Ngày 3 tháng 12, báo điện tử Dân Việt tường thuật, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), khẳng định : Tham nhũng ở Việt Nam đã được ngăn chặn và từng bước được đẩy lùi (1).
Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tại một hội nghị hôm 3/12/2019 ở Hà Nội.
Cũng vào ngày 3 tháng 12, cũng theo báo điện tử Dân Việt, chính quyền thành phố Hà Nội cho biết : Tham nhũng ở Hà Nội vẫn diễn biến phức tạp, thủ đoạn tinh vi hơn, phạm vi, lĩnh vực tham nhũng rộng, tiềm ẩn trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, tài chính (2).
Nói cách khác, trong cùng một ngày, trên cùng một cơ quan truyền thông thuộc hệ thống truyền thông chính thức, có hai nhận định ngược chiều về tình trạng tham nhũng và hiệu quả của hoạt động phòng – chống tham nhũng.
Tai sao đã ngăn chặn được và đang đẩy lùi tham nhũng mà tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, xảy ra trên diện rộng, thủ đoạn tinh vi hơn ? Chẳng lẽ Hà Nội là một xứ… khác, không thuộc Việt Nam nên kết quả chống tham nhũng rất... khác ?
***
Ông Lộc đưa ra tuyên bố vừa kể tại một hội nghị của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương được tổ chức theo định kỳ để thảo luận về "sáng kiến phòng chống tham nhũng". Ông nhân danh cộng đồng doanh nghiệp để nhận xét về hiệu quả phòng - chống tham nhũng !
Còn nhận định của chính quyền Hà Nội về tình trạng tham nhũng tại thành phố này được nêu trong Báo cáo về công tác phòng - chống tham nhũng năm 2019, gửi Hội đồng nhân dân Hà Nội nhân dịp các đại biểu khóa này ngồi lại với nhau tại kỳ họp thứ 15.
Tuy cùng tham gia đánh giá về tham nhũng nhưng xét về tính chất, tuyên bố của ông Lộc nhằm để đối ngoại, nhắm vào những đối tượng mà ông thừa nhận là có sự quan tâm đặc biệt đến "môi trường kinh doanh công bằng và cơ hội phát triển bền vững".
Báo cáo về công tác phòng chống tham nhũng năm 2019 của chính quyền thành phố Hà Nội thì dùng để đối nội, dành cho các đối tượng cùng ở trong… chăn, tuyên bố như ông Lộc là… dại, mặt mũi có thể bị các đại biểu Hội đồng nhân dân lẫn dân chúng làm cho… vêu vao.
Nhìn một cách tổng quát, dường như hiệu quả hoạt động phòng – chống tham nhũng của Việt Nam có thể… đổi màu ? Ngoại nhân sẽ thấy màu hồng còn đồng chí, đồng bào vốn… rành sáu câu, thành ra không cần… tô màu ?
***
Chừng đó thắc mắc ắt đã đủ gây hoang mang nhưng có vẻ như thế là chưa… đạt yêu cầu, phải gia tăng mức độ để đẩy thiên hạ tới chỗ hóa… rồ - càng ngẫm nghĩ, càng… rối trí, nên ông Lộc bàn về… liêm chính !
Chủ tịch VCCI bảo rằng : "Liêm chính" là trái tim của cộng đồng doanh nghiệp, là giấy thông hành để doanh nghiệp Việt Nam bước ra bên ngoài. Ông Lộc đề cập đến nhiều khía cạnh của "liêm chính" (kinh doanh ngay thẳng, trong sạch, tuân thủ các nguyên tắc chung), kêu gọi thúc đẩy kinh doanh "liêm chính" (xóa bỏ lệ làng, chuyện bôi trơn) nhưng không thấy ông đề cập đến nói thẳng, nói thật. Thay mặt doanh giới, tuyên bố : Tham nhũng đã được ngăn chặn và từng bước được đẩy lùi – cũng là… "liêm chính" ?
Tương tự, dẫu cố gắng tỏ ra sòng phẳng hơn ông Lộc khi nhận định về tình trạng tham nhũng nhưng chính quyền thành phố Hà Nội vẫn dắt thiên hạ đi lòng vòng trong một mớ bòng bong để tìm nguyên do ! Tại sao "phòng – chống tham nhũng đã có chuyển biến trên nhiều lĩnh vực" nhưng tham nhũng ở Hà Nội lại "diễn biến phức tạp, thủ đoạn tinh vi hơn, phạm vi, lĩnh vực tham nhũng rộng" ? Chẳng lẽ không phòng, không chống lại tốt hơn vì tham nhũng đỡ… phức tạp hơn, phạm vi và lĩnh cực bớt rộng hơn ?..
Trân Văn
Nguồn : VOA, 04/12/2019
Chú thích
(1) http://danviet.vn/kinh-te/ts-vu-tien-loc-tham-nhung-o-viet-nam-da-duoc-ngan-chan-1037830.html
Nhà thơ Trần Vàng Sao mất vào ngày 9/5/2018 tại Huế, thọ 77 tuổi. Ông là người tham gia cách mạng cộng sản trong chiến tranh Việt Nam và rất nổi tiếng trong giới sinh viên tranh đấu tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Năm 1970 ông ra miền Bắc, và tại đây ông đã gặp rất nhiều khó khăn với nhà cầm quyền Hà Nội vì những gì ông đánh giá và bình luận về xã hội miền Bắc.
Nhà thơ Trần Vàng Sao. Courtesy of Tiền Vệ.
Sau đây là ý kiến của nhà văn Nguyễn Viện từ Sài Gòn về số phận nhà thơ Trần Vàng Sao.
