Hai hãng chuyên sản xuất hệ thống lưu trữ năng lượng và pin của Trung Quốc đang cân nhắc kế hoạch đầu tư hàng trăm triệu USD tại Việt Nam.
Hithium đang tiếp cận với giới chức chính phủ và ngành công nghiệp liên quan bàn việc xây dựng một nhà máy trên diện tích 30 ha với tổng vốn đầu tư có thể lên đến 800 triệu USD.
Reuters loan tin độc quyền vào ngày 8/6 dẫn nguồn chính phủ và người trong ngành công nghiệp liên quan như vừa nêu. Cụ thể, tổng giá trị đầu tư của cả hai hãng sản xuất kết hợp lại có thể vượt mức 1 tỷ USD.
Hai hãng được cho biết gồm Hithium Energy Storage Technology và Growatt New Energy.
Hithium có trụ sở chính tại Thành phố cảng Hạ Môn và là đơn vị khởi nghiệp đang mở rộng hoạt động tại Châu Âu, Hoa Kỳ. Một nguồn tin mà Reuters có được cho biết hãng này đang tiếp cận với giới chức chính phủ và ngành công nghiệp liên quan bàn việc xây dựng một nhà máy trên diện tích 30 ha với tổng vốn đầu tư có thể lên đến 800 triệu USD. Trong khi đó một nguồn khác lại nói khoản đầu tư đang được xem xét là ít nhất 500 triệu USD.
Growatt New Energy là hãng đang thuê một nhà máy tiền chế tại Việt Nam cũng có kế hoạch chi 300 triệu USD để xây nhà máy trên diện tích 15 ha trong một khu công nghiệp.
Growatt chưa trả lời của Reuters yêu cầu bình luận về thông tin vừa nêu.
Việt Nam được đánh giá là thị trường đang tiềm năng cho năng lượng tái tạo vào khi ngành sản xuất đang phải chật vật trước tình trạng mất điện thường xuyên do mạng lưới điện yếu kém.
Thông tin mới nhất từ truyền thông Việt Nam vào ngày 9/6 cho biết hiện có một số hồ thủy điện ở mực nước chết gồm Lai Châu, Sơn La, Thác Bà, Tuyên Quang, Bản Vẽ, Hủa Na, Thác Mơ, Trị An. Một số thủy điện phải dừng phát điện vì lưu lượng và mực nước hồ không đảm bảo gồm Sơn La, Lai Châu, Huội Quảng, Thác Bà, Tuyên Quang, Hủa Na, Trung Sơn, Trị An.
Cục trưởng Cục Điều tiết Điện lực thuộc Bộ Công thương, ông Trần Việt Hòa, vào ngày 9/6, được truyền thông Nhà nước dẫn lời rằng công suất khả dụng của tất cả nguồn điện ở miền Bắc Việt Nam, kể cả điện nhập khẩu, là từ 17.500 đến 17.900 MW ; trong khi đó như cầu sử dụng là khoảng 23.500 đến 24.000 MW.
Vào ngày 8/6, Bộ Công thương Việt Nam cho thành lập Đoàn Thanh tra Chuyên ngành về quản lý và cung ứng điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các đơn vị liên quan từ ngày 1/1/2021 đến ngày 1/6/2023.
Sang ngày 9/8, Bộ trưởng Công thương Nguyễn Hồng Diên làm việc với Đoàn Thanh tra vừa được thành lập.
Ngán ngại về đề nghị đầu tư của Trung Quốc vào cảng Vũng Áng ! (VOA, 06/11/2019)
Báo trong nước loan tin cho biết Tập đoàn Cảng Hạ Môn của Trung Quốc vào ngày 27/10 đã có buổi làm việc với Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh về việc mở tuyến container tại cảng Vũng Áng, từ đó nối với cảng Hạ Môn ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
Cảng Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh Nguồn : Facebook Cảng Vũng Áng - Hà Tĩnh
Cũng trong buổi gặp gỡ, Chủ tịch Công ty trách nhiệm hữu hạn Tập đoàn Cảng Hạ Môn cho biết ông thấy cảng Vũng Áng ở Hà Tĩnh có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển trong việc kết nối với các cảng quốc tế cũng như hệ thống giao thông đường bộ kết nối qua Lào, Thái Lan…
Do đó, ông bày tỏ mong muốn được lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh hỗ trợ Tập đoàn Cảng Hạ Môn có được cơ hội hợp tác và đầu tư.
