ". Chỉ có điều khó hiểu nơi thầy là thầy đã có thể giận dữ trước hành động dã man của quân đội Mỹ nhưng lại thinh lặng trước vô số tội ác còn dã man gấp trăm lần của du kích quân cộng sản và quân đội Bắc Việt. Cụ thể nhứt là sự thinh lặng khó hiểu của thầy trước cuộc thảm sát ở Huế hồi Tết Mậu Thân năm 1968. Chống Mỹ và yêu cầu Mỹ rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam cũng như gay gắt lên án chính phủ Việt Nam Cộng Hòa nhưng thầy lại thinh lặng trước tội ác của chế độ cộng sản cũng như bàn tay lông lá của Liên Xô và Trung Cộng tại Việt Nam trong suốt cuộc chiến tranh.
Khó hiểu hơn nữa có lẽ là cuộc đấu tranh vì tự do tôn giáo của thầy. "Thời chiến tranh, thầy kêu gọi chính phủ Sài Gòn cho Giáo hội Phật giáo được tự do hành đạo. Thời cộng sản, Hà Nội đàn áp Giáo hội thì thầy không nói gì"... "Ba mươi năm sau ngày thống nhất đất nước, qua nhiều vận động của quốc tế và Hoa Kỳ, đặc biệt là của cố Thượng nghị sĩ John McCain, thầy được trở lại quê hương đầu năm 2005 trong phẩm phục, võng lọng chứ không còn là hình ảnh Sư ông Làng Mai đơn sơ với áo nâu sòng, nón lá".
"Về nước, Đức Tăng thống Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ không tiếp thầy, trong khi thầy được gặp Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp mời trà. Sư cô Chân Không (người đệ tử luôn sát cánh bên thầy), như để lấy điểm với nhà nước, đã phát biểu rằng những ngôi chùa của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là nơi có cờ vàng ba sọc đỏ" (2).
Quả thật, thầy Nhất Hạnh đã có những lời tuyên bố đầy tranh cãi và một thái độ thinh lặng khó hiểu trước những hoàn cảnh lẽ ra đòi hỏi phải lên tiếng. Nhưng với riêng tôi, khó hiểu nhứt vẫn là hình ảnh của một vị thiền sư đức độ như thầy lại xuất hiện trong "phẩm phục và võng lọng" trong chuyến về thăm quê hương lần đầu tiên đầu năm 2005. Nghe như vọng lại nhận xét mỉa mai của cụ Trần Tế Xương : "Công đức tu hành sư có lọng" !
Không hiểu sao tôi dễ bị dị ứng với "phẩm phục và võng lọng" trong các tôn giáo. Những thứ hào nhoáng ấy là biểu hiện của quyền lực thế trần và danh vọng hão huyền hơn là tinh thần cốt lõi của tôn giáo là sự khiêm tốn và quên mình. Trong hàng bao nhiêu thế kỷ, mãi cho đến cuối thập niên 1950 của thế kỷ trước, các vị lãnh đạo tối cao trong Giáo hội Công giáo của tôi, mỗi lần xuất hiện trước công chúng đều tỉnh bơ ngồi chễm chệ trên một chiếc kiệu được 4 người khiêng ! Những người được tôn vinh như "đại diện của Chúa Kitô" chẳng thể hiện được bất cứ nét nào trong chân dung của Đấng sống không nhà không cửa, không nơi gối đầu và quỳ gối rửa chân cho các môn đệ của mình như một người đày tớ.
Tôi khâm phục nhà lãnh đạo tối cao hiện nay của Giáo hội Công giáo là Đức Phanxicô. Vừa được bầu làm chủ chăn Giáo hội hoàn vũ, Ngài đã lột bỏ hết tất cả những râu ria phù phiếm trên người của vị giáo hoàng như đôi giày màu đỏ sang trọng, cây thánh giá vàng trên cổ. Chiếc ghế dát vàng mà các vị giáo hoàng thường ngồi lên để giảng dạy, Ngài cũng cho vào kho. Ngài cũng không còn phải mỗi năm đến biệt thự sang trọng của các vị giáo hoàng ở Castel Gandolfo để nghỉ mát. Ngay cả căn phòng sang trọng dành riêng cho các giáo hoàng trong điện Vatican, Ngài cũng từ bỏ. Các quan sát viên cho rằng cho tới nay Ngài vẫn chưa thực hiện được một cuộc cải tổ quan trọng nào trong Giáo hội. Nhưng dưới mắt tôi, dẹp bỏ được "phẩm phục và võng lọng" trong chính con người của giáo hoàng đã là một cuộc cách mạng vĩ đại nhứt mà không vị tiền nhiệm nào của Ngài dám làm.