Ông Nguyễn Viện từng bị cải tạo không giam giữ vì những ý tưởng đấu tranh bất bạo động của ông vào những năm ngay sau khi Việt Nam thống nhất.
Nguyễn Viện : Ông Trần Vàng Sao, cũng như một số người bạn tôi đã đi theo cách mạng từ rất sớm, từ 1968, hoặc trước 68 nữa. Ông Trần Vàng Sao thì trước 68 ông đã "nhảy núi" (vào chiến khu) rồi. Theo những thông tin chính thức thì khoảng 1970 ông ra Bắc.
Theo nhà thơ Nguyễn Minh Thảo viết giới thiệu cho tập thơ Bài thơ của một người yêu nước do Giấy Vụn in, cho biết rằng giai đoạn ông Trần Vàng Sao ra Bắc có lẽ là giai đoạn khổ cực nhất trong cuộc đời ông ấy. Nhưng đấy vẫn là giai đoạn ông giữ được sự lạc quan và trung thành với lý tưởng, mặc dù tôi nghe nói rằng lúc ấy ông đã bị đì rồi, và một số thơ của ông bị coi là có vấn đề, và đã không được tin dùng ngay khi còn ở miền Bắc. Sau khi thống nhất đất nước thì ông tim cách vào miền Nam, vì không được phép đi chính thức. Tôi biết đây không phải là trường hộ duy nhất, một người bạn tôi cũng rơi vào một tình cảnh như vậy. Và họ đã tự tìm cách bỏ cơ quan mà đi vào miền Nam.
Ông vẫn tiếp tục không được tin dùng, mặc dù với tên tuổi ông ấy, khả năng ông ấy, ông cũng chỉ như là một người phát thư của bưu điện ở làng xã. Sau một thời gian thì ông nghỉ. Theo những gì mà người bạn tôi kể lại thì ông đã sống trong sự nghèo khổ, cùng cực.
Nhưng vượt lên trên sự nghèo khổ đó, ông vẫn giữ tư cách của một con người, phẩm chất một người trí thức, giá trị riêng của mình như một nhà thơ.
Kính Hòa : Trong những tác phẩm của nhà thơ Trần Vàng Sao, thì nhà văn Nguyễn Viện đánh giá bài nào là có giá trị nhất ?
Nhà văn Nguyễn Viện : Nổi tiếng nhất vẫn là bài thơ Bài thơ của một người yêu nước mìnhlàm hồi năm 1967. Đây là giai đoạn ông nhiệt tình với cách mạng nhất, nó đầy cái ý vị của của thơ ca cũng như là nỗi đau khổ của một con người.
Còn cái bài tôi cho là khủng khiếp nhất của Trần Vàng Sao là bài Tau chửi, ông sáng tác vào năm 1997, đã trải qua tất cả những giai đoạn đau khổ nhất của cuộc đời mình. Đối với tôi nó giống như sự tổng kết của cuộc đời mình.
Kính Hòa : Những người có số phận như ông Trần Vàng Sao có đông không và lý do tại sao họ có số phận như vậy ?
Nguyễn Viện : Những người như Trần Vàng Sao thì cũng không nhiều, nhưng họ rất tiêu biểu cho những người đi theo cách mạng mà có gốc gác trí thức tiểu tư sản.
Tôi đã từng hỏi những người bạn đã từng theo cách mạng như thế này : Với những người như các anh, tương đối gọi là trí thức, hiểu biết, nhiều kinh nghiệm về cuộc sống ở dưới cả hai chế độ. So với mặt bằng chung của xã hội thì có thể nói rằng các anh là những người giỏi. Nhưng tại sao các anh không được sử dụng đúng mức như khả năng của các anh ?
Một số người bạn tôi trả lời ràng có lẽ việc đó bắt nguồn từ ông Lê Đức Thọ. Ông Lê Đức Thọ nói rằng đối với những thành phần tiểu tư sản trí thức, thì chúng ta vẫn có thể dùng, nhưng không tin họ được.
Đa số những người bạn tôi biết, thì họ cũng có những chức vụ nào đó, nhưng đều là những chức vụ không có thực quyền. Và chắc là chúng ta có thể kiểm chức được là những người tham gia phong trào sinh viên tranh đấu ở miền Nam, trí thức rất nhiều, nhưng không ai nắm thực quyền, được giao cái gì có thực quyền.
Ông Trần Vàng Sao lại rơi lào một tình huống là những bài thơ của ông làm khi ở miền Bắc là những bài thơ "có vấn đề". Tức là nó mang tính chất phản tỉnh. Cuộc đời của ông khốn khó vì sự phản tỉnh của mình.
Kính Hòa : Những người như ông Trần Vàng Sao, và những trí thức ở miền Nam đi du học trong những năm 60, 70, tham gia phản chiến, ủng hộ chế độ Hà Nội. Họ đều có một con đường khá là giống nhau là không được sử dụng. Câu hỏi đặt ra là vào thời điểm đó, những thông tin về khối cộng sản, những gì đằng sau bức tường của khối cộng sản, đã có nhiều rồi, nhưng tại sao họ lại có khuynh hướng như vậy ?
Nguyễn Viện : Đây cũng là một câu hỏi mà tôi hỏi những người bạn tôi trong phong trào sinh viên tranh đấu.
Tôi hỏi rằng tại sao anh lại theo cách mạng trong khi tôi biết chắc chắn rằng anh biết chế độ miền Nam dù thế nào cũng tự do hơn chế độ miền Bắc ?