Cảng Hạ Môn là 1 trong 7 cảng hàng đầu của Trung Quốc và là cảng container lớn thứ 16 thế giới.
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do, Thạc sĩ Hoàng Việt, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông và Trung Quốc cho rằng việc đầu tư này nằm một phần trong dự án Vành đai – Con đường của Trung Quốc vì trong dự án này, Trung Quốc muốn phát triển các hạ tầng, đặc biệt là một số cảng biển. Vì vậy ông cho rằng việc này hoàn toàn phù hợp với chiến lược Vành đai – Con đường của Bắc Kinh. Ông nói thêm :
"Thực ra mà nói thì Vũng Áng chưa phải là vị trí tốt nhất, nhưng mà nó sẽ là khởi đầu vì nếu Trung Quốc thành công ở Vũng Áng thì nó kiểm soát toàn bộ khu vực miền Trung của Việt Nam. Miền Trung cũng là khu vực rất quan trọng, hiểm yếu. Cũng có thể từ sau Vũng Áng, Trung Quốc có thể phát triển mô hình đó qua những cảng biển khác mà chẳng hạn người ta đang lo ngại một số các đặc khu trước đây, trong đó cũng liên quan đến hệ thống cảng biển trong sáng kiến Một vành đai – Một con đường của Trung Quốc".
Còn theo ông Đỗ Thái Bình, kỹ sư đóng tàu, thành viên Hội Khoa Học Biển thành phố Hồ Chí Minh, từng làm trong Cục Cơ Khí Bộ Giao Thông Vận Tải cho rằng việc giao lưu buôn bán giữa Việt Nam với các nước xung quanh là việc bình thường, nhất là hiện nay, chính phủ Hà Nội giao lưu buôn bán với Bắc Kinh bằng đường biển cũng rất lớn. Vấn đề nhập khẩu từ các cảng Trung Quốc sang Việt Nam cũng như Việt Nam buôn bán với Trung Quốc qua các cảng như Mũi Dầu ở Mao Minh phía Quảng Đông, tất cả mua bán rất bình thường ở các cảng đó. Tuy nhiên, vẫn có lo ngại :
Nhà máy thép Formosa tại Hà Tĩnh. Ảnh chụp ngày 12/4/2015. AFP
"Việc lập ra một cảng riêng của Trung Quốc ở Vũng Áng thì bản thân Vũng Áng là khu vực có vị trí địa lý điểm quan trọng ở vùng biển. Việc đó đã có nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề này. Đặc biệt là nó gần với khu vực Formosa chuyên về vấn đề thép do Đài Loan – Trung Quốc đã xây dựng ở đó. Tuy rằng của Đài Loan nhưng có rất nhiều yếu tố Trung Quốc trong đó. Bây giờ việc xây dựng hẳn một cảng của Trung Quốc thì ta thấy rằng kế hoạch Một vành đai – Một con đường của Trung Quốc đã đưa ra từ lâu và rất muốn Việt Nam phải tham gia con đường đó. Thực ra kế hoạch đó của Trung Quốc cũng muốn để thâu tóm và đặt quyền lợi Trung Quốc trên hết, các nước có cái đó hoàn toàn chỉ mang tính chất phụ thuộc. Cho nên tôi cho rằng để một cảng chuyên dùng của Trung Quốc ở vùng đó (Vũng Áng), không phải một cảng container chuyên dùng mà còn có hệ thống logistic để hoạt động mạnh mẽ thì theo tôi là điều bất lợi về phía chủ quyền của Việt Nam ở trên biển".
Đồng tình với ông Đỗ Thái Bình, Thạc sĩ Hoàng Việt cũng đưa ra đề nghị chính phủ Việt Nam phải cẩn thận xem xét kỹ bởi vì đã có rất nhiều bài học về những dự án liên quan đến Một vành đai – Một con đường :
"Chẳng hạn như dự án Cảng Hambantota của Sri Lanka là một câu chuyện rất rõ mà khi Sri Lanka không đủ trả nợ khoản vay và đã vướng vào vòng nợ nần, phải trao quyền rất lớn và rất lâu 99 năm cho Trung Quốc kiểm soát cảng Hambantota đó. Ngoài ran gay cả nước láng giềng Việt Nam là Campuchia chẳng hạn, một loạt khu vực Sihanoukville cũng là những cảnh báo cho việc Trung Quốc đang đầu tư và nắm quyền kiểm soát".