Nhìn lại lịch sử của các tôn giáo có tổ chức, ôn lại cuộc đời của các nhà lãnh đạo tôn giáo, cách riêng trong Giáo hội Công giáo của tôi, tôi nhận ra một điều : dù ở địa vị nào trong tôn giáo, các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng chỉ là những con người bất toàn. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo, họ cũng "tham sân si" như mọi người, họ cũng chia sẻ cùng một kiếp người với mọi người. Trong tuyển tập "909 bài thơ ba dòng", nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc nhìn nhận một sự thật phũ phàng :
"Mỗi người ra đi,
Trời đất phúng điếu bằng
Một hạt bụi bay".
Phận người như thế cho nên tôi chưa bao giờ cảm thấy được thuyết phục để phủ phục tôn thờ bất cứ một lãnh tụ nào.
Thầy Nhất Hạnh của tôi đã ra đi. Giờ này thầy cũng chỉ còn là "một hạt bụi bay". Theo chúc thư thầy để lại, thầy muốn được hỏa táng và tro bụi của thầy phải được phân tán đi khắp các trung tâm và tu viện trên khắp thế giới mà thầy đã thành lập (3). Dù có được rải rắc khắp nơi để ghi lại dấu chân của thầy, thầy cũng chỉ là "một hạt bụi bay". Mà "một hạt bụi bay" là "một hạt bụi bay" !
Về thực hành, tôi luôn tu tập và hít thở theo phương pháp chánh niệm thầy đã chỉ dạy. Về tư tưởng, tôi rất tâm đắc với thuyết mà thầy gọi là "Tiếp Hiện" (Interbeing). Trong tác phẩm "Cốt lõi của sự hiểu biết" (The Heart of Understanding), thầy dùng một hình ảnh rất đơn sơ là tờ giấy để giải thích : "Tờ giấy này hiện hữu, vì mọi thứ khác đều hiện hữu... Mong manh như tờ giấy này, nhưng nó chứa đựng mọi sự trong vũ trụ". Theo thầy, hiện hữu là "tương hữu" (to be is to inter-be). Thầy nói : "Bạn không thể chỉ hiện hữu một mình. Bạn cần phải "tương hữu" với mọi thứ khác" cho nên tương hữu cũng có nghĩa là phải chịu trách nhiệm về người khác.
Với riêng tôi, ý niệm về "tương hữu" luôn nhắc nhở tôi về tính bất toàn của con người. Dù có "đắc đạo" đến cỡ nào, con người cũng vẫn mãi mãi là một hữu thể bất toàn. Cũng trong tuyển tập "909 bài thơ ba dòng", Nguyễn Hưng Quốc ghi nhận :
"Mỗi đời người là một phác thảo của Thượng Đế.
Tiếc.
Phần lớn đều vụng về"
Hơn ai hết tôi ý thức được rằng tôi là một tác phẩm vụng về của Thượng Đế. Nhìn xung quanh tôi và ngay cả ngước nhìn lên những con người đã vươn lên đến địa vị lãnh tụ, trong mọi lãnh vực, nhứt là chính trị và tôn giáo, hầu như ai cũng chỉ là một tác phẩm vụng về. Chính vì ý thức được những bất toàn của mình mà tôi cần phải luôn cảm thông trước những "tác phẩm vụng về" quanh tôi. Xét cho cùng, con đường để đi đến "Một hạt bụi bay" của tôi chỉ có thể đi xuyên qua sự "tương hữu", tức cảm thông với người khác và chịu trách nhiệm chung với cộng đồng nhân loại.
Chu Văn
(03/02/2022)
Chú thích :
1. ThichNhatHanh: One time I learned that the city of Ben Tre...
2. Bùi Văn Phú, Thầy Nhất Hạnh mất đi, nỗi buồn Việt Nam vẫn còn đó
3. Vietnamese Buddhist monk Thich Nhat Hanh’s funeral attracts processions of monks
Thiền sư Nhất Hạnh ra đi 'yên bình' ở tuổi 95
Ngọc Lễ, VOA, 22/01/2022
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng thế giới, vừa viên tịch vào lúc nửa đêm ngày 22/1 năm 2022 ở Tổ đình Từ Hiếu, thành phố Huế, ở tuổi 95, trang nhà của Làng Mai thông báo.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh lúc trở về Tổ đình Từ Hiếu, nơi ông thọ giới khi còn nhỏ, hồi năm 2018
VOA cũng đã được các đệ tử thân cận của Thiền sư xác nhận về sự ra đi này. Thông báo của Làng Mai cho biết ông ra đi 'một cách yên bình'.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người truyền bá và phát triển Phật giáo ở phương Tây hiện đại, người chủ trương ‘Phật giáo dấn thân,’ áp dụng Phật pháp giải quyết những vấn đề trong cuộc sống cá nhân và xã hội đương đại.