Đa số tôi nhận được câu trả lời như vầy : Có lẽ sự có mặt của người Mỹ ở Việt Nam là cái lý do trực tiếp nhất tạo nên sự phản ứng của những người yêu nước nói chung. Tôi cũng phải công bằng nói rằng họ hoạt động vì sự thần túy yêu nước, chứ không phải là cộng sản hay không cộng sản. Lúc đấy là họ "chống Mỹ cứu nước" thực sự.
Họ không đặt vấn đề là tại sao người Mỹ lại có mặt ở miền Nam. Họ chỉ thấy cái trước mặt là sự có mặt ấy khiến cho họ phải tìm cách chống lại. Họ cảm thấy họ bị xúc phạm và phải chống lại điều đó.
Tôi còn có cảm giác rằng cái đó là một trào lưu trên thế giới, không biết rằng trong chiến tranh thì có những điều này điều nọ cho cả hai phía, còn khi chúng ta chỉ xét đoán từ một phía thì nó trở nên mất công bằng.
Tâm lý chung của con người là người ta thích bênh kẻ yếu, chống lại kẻ mạnh. Trong tình huống của thời điểm đó thì nước Mỹ là một nước mạnh. Thì sự có mặt của người Mỹ ở Việt Nam gây một sự phẫn nộ chung, không chỉ đối với trong nước mà cả đối với thế giới nữa. Và có lẽ đó chính lf cái lý do đưa đến sự thất bại của người Mỹ ở Việt Nam.
Kính Hòa : Thưa ông nếu như có một nhận xét về số phận của trí thức Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, trước và sau chiến tranh, thì ông có thể nói như thế nào ?
Nguyễn Viện : Tầng lớp gọi là trí thức ở Việt Nam có thể nói là không có, nếu mình hiểu theo nghĩa trí thức không chỉ thuần túy là có học, mà còn là những người mà đại diện cho lương tâm của dân tộc, của xã hội, những người phản biện xã hội, vì vai trò trí thức ở Việt Nam rất mờ nhạt.
Cho đến những năm gần đây khi có kiến nghị 72 của nhân sĩ trí thức về việc sửa đổi hiến pháp, tôi cho rằng lúc đó vai trò trí thức mới nổi lên đóng dấu ấn vào đời sống xã hội. Tôi hy vọng rằng trong những ngày kế tiếp thì trí thức Việt Nam sẽ còn đóng góp rất nhiều vào tiến trình phát triển, dân chủ hóa đất nước, để mà làm thay đổi xã hội. Mặc dù rằng giai đoạn sau khi thống nhất người trí thức rất khốn khổ, thật sự là khốn khổ.
**************
Khi nhà thơ Trần Vàng Sao từ trần, báo Tuổi Trẻ tại Sài gòn có bài ca ngợi ông, nhưng không nói gì về giai đoạn ông sống ở miền Bắc, không nhắc đến bài thơ Tau chửi, chỉ có nói rằng đây là một con người đã trải qua cuộc đời trầm nổi truân chuyên.
Kính Hòa
Nguồn : RFA, 14/05/2018
Tôi nghe tin ông qua đời với một chút bùi ngùi, một chút thương tiếc nhưng cũng có cả một chút vui mừng cho ông. Bùi ngùi bởi tiếc một bậc tài hoa, thương tiếc bởi tiếc một con người tử tế và dễ bao dung đến mức khó tin, và mừng vui cho ông bởi từ nay ông được tự do, những ai đến viếng ông thì con cháu ông ghi sổ, ông không phải ngồi hí hoáy ghi chép… !
Nhà báo Trương Duy Nhất (trái) và nhà thơ Trần Vàng Sao (phải) tại Huế tháng 2/2016 - Blog Trương Duy Nhất
Tôi biết ông khá muộn màng, gặp ông đúng hai lần tại nhà ông và hai lần ấy để lại cho tôi ấn tượng khá mạnh. Lần thứ nhất, tôi và một người em (nhà văn, sống ở Huế, tôi xin giấu tên) đến nhà thăm ông ở phường Vĩ Dạ, sau một cơn mưa mùa xứ Huế. Nhà ông có một cây vú sữa khá to và lâu năm trước sân. Vào nhà ông, ấn tượng mạnh nhất vẫn là khoảng sân rộng có tiếng chim gù, cây vú sữa và những bức tranh Đạt Ma của ông vẽ.
Lần đầu thăm ông, tôi cảm nhận hầu hết các bức tranh Đạt Ma do ông vẽ đều có nét mặt rất Trần Vàng Sao. Sau khi trò chuyện thân mật, tôi hỏi ông đang vẽ Đạt Ma hay là đang vẽ chính ông. Ông chỉ cười, nói nửa giỡn nửa thật rằng Đạt Ma đang vẽ ông cũng đúng…
Sau một lúc trò chuyện, tôi chuyển đến ông một chút quà do người anh em bên hải ngoại gửi tặng ông và không quên xin ông chép cho một bài thơ mới nhất. Ông nói lâu lắm rồi không làm thơ, chỉ vẽ, mà chỉ vẽ Đạt Ma thôi, làm thơ khổ quá !
Khi tôi ra về, ông không quên hỏi tên tôi lần nữa và mở cuốn sổ ra ghi đầy đủ : Ngày… tháng… năm… anh… đến thăm vào lúc …g, ngồi chơi chừng…g rồi về… Anh người từ… đến… Nội dung nói chuyện…". Nhìn cuốn sổ dày cộm và chi chít chữ kia, tôi hỏi ông có mấy cuốn sổ như vậy. Ông nói mình không nhớ nổi, cứ cuốn này đầy lại phải ghi cuốn khác.