Dưới góc nhìn khác, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp – nhà nghiên cứu độc lập lại cho rằng :
"Không phải thâu tóm mà chính phủ Việt Nam ký với chính phủ Trung Quốc ủng hộ cái đó (Vành đai- Con đường), tham gia nếu có thể chứ không có cam kết gì hơn. Nên bảo Trung Quốc thâu tóm thì không đúng, Việt Nam chỉ cho thuê thôi chứ không như các nước khác người ta (Trung Quốc) cho vay tiền xong đòi tiền bằng cảng, là giở bẫy nợ ra nhưng Việt Nam không bị dính bẫy nợ đó, Việt Nam không nợ Trung Quốc tiền. Việc này là việc từ lâu Trung Quốc bàn với chính phủ Việt Nam để xin mở một cảng logistic ở đó (Vũng Áng). Việc này chưa dứt khoát nhưng chắc họ sẽ mở được cảng logistic ở đó nhưng cảng đó không phải 100% thuộc quyền quản lý của họ (Trung Quốc) đâu".
Tuy nhiên, ông Đỗ Thái Bình lại bày tỏ lo ngại đối với khả năng quản lý của các cơ quan chức năng hiện nay :
"Thật ra mà nói Trung Quốc trong việc quản lý của Việt Nam vừa qua thì phía Việt Nam không quản được, nên việc chia sẻ để vẫn giữ vững được chủ quyền là không đơn giản. Việc để cho yếu tố Trung Quốc ở cảng đó (Vũng Áng) là bất lợi vì cho thuê như thế cái lợi của mình không đáng kể so với cái hại".
Khu kinh tế Vũng Áng là một trong 9 khu kinh tế ven biển được Chính phủ Việt Nam lựa chọn để phát triển trung tâm công nghiệp luyện thép, nhiệt điện và cảng biển nước sâu của khu vực miền Trung vầ cả nước.
Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh cho biết sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phía Tập đoàn Cảng Hạ Môn khảo sát, nghiên cứu đầu tư vào lĩnh vực cảng biển, logistic tại Vũng Áng.
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt, chính quyền Việt Nam cần phải tỉnh táo và xem xét kỹ những dự án này vì hiện nay ở Việt Nam đang có những khu Trung Quốc thuê và xây dựng nhưng chính quyền Việt Nam hoàn toàn không được biết và không được quyền kiểm tra xem có những gì trong đó. Ông cho rằng đó là những tiềm ẩn, không chỉ là dự án về cảng biển, kinh tế mà đằng sau là chính trị, có thể cả quân sự.
Nguồn : RFA, 06/11/2019
****************
Nhóm người Trung Quốc vào Lạng Sơn xây công trình ‘bí mật’ (Người Việt, 06/11/2019)
Từ phản ảnh của người dân, thành phố Lạng Sơn đang cho kiểm tra "phim trường BBK" trên một ngọn núi ở xã Mai Pha, nghi do người Trung Quốc núp bóng đầu tư xây dựng.
Một công trình nhỏ trong "phim trường BBK". (Hình : Người Lao Động)
Ngày 5 Tháng Mười Một, 2019, ông Bùi Văn Côi, giám đốc Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh Lạng Sơn, xác nhận với báo Giao Thông : "Ủy Ban Nhân Dân thành phố Lạng Sơn đang tiến hành kiểm tra ‘phim trường BBK’ là quần thể công trình xây dựng trên một ngọn núi ở thôn Rọ Phải, xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn, khu vực từng có nhóm người Trung Quốc thường xuyên tụ tập, qua lại".
Theo báo Người Lao Động, hồi Tháng Mười, 2018, nhiều người dân phản ánh ở thôn Rọ Phải thường xuyên có nhóm người Trung Quốc đến mua gom đất rừng, xây cổng, tường bao xung quanh núi rồi dựng lên một dãy nhà sàn.
Đến cuối năm 2018, khi công trình hoàn thành cũng là lúc xuất hiện nhiều nhóm người Trung Quốc liên tục qua lại tụ tập, ăn chơi. Sau một thời gian, nơi này càng bí hiểm hơn khi thường xuyên cửa đóng, chỉ còn ít người Trung Quốc lui tới vào ban đêm.