Sức khỏe thiền sư đã yếu dần sau lần đột quỵ hồi năm 2014 khiến ông phải ngồi xe lăn cho đến nay. Từ năm 2018, ông đã về hẳn ở Việt Nam để tịnh dưỡng ở 'chốn Tổ' là Tổ đình Từ Hiếu, nơi năm xưa ông đã xuất gia.
Xuất gia và ra đi
Sinh ngày 11/10 năm 1926 tại Huế với tục danh Nguyễn Xuân Bảo, Thiền sư Thích Nhất Hạnh xuất gia làm sa di từ năm 16 tuổi tại Tổ đình Từ Hiếu, thành phố Huế, thọ giới Thiền sư Thanh Quý Chân Thật theo Thiền tông thuộc Phật giáo Đại thừa.
Trong giai đoạn đầu tu tập, Thiền sư từng đảm nhiệm chức trách mà Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (là tổ chức sau này bị chính quyền cộng sản Việt Nam dẹp bỏ) giao cho, như chủ biên tạp chí Phật giáo Việt Nam năm 1956. Ông cũng sáng lập Nhà xuất bản Lá bối, tham gia sáng lập Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn. Đến những năm 1960, ông sáng lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (SYSS), một tổ chức thiện nguyện Phật giáo gồm khoảng 10.000 tình nguyện viên đi về các thôn xóm để dựng trường, xây trạm xá và tái thiết các làng xã bị chiến tranh tàn phá.
Từ năm 1961, ông bắt đầu ra nước ngoài, nghiên cứu và giảng dạy Phật học. Để rồi ông dần dành toàn bộ thời gian sống và phụng sự ở hải ngoại sau khi không thể về Việt Nam được nữa trong gần 40 năm sau đó.
Năm 1961, tại Hoa Kỳ, ông giảng dạy môn Tôn giáo Đối chiếu tại Đại học Princeton, và năm sau ông đến Đại học Columbia giảng dạy Phật học. Đến năm 1963, ông quay lại Việt Nam cùng tham gia các nỗ lực vận động hòa bình bất bạo động cùng các bạn đồng tu của mình.
Năm 1966, giữa lúc cuộc chiến Việt Nam diễn ra ngày càng khốc liệt, ông đến Mỹ và châu Âu kêu gọi hòa bình và chấm dứt thù hận ở Việt Nam. Ông đi nhiều nơi, truyền bá thông điệp về hòa bình và tình thương, vận động các nhà lãnh đạo phương Tây chấm dứt chiến tranh Việt Nam và dẫn đầu phái đoàn Phật giáo đến Đàm phán Hòa bình ở Paris năm 1969.
Trong lần đến Mỹ năm 1966, Thiền sư Thích Nhất Hạnh lần đầu tiên gặp gỡ nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng Martin Luther King Jr. để thuyết phục ông lên tiếng chống chiến tranh Việt Nam. Sau đó, chính Martin Luther King Jr đề cử thiền sư cho Giải Nobel Hòa bình 1967. Năm đó, Ủy ban Nobel không chọn giải Nobel Hòa bình.
Do cả hai chính phủ Bắc Việt và Nam Việt đều không cho phép ông trở lại Việt Nam, ông bắt đầu cuộc sống lưu vong trong vòng 39 năm cho đến năm 2005 mới trở lại Việt Nam lần đầu tiên.
Làng Mai
Bên cạnh các hoạt động phản chiến, ở hải ngoại, ông tiếp tục dạy học, thuyết giảng và viết sách về ‘chánh niệm’, ‘sự tỉnh thức’ và ‘sống trong an lạc’ để truyền bá Phật pháp đến thế giới phương Tây.
Đầu những năm 1970, ông trở thành giảng viên và nhà nghiên cứu Phật giáo tại Đại học Sorbornne, Paris.