Người em nhà văn ở Huế phân trần "Đôi khi ông cẩn thận đến mức mình phát chán. Nhưng thực sự khó cho ông, bởi con của ông đều làm chủ tịch phường, làm chức này chức nọ, vì vấn đề chính trị của chúng, ông phải chấp nhận hi sinh nhiều thứ thôi !...".
Lần thứ hai, tôi đến thăm ông vì một lẽ khác, tôi muốn tìm hiểu câu chuyện về Huế Mậu Thân 1968, tôi đến tìm ông. Lần này tôi đi với một anh bạn nhà thơ khá nổi tiếng trên đất Huế và khá thân với ông. Nói cách khác, anh này là bạn vong niên của ông.
Lần thăm thứ hai này, có vẻ như ông mệt mỏi và yếu hơn lần thứ nhất mặc dù thời gian chỉ cách nhau chưa tròn năm. Ông nói chuyện không còn hoạt bát và có vẻ như ông rất ngại nói đến những chuyện nhạy cảm. Khi tôi hỏi về chuyện Mậu Thân, trong đó gồm cả Hoàng Phủ Ngọc Tường lúc đó đang ở đâu, thì ông lắc đầu, nói thôi đừng nhắc chuyện cũ chi thêm buồn và mệt lắm. Ông kể sang chuyện đốt cỏ tranh trên rừng để lấy muối và nhử chồn, nhử thỏ.
Nhưng trước lúc tôi về, ông không quên nói lại lần nữa "Lúc đó hình như Tường nó ở trên căn cứ, chắc là không tham gia đổ máu đâu. Nhưng mà cứ nào thì mình không rõ chứ chỗ cứ mình thì không thấy Tường… Mình tin là Tường nó tội lắm, nó là nhà thơ, không thể giết người được !".
Thực ra, tôi cảm nhận được trong sâu thẳm ông muốn nói gì, bởi ông là nhà thơ có ánh mắt biết nói và nói rất rõ. Nhưng ông không muốn bạn bè tổn thương, ông cũng chẳng muốn nhắc đến bất kì chuyện gì của quá khứ, ai làm sai thì lương tâm tự vấn mà tự đau khổ, dằng vặt… Ông từng nói vậy.
Và đương nhiên, khi tôi ra về, ông vẫn không quên lấy sổ ra ghi họ tên người thăm đầy đủ, sau đó lại nói về cây vú sữa trong sân nhà rồi tiễn khách. Vấn đề tự do của ông mà tôi nói rằng tôi có chút vui mừng vì ông được tự do khi qua đời cũng nằm ở cái cuốn sổ này. Ông chưa bao giờ có tự do ngay trong cả gia đình.
Trừ người vợ tảo tần của ông ra, dường như chung quanh ông là một hệ thống chính quyền thu nhỏ, các con của ông làm chức sắc địa phương, có người làm chủ tịch phường. Và ông không được phép nói gì thêm kể từ sau Bài thơ của một người yêu nước mình. Bởi ông làm cha, ông không thể ngồi viết những câu thơ khiến cho nồi cơm và cái ghế của con ông bị hất đổ. Và ông vẽ, ông vẽ như một sự ký thác linh hồn. Có lẽ vì vậy mà ông vẽ Đạt Ma khá là giống ông.
Có thể nói rằng hai chữ tự do theo nghĩa trọn vẹn của nó đối với cuộc đời Trần Vàng Sao là quá xa xỉ và hoang đường. Ông bị mất tự do trên mọi nghĩa. Và cuộc đời ông, có lẽ chỉ có vợ ông và những câu thơ là hiểu và gần với ông nhất !
Và hình như, ngoài những người tìm đến thăm ông như một tri âm, trong giới văn nghệ nhà nước cũng lắm kẻ đến để bá vai, quàng cổ, chụp hình cùng ông và không quên diễn một tư thế để thấy mình cao hơn ông một chút hoặc mạnh mẽ, trẻ trung hơn ông một chút… Cái "một chút" đó không biết để làm gì nhưng người ta thường làm vậy. Chính vì vậy mà khi ông qua đời, có lắm người khi ông sống cũng chẳng thân thiết chi, nhưng nghe tin ông mất là trưng ngay một tấm ảnh chụp chung với ông cùng vài lời thương tiếc. Đương nhiên có người thương tiếc ông thật, cũng có người không biết có thật tình thương tiếc ông không !
Bởi tôi nghi ngờ điều này khi họ khoác cho ông một chiếc áo dũng cảm, dám nói dám làm. Không, Trần Vàng Sao không phải là một người như họ mô tả đâu ! Ông cũng sợ nhiều thứ, ông sợ ngay cả những bài thơ của ông và ông chịu mất tự do, ngay cả việc uống cà phê với bạn bè, ông cũng hạn chế uống và mỗi lần uống, ông tranh thủ hít thở như đang nuốt lấy nuốt để bầu tự do thoáng qua. Và những lúc như vậy, nói chuyện là một cực hình đối với ông.
Tôi mới gặp ông có hai lần thôi nhưng sao tôi dám nói về ông nhiều vậy ? Bởi hai lần gặp ấy, tôi chứng kiến mọi thứ, kể cả việc mời ông cùng ra phố uống cà phê và khi đưa ông về, ông nói là dạo này hơi hụt tiền nên chẳng dám cà phê, tôi lại nhờ ông chép tặng tôi bài thơ để tôi gửi nhuận bút cho ông. Chỉ là cái cớ thôi ! Và gặp nhau cũng chỉ là cái cớ, làm thơ cũng là cái cớ, viết văn cũng là cái cớ và sống cũng chỉ là cái cớ để thấy mình tự do trong phút chốc với thiên thu !