"Trong thời gian làm phó chủ tịch rồi chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân thành phố Lạng Sơn và nay được luân chuyển làm giám đốc Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh, có nghĩa là từ năm 2013 đến nay, tôi không nghe thấy thông tin có dự án đầu tư phim trường hay quán bar nào ở vị trí trên", ông Côi khẳng định.
Tổng thể "phim trường BBK" nghi do người Trung Quốc đầu tư xây dựng. (Hình Đất Việt)
Trong khi đó, ông Phan Thanh Lương, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã Mai Pha, cho biết qua thông tin phản ảnh của người dân về "phim trường" trên núi có gắn bảng tên bằng chữ Trung Quốc và cấm quay phim, chụp hình, ủy ban xã cho tiến hành kiểm tra toàn diện công trình này. "Thỉnh thoảng có vài tốp người Trung Quốc đến tự sinh hoạt, nấu ăn rồi lại đi", ông Lương nói.
Cũng theo ông Lương, tổng diện tích khu đất rộng khoảng 16,000 mét vuông, nhưng các công trình xây dựng chỉ chiếm hơn 1,000 mét vuông bao gồm tám nhà sàn và sáu chòi lá. Người đứng tên trên "Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất" (sổ đỏ) là bà Nông Thị Minh Huệ (ở phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn).
"Theo quy định hiện hành, đất ở khu vực nông thôn khi xây dựng nhà cửa thì không cần phải cấp phép", ông Lương cho biết.
Nói với báo Kiến Thức ngày 6 Tháng Mười Một, bà Huệ cho biết bà có giấy phép hoạt động, kinh doanh đầy đủ. Tuy nhiên, trong số tám nhà sàn thì chỉ sang tên được bốn cái, số còn lại thuộc mảnh đất khác cũng do bà Huệ mua bằng "giấy tay" nên chưa có sổ đỏ.
"Tôi là người kinh doanh và liên kết với Trung Quốc rất nhiều nên cũng có kêu gọi một số người bạn đầu tư. Phim đầu tiên tại phim trường này, tôi kết hợp với một doanh nghiệp trong Sài Gòn và họ có thuê đạo diễn và diễn viên là người Trung Quốc. Họ đến phim trường và chúng tôi đều có giấy tờ xin phép đàng hoàng. Các hợp đồng liên quan tôi đã nộp hết lên Ủy Ban Nhân Dân thành phố Lạng Sơn rồi", bà Huệ cho biết.
Đoàn người Trung Quốc đến "phim trường" ăn chơi trong các nhà hàng, quán bar của bà Huệ. (Hình : Đất Việt)
Nói với báo Đất Việt về vấn đề này, ông Phạm Văn Hòa, đại biểu Quốc Hội cộng sản Việt Nam, cho rằng giới hữu trách tỉnh Lạng Sơn cần kiểm tra rõ mục đích, động cơ phía sau của việc xây dựng phim trường của bà Huệ. Đặc biệt là gần đây có trường hợp người Trung Quốc từng bước thâu tóm 21 lô đất gần phi trường tại Đà Nẵng.
"Lời nói của bà Huệ đã cho thấy nhiều điểm nghi vấn. Nếu là một cơ sở kinh doanh dịch vụ, giải trí đơn giản thì sao lại có người ngăn cản không cho quay phim, chụp hình như một khu đất riêng ? Theo tôi cần phải kiểm tra kỹ, xử lý nghiêm nếu phát hiện có vi phạm", ông Hòa nói.
Đồng quan điểm, ông Lê Việt Trường, phó chủ nhiệm Ủy Ban Quốc Phòng và An Ninh của Quốc Hội Khóa 13, cho rằng : "Nghi vấn có yếu tố người Trung Quốc đứng sau, núp bóng người Việt Nam để thâu tóm đất đai, hoạt động sai phạm trên lãnh thổ Việt Nam tại khu đất mà bà Nông Thị Minh Huệ đứng tên là có cơ sở".
Từ vụ 21 lô đất tại Đà Nẵng rơi vào tay doanh nghiệp Trung Quốc đến vụ phim trường ở Lạng Sơn, ông Trường nhìn nhận : "Tất cả các khu đất đó đều có có bóng dáng của người Trung Quốc, đều có yếu tố về an ninh, quốc phòng".