Năm 1982, Thiền sư thành lập Đạo Tràng Mai Thôn, tức Làng Mai, bao gồm một hệ thống các tu viện tại vùng Dordogne tây nam nước Pháp.
Theo trang nhà của Làng Mai thì từ một thôn trang nhỏ lúc đầu, Làng Mai đã trở thành ‘tu viện Phật giáo lớn nhất và năng động nhất ở phương Tây’ với ‘trên hơn 200 vị xuất sĩ và gần 8.000 cư sĩ từ khắp nơi trên thế giới đến tu tập mỗi năm để học về cách sống trong chánh niệm’.
Tại Làng Mai, Thiền sư Thích Nhất Hạnh áp dụng trở lại những phương pháp thực tập có từ thời Phật giáo nguyên thủy và có giản lược và điều chỉnh để dễ dàng áp dụng cho những khó khăn và thách thức của cuộc sống hiện đại. Đó là buông xả hoàn toàn, ngưng nghỉ, mỉm cười, hít thở trong chánh niệm, ăn cơm chánh niệm, thiền hành, thiền tọa…
Làng Mai đã trở thành ‘tu viện Phật giáo lớn nhất và năng động nhất ở phương Tây’
Đạo Tràng Mai Thôn ở Pháp (hiện nay có ba tu viện là Từ Nghiêm, Pháp Vân và Cam Lộ cùng một thiền đường) sau đó được mở rộng thêm các trung tâm Làng Mai khác như ở Mỹ, Đức, Việt Nam, Úc, Hong Kong và Thái Lan. Ở Việt Nam, Làng Mai có hai cơ sở là Tổ đình Từ Hiếu ở Huế và Thiền viện Bát Nhã ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Ở Mỹ, Làng Mai có bốn tu viện là Lộc Uyển (California), Bích Nham (New York), Mộc Lan (Mississipi) và Đạo tràng Thanh Sơn (Vermont). Các tu viện này là nơi tu tập của cả ngàn xuất sĩ thuộc nhiều quốc gia trên thế giới và đều đặn tổ chức các khóa tu cho các cư sĩ đủ mọi thành phần khác nhau như gia đình, thiếu niên, cựu chiến binh, nghị sĩ, nhân viên chấp pháp, giới showbiz và người da màu.
Ông cũng đề ra ‘Năm phép thực tập chánh niệm’ kêu gọi mọi người thực tập giảm thiểu khổ đau cho thế giới con người và vạn vật hữu tình trên trái đất.
‘An lạc từng bước chân’
Ông được kính trọng trên khắp thế giới do những bài giảng có sức mạnh và truyền cảm hứng về chánh niệm và hòa bình. Thông điệp chính của ông là thông qua chánh niệm, con người có thể học cách sống an lạc trong hiện tại và nhờ đó xây dựng sự bình an trong bản thân mỗi người và xây dựng hòa bình cho thế giới.
Ông xuất bản hơn 100 tựa sách về thiền và sự tỉnh thức, trong đó có những tác phẩm nổi tiếng như Phép lạ của Sự tỉnh thức (Miracle of Mindfulness), Việt Nam – Hoa sen trong Biển Lửa (Vietnam : Lotus in a Sea of Fire), Đường Xưa Mây Trắng (Old Path White Clouds), An lạc Từng bước chân (Peace is Every Step)… Chỉ tính riêng ở Mỹ, tác phẩm của ông đã bán ra được hơn ba triệu bản.
Ông cũng từng được mời diễn thuyết tại trụ sở UNESCO Paris, kêu gọi thực hiện những bước đi cụ thể đảo ngược bạo lực, chiến tranh và biến đổi khí hậu. Năm 2013, ông dẫn đầu các sự kiện chánh niệm thu hút sự quan tâm lớn ở trụ sở Google, Ngân hàng Thế giới và Trường Y thuộc Đại học Harvard.
Thông qua các hoạt động giảng dạy và truyền bá đạo Phật, Thiền sư Thích Nhất Hạnh có hàng chục ngàn đệ tử khắp thế giới, trong đó có nhiều nhân vật tên tuổi trong chính giới, doanh gia và giới giải trí.
Ông được quốc tế gọi bằng nhiều danh xưng như ‘Sứ giả của hòa bình và bất bạo động’, ‘Người cha của Chánh niệm’, ‘một Đạt Lai Lạt Ma khác’ hay ‘Vị thiền sư có thể kéo người đến đầy sân vận động’.
Ông được cho là thông thạo các thứ tiếng Anh, Pháp, Hoa, Nhật, Phạn (Sanskrit) và Pali.