Viết từ Sài Gòn
Nguồn : RFA, 10/05/2018
**********************
Trần Vàng Sao và lời thơ 'yêu nước đau đớn' (BBC, 10/05/2018)
Nhà thơ Trần Vàng Sao, được biết đến với những bài thơ 'yêu nước' nhưng 'đau đớn'
Nhà thơ Trần Vàng Sao, được biết đến với những bài thơ 'yêu nước' nhưng 'đau đớn', qua đời ngày 10/5.
"Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình" là tên một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ gốc Huế sinh năm 1942.
Nhưng nổi tiếng hơn có lẽ phải kể đến tập thơ "Bài thơ của một người yêu nước mình", do Nhà xuất bản Giấy Vụn xuất bản.
Nhà thơ 'yêu nước mình'
Báo chí của nhà nước Việt Nam có nhiều bài viết về nhà thơ Vàng Sao sau khi ông mất.
Tờ Tuổi Trẻ gọi ông là 'nhà thơ yêu nước mình', in năm 1967, được đánh giá là một trong 100 bài thơ Việt hay nhất thế kỷ XX.
Còn tờ Người Lao Động nói thơ của Vàng Sao có 'giọng điệu không lẫn với ai.
Ông Hồ Thế Hà, Đại học Khoa học Huế, được Tuổi Trẻ trích lời, nói "Bài thơ của một người yêu nước mình" là điển hình cho phong cách Trần Vàng Sao.
Bài thơ của một người yêu nước mình
Buổi sáng tôi mặc áo đi giày
ra đứng ngoài đường
Gió thổi những bông nứa trắng bên sông
Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua
Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà
Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé
Tôi yêu đất nước này như thế
Mỗi buổi mai
Bầy chim sẻ ngoài sân
Gió mát và trong
Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng
Tôi vẫn sống
vẫn ăn
vẫn thở
như mọi người
Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
Một vết bùn khô trên mặt đá
Không có ai chia tay
Cũng nhớ một tiếng còi tàu.
Mẹ tôi thức khuya dậy sớm
Năm nay ngoài năm mươi tuổi
Chồng chết đã mười mấy năm
Thuở tôi mới đọc được i tờ
Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
Nước sông gạo chợ
Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ
Sống qua ngày nên phải nghiến răng
Cũng không vui nên mẹ ít khi cười
Những buổi trưa buổi tối
Ngồi một mình hay khóc
Vẫn thở dài mà không nói ra
Thương con không cha
Hẩm hiu côi cút
Tôi yêu đất nước này xót xa
Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng
Thương tôi nên ở góa nuôi tôi
Những đứa nhà giàu hằng ngày chửi bới
Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc,
như cho một đứa hủi
Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới
Thắp ba cây hương
Với mấy bông hải đường
Mẹ tôi khóc thút thít
Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người
Con nó còn nhỏ dại
Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi
Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng
Tôi yêu đất nước này cay đắng
Những năm dài thắp đuốc đi đêm
Quen thân rồi không ai còn nhớ tên
Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng
Áo mồ hôi những buổi chợ về
Đời cúi thấp
Giành từng lon gạo mốc,
Từng cọng rau hột muối
Vui sao khi con bữa đói bữa no
Mẹ thương con nên cách trở sông đò
Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc
Đêm nào mẹ cũng khóc
Đêm nào mẹ cũng khấn thầm
Mong con khôn lớn cất mặt với đời
Tôi yêu đất nước này khôn nguôi
Tôi yêu mẹ tôi áo rách
Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.
Tôi bước đi
Mưa mỗi lúc mỗi to,
Sao hôm nay lòng thấy chật
Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc
Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước
Chim đậu trên cành chim không hót
Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may
Tôi yêu đất nước này những buổi mai
Không ai cười không tiếng hát trẻ con
Đất đá cỏ cây ơi
Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha
Ăn quán nằm cầu
Hai hàng nước mắt chảy ra
Mỗi đêm cầu trời khấn phật, tai qua nạn khỏi
Tôi yêu đất nước này áo rách
Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài
Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai
Tôi yêu đất nước này như thế
Như yêu cây cỏ ở trong vườn
Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
Nuôi tôi thành người hôm nay
Yêu một giọng hát hay
Có bài mái đẩy thơm hoa dại
Có sáu câu vọng cổ chứa chan
Có ba ông táo thờ trong bếp
Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen
Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em
Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò
Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ
Trong bước chân chim sẻ
Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi
Hay nói chuyện huyên thuyên
Chuyện trên trời dưới đất rất lạ
Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá
Cứ hay cười mà không biết có người buồn.
Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn
Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại
Ngó cây cam cây vải
Thương mẹ già như chuối ba hương
Em chưa buồn
Vì chưa rách áo
Tôi yêu đất nước này rau cháo
Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu
Áo đứt nút qua cầu gió bay
Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan
Tôi yêu đất nước này lầm than
Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển
Ăn rau rìu rau éo rau trai
Nuôi lớn người từ ngày mở đất
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ
Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng.
Tôi đi hết một ngày
Gặp toàn người lạ
Chưa ai biết chưa ai quen
Không biết tuổi không biết tên
Cùng sống chung trên đất
Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam
Cùng có chung tên gọi Việt Nam
Mang vết thương chảy máu ngoài tim
Cùng nhức nhối với người chết oan ức
Đấm ngực giận hờn tức tối
Cùng anh em cất cao tiếng nói
Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do
Bữa ăn nào cũng phải được no
Mùa lạnh phải có áo ấm
Được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm
Được thờ cúng những người mình tôn kính
Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định.