"Cần đặt ra câu hỏi tại sao người Trung Quốc lại nhắm tới những khu đất như thế ? Đây rõ ràng là một vấn đề cần được xem xét thấu đáo, cần được quản lý chặt và xử lý nghiêm nếu phát hiện ra sai phạm", ông Trường nói. (Tr.N)
Trong 7 dự án lớn của 5 tháng đầu năm 2019 được Cục Đầu tư nước ngoài thống kê có tới 5 dự án của các nhà đầu tư Trung Quốc.
Trung Quốc dồn dập rót vốn vào Việt Nam
Trong nhóm 5 nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, Hàn Quốc và Singapore đứng ở vị trí thứ 2 và thứ 3 với số vốn lần lượt là 2,6 tỷ USD và 2,08 tỷ USD ; nhà đầu tư Nhật Bản đứng vị trí thứ 5 với số vốn đầu tư vào Việt Nam đạt 1,5 tỷ USD.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/5, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là 16,74 tỷ USD, tăng 69,1% so với cùng kỳ năm 2018, đạt kỷ lục về giá trị vốn đầu tư đăng ký của 5 tháng trong vòng 4 năm trở lại đây.
Trong 88 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Hồng Kông dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 5,08 tỷ USD (trong đó có 3,85 tỷ USD mua cổ phần vào công ty trách nhiệm hữu hạn Vietnam Beverage tại Hà Nội), chiếm 30,4% tổng vốn đầu tư.
Các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc đại lục đầu tư 2,02 tỷ USD vào Việt Nam, còn các nhà đầu tư Đài Loan (thuộc Trung Quốc) cũng rót gần 575 triệu USD. Tính chung lại, lượng vốn đầu tư từ Trung Quốc thời gian qua đạt hơn 7,6 tỷ USD.
Rõ ràng cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đã tác động lớn đến sự chuyển dịch của dòng vốn đầu tư Trung Quốc. Sau một thời gian dài chỉ đứng thứ ba hoặc thứ tư tại Việt Nam, vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã vượt qua các nhà đầu tư lớn đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
Trong 7 dự án lớn của 5 tháng đầu năm 2019 được Cục Đầu tư nước ngoài thống kê có tới 5 dự án của các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc.
Đó là : Dự án góp vốn, mua cổ phần của Beerco Limited (Hồng Kông) vào công ty trách nhiệm hữu hạn Vietnam Beverage, giá trị vốn góp là 3,85 tỷ USD với mục tiêu chính là sản xuất bia và mạch nha ủ men bia tại Hà Nội.
Dự án chế tạo lốp xe Radian toàn thép ACTR (Trung Quốc), tổng vốn đầu tư đăng ký 280 triệu USD đầu tư tại Tây Ninh với mục tiêu sản xuất lốp xe toàn thép TBR.
Dự án Nhà máy chế tạo thiết bị điện tử, phương tiện thiết bị mạng và các sản phẩm âm thanh đa phương tiện, tổng vốn đầu tư đăng ký 260 triệu USD do Goertek (Hongkong) co., Limited đầu tư tại Bắc Ninh.
Dự án Công ty trách nhiệm hữu hạn lốp Advance Việt Nam, tổng vốn đầu tư đăng ký 214,4 triệu USD do Guizhou Advance Type Investment co.,ltd (Trung Quốc) đầu tư với mục tiêu sản xuất, tiêu thụ lốp, cao su và các sản phẩm liên quan tại Tiền Giang.
Dự án Công ty trách nhiệm hữu hạn điện tử Meiko Việt Nam (Hồng Kông)với mục tiêu thiết kế, lắp ráp và sản xuất linh kiện điện tử tại Hà Nội điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 200 triệu USD.
Trong cơ cấu vốn đầu tư tại Việt Nam, doanh nghiệp Hồng Kông dành 3/4 lượng vốn để đầu tư mua bán cổ phần, mua lại các doanh nghiệp, số vốn đầu tư mới và tăng thêm vào các dự án cũ của nhà đầu tư này chỉ chiếm chưa đầy 1/4.
Điều này cho thấy, nhà đầu tư Trung Quốc vẫn chủ yếu đầu tư vào Việt Nam theo dạng thụ động như hợp tác góp vốn lấy lợi nhuận, mua bán doanh nghiệp cũ, doanh nghiệp lên sàn để chờ đợi thời cơ.