Trở về ‘lần cuối cùng’
Thiền sư Nhất Hạnh sống lưu vong trong 39 năm cho đến lần về thăm lại Việt Nam đầu tiên năm 2005 sau những cuộc thương thảo kéo dài với chính phủ Hà Nội.
Năm 2007, ông về nước lần thứ hai, tổ chức ‘Đại trai đàn bình đẳng chẩn tế’ ở cả ba miền Việt Nam, cầu siêu cho đồng bào tử nạn và chiến sĩ trận vong của cả hai miền Nam – Bắc.
Năm 2008, ông về Việt Nam lần thứ ba, làm diễn giả chính cho Đại lễ Vesak của Liên Hiệp Quốc.
Năm 2017, từ Thái Lan ông trở về Việt Nam lần thứ tư để tĩnh dưỡng sau khi bị đột quỵ do xuất huyết não năm 2014.
Ngày 26 tháng 10, 2018, ông trở về Việt Nam ‘lần cuối cùng,’ để tĩnh dưỡng cho đến ngày ‘nhập diệt ở chốn tổ’ là Tổ đình Từ Hiếu ở Huế.
Ngọc Lễ
Nguồn : VOA, 22/01/2022
*****************
Tường An, RFA, 22/01/2022
Đạo tràng Mai thôn, hay với cái tên mộc mạc, gần gũi là Làng Mai, nằm cách Paris khoảng 600 km về hướng Tây Nam nước Pháp. Làng Mai nằm trong thị xã Thenac, thuộc tỉnh Dordogne.
AFP
Làng Mai có diện tích khoảng 1 km vuông chia làm nhiều xóm : Xóm Thượng, Xóm Hạ, Xóm Đoài và Xóm Mới.
Trên con đường vào làng, người ta nhìn thấy những ni cô, những chú tiểu, những thiền sinh đang làm việc chăm chỉ, họ tự trồng rau, trái để ăn. Tất cả mọi người đều làm việc trong im lặng.
Làng Mai có ba ngôi chùa : Chùa Pháp Vân ở Xóm Thượng dành cho các tăng sĩ, Chùa Từ Nghiêm ở Xóm Mới và Chùa Cam Lộ ở Xóm Hạ dành cho các ni.
Một ni cô đến từ Việt Nam sang tu học chia sẻ cảm giác thích thú trong môi trường mới :
"Con tu học được ba năm. Chúng con ở đây thì môi trường nào cũng có sự tu học giống nhau tại vì cùng là con của Thầy, con của Sư Ông nên ở đâu cũng đi như cùng trên một dòng sông, cũng thực tập ăn cơm, cũng thực tập đi thiền hành, cũng thực tập chánh niệm như mọi nơi. Nhưng qua đây thì môi trường khí hậu, thời tiết khác, mát mẻ, thiên nhiên có bốn mùa thay đổi rõ rệt nên mình thưởng thức mỗi mùa có cái hay riêng".
Làng Mai là một trung tâm Phật giáo được Thầy Thích Nhất Hạnh lập ra với mục tiêu tu dưỡng tinh thần, thực hành tâm linh, và cũng là một trung tâm giảng dạy về Phật giáo Việt Nam, là môi trường tu, học và sống để mọi người làm quen với đạo Bụt, và nhất là cách sống theo văn hóa thiền học Việt Nam.
Ngôi làng nhỏ Thenac là một ngôi làng nhỏ với chỉ chưa tới 2.000 dân. Vào thập niên 80, nhiều nông dân Pháp đã bỏ thị xả nhỏ bé này để đi nơi khác và vì thế, chính phủ Pháp đã cho phép Thầy Thích Nhất Hạnh thành lập Đạo tràng Mai thôn với cái tên đầu tiên là Làng Hồng (vì nơi đây trồng nhiều cây hồng). Đây cũng là nơi đã từng tiếp đón nhiều thuyền nhân tị nạn cộng sản.
Cho đến nay, Làng Mai đã trở thành một địa điểm thu hút đông đảo nhiều người đến đây thực hành pháp môn chánh niệm của Thiền học Phật giáo, học mỉm cười, học tha thứ, học biết ơn, học im lặng, v.v. Dần dần những thông điệp hòa bình đã được chia sẻ rộng rãi. Làng Mai có nhiều khóa thiền học theo mùa, mỗi năm làng Mai tiếp đón hàng ngàn thiền sinh mà đa số là người Pháp, hoặc những người ngoại quốc đến từ Anh, Ý, Hoa Kỳ, v.v.