Tôi trở về căn nhà nhỏ
Đèn thắp ngọn lù mù
Gió thổi trong lá cây xào xạc
Vườn đêm thơm mát
Bát canh rau dền có ớt chìa vôi
Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc
Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái tử
Đất nước hôm nay đã thấm hồn người
Ve sắp kêu mùa hạ
Nên không còn mấy thu
Đất nước này còn chua xót
Nên trông ngày thống nhất
Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam
Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc
Lòng vui hôm nay không thấy chật
Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất.
(19/12/1967)
Trang VnExpress bình luận rằng :
"Bài thơ dài 155 câu được tác giả trình bày theo lối tự do. Nét đặc trưng của bài thơ là sự hòa quyện giữa cảm xúc trữ tình của tác giả với hình tượng đất nước, đặt trong liên hệ với người mẹ, người thân, người yêu và quê hương khốn khó cùng khát vọng độc lập tự do, khát vọng làm người chân chính".
'Nhà thơ có số phận thăng trầm'
Tờ Người Lao Động gọi ông là 'nhà thơ có số phận thăng trầm' trên bài viết ngày 10/5.
Trước đây, có vẻ như ít báo trong nước nhác đến nhà thơ Trần Vàng Sao. Còn những bài thơ táo bạo của ông, như bài 'Tau chưởi', thì chỉ có cách tìm trên Google, theo nhà văn Nguyễn Viện.
tau chưởi
tau tức quá rồi
tau chịu không nổi
tau nghẹn cuống họng
tau lộn ruột lộn gan
tau cũng có chân có tay
tau cũng có đầu có óc
có miệng có mắt
có ông bà
có cha mẹ
có vợ con có ngày sinh tháng đẻ
có bàn thờ tổ tiên một tháng hai lần
rằm mồng một hương khói bông ba hoa quả
tau đầu tắt mặt tối
đổ mồ hôi sôi nước mắt
vẫn đồng không trự nõ có
suốt cả đời ăn tro mò trú
suốt cả đời khố chuối Trần Minh
kêu trời không thấu
tau phải câm miệng hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không
tau chưởi
tau phải chưởi
tau chưởi bây
tau chưởi thẳng vào mặt bây
không bóng không gió
không chó không mèo
mười hai nhánh họ bây đem lư hương bát nước
giường thờ chiếu trải sắp hàng một dãy ra đây
đặng nghe tau chưởi
tau kêu thằng khai canh khai khẩn tam đợi mười đời
cao tằng cố tổ ông nội ông ngoại cha mẹ chú bác cô dì
con cháu thân hơi cật ruột bây tau chưởi
tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống
hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp
tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây
cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây
hà hơi trún nước miếng cho bây
bây ỉ thế ỉ thần
cậy nhà cao cửa rộng
cậy tiền rương bạc đống
bây ăn tai nói ngược
ăn hô nói thừa
đòn xóc nhọn hai đầu
ngậm máu phun người
bây bứng cây sống trồng cây chết
vu oan giá hoạ
giết người không gươm không dao
đang sống bây giả đò chết
người chết bây dựng đứng cho sống
bây sâu độc thiểm phước
bây thủ đoạn gian manh
bây là rắn
rắn
toàn là rắn
như cú dòm nhà bệnh
đêm bây mò
ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờ
trong xó bếp
bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra
bây mang bí danh
anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
lúc lên tay múa ngón sủi bọt mép gào thét
lúc trợn mắt khua môi múa mỏ đả đảo muôn năm
lúc như thầy tu vào hạ
lúc như con nít đói bụng đòi ăn
hai con mắt bây đứng tròng
bây bắt hết mọi người trứơc khi chết phải hô
cha mẹ bây ông nội ông ngoại bây tiên sư cố tổ bây
sống dai đời đời kiếp kiếp
phải quỳ gối cúi đầu
nghe bây nói không được cãi
phải suốt đời làm người có tội
vạn đợi đội ơn bây
đứa nào không nghe bây hớt mỏ chôn sống
thằng nào không sợ bây vằm mặt thủ tiêu
bây làm cho mọi người tránh nhau
bây làm cho mọi người thấy nhau nhổ nước miếng
đồ phản động
đồ chống đối
đồ không đá bàn thờ tổ tiên
đồ không biết đốt chùa thiêu Phật
thượng tổ cô bà bây
mụ cô tam đợi mười đời bây
tau xanh xương mét máu
thân tàn ma dại
rách như cái xơ mướp chùi trách nồi không sạch
mả ông bà cố tổ bây kết hết à
tụi bây thằng nào cũng híp mắt hai cằm
bây ăn chi mà ăn đoản hậu
ăn quá dã man
bây ăn tươi nuốt sống
mà miệng không dính máu
người chết bây cũng không chừa
năm năm mười năm hai mươi năm
xương chân xương tay sọ dừa vải liệm`
bây nhai bây khới bây mút
cả húp cả chan bây còn kêu van xót ruột
bao nhiêu người chết diều tha quạ rứt xương
khô cốt tàn dọc bờ dọc bụi giữa núi giữa rừng
để bây xây lăng đắp mộ dựng tượng dựng đài cho
cha mẹ cố tổ bây
hỡi cô hồn các đảng
hỡi âm binh bộ hạ
hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió
trong am trong miếu giữa chợ giữa đường
đầu sông cuối bãi
móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó
cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi
bây giết người như thế
bây phải chết như thế
ác lai thì ác báo
tau chưởi ngày chưởi đêm
mới bét con mắt ra tau chưởi
chập choạng chạng vạng tau chưởi
nửa đêm gà gáy tau chưởi
giữa trưa đứng bóng tau chưởi
bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi
mười hai nhánh họ bây
cao tằng cố tổ bây
tiên sư cha bây
tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén
xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng
tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ
mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm
tau chưởi cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc
đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu
tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn
đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ
bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra
cũng phải tránh xa
tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn
sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
chết không được mà sống cũng không được
tau chưởi cho dứt nọc dòng giống của bây cho bây chết sạch hết
không bà không con
không phúng không điếu
không tưởng không niệm
không mồ không mả
tuyệt tự vô dư
tau chưởi cho bây chết hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây
29 tháng 6 năm 1997
Năm 1988, nhà thơ Trần Vàng Sao tiếp tục nổi tiếng với bài thơ "Người đàn ông 43 tuổi nói về mình" đăng trên tạp chí Sông Hương năm 1988. Một bài thơ mang đến cho ông nhiều 'khổ sở'.