Theo các chuyên gia, lượng vốn cấp mới, tăng thêm của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu vào các dự án may mặc, thiết bị điện, bất động sản và xây dựng, chế biến chế tạo có công nghệ thấp, số vốn nhỏ.
Đáng lưu ý, nỗi lo về mặt trái của nguồn vốn đầu tư Trung Quốc vẫn còn đó, Việt Nam đã có nhiều bài học mà dự án đường sắt Cát Linh-Hà Đông là điển hình và nhiều chuyên gia đã liên tục cảnh báo về điều này.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan khi trả lời phỏng vấn báo chí chỉ ra rằng : "Hiện nay, cái mà Việt Nam thiếu không phải là vốn, trong thời gian vừa qua rất nhiều nhưng chúng ta sử dụng rất kém, những cái đau của dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông có thế thôi mà gần lên đến 900 triệu USD. Chất lượng cũng đặt ra câu hỏi, nhiều người còn nói đùa có làm xong cũng không dám đi.
Kéo dài bao nhiêu năm như vậy, bài học quá rõ, vay ODA hay gì thì họ cũng chủ động, tiến độ, thiết bị cũng của họ. Tiến độ kéo dài ra bao lâu từ đó đội vốn gấp 3 lần so với trước. Tất cả cái đó đặt ra nhiều vấn đề.
Các điều kiện ràng buộc vô lý của họ cũng là đấu thầu nhưng lại chọn giá rẻ, ngoài giá rẻ không biết có chuyện đi đêm hay không ? Tôi rất nghi ngờ điều đó".
Đồng quan điểm, Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Cao Đoàn, nguyên cán bộ Viện Kinh tế Việt Nam lưu ý Việt Nam phải hết sức tỉnh táo.
Ông cho biết, thu hút FDI hiện nay không còn như cách đây 20 năm. Thời đó, Việt Nam rất cần nhiều vốn, bất chấp chất lượng đầu tư, nhưng giai đoạn ngày nay không phải như vậy.
"Nước ngoài bỏ đồng vốn ra đầu tư thì họ dùng chính vốn đi vay của Việt Nam, vậy ai thiệt ở đây ? Đó là công nghiệp của Việt Nam thiệt, doanh nghiệp Việt Nam thiệt, mà như vậy thì doanh nghiệp Việt Nam không lớn lên được, nội lực của nền kinh tế Việt Nam sẽ kém đi.
(...) Đối với mỗi nền kinh tế, vốn là một phần tất yếu và là một yếu tố rất quan trọng. Muốn tăng trưởng thì phải tăng vốn, vấn đề quan trọng và căn bản là phải quan tâm đến sức sản xuất của vốn đó, chất lượng hoạt động kinh doanh của vốn đầu tư đó. Chất lượng ấy mới đem lại sự cải tổ, cách mạng cho phương thức sản xuất của đất nước nhận vốn, chứ không phải vấn đề lượng vốn. Mà những yếu tố trên lại rất kém ở đầu tư của Trung Quốc.
Một cách thẳng thắn, vốn Trung Quốc không đem lại sự cách mạng nào cho phương thức sản xuất của nước nhận vốn, thậm chí còn làm yếu đi", vị chuyên gia cảnh báo.
Là đại biểu Quốc hội, ông Lê Thanh Vân (đoàn Cà Mau), Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội nhấn mạnh, Việt Nam không kỳ thị, phân biệt nguồn vốn Trung Quốc và việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài phải trên cơ sở bình đẳng. Vấn đề là phải kiểm soát năng lực của các nhà đầu tư và tính minh bạch của các nguồn lực huy động từ chính sách vay.
Vị đại biểu đề nghị phải củng cố lại hàng rào để sàng lọc các nhà đầu tư, quan trọng nhất là phải xác định rõ trách nhiệm của những người có thẩm quyền liên quan đến việc lựa chọn nhà thầu.
"Nếu như chúng ta xử lý nghiêm minh, truy cứu bất cứ lúc nào, không có điểm hạ cánh an toàn thì trách nhiệm của họ sẽ được nâng cao lên", ông nói.
Minh Thái
Nguồn : Đất Việt, 25/05/2019