Ông Đặng văn Hòa, từ Việt Nam sang Pháp, cho biết lý do ông vượt hơn 10.000 cây số chỉ với nguyện vọng được đến làng Mai, ông chia sẻ :
"Mục đích đến Làng Mai là vì bên Việt Nam chúng tôi nghe Làng Mai của Sư Ông rất nổi tiếng. Người đã dìu dắt bao nhiêu phật tử, bao nhiêu tăng ni đến con đường giác ngộ. Ngài là một bậc cao tăng nối bước theo đường tu của Phật Thích Ca, thành ra mình rất kính trọng và quý mến Thầy, muốn đi đến gặp Thầy, đảnh lễ Thầy, để Thầy ban những phép lành cho tôi".
Và mặc dù không được diện kiến thiền sư, ông Hòa cũng rất hài lòng khi tìm được cảm giác an lạc giữa khung cảnh yên bình của làng Mai.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đi cùng các em nhỏ đến một chùa ở Làng Mai tại Pháp hôm 6/8/2004. AFP
Những thiền sinh đến đây tham gia các khóa tu học, ăn uống trong im lặng. Mỗi người tự rửa chén… tất cả đều diễn ra trong hoàn tĩnh lặng.
Trên các con đường im vắng xuyên qua làng, những người đi dạo trong lặng lẻ, đây đó, những nhóm thiền sinh cùng học, hát, thỉnh thoảng những tiếng chuông vang lên để nhắc nhở những giây phút tĩnh lặng.
Một thiền sinh đến từ Toulouse tham gia các khóa tu tập cho biết đến đây, ông tìm được một cảm giác an bình, hạnh phúc :
"Tôi có một cảm giác hạnh phúc, hạnh phúc của sự chia sẻ, được hòa nhập vào cộng đồng tại đây để khám phá phương thức để hòa hợp giữa tinh thần và thế xác và tìm được sự tỉnh lặng trong bản thân mình, được hiểu thêm về chính mình. Mục tiêu chính là sự chia sẻ với nhau giữa mọi người ở đây. Đúng vậy, đó là sự hạnh phúc được chia sẻ, là niềm vui. Và đặc biệt là nụ cười luôn luôn nở trên môi mà ta không tìm thấy được ở bất cứ nơi đâu, thật vậy !".
Từ các xóm nhỏ bé ở Làng Mai, pháp môn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã phát triển ra nhiều trung tâm trên thế giới như Đức, Mỹ, Thái Lan.
Với 1.250 đệ tử xuất gia và hàng triệu đệ tử tại gia khắp nơi trên thế giới, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã mang đạo Bụt, đặc biệt là pháp môn chánh niệm đến với phương Tây.
Mục sư Martin Luther King đã vinh danh Thiền sư như là "một Thánh tông đồ của hòa bình và bất bạo động" và đề cử Thiền sư cho giải Nobel Hòa bình vào năm 1967.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, thế danh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926 tại tỉnh Thừa Thiên, Huế, ra đi lúc 0 giờ (giờ Việt Nam) ngày 22/01/2022 cũng tại thành phố nơi Thiền sư đã ra đời.
Thiền sư Nhất Hạnh, người mang phương Đông vào phương Tây
Hoài Hương, VOA, 22/01/2022
Thiền sư Thích Nhất Hạnh được thừa nhận là "một trong những nhà lãnh đạo tinh thần có nhiều ảnh hưởng nhất trong thời đại này". Hòa thượng viên tịch lúc 0 giờ ngày 22 tháng Giêng, 2022 (giờ Việt Nam), tại chùa Từ Hiếu, Huế, thọ 95 tuổi, theo thông báo của Làng Mai trên trang Facebook chính thức "Thích Nhất Hạnh" và trang web Làng Mai plumvillage.org.
Điềumà ngườiphương TâynhớvềThiềnsưThíchNhấtHạnhchínhlà nhữngkhái niệm "chánhniệm", "tỉnh thức" - "mindfulness".
Giáo sư Phật học người Úc, John Powers, cho rằng Thiền sư Nhất Hạnh là một trong "13 vị thầy góp phần vào sự thành hình và phát triển đạo Phật trên toàn thế giới trong quá trình 2500 năm lịch sử Phật giáo".
Điều mà người phương Tây nhớ về Thiền sư Thích Nhất Hạnh chính là những khái niệm "chánh niệm", "tỉnh thức" - "mindfulness".