Người đàn ông 43 tuổi nói về mình
1.
tôi tuổi tỵ
năm nay bốn mươi ba tuổi
thường không có một đồng trong túi
buổi sáng buổi chiều
thứ hai thứ ba thứ bảy chủ nhật
trong nhà ngoài sân với hai đứa con
cây cà cây ớt
con chó con mèo
cái đầu gãy cái tay gãy của con búp bê
cọng cỏ ngọn lá vú sữa khô
thúng mủng chai chén sách vở quần áo mũ nón cuốc rựa trên ghế dưới bàn
hai ba ngày một tuần một tháng có khi không đi đâu hết
một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa
miếng nước trà mốc nguội có mùi bông lài rát cổ
cũng không có chi phiền
vấn một điếu thuốc hút
hai ba lần tắt đỏ
rồi nửa chừng rách giấy
bạn bè gặp nhau
cho uống một ly cà phê
một lần
qua hai lần phải tránh
không phải ai cũng nghĩ như mình
nhiều đứa vui gặp nhau cho năm ba đồng một chục
đưa tay cầm lấy
miệng nói không được
2.
tôi thấy tôi như người tù được thả rông
lang thang giữa đường giữa phố
nhìn hết mọi người
xem mình lâu ngày mặt mũi có khác người không
tôi đi lui
tôi đi tới
phố phường đông chật
tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ
chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng
tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc
lấy chân hất một hòn đá
cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề đường
rồi đi về
qua cầu dép sút một quai
tôi không muốn nhớ gì hết
3.
tôi ngồi trên hòn đá trước nhà
buổi chiều không có một con chim đậu trên cây
đám trẻ con chia phe bắn nhau cười la ngoài sân
đứa sống đứa chết cãi nhau ăn gian chưởi thề
những người đi bán về nói chuyện to
hai đứa nhỏ nhà bên cạnh cầm đèn che miếng lá chuối
qua xin lửa hỏi tôi nấu cơm chưa
tôi cười lắc đầu muốn đi ngủ
trong gió có mùi rơm cháy
tôi không biết làm gì hết
tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát
đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua
tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một cây đèn để lên bàn thờ
hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về
trời còn lâu mới tối
tôi đi gánh một đôi nước uống
4.
tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày của mình
không định được ngày mai
có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai
cái kẹo gừng
có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ
lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt
mả cha cuộc đời quá vô hậu
cơm không có mà ăn
ngó lui ngó tới không biết thù ai
những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất
5.
lâu ngày tôi thấy quen đi
như quen thân thể của mình
tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi
buổi chiều không có cơm ăn
những con ruồi ăn nước mũi khô trên má
những đứa đau quan sát những con chuột
chết lòi ruột ở bến xe đò
những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em
con cái chưởi bới la hét trong bữa ăn
người điên ở trần đứng làm thinh
giữa trời mưa ngoài chợ
những ngày hết gạo hết tiền hết củi
muối sống không còn một hột của tôi
những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt
hai mắt tôi mở to
đầu tôi cúi thấp
miệng tôi há ra
những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm
dồn cứng chật cuống họng
nói thật lúc này tôi muốn được say rượu
họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng
6.
nhiều khi tôi quá chán
chân tay rã rời
đầu óc đau nhức
không muốn làm gì hết
mấy đứa nhỏ chơi buôn bán bỏ đi đâu không biết
để đất đá lá cây đầy nhà
tôi dựa cửa ngồi yên một chỗ
dụi mắt nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác
nói chi tới những đứa đã chết trên rừng giữa phố
bạn bè có đứa giàu đứa nghèo
đứa ngụy đứa cách mạng
đứa của tiền ăn tiêu mấy không hết
đứa không có được một cái áo lành
đứa đi kinh tế mới ba bốn bảy tám năm
trở về xách một cái bị lát
mặt cắt không có một hột máu
đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn
chờ khách ở bến xe
đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm
có đứa râu tóc dài che kín mặt
có đứa tàn không nhớ mình tên chi
có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam
ăn chợ ngủ đường
mỗi lần gặp nhau mở to mắt cười hút một điếu thuốc
hết chuyện nói
hai đứa con đi chơi về cười nói
đứa nhỏ bắt tôi đánh trống
cho nó làm ông địa múa thiên cẩu
7.
cái trống lon mặt ni lông và hai chiếc đũa tre
tôi đánh
múa đi các con
này đây cái nón gãy vành làm đầu thiên cẩu
và sợi dây chuối treo ngọn lá làm tiền
múa đi các con
cái bụng ông địa to tròn giơ lỗ rún gài nút áo không được
ông địa chống tay vỗ bụng ngửa mặt lên trời cười ha ha
tôi vỗ tay hoan hô
và không biết mình có nhớ ra được
cái mặt ông địa không
Tháng chín 1984
Bài này chỉ tự sự, "miêu tả rất thật cảnh sống lặng lẽ của mình mà cũng đủ khiến nhiều kẻ quyền hành bất an và ra tay bịt miệng ông", cây bút Uyên Vũ từ Sài Gòn từng bình luận trên một bài viết về những vần thơ 'đau đớn' của Trần Vàng Sao gửi BBC.