Tạp chí Times, trong bài viết dài về vị Thiền sư, thừa nhận Hòa thượng Nhất Hạnh là người đầu tiên phổ biến những khái niệm này như một phương pháp tu tập.
Nhà báo Ngô Nhân Dụng, một Giáo thọ của Làng Mai, giải thích :
"Khái niệm sống chánh niệm, sống tỉnh thức, đã trở nên phổ biến, đặc biệt trong những nước nói tiếng Anh. Đấy có lẽ là thành tích mà trước đây ít có người nào trong giới Phật giáo ở Đông phương có thể tạo ra được ở các nước phương Tây".
Thành tựu này, vẫn theo nhà báo Ngô Nhân Dụng, là do đạo Phật "được tiếp cận như một cách sống hơn là một tôn giáo".
"Thiền sư Nhất Hạnh đã trình bày đạo Phật như là một cách sống, hơn là một tôn giáo. Thầy Nhất Hạnh gọi đó là cách sống tỉnh thức - phương Tây gọi là ‘mindfulness’, và cách mà ngài dạy, cho thấy ai cũng có thể áp dụng được cả".
Những đệ tử theo học Thiền sư Nhất Hạnh mở trung tâm thiền tập ‘chánh niệm’ khắp nơi. Canada có "Làng Cây Phong", một trung tâm tu tập theo giáo pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Chủ tịch Làng Cây Phong là ông Trịnh Đình Tấn, nói rằng "cách hướng dẫn của Sư Ông Nhất Hạnh không câu nệ tôn giáo, màu da, sắc tộc".
"Cách hướng dẫn của Sư Ông không có câu nệ tôn giáo, màu da, sắc tộc… Khi hướng dẫn, Sư Ông luôn kêu gọi người phương Tây và những người tôn giáo khác trở về với tôn giáo của mình. Đó là điều rất khác biệt với các lãnh đạo tôn giáo khác, và là điều khiến người phương Tây kính nể".
Trong khi hầu hết người phương Tây đều công nhận tầm vóc của vị Thiền sư đã đưa Phật giáo đến với thế giới phương Tây, những phát biểu của ông về chiến tranh Việt Nam, và cả những chuyến về thăm lại Việt Nam của ông trước đây, vẫn còn là điều tranh cãi, giữa những người Việt Nam.
Ngày 31/05/1966, Mục sư Martin Luther King Jr. (trái), trong một cuộc họp báo ở Chicago với Thích Nhất Hạnh (giữa), kêu gọi ngừng ném bom Việt Nam. (AP / Edward Kitch)
Trong một phỏng vấn cách đây vài năm, ông Võ Văn Ái, một nhà hoạt động nhân quyền, cũng là phát ngôn nhân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có trụ sở ở Paris, nói rằng "dường như là Thiền sư đi với con đường của Nhà nước". Ông Ái nói rằng ông vẫn luôn tôn trọng Thiền sư Nhất Hạnh, nhưng sau này cảm nhận nơi nhà sư "một sự thay đổi quá lớn về thái độ chính trị".
Ông Trịnh Đình Tấn, Chủ tịch Làng Cây Phong, trong cuộc phỏng vấn trước đây, thì cho rằng "nên coi Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhà sư, không phải một nhà hoạt động chính trị".
"Mọi người cứ coi Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một người làm chính trị, thực ra thì Thầy Nhất Hạnh có thể gọi là nhà thơ, nhà văn hóa, hay một sử gia, nhà văn hay nhà đạo học, đều được. Đối với tôi, Thầy chính là một vị chân tu".
Nhà báo Ngô Nhân Dụng có cùng quan điểm, "có lẽ mình nên coi Thầy Nhất Hạnh là một ông thầy tu giản dị".
"Tôi không nghĩ ông có tham vọng trở thành một quốc bảo hay một vị thầy gì ghê gớm cho lắm. Tôi nghĩ rằng tất cả các vị thầy tu, tu cho đàng hoàng, đều là thầy tu lớn cả".
Thiền sư Nhất Hạnh sống lưu vong 39 năm cho đến lần về thăm lại Việt Nam đầu tiên năm 2005 sau những cuộc thương thảo kéo dài với chính phủ Hà Nội.
Năm 2007, ông về nước lần thứ hai, tổ chức ‘Đại trai đàn bình đẳng chẩn tế’ ở cả ba miền Việt Nam, cầu siêu cho đồng bào tử nạn và chiến sĩ trận vong của cả hai miền Nam – Bắc.