Nhà thơ Trần Vàng Sao không còn nữa
Tên tuổi ông được để ý hơn từ năm 2005 với bài Bài thơ của một người yêu nước mình" và nhất là khi mạng talawas đăng tập hồi ký "Tôi bị bắt", kể về những năm tháng ông "bị bắt rồi được thả ra và sống như trong tù" (chữ của Trần Vàng Sao).
Còn nhà thơ Trần Mạnh Hảo thì gọi Trần Vàng Sao là 'nhà thơ bị cầm tù trong sự thật' Facebook cá nhân. Ông Hảo nhớ lại :
"Thỉnh thoảng ra Huế, tôi lại ghé ngôi nhà ở Vĩ Dạ thăm Trần Vàng Sao. Anh có gương mặt cổ quái, già nua như người của thế kỷ thứ 17, 18 còn sót lại. Thông qua cuốn sách anh viết : "Tôi bị bắt"... tôi tìm thấy ngôi nhà tù vĩ đại trùm lên cả thế hệ chúng tôi. Đó là những tù nhân được thả rông đã bị cầm tù tư tưởng, thậm chí tâm hồn bị nhốt trong tù mà lại cảm thấy tự do".
Theo tiểu sử của nhà thơ Vàng Sao được Trần Mạnh Hảo đăng ở bài viết trên trang cá nhân, Vàng Sao là con liệt sĩ. Ông "tham gia phong trào thanh niên sinh viên đấu tranh theo Việt Cộng" và từng sống năm năm tại "chiến khu rừng Thừa Thiên Huế" để "viết báo viết văn phục vụ đảng".
Nhưng "miền Bắc xã hội chủ nghĩa năm 1970 nghèo đói" khiến ông "thất vọng".
"Ông bắt đầu viết nhật ký để thoát khỏi những ẩn ức thực tại có thể làm anh tuyệt vọng đến vỡ tim mà chết vì cái xã hội cộng sản bánh vẽ kia…", nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết.
"Từ một nhà thơ dùng tên lá cờ làm bút hiệu, ông đã bị đấu tố, bị coi là kẻ phản động, nói xấu lãnh tụ, đả kích chế độ. Ông đã bị trù dập, cô lập, và bị hành hạ đến sống dở chết dở trở thành một kẻ bị mọi người khinh bỉ, xa lánh", theo tác giả Uyên Vũ từ Thành phố Hồ Chí Minh.
'Vĩnh biệt thi sĩ Trần Vàng Sao'
Lời tiễn biệt thi sĩ Trần Vàng Sao cũng được nhiều cây bút đăng tải trên mạng xã hội ngày 10/5.
Facebooker Dũng Trung kể lại : "Tháng 9/2013, tôi và Lê Minh Phong ghé Huế thăm ông, uống với ông vài chai bia, nghe ông kể chuyện bị đoạ đày kinh khiếp…".
"Chẳng biết sao lúc đó tôi lại hứng thú lấy bút giấy ra ký hoạ chân dung và nụ cười của người đàn ông khốn khổ này".
"Hôm nay ông đi. Ông đi thanh thản !"
"Cầu mong ông đến được nơi nào đó vui vẻ hơn, hạng phúc hơn... Đỡ đói, rét hơn nơi này".
"Hy vọng ở nơi mới, đất nước mới, đồng bào mới, các "đồng chí" mới... sẽ ăn ở, đối xử với ông tử tế hơn !"
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo cảm thán : "Anh đã đi theo cha mình là liệt sĩ, nguyện đứng dưới ngọn cờ đỏ sao vàng mãi mãi nên mới có bút danh Trần Vàng Sao…"
"Ngôi sao vàng kia không chấp nhận anh, không cho phép anh nhìn và viết ra sự thật. Ngạn ngữ Pháp có câu : "Với chữ nếu, ta có thể bỏ tháp Eiffel vào cái chai". Vâng, nếu sống lại, trở về thời 20 tuổi, Trần Vàng Sao chắc chắn sẽ lấy bút danh là Trần Vàng… Vĩnh biệt ngôi sao của ảo tưởng đã bị sự giả dối nuốt sống, cũng như cuộc đời anh đã bị lý tưởng kia nuối sống và nhả ra một cái bã người tội nghiệp, khổ đau uất hận đến chết . Trần Vàng… Sao, thương anh vô cùng ! Anh một nhà thơ đã bị sự thật cầm tù…".
Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1942 ở Thừa Thiên, Huế.
Năm 1962 ông thi đỗ tú tài rồi dạy học ở Truồi, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha.
Từ 1965 đến 1970, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao.
Sau tháng 4 năm 1975, Trần Vàng Sao xung phong về quê công tác nhưng ông bị gạt khỏi danh sách như một kẻ "có vấn đề".
Ông tự trở lại Huế làm liên lạc ở xã, sau đó được bố trí công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế rồi được điều về làm liên lạc ở xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), Huế cho đến khi nghỉ hưu năm 1984.
Nguồn : BBC, 10/05/2018