Năm 2008, ông về Việt Nam lần thứ ba, làm diễn giả chính cho Đại lễ Vesak của Liên Hiệp Quốc.
Năm 2017, từ Thái Lan ông trở về Việt Nam lần thứ tư để tĩnh dưỡng sau khi bị đột quỵ do xuất huyết não năm 2014.
Ngày 26 tháng 10, 2018, ông trở về Việt Nam ‘lần cuối cùng,’ để tĩnh dưỡng cho đến ngày ‘nhập diệt ở chốn tổ’ là Tổ đình Từ Hiếu ở Huế.
Hoài Hương
Nguồn : VOA, 22/01/2022
************************
RFA, 21/01/2022
Thiền sư Thích Nhất Hạnh vừa qua đời tại chùa Từ Hiếu, Huế vào lúc 12 giờ sáng ngày 22 tháng 1 năm 2022, thọ 95 tuổi. Trang Facebook Làng Mai thông báo tin này vào sáng sớm ngày 22/1/2022.
AFP
Làng Mai là một cộng đồng do Thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng lập với mục đích làm nơi tu hành và giảng dạy Phật giáo.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người được đánh giá là một nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn không chỉ ở Việt Nam mà cả ở nước ngoài.
Từ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã tích cực tham gia các hoạt động từ thiện vì cộng đồng ở miền Nam Việt Nam. Ông cũng đến Hoa Kỳ nhiều lần để diễn thuyết và giảng dạy Phật giáo tại các đại học danh tiếng ở Mỹ như Princeton, Viện Đại học Cornell. Ông là tác giả của hàng trăm cuốn sách trong đó có nhiều cuốn viết bằng tiếng Anh.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh rời Việt Nam vào năm 1966. Năm 1967, ông được Mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa Bình.
Năm 1973, khi Hiệp định Paris được ký kết, Thiền sư Thích Nhất Hạnh bị cấm về Việt Nam và phải ở lại Pháp cho đến năm 2005 ông được lần đầu trở về quê hương. Đây là giai đoạn Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách các nước cần phải theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC). Chính quyền Hà Nội vào lúc đó cũng đang muốn đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO và phải có những nhượng bộ nhất định trong vấn đề nhân quyền bao gồm tôn giáo theo yêu cầu của các nước phương Tây.
Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh được Chính phủ Hà Nội cho phép xây dựng một trung tâm tu học theo pháp môn Làng Mai ở tu viện Bát Nhã, tỉnh Lâm Đồng.
Vào năm 2006, Hoa Kỳ bỏ tên Việt Nam khỏi danh sách CPC.
Sau đó, Thiền sư còn về lại Việt Nam vào các năm 2007 và 2008.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Làng Mai do ông sáng lập với chính quyền Việt Nam trở nên căng thẳng vào năm 2008, khi Công an tỉnh Lâm Đồng ra công văn trục xuất khoảng 400 tu sinh Làng Mai khỏi tu viện Bát Nhã. Từ khoảng giữa năm 2009 đến cuối năm 2009, các tu sinh Làng Mai ở tu viện Bát Nhã liên tục bị những nhóm người lạ mặt đến tấn công.
Đến cuối năm 2009, khoảng gần 200 tu sĩ Làng Mai cư ngụ tại chùa Phước Huệ bị yêu cầu phải rời khỏi chùa này chậm nhất là vào ngày 31 tháng 12. Thiền sư Thích Nhất Hạnh vào lúc đó đã phải nộp đơn lên Tổng thống Pháp Sarkozy xin cho 400 tu sĩ Làng Mai ở Bát Nhã được tị nạn ở Pháp.
Ông cũng cáo buộc chính quyền Việt Nam đã đối xử thô bạo với các tu sinh Làng Mai trong bức thư gửi các tu sinh vào năm 2009 :
"Tiền đâu để họ thuê côn đồ ? Đó có phải là tiền thuế mà dân nạp cho họ để họ có lương bỗng để sống và để làm những việc thất đức như vậy ? Tại sao lại giả danh Phật tử để đánh phá Phật tử, giả danh nhân dân để dối gạt và đàn áp nhân dân ?"
Năm 2014, Thiền sư Thích Nhất Hạnh bị tai biến và không nói được nhưng tinh thần vẫn minh mẫn.
Năm 2017, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở lại Việt Nam và sau đó xin cư ngụ tại Tổ đình Từ Hiếu ở Huế.